Đánh giá hiệu quả đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh (giai đoạn 1994- 1998)

Với lợi thế hơn 130 km bờ biển có môi trường trong sạch rất thuận lợi cho các loài cá phát triển. Trong những năm trước và sau khi tách tỉnh(1992) việc đầu tư cho khai thác thuỷ sản còn hạn chế, do đó, tiềm năng của biển còn rất phong phú đồi dào. Nhận thức được tầm quan trọng này, trong những năm gần đây tỉnh đã cơ cơ chế chính sách cho ngành thuỷ sản, sản luợng của ngành đã tăng lên qua các các năm. Năm 1997: tỉnh hạ thuỷ được 25 con tàu đánh bắt xa bờ công suất lớn, năm 1998 hạ thuỷ được 27 tàu. Cùng với việc khởi công xây dựng công trình cảng cá Xuân Phổ đã hứa hẹn một tương lai phát triển theo chiều sâu của ngành Thuỷ sản.

doc61 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1206 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá hiệu quả đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh (giai đoạn 1994- 1998), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ay. Do điều kiện tự nhiên và kinh tế, các hộ gia đình ở Hà Tĩnh có mức sống theo vùng không đồng đều. Dân ở vùng núi cao và ven biển có mức sống thấp hơn. Toàn tỉnh có thu nhập bình quân đầu người năm 1997 là 2.048.400 đồng/ người. Sản lượng lương thực bình quân đầu người là 345,5 kg/ người. (1997); số hộ dưới mức trung bình và nghèo chiếm tỷ lệ cao gần 60% Thu ngân sách từ khu vực nông nghiệp năm 1997 đạt 16.525 triệu đồng, bằng 4,71% tổng thu của tỉnh, nguồn thu của tỉnh chủ yếu vẫn là từ trung ương trợ cấp chiếm 74% tổng thu b- Lâm nghiệp: Đất lâm nghiệp có gần 350.000 ha bao gồm rừng tự nhiên 164.000 ha, rừng trồng 31500 ha. Rừng tập trung ở các huyện Hương Khê, Hương Sơn và Kỳ Anh. Diện tích đất đai cho việc khai thác rừng chiếm 68%diện tích cả tỉnh. Lực lượng lao động trong ngành lâm nghiệp là 2560 người (1997) chiếm 0,40% tổng số lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 1997 đạt 1.577.773 triệu đồng chiếm 6% tổng sản phẩm của tỉnh. Rừng thông nhựa đã đến tuổi khai thác chiếm 3000 ha. Đây là nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nhựa thông liên doanh đang được triển khai và mở rộng. Hàng năm có thể khai thác 2500- 3000 tấn nhựa, đưa vào chế biến 20- 30 nghìn m3 gỗ nguyên liệu, bao gồm các sản phẩm gỗ xẻ phơi, ván ghép, ván bóc. c- Ngư nghiệp: Thuỷ sản là ngành mang lại nhiều lợi nhuận cho tỉnh. Năm 1997 đạt 116043 triệu đồng, chiếm 4,5% tổng sản phẩm trong tỉnh. Lao động làm việc trong ngành thuỷ sản là 21450 người (1997) chiếm 3,73% tổng số lao động trong các ngành kinh tế quốc dân... Trong những năm gần đây do sự chuyển đổi cơ chế và được sự đầu tư cuả tỉnh tốc độ tăng trưởng của ngành thuỷ sản khá cao 12% (1994- 1997). Với thế mạnh147 km bờ biển tương lai đây là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. 2. Những lợi thế và hạn chế để phát triển nông lâm ngư nghiệp Hà Tĩnh. Trong những năm qua ngành nông lâm ngư nghiệp có tốc độ phát triển tương đối cao 11% (1994- 1997). Tuy nhiên điều kiện tự nhiên ở đây có nhiều thuận lợi chưa được khai thác hết: Thứ nhất: Hà Tĩnh được tận hưởng hạ tầng cơ sở giao thông của toàn quốc. Đường quốc lộ 1A và đường sắt Thống nhất chạy dọc theo tỉnh đã tạo ra một hành lang phát triển kinh tế và dịch vụ. Với hơn 80 km đường biên với Lào, có cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, quốc lộ 8A nối từ cảng biển qua Lào tới Thái Lan tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác trao đổi sản phẩm với Lào, Thái Lan và các nước trong khu vực. Hệ thống lưới điện quốc gia và 4 con sông lớn cho phép tính chủ động tưới tiêu trong nông nghiệp. Thứ hai: Hà Tĩnh có bờ biển dài 137 km. Biển là một ngư trường lớn, việc khai thác các nguồn lợi từ biển (hải sản, muối...) đang là nguồn thu lớn cho phát triển xuất khẩu. Thứ ba: đất đai của Hà Tĩnh cũng thích hợp cho việc phát triển nghề trồng rừng và trồng các cây công nghiệp ngắn ngày (như: lạc, mía, dâu tằm...) cho xuất khẩu. Thứ tư: Hà Tĩnh có cơ cấu dân số trẻ, đội ngũ lao động dồi dào, người dân Hà Tĩnh có truyền thống hiếu học. Đó là các nguồn lợi lớn mà tỉnh chưa khai thác triệt để. Bên cạnh những lợi thế nêu trên, những khó khăn và hạn chế để phát triển ngành nông lâm ngư nghiệp theo định hướng công nghiệp hoá , hiện đại hoá là không nhỏ: _ Địa hình phức tạp, chia cắt nhiều, độ dốc lớn, đồi núi trọc nhiều, đất canh tác thường xuyên bị xói mòn rửa trôi. Khí hậu khắc nghiệt như bão lũ thường xuyên, gió Tây nóng khô hạn, cát bay... gây nhiều bất lợi cho phát triển cây trồng. Việc bảo đảm lương thực cho tỉnh là một nhiệm vụ khó khăn. _ Cơ sở hạ tầng hiện còn rất yếu kém lại không đồng bộ, một số lớn cơ sở bị chiến tranh tàn phá nặng nề, xuống cấp nghiêm trọng như giao thông vận tải, cấp nước sinh hoạt, điện, y tế, trường học... Do bị ảnh hưởng của nước biển nên một bộ phận lớn dân cư của các huyện miền biển còn thiếu nước ngọt dùng cho sinh hoạt và tưới tiêu, đồng ruộng bị nhiễm phèn nặng nên sản xuất nông nghiệp rất khó khăn. Trong khi đó các công trình thuỷ lợi, đê, kè... còn chưa được đầu tư đúng mức do tích luỹ nội bộ thấp, nguồn vốn chủ yếu trông chờ vào Trung ương. _ Dân số tăng nhanh ở tốc độ cao (2,17%) (cả nước là 2,23% năm 1997) phân bố không đồng đều ở các vùng, nhiều vùng đất cũ dân lại đông đúc, còn nhiều vùng đất có khả năng sản xuất tốt thì dân lại thưa thớt nên chưa tạo được sản xuất hàng hoá. _ Trình độ dân trí và thu nhập của nhiều bộ phận dân cư còn thấp, nhất là vùng nông thôn thường xuyên bị thiên tai, vùng núi cao, nơi đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Ngay cả trình độ cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu chưa đáp ứng được yêu cầu mới trong cơ chế. Trình độ dân trí thấp đã dẫn đến tình trạng chặt phá rừng bừa bãi, đốt rừng làm nương rẫy, khai thác thuỷ sản theo hình thức nổ mìn, dùng điện... III/ Thực trạng đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh 1994- 1998 1. Tốc độ đầu tư : Thực hiện chủ trương đẩy nhanh công nghiệp hoá , hiện đại hoá theo tinh thần đại hội VIII của Đảng, trong đó tập trung ưu tiên cho nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, kinh tế Hà Tĩnh đã phát triển liên tục trong các năm qua, đặc biệt là nông lâm ngư nghiệp. Chi ngân sách nhà nước cho các ngành kinh tế của Hà Tĩnh liên tục tăng. Bảng 3: Tình hình đầu tư Hà Tĩnh Đơn vị tính: Triệu đồng 1994 1995 1996 1997 1998 Tổng thu Tổng chi Chi xây dựng cơ bản Chi bổ sung nguồn vốn Chi sự nghiệp kinh tế Chi VH,G D, Y tế Chi quản lý hành chính Chi khác 227320 223134 35546 1173 29938 88644 31461 36277 271252 269113 34067 1872 22180 132181 35715 43098 316226 314862 42245 1736 27559 144629 44.200 54493 350915 350273 34640 1727 34959 161326 51896 65725 362189 362180 35760 1720 36728 168388 52764 66820 Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Sở kế hoạch và đầu tư Cùng với sự tăng tổng thu và tổng chi liên tục qua các năm(1884-1998) tốc độ phát triển của tổng sản phẩm Hà Tĩnh cũng tăng đáng kểqua các năm 1994: 30,66%, 1995:26,51%, 1997: 4,95%, 1998: 6,2%. Khối lượng vốn đầu tư cho các ngành nông lâm ngư nghiệp cũng tăng liên tục cùng với sự gia tăng chi cho sự nghiệp kinh tế . Bảng 4: Tình hình đầu tư cho Nông Lâm ngư nghiệp, thuỷ lợi Năm 1994 1995 1996 1997 1998 Vốn đầu tư (tr đ) cho nông lâm ngư nghiệp, thuỷ lợi Tốc độ gia tăng vốn đầu tư (năm trước = 100%) 12328 9,14% 13670 10,88% 15710 14,92% 16380 4,23% 18727 14,33% Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư Hà Tĩnh Nhìn vào bảng ta thấy vốn đầu tư cho nông lâm ngư nghiệp năm 1997 giảm mạnh so với năm 1996, điều này là do sau một thời gian chia tỉnh (1991), nhu cầu vốn đầu tư lớn, trung ương hỗ trợ nhiều hơn. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1994 - 1998 vốn đầu tư cho nông lâm ngư nghiệp vẫn tăng với tốc độ bình quân 10,7%/ năm. Cơ cấu đầu tư a. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư Giống như thực trạng chung của cả nước, cơ cấu vốn đầu tư cho nông lâm ngư nghiệp chủ yếu là từ ngân sách nhà nước còn lại là do nhân dân tự huy động vốn. Điều này là do hệ số sinh lời của ngành nông lâm ngư nghiệp còn thấp, cơ sở hạ tầng ở các vùng ấy lại yếu kém, trình độ dân trí thấp. Tuy nhiên riêng ngành lâm nghiệp đã nhận được sự tài trợ đáng kể (9,5 tỷ đồng) của các tổ chức quốc tế, vốn này chủ yếu tập trung cho các dự án phủ xanh đất trống đồi trọc trong 5 năm (từ 1994 - 1998) Bảng 5: Cơ cấu vốn đầu tư Đơn vị tính: triệu đồng 1994 1995 1996 1997 1998 1.Vốn ngân sách - Trung ương - Địa phương Vốn dân tự đóng góp Vốn các doanh nghiệp Vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế Vốn FDI Tổng số 12328 8237 4091 3327 ___ 1627 __ 17327 10172 7184 2988 3014 __ 1861 __ 15047 11579 7061 4518 4311 3610 2019 873 21519 15380 10308 5072 6706 4178 1848 __ 28112 16727 9187 7540 6850 5210 2100 _ 30887 Nguồn: Cục đầu tư phát triển Hà Tĩnh Qua bảng trên ta thấy cơ cấu của các nguồn vốn đầu tư chiếm tỉ trọng lớn 1994 1995 1996 1997 1998 Vốn ngân sách Vốn dân tự đóng góp Vốn các doanh nghiệp Vốn tài trợ quốc tế Vốn FDI 71,15 19,2 _ 9,65 67,6 20,03 _ 12,37 _ 53,81 20,04 16,78 5,3 4,06 54,71 23,85 14,86 6,58 _ 54,15 22,18 16,87 6,8 _ Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Mặc dù giá trị tuyệt đối của vốn ngân sách vẫn tăng liên tục qua các năm nhưng tỉ trọng đã giảm nhiều so với tổng vốn đầu tư (1994: 71,15%, 1998: 54,15%) điều này là do tỉnh đã biết phát huy nội lực và có chính sách đúng hướng trong huy động vốn đầu tư nên vốn tự đóng góp của dân tăng liên tục cả về giá trị tuyệt đối lẫn tương đối. Cơ cấu ngành: Thực hiện chủ trương công nghiệp hoá nông thôn của Đảng, tình hìnhdt cho nông nghiệp ở Hà Tĩnh đã có sự chuyển biến đáng kể theo hướng đa dạng hoá các sản phẩm nông nghiệp tăng dần tỉ trọng đầu tư cho cây công nghiệp, nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản, trong lam nghiệp tập trung vốn cho trồng rừng và bảo vệ rừng. Cơ cấu đầu tư theo ngành cho nông nghiệp và phát triển nông thôn của Hà Tĩnh (1994-1998) Đơn vị : triệu đồng 1994 1995 1996 1997 1998 Nông nghiệp _ Trồng trọt _ Chăn nuôi _ Dịch vụ 12390 7210 4312 5180 14210 7116 4561 2533 16150 6910 4817 4423 17.021 7021 6120 3880 17420 7101 6814 3505 Lâm nghiệp: _ Trồng và nuôi rừng. _ Khai thác lâm sản _ Dịch vụ khác 9493 4167 3243 2083 10238 6543 2046 1649 7264 3224 2813 1227 6467 3347 3261 739 6541 3216 2716 609 Thuỷ sản _ Nuôi trồng _ Đánh bắt _ Dịch vụ 6247 2813 2072 1362 6434 3006 1644 1784 7025 3107 1512 2406 7106 3211 1265 2630 Thuỷ lợi _ Nâng cấp _ Làm mới 1450 1450 7615 1230 5385 7930 1330 6600 1450 1450 _ Qua bảng trên ta thấy : _ Đối với nông nghiệp: Nguồn vốn đầu tư cho trồng trọt vẫn lớn nhưng đã có xu hướng giảm dần, còn đầu tư cho chăn nuôi lại có xu hướng nhanh qua các năm (từ 1994-1998 tăng: 57,73 %), đây là điều đáng mừng trong chuyển dịch cơ cấu đầu tư , tuy nhiên vẫn còn hạn chế , đó là vốn đầu tư cho dịch vụ nông nghiệp lại có xu hướng giảm mạnh: Năm 1998, giảm 32,34% so với năm 1994. _ Đối với lâm nghiệp: Nguồn vốn đầu tư giảm , thiếu ổn định , nguyên nhân này là do ngành lâm nghiệp nhận được sự tài trợ của các tổ chức quốc tế nhiều hơn so với các ngành khác, nguồn tài trợ này phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khách quan ngoài tầm kiểm soát của tỉnh. _ Đối với thuỷ sản: Do ý thức được nguồn lợ kinh tế của thuỷ sản nên tỉnh đã có sự quan tâm đúng mức , vốn đầu tư cho ngành này tăng lên liên tục qua các năm, năm 1994: là 6,1345 tỷ đồng, thì năm 1998 là 7,106 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc giảm vốn đầu tư cho đội tàu đánh bắt cá là một hạn chế , điều này là do ngư dân thiếu vốn, thủ tục vay ngân hàng rườm rà khó khăn. _ Đối với thuỷ lợi: Là một tỉnh miền Trung có khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, sản xuất cho thuỷ lợi vẫnn chưa đáp ứng được nhu cầu , việc đầu tư chủ yếu tập trung vào thì tu bổ sửa chữa các công trình sắn có. Năm 1996, có đầu tư vào sinh hoạt cho huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên. Năm 1997, do hạn hán nghiêm trọng gây thiệt hại lớn cho mùa màng tỉnh được TW cấp vốn xây dựng đập chứa nước Kỳ Anh. c- Cơ cấu lãnh thổ: Hà Tĩnh có hai thị xã và tám huyện, trong đó, có thị xã Hồng Lĩnh, huyện Hương Khê, Hương Sơn. Tỷ trọng vốn đầu tư ở các huyện này tương đối đồng đều, tuy nhiên, cơ cấu ngành ở đây lại có sự chênh lệch đáng kể: ở hai huyện miền núi Hương Sơn và Hương Khê thu hút phần lớn vốn đầu tư cho Lâm nghiệp của tỉnh, ở các huyện gần biển như: Cẩm Xuyến, Thạch Hà, Nghi Xuân vốn đầu tư cho ngư nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Bảng : Vốn đầu tư theo lãnh thổ Đơn vị: tr.đ 1994 1995 1996 1997 1998 Thị xã Hà Tĩnh Thị xã Hồng Lĩnh Huyện Kỳ Anh Huyện Hương Sơn Huyện Hương Khê Huyện Đức Thọ HuyệnThạch Hà Huyện Cẩm Xuyên Huyện Nghi Xuân Huyện Can Lộc 1510 1216 2106 2318 2007 2130 2330 2010 2240 1880 1720 1530 2100 2330 2010 2246 2400 2330 2355 1920 2010 1620 2230 2400 2190 2406 8308 2100 2400 2300 2130 1890 2410 2520 2310 2230 2030 9200 2310 2200 2217 2016 2506 2600 2460 2560 2270 2380 2409 2100 Nguồn : Niên giám thống kê Hà Tĩnh Qua bảng trên, ta thấy vốn đầu tư của các huyện thị có xu hướng tăng dần tuy nhiên tốc độ tăng chưa cao, chưa có sự tăng đột biến của vốn đầu tư, ngoại trừ huyện Thạch Hà và huyện Cẩm Xuyên năm 1996 và 1997 có sự tăng đột biến của vốn đầu tư , nguồn vốn này là do trung ương đầu tư để xây dựng , hệ thống thuỷ lợi ở hai huyện này. Trong các năm tới tỉnh cần khắc phục tình trạng dàn trải vốn đầu tư, cần phải có quy hoạch định hướng đầu tư vào những ngành , những vùng có thế mạnh, khả năng sinh lời cao. IV. Những kết quả đã đạt được trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh: 1. Những kết quả chung: Là một tỉnh nông nghiệp chiếm tới 54% (1998) tổng sản phẩm quốc nội , lại nằm trong vùng khí hậu khắc nghiệt của miền Trung , sự phát triển của nông nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển chung của toàn tỉnh. Tốc độ phát triển của tổng sản phẩm trong tỉnh và tốc độ phát triển của ngành Nông - Lâm _ Ngư nghiệp được thể hiện ở bảng (Năm trước= 100%) 1984 1995 1996 1997 1998 Tốc độ tăng GDP Nông lâm ngư nghiệp 130,66 127,99 126,51 121,57 110,91 110,85 104,95 113,89 107,2 120,3 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tĩnh Qua bảng trên , ta thấy tốc độ tăngGDP trung bình của tỉnh giai đoạn 1994-1998 là 16,046 %, của ngành nông lâm ngư nghiệp là 18,92%, tốc độ phát triển này rất cao, so với cả nước tốc độ tăng GDP gấp 2 lần, tốc độ tăng nông ngư nghiệp tăng gấp 2,4lần. Có được sự tăng trưởng cao như vậy là do trong những năm qua với xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp đầu tư ở Hà Tĩnh chủ yếu phát triển theo chiều rộng. Trong các năm tới, tốc độ phát triển của nông lâm ngư nghiệp sẽ giảm mạnh , nếu tỉnh không chú ý đầu tư theo chiều sâu vì các điều kiện tự nhiên là có hạn. Cùng với sự phát triển nhanh của nông ngư nghiệp, cơ cấu giá trị giữa các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản cũng có sự chuyển biến ngư nghiệp 6000 cuả lâm ngiệp, còn thấp, nhưng đã có sự chuyển nhưng đã có xu hướng tăng dần: Tổng sản phẩm nông nghiệp trong tỉnh (giá hiện hành) Bảng : Tổng sản phẩm nông lâm ngiệp trong tỉnh Đơn vị: tr.đ 1994 1995 1996 1997 1998 Tổng số Nông nghiệp Lâm nghiệp Thuỷ sản 994.723 822102 85444 87177 1297628 1098127 98278 101223 1409776 1186027 118812 104937 1439695 1165879 157773 116043 1650532 1322072 178190 150270 Nguồn : Niêm giám thống kê Hà Tĩnh Ta thấy tốc độ sản xuất nông nghiệp tăng khá nhanh trong giai đoạn 1994-1998 (12,6%. Trong khi đó, cả nước là 4,5%. Ngành lâm nghiệp tăng trưởng với tốc độ 21,71% năm, đây là ngành có thế mạnh của tỉnh, với 80% diện tích đất tự nhiên là đồi núi nếu cơ chế hợp lí và được đầu tư đúng mức ngành Lâm nghiệp sẽ là ngành có nhiều triển vọng trong tương lai. Với hơn 130 km bờ biển thuỷ sản cũng là một ngành đem lại nhiều nguồn lợi cho tỉnh, tốc độ phát triển của ngành thuỷ sản trong giai đoạn này là 14,48%. Do phương tiện đánh bắt cá còn thô sơ nên việc đánh bắt chủ yếu tập trung ở vùng gần bờ , vì vậy, sản lượng còn thấp, trong các năm tới, tỉnh đã có chính sách cho vay để xây dựng các đội tàu đánh bắt xa bờ, điều này, hứa hẹn nhiều tương lai phát triển cho ngành thuỷ sản. Cùng với sự phát triển của ngành nông lâm ngư nghiệp thu ngân sách ở khu vực này cũng có xu hướng tăng Bảng : Thu chi ngân sách trong tỉnh Đơn vị tính: triệu đồng 1994 1995 1996 1997 1998 1.Thu thuế nông nghiệp Thu từ các lâm trường quốc doanh Thu từ các tổ chức cá nhân, đánh bắt thuỷ sản 14149 4215 1420 17100 5320 4812 21477 5211 5010 16525 5760 5361 19380 6037 5910 Thu ngân sách của các ngành đều tăng, riêng thuế nông nghiệp năm 1997 giảm mạnh là do lũ lụt lớn ở các tỉnh miền Trung, năm 1998, mặc dù có hạn hán xảy ra nhưng thu ngân sách từ nông nghiệp, vẫn tăng 17,28% so với năm 1997. Trong giai đoạn 1994-1998 thu từ khu vực lâm nghiệp tăng 10,8%/ năm, khu vực ngư nghiệp tăng 8,69%/năm. 2. Những kết quả cụ thể của các ngành: a- Nông nghiệp: Cùng với sự gia tăng của ngành nông nghiệp, giá trị sản xuất nông nghiệp cũng chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá. Bảng : Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp(GO) Đơn vị tính: % 1994 1995 1996 1997 1998 Tổng số 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 I. Trồng trọt 65.37 63.3 61.92 60.38 60.07 cây lương thực 43.3 43.93 41.0 38.15 37.1 cây thực phẩm 5.4 5.0 5.14 5.49 5.6 cây công nghiệp 4.30 4.67 4.40 5.20 5.30 cây hàng năm khác 2.30 2.67 3.40 3.20 3.37 cây lâu năm 5.01 5.20 5.94 6.11 6.24 sản phẩm phụ 5.06 1.83 2.04 2.23 2.46 II. Chăn nuôi 30.31 31.42 32.67 34.08 34.10 gia súc 24.73 24.34 23.78 24.06 24.17 gia cầm 5.58 7.08 8.89 10.02 9.93 III. Dịch vụ nông nghiệp 4.32 5.28 5.41 5.54 5.83 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tĩnh. Nhìn vào bảng ta thấy, ngành trồng trọtvẫn chiếm tỉ trọng lớn nhưng đã có xu hướng giảm dần năm 1994: 63,57% , năm 1998: còn 60,07%. Chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp lại có xu hướng tăng dần lên đều, năm 1994 chăn nuôi chiếm 30,31% , dịch vụ nông nghiệp : 4,32%; Tới năm 1998: chăn nuôi: 34,10%, dịch vụ nông nghiệp 4,32%. Đây là sự chuyển biến cơ cấu tích cực của sản xuất nông nghiệp Hà Tỉnh. Do áp dụng được các tiến bộ khoa học kĩ thuật trong việc chăm sóc và chọn giống nên năng suất lúa bình quân của Hà Tĩnh tăng liên tục qua các năm. Theo đó, sản lượng lúa bình quân cũng tăng nhanh: 1994: 304 kg/người, 1998: 355 kg / người,. giải quyết khác nghiệt thiên tai liên tục xảy ra, đạt được kết quả này là điều đáng khích lệ đối với Hà Tĩnh. Bảng : Giá trị sản xuất lâm nghiệp (GO) (Theo giá cố định 1994) Đơn vị tính: triệu đồng 1994 1995 1996 1997 1998 Tổng số Trồng và nuôi rừng Trồng tập trung Trồng phân tán Chăm sóc rừng Tu bổ và bảo về rừng Khai thác gỗ và lâm sản Lâm nghiệp khác 119493 29117 7189 12534 3966 6028 84863 4913 131248 38388 7849 10705 2055 17782 87504 5356 152873 40254 7135 11050 2445 19624 107598 5021 168280 43969 8487 11050 2850 21612 118039 6272 190210 52951 8743 17197 3340 23670 1302 7061 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tĩnh. Ngành khai thác gỗ và lâm sản là ngành đem lại nguồn lợi lớn cho tỉnh chiếm 4,6% (1998). Việc gia tăng trồng trọt và nuôi rừng đã góp phần phủ xanh.đất trống đồi trọc và giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm lao động thường xuyên. c- Thuỷ sản: Với lợi thế hơn 130 km bờ biển có môi trường trong sạch rất thuận lợi cho các loài cá phát triển. Trong những năm trước và sau khi tách tỉnh(1992) việc đầu tư cho khai thác thuỷ sản còn hạn chế, do đó, tiềm năng của biển còn rất phong phú đồi dào. Nhận thức được tầm quan trọng này, trong những năm gần đây tỉnh đã cơ cơ chế chính sách cho ngành thuỷ sản, sản luợng của ngành đã tăng lên qua các các năm. Năm 1997: tỉnh hạ thuỷ được 25 con tàu đánh bắt xa bờ công suất lớn, năm 1998 hạ thuỷ được 27 tàu. Cùng với việc khởi công xây dựng công trình cảng cá Xuân Phổ đã hứa hẹn một tương lai phát triển theo chiều sâu của ngành Thuỷ sản. C hế biến cũng đuợc đầu tư đúng mức từ 1 cơ sở lên 3 cơ sở với 300 tấn đông lạnh, làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh. Tổng giá trị sản xuất của ngành Thuỷ sản tăng truởng với tốc độ bình quân 19,5%/ năm. Trong giai đoạn1994-1998, ngành đánh bắt thuỷ sản với tốc độ 3,84%/năm. Sự phát triển của ngành thuỷ sản đã đóng góp 6,8% vào GDP của tỉnh năm 1998 và giải quyết việc làm cho hơn 24 nghìn lao động. d- Thuỷ lợi: Đây là một ngành mang tính chất cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển của các ngành khác. Trong 5 năm qua (1994-1998) tỉnh đã xây dựng được 15 hồ chứa nước từ 3 triệu m2 trở lên, 37 trạm bơm điệncác loại và k iên cố kênh mương thuỷ lợi trên 50 km góp phần tuới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Sửa chữa và nâng cấp đê La Giang dài 20 km, và 18 tuyến đê biển dài trên100 km góp phân bảo vệ đất canh tác. 3. Nhận xét hiệu quả đầu tư: Là một tỉnh nông nghiệp có lực lượng lao động dồi dào. Mấy nămqua đầu tư ở Hà Tĩnh chủ yếu tập trung vào xoá đói giảm nghèo, giải quyểt việc làm cho phần lớn ở khu vực nông thôn, điều này thể hiện ở sự gia tăng vốn đầu tư liên tục (25,65 %/năm). Khu vực nông nghiệp và phát triển nông thôn nhưng hệ số ICOR của khu vực này vẫn rất thấp , năm 1994: 0,8 ,, năm 1998: 1,25 , nguyên nhân này là do dân số tăng nhanh (2,21%) lực lượng lao động bổ sung hàng năm lớn lại chủ yếu tập trung ở khu vực nông nghiệp, mặt khác các lao động ở khu vực nông thôn chủ yếu ở tình trạng bán thất nghiệp. Tất cả các nguyên nhân trên làm cho việc xác định chỉ tiêu giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm NVA (chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả ở tầm vĩ mô) là rất khó khăn. Vì trong công thức: NVA= O - (MI + Iv) Yếu tố đầu vào NI ở đây chủ yếu là lao động. Năm 1998 số lao động làm việc ở khu vực nông lâm ngư nghiệp là 509.560 người, chiếm 88,67% tổng số lao động và chiếm 92% tổng số lao động đang làm việc tại khu vực sản xuất vật chất . Năm 1998, khu vực nóng bỏng lâm ngư nghiệp chiếm 54,2% tổng sản phẩm trong tỉnh. Điều này cho thấy mấy năm qua, mặc dù đã có được tốc độ phát triển nhanh nhưng sản xuất nông nghiệp ở Hà Tĩnh vẫn còn rất kém hiệu quả. Nguyên nhân ở đây có nhiều, các nguyên nhân khách quan như địa hình phức tạp, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt lũ lụt, hạn hán xẩy ra thường xuyên. Tuy nhiên còn rất nhiều vấn đề tồn tại trong cơ chế chính sách đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn cần phải được giải quyết đó là: Do tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh còn thấp, nguồn vốn cho đầu tư lại chủ yếu trông chờ vào trung ương cấp, trong khi đó nhu cầu cho đầu tư lại lớn dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải thiếu dứt điểm không xác định được dự án nào nên ưu tiên đầu tư trước. - Trong sản xuất nông nghiệp: Các nông trường quốc doanh được nhà nước đầu tư tương đối lớn bằng vốn ngân sách. Và vốn tính dụng (năm 1996 là 6 tỷ đồng, năm 1998 là 8,5 tỷ đồng), nhưng hiệu quả còn rất thấp chưa dữ được vai trò đối với các thành phần kinh tế khác. Toàn tỉnh có 9 doanh nghiệp quốc doanh, trong đó 4 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu là trồng các cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc hiệu quả không cao, hệ số sinh lời thấp (năm 1994 là 0,08, năm 1996 là 0,07) mỗi lao động chỉ thu nhập 90.000đồng/ tháng. Trong khi đó các hộ nông dân lại rất thiếu vốn để đầu tư sản xuất xoá đói giảm nghèo . Các chính sách của tỉnh về vay vốn ngân hàng của các hộ nông dân vẫn không hiệu quả. Các hộ nông dân thiếu vốn, ngân hàng lại thừa vốn nhưng không giám cho vay vì sợ không thu được nợ. Hệ thống thuỷ lợi phục vụ cho sảm xuất nông nghiệp cũng có nhiều bất cập trong chính sách đầu tư. Điển hình là công trình hồ chứa nước. Kẻ Gỗ tưới tiêu cho một vùng rộng lớn thuộc hai huyện Cẩm Xuyên và Thạch Hà, sau khi được đầu từ nâng cấp tốn hàng chục tỷ đồng để nâng sức chứa nước từ 350 triệu m3 lên 500 triệu m3 nước, nhưng hệ thống kênh mương, các trạm bơm vẫn hoạt động với công suất như cũ. Điều này làm cho dự án đầu tư kém hiệu quả gây lãng phí lớn. - Trong lâm nghiệp: Tỉnh đã tiến hành giao đất cho từng hộ sản xuất kinh doanh nhưng hiệu quả của công tác trồng tu bổ rừng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu.Nguyên nhân là do các hộ sản xuất kinh doanh thiếu nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư nhưng các ngân hàng vẫn e ngại không dám mạnh dạn cho vay . Công tác bảo vệ rừng vẫn còn lỏng lẻo - một số cán bộ trong nghành kiểm lâm nhận hối lộ của các tổ chức cá nhân buôn bán vận chuyển gỗ chưa được sử lý nghiêm minh, nạn cháy rừng, khai thác rừng bừa bãi diễn ra trường xuyên (năm 1998 có 315 vụ cháy rừng) gây thiệt hại lớn về kinh tế và ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái. _ Trong nghành thuỷ sản: Thiếu vốn vẫn là nguyên nhân chủ yếu làm cho nghành thuỷ sản chưa phát huy hết thế mạnh của mình. Phần lớn hải sản được đánh vắt ở vùng lộng, đánh bắt xa bờ gặp nhiều khó khăn do chưa có phương tiện hiện đại . Trữ lượng cá phong phú nhưng chưa có công cụ để khai thác. Ba xí nghiệp đông lạnh hiện nay đang hoạt động với số vốn 800 triệu dồng là quá nhỏ mới đáp ứng được 10% khả năng cạnh tranh của các xí nghiệp này Khâu giống và phòng trừ bệnh chưa có biện pháp chủ động làm ảnh hưởng lớn đến nuôi trồng hải sản trong thời gian qua. Do chưa có chính sách khuyến khích hợp lý, nên nghề nuôi trồng bánh bắt hải sản phát triển chậm, thuế thu còn thấp. Hiện còn dùng biện pháp đánh bắt bằng thuốc nổ và bằng bình điện ắc quy làm tổn hại đến nguồn tài nguyên đồng thời ảnh hưởng đến môi trường. Chương III. Những giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho Nông nghiệp và PTNT địa bàn Hà Tĩnh I/ Kinh nghiệm của các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội tương tự Hà Tĩnh. Nghệ An và Hà Tĩnh (thuộc tỉnh Nghệ tĩnh cũ) là hai tỉnh có điều kiện tự nhiên và xã hội gần tương tự nhau. Kể từ ngày tách tỉnh (6-1991) do áp dụng được những chủ trương chính sách đúng đẵn, nông nghiệp nghệ an dã có bước phát triển đáng kể sản lượng lương thực liên tục tăng, đến nay tỉnh đã tự bảo đảm được lương thực. Cơ cấu nghành nghề nông nghiệp đang từng bước chuyển dịch theo hướng hình thành các vùng chuyên canh lớn trồng cây công nghiệp và cây ăn quả đặc biệt là hình thành các vùng chuyên canh trồng mía phục vụ cho nhà máy đường. Một số biện pháp mà Nghệ An đã áp dụng: -Huy động các nguồn vốn đầu tư trong dân và vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế cho kết câú hạ tầng, nông thôn như: Điện nước. giao thông, thuỷ lợi, trường học... -Chuyển dịch cơ cấu theo hướng chuyên canh để phát huy thế mạnh từng vùng, tăng năng suất và sản lượng hàng. -Đầu tư đúng mức vào khâu bảo quản, chế biến, vận chuyển nông phẩm tới nơi tiêu thụ, để giảm tổn thất lãng phí nguyên vật liệu. Đồng thời tổ chức tốt thị trường tiêu thụ theo hướng mở rộng hợp tác nâng cao chất lượng sản phẩm . -Đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực nông thôn then chốt là cán bộ huyện xã. Tuy nhiên hiện nay khu vực nông nghiệp nông thôn đang là khu vực nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc, khó khăn và phức tạp cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. II/Phương hướng quy hoạch nghành nông lâm ngư nghiệp. 1.Mục tiêu: Đảm bảo nhu cầu lương thực thực phẩm thiết yếu, hướng mạnh vào khai thác nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Sản xuất hàng hoávới chất lượng cao, tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản phẩm. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp cho phù hợp với hệ sinh thái trên các vùng khác nhau theo cơ chế thị trường, tạo các vùng sản xuất hàng hoá lớn. Phủ xanh đất trồng đồi trọc, trồng và khai thác rừng hợp lý để bảo vệ sinh thái và tăng nguồn thu nhập từ sản phẩm lâm nghiệp. Tăng khối lượng hải sản khai thác xa bờ, nâng cao công suất các nhà máy chế biến hải sản. 2.Quy hoạch phát triển: a- Nông nghiệp: Mục tiêu từ nay đến năm 2000 đạt 350Kg lương thực/ người và đến năm 2010 đạt 370- 400 Kg/người. Phát triển theo chiều sâu cả trồng trọt và chăn nuôi, tạo ra những vùng sản xuất tập trung mang tính sản xuất hàng hoá cho cac cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày. Cây ăn quả và cây xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện với cây công nghiệp chế biến. Khai thác triệt để nguồn nước hiện có và đầu tư giải quyết tiếp các công trình giữ ngọt, ngăn mặn. Đồng thời đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng để thâm canh cao trên cơ sở ứng dụng các tiến bộ về giống, phân bón xây dựng 4,2-4,5 vạn ha diện tích lúa nước chắc ăn ở vùng các công trình thuỷ lợi lớn Linh cảm Kẻ Gỗ và Sông rác. Trên những diện tích lúa bấp bênh nên chuyển sang trồng các cây khác có hiệu quả hơn. Tích cực thay đổi cơ cấy cây trồng cho năng suất cao hơn. Phát triển tổng hợp kinh tế vùng gò đồi, kết hợp nông nghiệp với lâm nghiệp , xây dựng 4 vùng cây ăn quả ở Hương Sơn (Cam Bù) bưởi ở Phúc Trạch ở Hương khê, Quýt ngọt thượng Kỳ Anh và vùng chè ở truông Bát. Xây dựng 3 vùng chè ở Tây sơn, nông trường 20-4 và nông trường 12-4 khoảng 3-4 nghìn ha. Vùng dâu tằm ở ven biển và vùng đồi ở một số huyện như Đức thọ Hương Khê, Nghi xuân, Thạch Hà, Cẩm xuyên, Kỳ Anh. Vùng mía ở Đức thọ, Hương Khê và một số xã Hạ Can Lộc và Bắc Thạch Hà, nhằm tạo ra được vung nguyên liệu cho công nghiệp mía đường tằm tư, nước giải khát có ga chè đen xuất khẩu. Về chăn nuôi gia súc gia cầm cần khuyến khích chăn nuôi đàn bò sữa nhằm cung cấp cho nhu cầu các đô thị và khu công nghiệp, phát triển đàn lợn có tỷ lệ nạc cao để cung cấp nguyên liệu đẻ tiêu chuẩn và ổn định cho xuất khẩu cả trong và ngoài nước. Phấn đấu đưa đàn trâu từ 90.500 con hiện nay lên từ 100.000 con vào năm 2000, bò từ 164390 con lên 180.000 con. Lợn từ 335.400 con lên 350.000 con. Để đạt được các chỉ tiêu trên cần có những biện pháp: -Nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng cho vay ưu đãi các hộ nông dân nghèo ở vùng cao vùng xa với lãi suất thấp, điều kiện vay chủ yếu là tín chấp và bảo lãnh. -Nhà nước có chính sách đầu từ vào cơ sở hạ tầng ở nông thôn. -Phát triên hình thức tín dụng nông thôn, tăng cường vai trò của các doanh nghiệp quốc doanh trong việc ứng dụng giống, thuốc trừ sâu và các biện pháp khoa học kỹ thuật khác, đồng thời làm đầu mối cho tiêu thụ sản phẩm. b.Lâm nghiệp: Hà Tĩnh phải đặt lên hàng đầu việc khoang nuôi và bảo vệ rằng, đặc biệt là rừng đặc dụng và rừng đầu nguồn, đẩy mạnh trồng rừng trên đất trống đồi trọc, vùng ven biển rừng phòng hộ đầu nguồn nhằm đảm bảo hệ sinh thái, phòng chống xói mòn. Xây dựng và phục hồi một số rừng nguyên liệu công nghiệp, bảo vệ và phát triển thêm rừng thông. Tổ chức giao đất giao rừng cho dân cư làm Lâm nghiệp. Thực hiện định canh định cư đối với đồng bào dân tộc vùng ít người. Tổ chức tốt xã hội hoá nghề rừng. Từ nay đến năm 2000 cần đạt được các chi tiêu sau: - Phủ xanh 150.000 ha đát chưa có rừng trong đó có 5-6 vạn ha cây nguyên liệu cho bột giấy và 3,5 - 4 vạn ha thông nhựa, đưa độ che phủ từ 42% hiện nay lên 50% vào năm 2000. - Khai thác đến năm 2010 khoảng 2 triệu m3gỗ các loại (rừng tự nhiên 0,6 triệu m3 rừng trồng 1,4 triệu m3 gỗ) để đưa vào chế biến cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa . Ngoài ra còn khai thác các loại cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngáy, cây dược liệu,... - Thu hút khoảng 40.000 hộ tham gia nghề rừng, tương đương 15% dân số của tỉnh. Tạo việc làm và đảm bảo ổn định đời sống, người lao động làm rừng. - Khai thác nhựa thông đạt 130.000 tấn cho giai đoạn 1998 - 2010: Theo các thời kỳ. 1998 - 2000: 15.000 tấn 2001 - 2005: 40.000 tấn 2006 - 2010 : 75.000 tấn - Đầu tư thiết bị công nghệ mới. Trong 2 năm 1999 - 2000 có thể đầu tư dây chuyên vắn dăm với công suất 4000 m3 sản phẩm. Giai đoạn 2001 - 2005 sẽ xây dựng một nhà máy giấy công suất 2.500 tấn/năm, nhà máy chế biến nhựa thông 7.000 tấn. Giai đoạn 2006 - 2010 sẽ đầu tư một dây chuyền tinh chế các sản phẩm dầu thông công suất 10.000 tấn nguyên liệu/năm. Để thực hiện được các chỉ tiêu trên .... tính cần trên 640 tỷ đồng. Dự kiến các nguồn vốn đó là: - Vốn từ ngân sách: 51% - Vốn vay không có lãi suất 9% - Vay ưu đãi 30% - Còn lại tự huy động: 10% Như vậy Nhà nước cần hoàn thiện và đồng bộ hoá hệ thống luật và các chỉ thị dưới luật về Lâm nghiệp. Làm rõ quyền hạn và nghĩa vụ của chủ rừng, có biện pháp khuyến khích người làm rừng để khai thác có hiệu quả vốn rừng và bảo vệ phát triển rừng. c. Ngư nghiệp. Thuỷ sản là ngành mang lại nhiều lợi nhuận cho tỉnh, cần đầu tư cho cả đánh bắt, nuôi trồng và chế biến một cách đồng bộ. Xây dựng cơ sở vật chất, từng bước hiện đại hoá phương tiện khai thác, đảm bảo cho khai thác tốt vùng khơi. Đầu tư cho các đội tàu đủ mạnh để có thể khai thác xa bờ, đánh bắt cá gắn với việc xây dựng các cảng cá trước hết là ở các cửa lạch hiện có như Cửa Hội, Cửa Sót, Cửa Nhượng, Cửa khẩu. Sử dụng tối đa diện tích mặt nước để nuôi trồng hải đặc sản như tôm, cua.... khuyến khích dân nuôi trồng hải sản nước mặn nước lợ để cung cấp nguyên liệu cho xuất khẩu. Nâng cấp và xây dựng đồng bộ hệ thống chế biến hải sản ở ba xí nghiệp hiện có và mở rộng hình thức chế biến nhỏ ở làng cá ven biển, trung tâm thị xã và các huyện lỵ để tạo ra sản lượng hàng hoá lớn. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân chế biến các sản phẩm đánh bắt có chất lượng cao. Xây dựng hệ thống sản xuất cung cấp giống cho nuôi trồng các loại hải sản. Xây dựng các cơ sở dịch vụ như: Cầu cảng, biển cá, củng cố các cơ sở đóng và sửa chữa tàu thuyền phục vụ cho đánh bắt và chế biến. Có kế hoạch bảo vệ nguồn tài nguyên, đồng thời coi trọng công tác bảo vệ môi trường. Mục tiêu cụ thể đến năm 2005. Tổng sản lượng từ nay đến năm 2005 đạt 90.000 tấn hải sản, tốc độ tăng bình quân năm 6,4%/năm, trong đó: + Tôm biển: 2.300 tấn, tốc độ 8% năm + Mực: 13.500 tấn, tăng 4,7% năm + Cá và các sản phẩm khác: 74.200 tấn, tăng 6,8% năm Sản lượng nuôi trồng hải sản 20.500 tấn tăng 12% năm. Giá trị kim nghạch xuất khẩu 45 triệu đô la, tốc độ tăng trưởng bình quân 14,5%. Nộp ngân sách 16 tỷ đồng. Giá trị GDP 600 tỷ đồng mức tăng trưởng 10,7% năm. Dự kiến nhu cầu vốn cho toàn nghành trong thời kỳ 2000 - 2005 là 165 tỷ đồng, trong đó: Cho khai thác: 78 tỷ đồng Chế biến: 30 tỷ đồng Dịch vụ: 22 tỷ đồng Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi phải có các giải pháp chính sách đồng bộ toàn diện của các nghành các cấp, sự giúp đỡ của Trung Ương và nỗ lực quyết tâm của tỉnh. III. Các giải pháp cụ thể và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho NN và PTNT Hà Tĩnh. Trong bối cảnh các nước khu vực Châu á rơi vào khủng khoảng kinh tế, sự diễn biến phức tạp của tình hình thế giới cộng với hạn hán lũ lụt thường xuyên xẩy ra đã ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung và Tỉnh Hà Tĩnh nói riêng. Việc điều hành thực hiện các dự án quy hoạch của tỉnh sẽ gặp không ít khó khăn. Quá trình thực hiện chắc chắn sẽ phải là, triển khai điều chỉnh - triển khai. Đối với Hà Tĩnh, theo đồng chí bí thư tỉnh uỷ yêu cầu chung về định hướng, định chế và chính sách sắp tới sẽ phải là: Đổi mới tư duy kinh tế, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát huy hết nguồn lực và sự năng động của mình. Nhà nước cần đưa ra các chính sách và biện pháp tạo động lực kinh tế cho mọi tầng lớp dân cư, hướng tới lợi nhuận tối đa. Giáo dục, đào tạo và tạo điều kiện cho thế hệ trẻ yêu quê hương, biết làm kinh tế ngay chính nơi mình sinh ra và lớn lên. 1. Xây dựng các chương trình và dự án khả thi. a. Các chương trình. - Chương trình an toàn lương thực và phát triển nông nghiệp toàn diện, xây dựng nông thôn mới. - Chương trình phát triển kinh tế biển. - Chương trình xây dựng phát triển miền núi và di dân. - Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và khu vực nông thôn. - Chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ và chăm sóc rừng. - Chương trình xoá đói giảm nghèo. - Chương trình đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật. b. Xây dựng một số dự án khả thi góp phần điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Trong giai đoạn 2000 - 2010 có thể từng bước xây dựng được một số dự án khả thi là: (1). Dự án an toàn lương thực mà trước hết là đưa vùng lúa thuộc ba công trình linh cảm, kẻ gỗ và sông rác lên thành vùng lúa năng suất cao. Song song với việc cải tạo và hoàn chỉnh ba công trình thuỷ lợi bảo đảm sản xuất an tâm hai vụ lúa Đông Xuân và Hè Thu cả về diện tích, giống tốt, phòng trừ bệnh dịch. Trong đó xây dựng một số cánh đồng lúa thuộc loại lúa tốt có khả năng xuất khẩu hoặc phục vụ các nhu cầu tiêu dùng cao. (2). Xây dựng dự án vùng nguyên liệu cho công nghiệp. - Vùng nguyên liệu công nghiệp mía đường. - Vùng nguyên liệu công nghiệp chè. - Vùng nguyên liệu công nghiệp nước quả có ga. - Vùng nguyên liệu thuỷ sản như tôn, cua phục vụ công nghiệp đông lạnh. - Vùng chăn nuôi bò, lợn phục vụ công nghiệp đông lạnh súc sản. - Vùng nguyên liệu gỗ cho công nghiệp giấy. - Bảo vệ và tiếp tục phát triển rừng thông và công nghiệp khai thác chế biến nhựa thông. Để các dự án này sớm trở thành hiện thực phải có các điều kiện sau: - Quĩ đất đảm bảo các yêu cầu (cơ sở hạ tầng vật chất) nuôi trồng các cây con đó: - Phải có hướng dẫn kỹ thuật và giống đảm bảo yêu cầu công nghiệp. - Chính sách cho nông dân tạo được sự bảo hiểm cây và con trong quá trình lâu dài dù có biến động thị trường. - Qui trình thu hoạch và vận tải. - Về công nghệ chế biến khả thi nhất là khả năng thu hồi vốn, công nghệ và công nghệ tận dụng,vì hiện nay đội ngũ công nhân, cán bộ khoa học kỹ thuật của tỉnh chưa đủ trình độ để vận hành tốt các công nghệ hiện đại, hơn nữa vốn đầu tư cho các công nghệ hiện đại rất lớn nhưng lại sử dụng ít lao động trong khi lực lượng lao động của tỉnh còn thiếu việc làm (3). Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và khu vực nông thôn. - Dự án cơ sở hạ tầng Thạch Khê (điện, nước đường vầu Thạch Đông đường ven biển đi Thiên cầm). - Dự án xây dựng cảng cá Xuân Hải song song với xây dựng các nhà máy chế biến hải sản xuất khẩu. - Dự án phát triển điện về các xã vùng cao, vùng sâu. - Xây dựng đê chắn biển bảo vệ nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất công nghiệp ở hai huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên. Dự án này đang nghiên cứu khảo sát dự kiến sẽ triển khai vào đầu năm 2000, nguồn vốn cho dự án chủ yếu là Trung Ương cấp. - Dự án xây dựng hồ chứa nước và hiện đại hoá hệ thống kênh mương thuỷ lợi. Trong điều kiện hạn hán liên tiếp xẩy ra ở Hà Tĩnh và các tỉnh miền Trung thì đây là dự án rất quan trọng, bức thiết cho sản xuất nông nghiệp. 2. Hình thành từng bước đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thật cán bộ chuyên môn. Phổ cập giáo dục nâng cao trình độ dân trí cho người dân đặc biệt là ở các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. (1). Đào tạo lại đào tạo thêm một số cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ chuyên môn hiện có: Trên cơ sở kiểm kê lại đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, đánh giá một cách khách quan kiên quyết lập kế hoạch đào tạo lại đào tạo thêm đối với những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công tác: Nếu chỉ làm việc dưới 5 năm thì mở các lớp tập huấn ngắn ngày. Nếu làm việc trên 10 năm thì phải kiên quyết đi học nâng cao trình độ chuyên môn, vi tính, ngoại ngữ để có thể nắm bắt được các tiến bộ khoa học kỹ thuật và áp dụng có hiệu quả trong điều kiện của tỉnh. (2). Có chính sách đầu tư thêm vào cho sinh viên giỏi năm cuối ở các trường đại học, đặc biệt là các trường Nông Lâm, Thuỷ sản mà tỉnh có ý định tiếp nhận. Hiện nay con em Hà Tĩnh học ở các trường đại học khá nhiều, có nhiều học sinh giỏi và hàng năm tỉnh vẫn có nhu cầu. Tốt nhất là đầu tư thêm( hợp đồng với các trường và các em) để có thêm mỗi năm tiếp nhận một ít. Những con em Hà Tĩnh đang học tập và làm việc ở các nơi muốn về quê công tác, nếu còn trẻ, có năng lực và triển vọng thì sẵn sàng tiếp nhận, dù không có biên chế cũng phải tạo điều kiện cho các ngành tiếp nhận bằng quỹ lương địa phương. Có làm được như vậy mới thu hút được người có tài và có lực lượng bổ sung khi cán bộ đương chức đến tuổi về nghỉ hưu. (3). Việc các cán bổ khoa học - kỹ thuật giỏi công tác ở Hà Tĩnh chưa thực hiện ngay được vì vậy nên có chế độ thuê chuyên gia cố vấn cho những lĩnh vực khó như: Nghiên cứu lai tạo các giống mới phù hợp với điều kiện của tỉnh, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất vào sản xuất khai thác, chế biến. Nếu hợp đồng trọn gói thì lãng phí và không bồi dưỡng cho cán bộ của tỉnh. Vì vậy thuê các nhà khoa học các chuyên gia ở những thời điểm cần thiết trong một số lĩnh vực là phương án tối ưu, hiệu quả nhất. (4). Để khuyến khích thu hút được người có tài cần phải có chế độ ưu tiên ưu đãi xứng đáng cho họ về vật chất, tạo mọi điều kiện để họ phát huy hết năng lực bản thân. (5). Phổ cập giáo dục nâng cao trình độ dân trí cho mọi người dân. thường xuyên tuyên truyền phổ biến đến từng hộ nông dân các chủ trương chính sách của trung ương, của tỉnh định hướng, cố vấn cho họ trong việc áp dụng và chăm sóc các giống mới. Phổ cấp giáo dục bằng cách chú ý đầu tư xây dựng các trường học ở vùng nông thôn, đồng thời có chính sách ưu đãi hơn đối với giáo viên các trường ở nông thôn đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Tuyên truyền vận động các phụ huynh tạo điều kiện cho con em đến trường. 3. Mở rộng và phát triển thị trường vốn, đồng thời quản lý chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư. (1). Mấy năm qua do tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp nên quy mô vốn đầu tư còn ít. Nguồn vốn đầu tư cho ngân sách và phát triển nông thôn chủ yếu là từ ngân sách. chính sách huy động vốn mới chỉ dừng lại ở huy động và tiết kiệm tín phiếu ngân hàng, kho bạc với lãi suất không cao hơn mấy so với trượt giá. Một điều trái ngược đang tồn tại trong nền kinh tế là các ngân hàng thì thừa tiền trong khi các doanh nghiệp chế biến, các nông lâm trường và các hộ nông dân thì thiếu vốn để đầu tư phát triển sản xuất. Nguyên nhân là do các ngân hàng không tin tưởng vào các khách hàng họ sợ không thu hồi được nợ vì vậy đối với các cơ sở sản xuất, chế biến có hiệu quả tính cầu đứng ra bảo lãnh để các cơ sở này vay vốn ngân hàng đầu tư mở rộng sản xuất. Đối với các hộ nông dân thì dùng chính kết quả công cuộc đầu tư làm thế chấp để vay ngân hàng. (2). Vận dụng các chính sách của nhà nước vào cụ thể địa phương để tranh thủ các nguồn viện trợ của nước ngoài, các tổ chức quốc tế nhất là đối với các dự án bảo vệ môi trường thiên nhiên, chương trình nước sạch nông thôn và các dự án thuộc ngành lâm nghiệp. (3.) Đối với các dự án phục vụ trực tiếp cho người nông dân như thuỷ lợi, giao thông thì có thể thực hiện theo phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Nhân dân dóng góp tiền và ngày công lao động, nhà nước hỗ trợ và đứng ra tổ chức giám sát thi công. (4). Tăng cường và phát huy hơn nữa vai trò của các cơ quan tài chính ngân hàng: Cơ quan tài chính ngân hàng của một tỉnh nghèo cần kết hợp cân đối được giữa thu- chi và dành phần tích luỹ phục vụ sản xuất và xây dựng, có chính sách huy động được nhiều vốn và tranh thủ được các nguồn lực trong và ngoài địa phương, nhất là từ trung ương. (5). Quản lý chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư huy động được tránh tình trạng thất thoát lãng phí trong đầu tư: - Đối với vốn ngân sách. Đấy là nguồn vốn chủ yếu, đặc điểm của nguồn vốn này là cấp phát theo kế hoạch, không phải trả lãi suất, không phải hoàn vốn, tức là nhà nước giao cho từng ngành từng địa phương, một khối lượng vốn nhất định trong một thời gian nhất định nhằm thực hiện mở dự án đầu tư đã được duyệt theo kế hoạch. Các dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ yếu là các dự án có thời gian thu hồi vốn lâu hoặc là không thu hồi được vốn (như đắp đê chống lũ, xây kè, chắn biển..) tỷ suất lợi nhuận mà chủ đầu tư có thể xác định và thu hồi được là rất thấp. Nhưng các dự án này rất quan trọng đối với sinh hoạt và sản xuất của các hộ nông dân chính vì vâỵ mà nhà nước phải là người đầu tư chính trong lĩnh vực này. Tuy nhiên trong điều kiện ngân sách tỉnh còn eo hẹp, để tránh tình trạng thất thoát lãng phí vốn đầu tư cần phải tính toán lợi ích kinh tế xã hội của dự án một cách kỹ lưỡng, phải xác định được dự án nào nên ưu tiên đầu tư trước, tránh tình trạng đầu tư dàn trải chiếu dứt điểm. Đối với ngành thuỷ lợi cần chấm dứt tình trạng nực cười là đầu tư xây dựng được hệ thống kênh mương nhưng lại không có nước để tưới cho lúa. Và cuối cùng là các dự án sử dụng vốn ngân sách có số vốn đầu tư từ 500 triệu trở lên phải tiến hành đấu thầu theo quy định Chính phủ. Việc đấu thầu phải tuân thủ nghiêm chỉnh quy chế đấu thầu. Trong quá trình thi công phải cử các cán bộ có kinh nghiệm có trình độ và phẩm chất đạo đức tốt giám sát thi công và nghiệm thu đảm bảo chất lượng tiến độ của công trình đúng như trong hợp đồng. Đối với vốn tín dụng Những dự án sử dụng vốn tín dụng ưu đãi ngoài việc đánh giá xem xét lợi ích kinh tế xã hội của dự án để có cơ sở cho vay hay không cho vay bảo đảm khả năng thu hồi vốn đầu tư. Người quản lý còn phải xem loại dự án đó có được sử dụng vốn tín dụng ưu đãi hay không theo quy định của Nhà nước, từ đó có kết luận cuối cùng. Đối với vốn tín dụng thương mại cần tập trung đánh giá hiệu quả tài chính của dự án để từ đó tính toán khả năng trả nợ của chủ dự án. Nguyên tắc để sử dụng các nguồn vốn đầu tư có hiệu quả là cần phải thẩm định dự án một cách khách quan chính xác trước khi quyết định cấp vốn hay cho vay vốn. 4. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách. (1). Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh trình Chính phủ cho Hà Tĩnh có cơ chế mở trong quá trình đầu tư phát triển, kiến nghị với chính phụ trên cơ sở vốn đầu tư cho các ngành và cơ sở sản xuất để giao chỉ tiêu họp lý, khuyến khích phát triển nghành nghề bằng nguồn vốn tự huy động để có tích luỹ đầu tư cho tái sản xuất, ưu tiên cho Hà Tĩnh một số chỉ tiêu xuất khẩu về hàng, trả nợ mà tỉnh có khả năng phân phối với tín dụng ưu đãi. (2). Chính sách phát triển vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến: Yêu cầu của chính sách này là làm cho người nông dân giải quyết hai vấn đề giá và bảo hiểm cho các nông sản làm nguyên liệu cho công nghiệp cho công nghiệp chế biến. Đối với các vùng nguyên liệu mới Nhà nước phải thực sự hỗ trợ đầu tư cho giai đoạn đầu tiên. (3). Chính sách tạo vốn. Trong nhiều năm nguồn thu ngân sách của Hà Tĩnh chủ yếu là từ trung ương, việc Trung ương tiếp tục chi viện là cần thiết, tuy vậy cân đối từ trung ương không nhiêu do còn khá nhiều tỉnh thu vẫn không đủ bù chi, vì vậy việc tạo vốn cho Hà Tĩnh có ý nghĩa rất quan trọng để tiến tới tự cân bằng thu chi. Với vị trí địa lý của Hà Tĩnh cần thiết phải có một quy chế đặc biệt cho việc tạo ngân sách, có hai lĩnh vực mà trung ương có thể toạ điều kiện cho Hà Tĩnh có được nguồn thu lớn: - Cho phép Hà Tĩnh được sử dụng toàn bộ phí thu qua cửa khẩu quốc tế cầu treo. - Cho phép Hà Tĩnh có một số điều kiện ưu đãi (như giá đất thích hợp) đủ sức thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh sự giúp đỡ tạo điều kiện của trung ương trước mắt Hà Tĩnh cần bổ xung nguồn vốn thiếu hụt bằng các nguồn vốn sau: - Thu hút vốn trong dân bằng các hình thức mở rộng tiết kiệm, xây dựng các công trình sản xuất nhỏ và kết cấu hạ tầng nhỏ. - Vay vốn ngân hàng để thực hiện các dự án chế biến nông Lâm sản, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp. - Gọi vốn từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế, đặc biệt là đối với các dự án bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên. (4). Chính sách phát triển nhiều thành phần đặc biệt các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình ở nông thôn. Đây là quan điểm cơ bản trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Nó phải là giải pháp chiến lược chứ không phải là biện pháp giải quyết tình thế. Trước mắt cần. - Khuyến khích mở vùng đất mới, lập các trang trại vùng đất chuyên canh. - Hướng dẫn về kỹ thuật chăm sóc, tạo giống. - Có chính sách ưu tiên trong chính sách thuế và tín dụng. (5). Tìm kiếm và mở rộng thị trường cho các sản phẩm nông - lâm ngư nghiệp. Mở rộng thị trường sản Đông Bắc Thái Lan và Lào đối với các sản phẩm thuỷ hải sản. Tạo thị trường ở các tỉnh đồng bằng bằng Bắc Bộ các đặc sản quý như Cạm, Nhung hươu... Buôn bán trực tiếp với các nước trong khu vực qua cảng nước sâu Vũng áng, các sản phẩm hải súc sản đông lạnh và tươi sống. Phải thực sự coi trọng và đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước. Ngoài ra cũng cần coi trọng và nâng cao sức mua của thị trường trong Tỉnh, chú ý đến thị trường nông thôn. Để làm được việc đó cần phải đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, chuyển mạnh sang chế biên nông lâm hải sản. Đối với những vùng còn khó khăn như vùng cao vùng sâu, vùng ven biển, vùng có khó khăn về giao thông cần có ưu tiên, hỗ trợ nhất là về vốn viện trợ cũng như vốn vay ưu đãi để thị trường này có thể đủ sức tiêu thụ những sản phẩm thiết yếu. Từ đó hình thành các trung tâm lớn nhỏ theo từng thời kỳ ở các thị trấn và các điểm dân cư. Thị trường đòi hỏi phải có sức cạnh tranh lớn mới đủ sức đứng vững và vươn lên trong cơ chế mới. Do vậy chiến lược về thị trường cần quan tâm hướng mạnh vào xuất khẩu nông sản phẩm mà tỉnh có thế mạnh. (6).Chính sách phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm cho người lao động. Tiếp tục và tích cực giảm tỷ lệ sinh bằng các biện pháp hành chính kết hợp với tuyên truyền giáo dục đến từng hộ gia đình muốn vậy cần đẩy nhanh việc đổi mới các hoạt động y tế cơ sở cho phù hợp với tình hình hiện nay. Bên cạnh đó cần tăng cường công tác giáo dục, nâng cao dân trí toàn tỉnh, tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ quần chúng, thể dục thể thao nhằm tạo ra không khí thi đua sản xuất. Phân đấu hết năm 2000 thanh toán hoàn toàn nạn mù chữ, tiến tới đạt mặt bằng phổ thông trung học trên địa bàn. Hiện nay chỉ cần 30% tổn số lao động làm việc trong khu vực nông thôn là đủ, thực tế khu vực nông thôn chiếm 80% tổng số lao động, 50% số lao động này có thể tổ chức cho học nghề cho đi lao động ở nước ngoài tạo sự chuyển đổi coư cấu kinh tế nông thôn. 5.Chỉ đạo và giám sát thực hiện. - Về mặt chiến lược, chỉ đạo thực hiện trước hết là tính đúng vấn đề chỉ đạo công tác xây dựng chương trình và dự án, tìm đối tác, xây dựng chính sách và đặc biệt quan trọng là tìm người làm việc đó. Chống tư tưởng nóng vội, phải thực hiện chuẩn bị đầu tư một cách kỹ càng để có nhiều phương án mà lựa chọn giải pháp tối ưu, khi làm cần thiết phải có bước đi rõ. Có những vấn đề cần được làm thử. Vấn đề quan trọng thứ hai trong chỉ đạo thực hiện là phải tạo được sự nhất trí cao trong lãnh đạo trên cơ sở nghị quyết và chủ trương của tỉnh uỷ, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân. Mọi vấn đề đưa ra phải được chuẩn bị chu đáo và thảo luận kỹ. - Trong quá trình chỉ đạo thực hiện tỉnh cần cử ra các cán bộ có kinh nghiệm, có phẩm chất đạo đức tốt để thường xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện các chỉ tiêu theo kế hoạch, qua đó phát hiện và bổ sung kịp thời những sai sót lệch lạc trong quá trình thực hiện Kết luận Khu vực nông nghiệp và nông thôn đã và đang sẽ là mặt trận hàng đầu của Hà Tĩnh trong quá trình đi lên công nghiệp hoá hiện đại hoá của tỉnh. Vì vậy việc hoàn thiện các hệ thống chính sách hiện đại hóa luôn là vấn đề có tính chiến lược mà Trung Ương đảng cũng như Đảng bộ Hà Tĩnh đặc biệt quan tâm. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn kinh tế đầu tư và các cô chú trong phòng sản xuất - Sở kế hoạch đầu tư Hà Tĩnh đã giúp đỡ tận tình, tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành chuyên đề này./. Tài liệu tham khảo. 1.Giáo trình kinh tế đầu tư (ĐHKTQD) 2.Giáo trình kinh tế phát triển. (ĐHKIQD) 3.Niên giám thống kê Hà Tĩnh 1997 4.Báo cáo tổng hợp của UBND Tỉnh Hà Tĩnh 5.Báo Hà Tĩnh 6.Tạp chí thị trường TCTT số 1 + 2/1997 7.Tạp chí cộng sản số 6/1998 8.Tạp chí ngân hàng số 13/1998.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0073.doc
Tài liệu liên quan