Đào tạo báo chí truyền thông tại Việt Nam cơ hội và thách thức trong bối cảnh hiện đại hóa ngành công nghiệp truyền thông

Thách thức trở ngại nhất đối với việc nghiên cứu đào tạo báo chí truyền thông hiện nay: đội ngũ cán bộ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức trở ngại đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu báo chí truyền thông ở Việt Nam nói chung, ở trường ĐH KHXH và NV nói riêng. Trong số nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, như cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước, cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ giảng dạy, chương trình đào tạo, khả năng chủ động sáng tạo của người học, sự phối hợp với các cơ quan sử dụng lao động , có lẽ, vấn đề thách thức lớn nhất hiện nay là đội ngũ cán bộ nghiên cứu và đào tạo về báo chí truyền thông. Đào tạo báo chí truyền thông là lĩnh vực đào tạo đặc biệt, không chỉ cần có đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu có bản lĩnh và ý thức chính trị tốt, mà phải là những chuyên gia am hiểu sâu sắc về lý luận truyền thông, và có kinh nghiệm và kỹ năng tác nghiệp báo chí. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ nghiên cứu và đào tạo về báo chí truyền thông hiện nay đang thiếu về số lượng và còn nhiều bất cập về chất lượng. Không chỉ thiếu hụt đội ngũ cán bộ kỹ thuật để h¬ướng dẫn sinh viên sử dụng các thiết bị kỹ thuật chuyên ngành báo chí, mà các cơ sở đào tạo hiện nay cũng đang thiếu hụt các chuyên gia về lý luận báo chí truyền thông, các nhà nghiên cứu về chuyên ngành báo chí truyền thông.

doc10 trang | Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 607 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo báo chí truyền thông tại Việt Nam cơ hội và thách thức trong bối cảnh hiện đại hóa ngành công nghiệp truyền thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÀO TẠO BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG TẠI VIỆT NAM CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI HÓA NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRUYỀN THÔNG TS. ĐẶNG THỊ THU HƯƠNG Khoa Báo chí và Truyền thông Trường Đại học KHXH&NV Đại học Quốc gia Hà Nội Đào tạo và nghiên cứu báo chí truyền thông là một lĩnh vực đặc biệt, không chỉ thu hút sự quan tâm của giới học thuật mà của cả ngành công nghiệp truyền thông đại chúng với nhiều ý kiến đan xen, trái ngược nhau. Trong khi nhiều ý kiến cho rằng báo chí là một nghề đòi hỏi kỹ năng tác nghiệp và mang tính thực hành cao, thì việc đào tạo báo chí truyền thông tại các cơ sở trong nước vẫn phần lớn được thực hiện một cách ‘tầng bậc’ trên giảng đường, từ cử nhân, đến thạc sỹ, tiến sỹ, nặng về lý thuyết. Đồng thời, trong khi đào tạo báo chí truyền thông ở Việt Nam bị phê phán là nặng về lý thuyết, thì nhiều ý kiến lại cho rằng việc nghiên cứu lý luận báo chí truyền thông ở Việt Nam bị xem nhẹ và chưa thực sự hữu ích đối với ngành công nghiệp truyền thông. Trong khi đó, ngành công nghiệp truyền thông Việt Nam đang chuyển mình phát triển mạnh mẽ từng ngày từng giờ trong bối cảnh hội nhập quốc tế của kỷ nguyên kỹ thuật số. Tư duy đổi mới, xã hội hóa trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm truyền thông của Đảng và Nhà nước trong những năm qua cũng đang tạo ra diện mạo mới, đồng thời là thách thức mới cho ngành công nghiệp báo chí truyền thông và việc quản lý báo chí truyền thông ở Việt Nam. Nhìn nhận, đánh giá thời cơ và thách thức trong đào tạo và nghiên cứu báo chí truyền thông ở nước ta hiện nay, và đề xuất giải pháp cho vấn đề này là việc làm cần thiết và cấp bách. Đây cũng chính là nội dung cơ bản của bài viết sau đây. 1. Những bất cập trong đào tạo báo chí truyền thông hiện nay Mấy năm qua, dư luận xã hội thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến chất lượng và hiệu quả đào tạo báo chí trong các trường đại học ở Việt Nam. Trên các tờ báo trung ương và địa phương, trên báo giấy và báo mạng, đã có hàng chục bài viết về vấn đề đào tạo báo chí Ví dụ như ‘Phải thay đổi cách đào tạo nghề báo’ (Việt Báo, 4.12.2005), ‘Hệ thống đào tạo đội ngũ làm báo ở Việt Nam’ (Nghề báo, ngày 14.12.2006), ‘Sinh viên báo chí được đào tạo như thế nào?’ (TuanVietnam.net, ngày 7.11.2007), ‘Bi kịch ‘chuồn chuồn đạp nước’ (báo Sinh viên Việt Nam số 25, ngày 17.6.2008), ‘Tại sao hiệu quả đào tạo báo chí thấp?’ (TuanVietnam.net ngày 11.11.2007), ‘Giáo trình đào tạo báo chí còn nặng tính hàn lâm’ (báo Thanh Niên ngày 25.6.2008), ‘Đào tạo báo chí – Những khó khăn cần vượt qua’ (báo An Ninh Thủ đô, ngày 21.6.2009), và ‘Đào tạo báo chí: Loay hoay đầu vào, đầu ra’ (website Hội Nhà báo Việt Nam, 4.3.2009)... . Hầu hết các bài báo đều tập trung phản ánh thực trạng thiếu hụt kỹ năng thực hành, tác nghiệp của sinh viên báo chí; thể hiện nguyện vọng, nhu cầu của cơ quan tuyển dụng ‘cần sinh viên học báo ra viết báo và làm báo chứ không cần cử nhân lý luận ngành báo chí’ và thể hiện sự bức xúc của xã hội khi ‘chỉ có khoảng 20% sinh viên báo chí ra trường làm đúng ngành mình đã học’ (số còn lại không tự thu hẹp được khoảng cách giữa kiến thức lý luận nặng tính hàn lâm được học trong trường với môi trường làm báo đòi hỏi kỹ năng nghiệp vụ cao, nên đành phải giã từ nghề báo)... Lịch sử đào tạo báo chí truyền thông cho thấy, việc đào tạo phóng viên ban đầu chỉ được thực hiện ở các tòa soạn. Nhiều người còn cho rằng báo chí là một nghề chỉ có thể trau dồi qua cách học trên đầu việc (learning on job) và ‘một nhà báo xuất chúng có thể chẳng cần qua trường lớp nào cả’ (Hugh Stephenson 1996, tr.23). Bởi vậy, ngay ở Anh, một trong những chiếc nôi của báo chí thế giới, nơi tờ báo đầu tiên bằng tiếng Anh xuất hiện ở London từ năm 1665, và đài phát thanh đầu tiên ra đời từ năm 1922, thì đào tạo báo chí với tư cách là một ngành học ở bậc đại học chỉ xuất hiện từ năm 1971. Ngay cả khi ngành báo chí truyền thông được khẳng định là một ngành khoa học xã hội, có phương pháp và đối tượng nghiên cứu đặc thù, thì việc đào tạo báo chí truyền thông vẫn không giống như đào tạo cử nhân của bất kỳ ngành khoa học xã hội nào khác. Điểm cơ bản nhất trong việc đào tạo báo chí truyền thông là phải ‘cho ra lò’ những người ‘thạo việc’, có kỹ năng săn tin, viết bài, biết cách ghi âm, sử dụng máy quay, biết thực hiện các chương trình phát thanh, truyền hình, biết cách tổ chức sự kiện, biết làm truyền thông hợp tác và tiếp thị, quảng cáo. Cũng chính bởi vậy, rèn luyện kỹ năng làm báo luôn là ưu tiên số một trong các trường đào tạo báo chí truyền thông. Trong khi đó, ở Việt Nam, các chương trình đào tạo báo chí còn nặng về lý thuyết, kỹ năng thực hành chỉ bao gồm các thao tác đơn giản. Bên cạnh sự thiếu hụt nghiêm trọng về máy móc, trang thiết bị là sự thiếu hụt đội ngũ giáo viên thực hành để hướng dẫn sinh viên. Việc hướng dẫn sinh viên sáng tạo tác phẩm báo chí cũng rất khó thực hiện vì nhiều giảng viên báo chí chưa bao giờ làm báo thực sự. Chính vì vậy, nhiều sinh viên tốt nghiệp loại khá, nhưng vẫn không có đầy đủ các kỹ năng về nghề để viết báo, hay sản xuất chương trình phát thanh-truyền hình. Mặt khác, đào tạo báo chí cũng không giống như đào tạo kỹ sư điện hay chế tạo máy, bởi hoạt động báo chí là hoạt động thông tin chính trị - xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, không một lực lượng cách mạng nào không dùng báo chí làm phương tiện tuyên truyền cho mục đích, tôn chỉ, và tập hợp lực lượng quần chúng; không một giai cấp thống trị nào không nắm lấy bộ máy thông tin tuyên truyền báo chí để góp phần củng cố và điều hành xã hội. Có nghĩa là, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của việc đào tạo báo chí truyền thông không chỉ là kỹ năng, nghiệp vụ, mà phải đào tạo một cách toàn diện, đặc biệt là về chính trị tư tưởng và đạo đức nghề nghiệp, kiến thức chung về văn hóa, xã hội cho người làm báo. Bên cạnh đó, hiệu quả của ngành báo chí truyền thông chỉ đạt được khi người học nắm vững kiến thức lý luận về truyền thông và truyền thông đại chúng, hiểu rõ quy luật phát triển của truyền thông đại chúng trong xã hội, cũng như mô hình hoạt động kinh tế của ngành công nghiệp này. Nghiên cứu báo chí truyền thông phải thực sự đóng góp giải pháp giúp cho ngành công nghiệp báo chí truyền thông phát triển, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam áp dụng chính sách mở cửa, đổi mới, phát triển theo mô hình kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa; khi mô hình cho sự phát triển của ngành công nghiệp báo chí truyền thông ở Việt Nam hiện nay chưa từng có tiền lệ trên thế giới. Tuy nhiên, việc nghiên cứu báo chí truyền thông ở Việt Nam vẫn chưa được đánh giá và quan tâm đúng mức. Các nghiên cứu về báo chí truyền thông còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, chưa tạo nên định hướng cho sự phát triển của ngành công nghiệp truyền thông, và cũng chưa đóng góp hiệu quả cho việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp này. Và bởi vậy, đẩy mạnh nghiên cứu báo chí truyền thông, với tư cách là một ngành khoa học, có nền tảng lý luận, có đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu đặc thù là yếu tố quan trọng, là động lực nâng cao chất lượng đào tạo về báo chí truyền thông. Kết hợp hài hòa giữa nền tảng chính trị của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiến thức chung về văn hóa xã hội, kiến thức chuyên sâu về lý luận báo chí truyền thông và kỹ năng nghiệp vụ tác nghiệp là yếu tố cốt yếu trong hoạt động đào tạo. Hạn chế và bất cập của việc đào tạo báo chí truyền thông trong thời gian qua là minh chứng cho sự nhận thức chưa đầy đủ về lĩnh vực đào tạo đặc thù này. 2. Thời cơ và thách thức cho việc đào tạo báo chí truyền thông trong giai đoạn hiện nay 2.1. Thời cơ từ sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp truyền thông Báo chí truyền thông là một lĩnh vực đào tạo đầy triển vọng. Với sự chuyển đổi nhanh chóng từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường, nhu cầu về dịch vụ truyền thông và dịch vụ liên quan đến truyền thông ở nước ta đã có bước phát triển vượt bậc trong 20 năm qua. Số lượng các cơ sở thông tin-truyền thông không ngừng tăng lên và ngày càng đa dạng, đòi hỏi nguồn cung cấp nhân lực cho ngành báo chí truyền thông cũng phải gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Lấy ví dụ trong ngành báo in, từ năm 1995 đến 2008, số lượng đầu báo, tạp chí đã tăng lên hơn gấp đôi, từ 375 tờ lên 896 tờ. Hiện nay, cả nước có 67 đài phát thanh và truyền hình, trong đó 3 đài phát thanh - truyền hình trung ương. Đó là chưa kể đến mạng lưới phát thanh, truyền hình địa phương, trong đó, riêng mạng lưới phát thanh có đến hàng ngàn đài phát thanh/truyền thanh vươn tới những cộng đồng nhỏ ở từng phường, xã. Mới xuất hiện từ năm 1997, nhưng có báo điện tử đã có những bước phát triển vượt bậc. Hiện nay Việt Nam có 13 báo điện tử, 250 trang tin điện tử và hàng ngàn trang website cung cấp thông tin. Bên cạnh đó, nhu cầu về các hoạt động kinh tế dựa trên truyền thông – như quảng cáo, PR, xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu, tiếp thị, truyền thông tập đoàn – trong xã hội đang tăng mạnh. Theo một cuộc khảo sát thị trường gần đây, Việt Nam hiện có hàng trăm doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực PR và quảng cáo, với mức tăng trưởng hàng năm đạt khoảng 30%. Khoảng 2/3 công ty quốc doanh và hơn 3/4 công ty tư nhân trong cuộc khảo sát này đã sử dụng các dịch vụ PR. Nhu cầu về nhân lực truyền thông được đào tạo chuyên nghiệp vì thế đang tăng lên. Ngành báo chí truyền thông ở Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong vài thập kỷ tới, bởi lẽ, cho đến nay, mức hưởng thụ báo chí của người dân Việt Nam, trong tương quan với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, vẫn còn rất khiêm tốn. Đơn cử trong lĩnh vực báo in, mức độ hưởng thụ báo in (bao gồm cả báo ngày, báo tuần và tạp chí) của Việt Nam là 8.3 tờ cho 1000 dân. Trong khi đó, theo báo cáo của UNESCO, số đầu báo ngày trên 1000 dân ở Nhật, Thụy Điển và Anh lần lượt là 565, 409 và 326 tờ. Ngay trong khu vực Đông Nam Á, cơ hội hưởng thụ báo chí của người dân ở nhiều nước ASEAN cũng cao hơn hẳn so với người dân Việt Nam. Theo số liệu năm 2007, ở Singapore, một quốc gia chỉ có hơn 3 triệu dân, nhưng có tới hơn 1,6 triệu bản báo ngày (bằng tiếng Anh và tiếng Trung Quốc), gần 100 kênh truyền hình khác nhau, và có mạng lưới phát thanh gần 30 đài. Điều đó có nghĩa là ngành truyền thông Việt Nam cần tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa để sánh ngang với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Số lượng thí sinh thi vào ngành báo chí truyền thông luôn đứng đầu trong số các ngành học của trường ĐH KHXH và NV cũng là một yếu tố khẳng định nhu cầu mạnh mẽ của thị trường truyền thông hiện nay. Nhu cầu về nhân lực cho ngành công nghiệp truyền thông Việt Nam hiện nay là một thời cơ, và cũng là trách nhiệm mà các cơ sở đào tạo của Việt Nam phải đáp ứng. Việc đổi tên khoa Báo chí (trường ĐH KHXH và NV) thành khoa Báo chí và Truyền thông đã tạo điều kiện thuận lợi cho khoa mở rộng, đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Không chỉ bó hẹp trong ‘mảnh đất’ báo chí, mà khoa Báo chí và Truyền thông có thể mở ra các ngành đào tạo về quảng cáo, PR, marketing Không chỉ bó hẹp trong một ngành đào tạo chung, đã duy trì 20 năm qua, khoa Báo chí và Truyền thông có thể đào tạo đa ngành, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho ngành công nghiệp truyền thông hiện nay. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp truyền thông trong những năm qua đang tạo điều kiện thuận, tạo ra cơ hội mới và cũng là thách thức mới đối với việc đào tạo báo chí truyền thông. 2.2. Thời cơ thuận lợi từ mô hình đào tạo tín chỉ và khả năng đa dạng hóa sản phẩm đào tạo Xu thế chung của ngành công nghiệp báo chí truyền thông thế giới và Việt Nam hiện nay là phát triển thành các tổ hợp truyền thông đa loại hình, đa chức năng. Nhu cầu của ngành công nghiệp truyền thông đang đòi hỏi người được tuyển dụng có kiến thức nền tảng vững chắc đồng thời phải có kỹ năng chuyên sâu tinh thông về một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp. Tính chuyên môn hóa là lí do cơ bản để các cơ sở đào tạo đa dạng hóa sản phẩm đào tạo của mình. Ở Anh, chỉ tính riêng trong lĩnh vực đào tạo báo chí, và chỉ tính riêng ở bậc cử nhân, hiện nay có tới 83 cơ sở đào tạo cung cấp 1230 khóa học khác nhau (Hội đồng Anh 2009a). Nếu tính rộng hơn về đào tạo truyền thông, nhưng cũng chỉ tính riêng bậc cử nhân, Vương quốc Anh có tới 207 cơ sở đào tạo cung cấp 3923 khóa học đa dạng (Hội đồng Anh 2009b), trong khi dân số Anh tính vào thời điểm năm 2007 chỉ có gần 61 triệu người (Cơ quan thống kê của Anh 2008). Bên cạnh các khóa học đào tạo chuyên sâu về một lĩnh vực của truyền thông như báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử, quảng cáo, PR..., các khóa đào tạo ‘kép’, kết hợp báo chí truyền thông với một ngành khoa học xã hội khác như xã hội, tâm lí, kinh tế, luật, hay nhân loại học phát triển mạnh mẽ. Những khóa học này thể hiện tính liên ngành của truyền thông với các ngành khoa học khác trong xã hội. Ví dụ, đại học Kingston (Anh) đào tạo 134 khóa học về truyền thông, trong đó truyền thông được kết hợp với nghiên cứu văn hóa, thương mại; rồi kinh tế ứng dụng, luật học và cả tội phạm học. Ở Đại học Sunderland cũng có 87 khóa học về truyền thông. Khi tôi hỏi một giáo sư của trường Sunderland, xem làm thế nào để họ có thể tổ chức điều hành được một lúc hàng 7-80 khóa đào tạo cử nhân báo chí truyền thông, vấn đề số lượng giảng viên sẽ ra sao, và nếu không chiêu sinh đủ sinh viên cho một lớp thì khóa học sẽ được tổ chức như thế nào? Ông giáo sư đã trả lời rằng, các lớp học được tổ chức theo dạng tín chỉ. Trường truyền thông chỉ lo giảng dạy mảng truyền thông báo chí còn các chuyên ngành xã hội khác, thì sẽ do các Trường trong Đại học Sunderland, hoặc liên kết với các trường chuyên ngành trong các đại học khác giảng dạy, và cũng theo hình thức tín chỉ. Do đó, sinh viên học ngành Truyền hình, có thể học chung 3 môn với sinh viên học ngành Báo in, 2 môn học chung với cả các sinh viên ngành Luật và Truyền thông và sinh viên ngành ngành Kinh tế và Truyền thông. Liên thông trong đào tạo, trong đó có sự liên thông giữa các ngành đào tạo trong một khoa, giữa các khoa trong một trường, liên thông giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sử dụng nguồn nhân lực là xu thế chung của thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, phần lớn các cơ sở đào tạo báo chí truyền thông ở Việt Nam vẫn được thiết kế theo kiểu đơn ngành, tạo ra ‘đơn’ sản phẩm đầu ra. Khoa Báo chí và Truyền thông (ĐH KHXH và NV) 20 năm qua vẫn đào tạo một ngành chung duy nhất, Học viện Báo chí và tuyên truyền có chia chuyên ngành thì các chuyên ngành lại độc lập với nhau một cách cứng nhắc vì chưa áp dụng mô hình đào tạo theo tín chỉ. Trong khi đó, ngành công nghiệp truyền thông đang phát triển một cách đa dạng và mềm dẻo. Bởi vậy, tận dụng lợi thế của phương pháp đào tạo tín chỉ, xây dựng chương trình đào tạo là các modules, có khả năng liên thông, tạo điều kiện cho sinh viên có thể có hơn 1 bằng đại học trong khoảng thời gian 4 - 4.5 năm học tại trường là một biện pháp cần tính đến để đa dạng hóa sản phẩm đào tạo về báo chí truyền thông, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường lao động. 2.3. Thời cơ từ việc cơ sở vật chất cho ngành báo chí truyền thông đang được từng bước đầu tư và hoàn thiện. Phương pháp cơ bản nhất tại các trường đào tạo báo chí Anh, Mỹ và các nước tiên tiến là yêu cầu sinh viên phải làm những công việc y như họ sẽ làm thật tại tòa soạn sau khi tốt nghiệp. Yêu cầu cần đối với cơ sở đào tạo là phải có trang thiết bị như một toà soạn thu nhỏ, một đài phát thanh, một đài truyền hình, và một tờ báo trực tuyến cho sinh viên tác nghiệp. Yêu cầu đủ là Nhà trường phải có đội ngũ cán bộ giảng dạy tinh thông nghề nghiệp để hướng dẫn cho sinh viên làm báo. Sinh viên được học trong một môi trường báo chí, với các trang thiết bị báo chí xung quanh, với thư viện, phòng máy tính, phòng studio được mở cửa 24/24h, với những môn học mang đậm tính thực hành, với những yêu cầu thao tác bài tập trên máy, luyện từng kỹ năng, trả bài bằng bài tập. Tháng 12.2009, Giám đốc ĐHQG HN đã chính thức phê duyệt Dự án đầu tư chiều sâu xây dựng Trung tâm thực nghiệm đào tạo Báo chí truyền thông và Bảo tồn văn hóa tại trường ĐH KHXH và NV với tổng trị giá hơn 30 tỷ đồng. Đây là cơ hội thuận lợi, tạo đà cho ngành báo chí truyền thông của trường ĐH KHXH và NV có bước phát triển mới. Lần đầu tiên, việc áp dụng mô hình ‘tòa soạn thu nhỏ’, ‘đài PT-TH thu nhỏ’ trong các cơ sở đào tạo báo chí truyền thông có điều kiện cần để triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế và văn hóa của Đảng và Nhà nước ta hiện nay cũng đang tác động mạnh mẽ tới diện mạo của ngành công nghiệp truyền thông, đặc biệt là ngành phát thanh-truyền hình ở Việt Nam, và kéo theo đó, là những ảnh hưởng đối với việc đào tạo báo chí truyền thông. Chủ trương này được đề ra từ Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996), chính thức đi vào cuộc sống với Nghị quyết 90/CP của Chính phủ (21.8.1997), và thực sự có tác động mạnh mẽ đối với ngành công nghiệp truyền thông sau Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP (18.4.2005). Mới đây nhất, Thông tư số 19/2009/TT-BTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc liên kết trong hoạt động sản xuất chương trình phát thanh-truyền hình, cho phép các tổ chức có tư cách pháp nhân, có đăng ký kinh doanh đang hoạt động theo pháp luật Việt Nam tham gia hợp tác với các đài phát thanh, truyền hình để tạo ra một phần hoặc toàn bộ sản phẩm liên kết. Chủ trương này đã tạo điều kiện cho sự ra đời của một loạt các công ty truyền thông có nhu cầu tuyển dụng nhân viên có kỹ năng nghiệp vụ về sản xuất chương trình phát thanh-truyền hình. ‘Đầu ra’ của nguồn nhân lực báo chí truyền thông hiện nay đã được mở rộng, tạo ra nguồn ‘cầu’ mới về nhân lực, đặc biệt là nhân lực có trình độ cao, đối với các cơ sở đào tạo về báo chí truyền thông. Bên cạnh đó, chính các cơ sở đào tạo về báo chí truyền thông, với cơ sở vật chất được đầu tư bài bản, hệ thống, hiện đại, với quy mô hoạt động như một ‘tòa soạn’, một ‘đài PT-TH’ thu nhỏ, sẽ có thể trở thành một đối tác liên kết sản xuất chương trình với các công ty truyền thông, hoặc với các đài phát thanh-truyền hình trong cả nước. Mô hình Công ty trong trường đại học, vốn được áp dụng khá thành công ở Mỹ, và Anh đang có điều kiện để phát triển trong trường đại học Việt Nam. 2.4. Thách thức trở ngại nhất đối với việc nghiên cứu đào tạo báo chí truyền thông hiện nay: đội ngũ cán bộ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức trở ngại đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu báo chí truyền thông ở Việt Nam nói chung, ở trường ĐH KHXH và NV nói riêng. Trong số nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, như cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước, cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ giảng dạy, chương trình đào tạo, khả năng chủ động sáng tạo của người học, sự phối hợp với các cơ quan sử dụng lao động, có lẽ, vấn đề thách thức lớn nhất hiện nay là đội ngũ cán bộ nghiên cứu và đào tạo về báo chí truyền thông. Đào tạo báo chí truyền thông là lĩnh vực đào tạo đặc biệt, không chỉ cần có đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu có bản lĩnh và ý thức chính trị tốt, mà phải là những chuyên gia am hiểu sâu sắc về lý luận truyền thông, và có kinh nghiệm và kỹ năng tác nghiệp báo chí. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ nghiên cứu và đào tạo về báo chí truyền thông hiện nay đang thiếu về số lượng và còn nhiều bất cập về chất lượng. Không chỉ thiếu hụt đội ngũ cán bộ kỹ thuật để hướng dẫn sinh viên sử dụng các thiết bị kỹ thuật chuyên ngành báo chí, mà các cơ sở đào tạo hiện nay cũng đang thiếu hụt các chuyên gia về lý luận báo chí truyền thông, các nhà nghiên cứu về chuyên ngành báo chí truyền thông. Có lẽ, một sự đầu tư chiến lược cho việc nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu báo chí truyền thông là việc làm cấp bách và cần thiết đối với lĩnh vực này. Tài liệu tham khảo Cơ quan thống kê của Anh, 2008. Số liệu về dân số nước Anh. (Nguyên văn tiếng Anh) National Statistics, 2008. Đặng Thị Thu Hương, 2009. Đào tạo báo chí tại Vương quốc Anh. Tạp chí Người làm báo, số 10.2009 Hội đồng Anh 2009a. Danh sách các trường đào tạo ngành Báo chí ở nước Anh. Xem tại: Hội đồng Anh 2009b. Danh sách các trường đào tạo ngành Truyền thông ở nước Anh. Xem tại: James Carey, 2000. Một số ghi chép cá nhân về đào tạo báo chí ở Mỹ. Tạp chí Báo chí, 1 (1), p.20-26. (Nguyên văn tiếng Anh. Carey, J.), 2000. Some personal notes on US journalism education. Journalism, 1(1), p.20-26. Kevin Williams, 1999. Đào tạo báo chí ở Anh. Trong cuốn: Greg Philo (chủ biên), 1999. Những thông điệp được tiếp nhận. NXB: Longman, tr.271-281. (Nguyên văn tiếng Anh). Williams, K., 1999. Teaching journalism in the UK. In: Greg Philo (ed.), 1999. Message received. Longman. Tapas Ray, 2002. Sự căng thẳng có tính phản biện trong quan điểm về đào tạo báo chí: So sánh giữa Mỹ và Ấn Độ. (Nguyên văn tiếng Anh). Ray, T., 2000. ‘Critical’ tensions in Journalism Education: US parallels for India.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdao_tao_bao_chi_truyen_thong_tai_viet_nam_co_hoi_va_thach_thuc_trong_boi_canh_hien_dai_hoa_nganh_con.doc
Tài liệu liên quan