Đề án Bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp ở Việt nam hiện nay

Tăng cường nhân lực y tế và chất lượng chuyên môn cũng như trang thiết bị y tế, thuốc men cho y tế đang đóng vai trò quan trọng trong sơ cứu cấp cứu và phục hồi chức năng lao động cho công nhân bị tai nạn lao động. Điều tra kịp thời, chính xác các vụ tai nạn lao động, nhất là các vụ nghiêm trọng, chết người để từ đó đề ra được những biện pháp hữu hiệu có tính khả thi để khắc phục. Kiên quyết xử lý những hành vi vi phạm luật pháp AT-VSLĐ theo qui định tại Nghị định 38/CP ngày 25/6/1996 của chính phủ. Các cơ quan pháp luật Nhà nước phải xử lý nghiêm minh và kịp thời đối với các vụ tai nạn lao động nghiêm trọng mà các đoàn điều tra tai nạn lao động đã đề nghị truy tố trước pháp luật để giáo dục chung và ngăn ngừa tình trạng vi phạm quy định của Nhà nước về AT-VSLĐ. Đó là những giải pháp nhằm hạn chế tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp. Sau đây là những giải pháp về đóng và quản lý quỹ:

doc44 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1720 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp ở Việt nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thương binh và xã hội : Người lao động mắc phải một trong các bệnh nghề nghiệp sau đây được hưởng trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp Nhiễm độc chì và hợp chất chì. Nhiễm độc benzen và các đồng đẳng của benzen. Nhiễm độc thuỷ ngân và các hợp chất của thủy ngân. Bụi phổi silic. Bụi phổi do amiăng. Nhiễm độc mangan và các hợp chất của mangan. Nhiễm độc tia phóng xạ và tia X. Bệnh điếc do tiếng ồn. Loét da, loét vách ngăn mũi, viêm da, tràn vách ngăn. Bệnh xạm da. Bệnh bụi phổi bông. Bệnh lao nghề nghiệp. Bệnh viêm gan do virút nghề nghiệp. Bệnh do Liptospirra nghề nghiệp. Bệnh nhiễm độc chất nổ TNT (tri-nitro-tôluen). Việc xác định điều kiện trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp khác với một số chế độ bảo hiễm xã hội khác là không căn cứ vào độ tuổi, thời gian công tác thời gian đóng phí. 3. Thời gian và mức hưởng trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp. Căn cứ vào cơ sở khoa học và tình hình thực tế cũng như những nghiên cứu khoa học. Đồng thời học hỏi những kinh nghiệm của các nước trên thế giới nước ta đã có những phương pháp và biện pháp tính toán thời gian cụ thể cũng như mức hưởng trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp phù hợp với điều kiện thực tiễn việt nam. Bởi vì lao động cần phải có đủ thời gian cũng như đủ điều kiện phục hồi sức khoẻ. Theo nghị định 12/CP quy định mức trợ cấp như sau: Trường hợp người lao động bị tai nạn lao động bị suy giảm khả năng lao động được hưởng trợ cấp theo bảng quy định dưới đây : Mức giảm khả năng lao động Mức trợ cấp một lần Từ 5% - 20% Từ 21 – 30% Từ 31 – 40% Từ 41 – 50% Từ 51 – 60% 4 tháng tiền lương tối thiểu 8 tháng tiền lương tối thiểu 12 tháng tiền lương tối thiểu 18 tháng tiền lương tối thiểu 24 tháng tiền lương tối thiểu Đối với người lao động hoặc bệnh nghề nghiệp được hưởng trợ cấp một lần, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm bố trí công việc thích hợp để ổn định cuộc sống. Bị suy giảm từ 61% đến 100% khả năng lao động được hưởng trợ cấp hàng tháng theo hạng thương tật (kể từ ngày ra viện) theo bảng quy định dưới đây : Mức suy giảm khả năng lao động Xếp hạng thương tật Mức trợ cấp hàng thàng Từ 61% – 70% Từ 71% – 80% Từ 81% - 90% Từ 91% - 100% 4 3 2 1 1 tháng lương tối thiểu 1,2 tháng lương tối thiểu 1,4 tháng lương tối thiểu 1,6 tháng lương tối thiểu Đối với người bị tai nạn lao động bị giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà không tự đảm bảo được sinh hoạt cá nhân do bị liệt cột sống, cụt hai chân, tay, tâm thần nặng . được phụ cấp hàng tháng bằng 80% mức tiền lương tối thiểu. Đối với người bị tai nạn lao động bị tổn thương các chức năng hoạt động chân tay,tai, mắt, cột sống … được trang bị các phương tiện để trợ giúp cho sinh hoạt phù hợp với các tổn thương chức năng . Khi vết thương tái phát được chữa trị và được giám định lại thương tật . Người lao động bị chết xảy ra tai nạn lao động (kể cả trong thời gian điều trị lần đầu), thì gia đình được trợ cấp một lần bằng 24 tháng tiền lương tối thiểu và được hưởng chế độ tử tuất theo quy định trong chế độ tử tuất. Người được hưởng trợ cấp tai nạn lao động một lần hoặc hàng tháng nếu đủ điều kiện thì vẫn được hưởng chế độ hưu trí theo quy định của chế độ hưu trí. IV. Một số khó khăn và thuận lợi khi thực hiện chế độ bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp ở nước ta. Mọi hoạt động, mọi quá trình đều luôn luôn tồn tại những thuận lợi và khó khăn. Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp cũng vậy trong quá trình thực hiện nó cũng có nhiều khó khăn và thuận lợi nhất định, quan trọng hơn hết là phải tìm ra những khó khăn thuận lợi của nó để cùng nhau tìm giải pháp khắc phục và hoàn thiện hơn. 1. Thuận lợi Có thể thấy rằng việc thực hiện chế độ bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp hiện nay có những thuận lợi sau : Quan niệm và nhận thức bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ này nói riêng đã đồng nhất. Người lao động đã quen với tập quán bảo hiểm, mọi người đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp họ cũng đã hiểu được quyền lợi, nhiệm vụ của mình trong việc tham gia bảo hiểm xã hội. Nhà nước cùng các cấp đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của chính sách bảo hiểm xã hội và đã xây dựng được những quy tắc, thể lệ, thể chế cũng như tạo dựng được các mô hình phù hợp hơn. Chính sách BHXH và hệ thống BHXH đã được thay đổi phù hợp với điều kiện của nền kinh tế nước ta chuyển sang vận động theo cơ chế thị trường, khắc phục được những điểm yếu trước đây thể hiện ở đối tượng được mở rộng cho người lao động thuộc các thành phần kinh tế (tuy vậy nhưng vẫn chưa phải đã bao trùm toàn bộ người lao động ) đã hình thành quỹ BHXH tập trung do việc tồn tích dần dần của người lao động và người sử dụng lao động. Đồng thời bảo hiểm xã hội thực hiện ở nước ta trong tình trạng kinh tế chính trị ổn định. Lạm phát được đẩy lùi ở mức khá thấp, đây là điều kiện quan trọng làm cho mức trợ cấp ổn định và có điều kiện để tăng mức hưởng. Bảo hiểm xã hội Việt nam là một hệ thống nhất từ trung ương đế tỉnh, thành phố, quận theo nguyên tắc tập trung thống nhất, quản lý theo nghành dọc nên việc quản lý không bị phân tán, phân cấp. Nhà nước ta đã có biện pháp phối hợp trong việc thu phí bảo hiểm và đối tượng tham gia. Hệ thống các chỉ tiêu thống kê được ứng dụng trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp được hoàn thiện phục vụ đắc lực cho các chính sách bảo hiểm xã hội. Có đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên xâu, am hiểu có nghị lực và kinh nghiệm, đồng thời ngoài ra còn có các công cụ trợ giúp thuộc các lĩnh vực quản lý, lĩnh vực tin học, thông tin lên việc thu nhập, sử lý thông tin có hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn đã khắc phục và hạn chế được nhiều mánh khoé nhằm lạm dụng quỹ bảo hiểm xã hội và hưởng các chính sách bảo hiểm xã hội. Giảm những chi phí không cần thiết. Cùng với việc đổi mới các chính sách bảo hiểm xã hội, Đảng và nhà nước cùng các tổ chức xã hội đã quan tâm đúng mức tới chính sách an toàn lao động, vệ sinh lao động, chính sách cải thiện điều kiện lao động, ngày càng quan tâm hơn chế độ bảo hộ lao động nhằm hạn chế tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp có thể xảy ra đồng thời mở rộng doanh mục dụng cụ bảo hộ lao động, cũng như nhà nước quan tâm đến vấn đề đào tạo, vấn đề mở rộng công tác tuyên truyền về tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp cùng những phương pháp các biện pháp, các dụng cụ bảo hộ lao động và các kinh nghiệm nhằm hạn chế tối đa các tổn thất không đáng có. Cùng với đó là việc đầu tư vào khoa học, công nghệ tiên tiến nhằm giảm tỷ lệ người lao động thủ công, áp dụng tự động hoá vào công việc nặng nhọc, độc hại là biện pháp làm giảm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp. Các biện pháp thanh tra kiểm tra được áp dụng thường xuyên theo định kỳ nhằm đôn đốc việc thực hiện an toàn lao động, bảo hộ lao động, cũng như coi trọng việc khám bệnh định kỳ làm giảm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, cũng như giảm chính sách co chế độ này. 2. Khó khăn. Bảo hiểm xã hội Việt nam hoạt động trong bối cảnh ít được tiếp cận với những thành tựu và kinh nghiệm hoạt động của bảo hiểm xã hội thế giới. Nên quan niệm và nhận thức về bảo hiểm xã hội còn hạn chế ( cả phía người tổ chức và người được hưởng bảo hiểm xã hội ) vẫn còn tình trạng đan xen lẫn lộn giữa các chính sách, một bộ phận lớn người lao động không hiểu rõ về bảo hiểm xã hội nên họ thấy như bị “ thiệt hại khi phải trích lương để đóng bảo hiểm xã hội ”. Mặt khác khi giải quyết các vụ tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp do nhận thức chưa đúng về chế độ trợ cấp nên một số doanh nghiệp ( nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ) thường quy trách nhiệm theo nguyên nhân gây tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, vì thế các thông tin đến các cơ quan cho việc trợ cấp không kịp thời, hay bị bóp méo, gây khó khăn cho việc trợ cấp và quản lý chế độ. Từ khi điều lệ bảo hiểm xã hội mới ban hành theo nghị định 12/CP ngày 28/01/1995 bảo hiểm xã hội Việt Nam bước sang một giai đoạn mới : chuyển đổi từ hệ thống bảo hiểm xã hội của tổng liên đoàn lao động Việt Nam và bộ lao động thương binh xã hội sang hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam, do thời gian chuyển đổi chưa lâu nên hoạt động của hệ thống này chưa thể hoàn thiện được. Mặt khác trước đây chế độ trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp do cả hai cơ quan quản lý ( Bộ lao động thương binh xã hội chi trả trợ cấp bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp hàng tháng, còn tổng liên đoàn lao động Việt Nam chi trả cho những trường hớp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp có tính chất ngắn hạn, trợ cấp một lần ). Vì thế khi chuyển sang hệ thống bảo hiểm xã hội sẽ có khó khăn trong việc tổng hợp chi trả, quản lý số lượng… Các công cụ quản lý bảo hiểm xã hội chưa thực sự sắc bén, các thông tin về tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp nói riêng và bảo hiểm xã hội nói chung chưa đầy đủ vì chưa được cụ thể hoá bằng các chỉ tiêu thống kê nên chưa dự đoán được nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu nên hạn chế trong việc xác định phí, mức phí, mức trợ cấp. Chương III Tình hình tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp và công tác tổ chức thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam hiện nay. I. Thực trạng về điều kiện, môi trường lao động và công tác an toàn lao động. 1. Điều kiện lao động và môi trường lao động : Trong quá trình hoàn thiện và phát triển chúng ta không thể phủ nhận thực tế là hoạt động sản xuất của các nghành nước ta trong thời gian qua đặc biệt là nghành công nghiệp đã có đóng góp rất lớn cho sự tăng trưởng kinh tế công bằng xã hội và góp phần ổn định chính trị của đất nước nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận thực tế là các cơ sở sản xuất của quá trình sản xuất đó luôn kéo theo quá trình tác động ảnh hưởng đến môi trường như : khai thác tài nguyên thiên nhiên làm suy thoái và ô nhiễm môi trường, việc khai thác này tác động khá mạnh vào môi trường sinh thái cũng như việc sử dụng các hoá chất trong nông nghiệp và việc sử lý không tốt các chất thải ở các nhà máy xí nghiệp, điều đó làm ảnh hưởng lớn đến môi trường và điều kiện lao động của người lao động. Theo số liệu thực tế ta thấy điều kiện lao động và môi trường lao động ngày càng xấu đi đặc biệt là ở các doanh nghiệp ở phía Bắc rất đáng lo ngại có tới 3%-8% số doanh nghiệp ở tình trạng rất xấu và từ 11%-20% ở tình trạng xấu, 23%-59% ở tình trạng trung bình theo các chuyên gia, các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân là do nhà xưởng của các doanh nghiệp nhà nước đã sử dụng quá lâu trung bình từ 20-30 năm nhà xưởng của các doanh nghiệp tư nhân thì chật chội không đảm bảo về diện tích và không gian làm việc… Theo điều tra 1000 doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh năm 1995 cho thấy có 45% nhà xưởng được cải tạo từ nhà ở, hơn 40% nhà xưởng đã quá 20 năm sử dụng. Do không đảm bảo yếu tố này đẫn đến nhiều yếu tố độc hại như nóng, bụi, hơi khí độc. Cũng theo khảo sát 1000 đơn vị trên thấy hơn 60% số lao động làm việc không đảm bảo an toàn vệ sinh lao động. Theo số liệu tạp chí bảo hộ lao động số 11/99 ta thấy có đợt kiểm tra đã phát hiện ra trên 70% công nghệ máy móc thiết bị thuộc thế hệ từ những năm 1960 cá biệt có loại từ năm 1910. Từ kết quả điều tra hàng năm các hoạt động kinh tế nước ta ước tính thải ra đến 192 ngàn tấn bụi trong đó riêng nghành công nghiệp là 162,5 ngàn tấn, sản xuất vật liệu xây dựng ( trừ ximăng ) hàng năm thải ra 25,4 ngàn tấn, cơ-kim khí 24,7 ngàn tấn, xi măng 13,3 ngàn tấn… Trong các doanh nghiệp công nghiệp có 45,065 tổng số người lao động phải làm việc chỉ với công cụ thủ công; 36,585 nửa cơ giới, 14,815 cơ giới và chỉ có 3,55% được làm việc với máy móc thiết bị tự động hoá, có 3,745 tổng số lao động phải làm việc với các máy móc thiết bị thuộc diện đăng kiểm vì có những nguyên nhân nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh lao động. Có 10,70% tổng số người lao động phải làm việc với công nghệ lạc hậu; 7,33% làm việc với môi trường, thiết bị mà bộ phận che chắn các yếu tố nguy hiểm không có hoặc không đảm bảo; 3,37% nơi làm việc không có biển báo an toàn cần thiết. Cũng theo các nghiên cứu của cục thống kê thì yếu tố môi trường lao động bị vi phạm phổ biến nhất là nhiệt độ trong không khí tại vị trí làm việc. Có 93,76% tổng số doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của yếu tố này, nghề có nhiệt độ trong không khí nơi làm việc của người lao động cao nhất là vận hành và sửa chữa là nấu thuỷ tinh : 52 độ C; thao tác trên đình lò cốc là 51 độ C, vận hành bao hơi nhà máy nhiệt điện là 47 độ C, yếu tố bụi môi trường cũng đáng kể ( đây là nguyên nhân gây ra bệnh viêm phổi và các bệnh đường hô hấp khác ) với 73,65% tổng số doanh nghiệp có : 10,045% số doanh nghiệp có nồng độ bụi trong không khí nơi làm việc vượt quá tiêu chuẩn vệ sinh cho phép từ 1-5 lần; 9,08% vượt qua từ 6-10 lần; 21,95% vượt từ 11-30 lần; 20,74% vượt quá 30 lần. Nguyên vật liệu không vệ sinh an toàn, tỷ lệ lao động tiếp xúc với loại này là 62,1% trong đó: 29,8% lao động tiếp xúc với nguyên vật liệu có bụi. 25% lao động tiếp xúc với hoá chất độc. 7,3% lao động tiếp xúc với vật liệu nổ. Nhìn vào điều kiện làm việc chúng ta có suy nghĩ gì, thực tế trên cho thấy những nguyên nhân dẫn đến điều kiện lao động xấu, ô nhiễm môi trường lao động trầm trọng có thể kể tới các nguyên nhân sau : Do doanh nghiệp thiếu vốn không đủ khả năng thay đổi công nghệ, máy móc thiết bị. Do chạy theo lợi nhuận các doanh nghiệp cắt chi phí về cải thiện điều kiện lao động. Do thay đổi cơ chế, doanh nghiệp tự chủ trong sản xuất kinh doanh, khi kiểm tra kiểm soát của nhà nước còn chưa đủ, khiến nhiều doanh nghiệp nhập công nghệ, máy móc thiết bị quá cũ không có bộ phận sử lý chất thải. Do người lao động không đấu tranh cho quyền lợi của mình mặc dù biết chủ doanh nghiệp không đóng góp cho mình chỉ vì sợ bị sa thải. 2. Công tác an toàn và bảo hộ lao động. Công tác an toàn và bảo hộ lao động là một công tác hết sức quan trọng và có ý nghĩa đối với việc khắc phục những tổn thất cũng như rủi ro đem đến cho người lao động chính vì vậy làm tốt các công tác trên sẽ giúp cho các doanh nghiệp hạn chế tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp xảy ra thế nhưng trong vấn đề này ở Việt Nam thì sao? Qua khảo sát và nghiên cứu chúng ta thấy còn rất nhiều hạn chế và thiếu sót, nó được thể hiện ở các mặt sau : Thứ nhất vì máy móc, thiết bị cho người lao động như không có dụng cụ, biện pháp chống sạt lở, bục nước, sập lò trong khâu khai thác than, biện pháp thông gió kém khi khai thác mỏ ( như mỏ than đầm hồng Tuyên quang, Quảng ninh… và các dụng cụ như đèn ắc quy chiếu sáng cá nhân chưa được đảm bảo dễ gây cháy nổ khi sử dụng, thiếu biện pháp an toàn trong việc lắp đặt đường dây cao thế, thiếu các bộ phận che chắn, các bộ phận cần thiết như van, cầu chì, thiếu các biện pháp chống cháy, nổ khi xẩy ra sự cố không dập tắt được ngay gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản, các nhà máy nghiền đá, sản xuất ximăng, các nhà máy nhiệt điện chưa áp dụng công tác sử lý bụi thải cũng như các nhà máy, xĩ nghiệp chưa sử lý hết chất thải công nghiệp gây ảnh hưởng của hoá chất đến môi trường nước, không khí xung quanh nơi người lao động làm việc … Đó là đối với các doanh nghiệp, còn đối với người lao động thì sao mặc dù phải chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường lao động nhưng trong thực tế cho thấy vẫn có những trường hợp người lao động vi phạm các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm về an toàn lao động như làm việc trên cao không đeo dây an toàn, không thực hiện đúng quy trình, quy tắc để cột điện cao thế bị đổ dẫn tới tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp … Các phương tiện bảo hộ cho cá nhân thiếu và không đảm bảo chất lượng. Có tới 3% số người lao động trong quốc doanh và 22% số người lao động ngoài quốc doanh chưa được trang bị dụng cụ bảo hộ. Công tác huấn luyện kỹ thuật an toàn, vệ sinh môi trường lao động, các dụng cụ bảo hộ lao động, các cách sử lý tình huống đặt ra chưa được đào tạo và tuyên truyền sâu rộng. Vẫn còn 3% tổng số doanh nghiệp không tổ chức huấn luyện về an toàn lao động cho công nhân, số công nhân được huấn luyện mới chỉ đạt 35-40%, về hình thức huấn luyện thì hết sức sơ sài, chủ yếu là phát tài liệu cho công nhân đọc hoặc phổ biến qua đài truyền thành của doanh nghiệp chứ chưa tổ chức những buổi học tập huấn luyện cụ thể. Các biện pháp kiểm tra định kỳ về vệ sinh an toàn lao động chưa được lập theo kế hoạch, chưa xây dựng thành chương trình cụ thể, đồng thời công tác chăm sóc khám sức khỏe định kỳ, chế độ nghỉ ngơi của người lao động chưa hợp lý, có một số doanh nghiệp vì công việc có thể ép công nhân làm việc quá giờ hoặc để công nhân làm việc quá giờ, dù vậy người lao động vẫn không dám khuyến cáo vì sợ chủ doanh nghiệp sa thải, các tổ chức công đoàn hoạt động chưa đúng hoặc chưa phát huy và quan tâm đến công tác này. Số liệu điều tra của Bộ y tế cho thấy chỉ có 66% doanh nghiệp ( quốc doanh ) tổ chức khám định kỳ cho công nhân, số cán bộ công nhân viên chức được khám sức khỏe định kỳ chỉ chiếm 42% tổng số công nhân của doanh nghiệp. Công tác chống ô nhiễm môi trường do tiếng ồn, do bụi, do các loại khí độc ở các doanh nghiệp chưa tốt. Theo số liệu khảo sát tại 344 phân xưởng sản xuất của hơn 100 cơ sở sản xuất công nghiệp cho thấy 61% phân xưởng bị ô nhiễm do tiếng ồn, chiếm 17,7% trong các nghành sản xuất cơ khí, 25% trong nghành sản xuất vật liệu xây dựng … và trong số 253 phân xưởng sản xuất đã được khảo sát ở 110 nhà máy tại Hà nội có 29 phân xưởng bị nhiễm bụi, chiếm 11,4% trong tổng số 9 nghành sản xuất, số nghành không bị ô nhiễm bụi là 3 chiếm 33,3% cũng theo số liệu trong tổng số 346 phân xưởng sản xuất đã khảo sát có 60 phân xưởng bị ô nhiễm do hơi khí độc chiếm tỷ lệ 17,3%, tỷ lệ cao cũng chủ yếu rơi vào nghành cơ khí. II. Tình hình tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp ở nước ta. 1. Tình hình tai nạn lao động Tai nạn lao động là hậu quả tác động bất ngờ của các yếu tố bên ngoài gây nên chấn thương hoặc nhiễm độc cấp tính cho người lao động trong quá trình sản xuất hoặc thực hiện những công việc liên quan đến sản xuất. Hiện nay tai nạn lao động đang trở thành vấn đề quốc gia đối với nhiều nước, trên thế giới cứ một giây có 4 công nhân bị tai nạn lao động, cứ 3 phút lại có 1 công nhân chết do tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. ở Việt Nam tai nạn lao động cũng là một vấn đề bức xúc, hàng năm có khoảng trên 24000 vụ tai nạn lao động ( theo con số báo cáo ) như vậy có khoảng 70 vụ tai nạn lao động trong một ngày, mỗi năm bình quân có khoảng 300 người chết do tai nạn lao động. Tình hình tai nạn lao động trong những năm gần đây có nhiều diễn biến phức tạp, số vụ tai nạn lao động ngày càng gia tăng, những vụ tai nạn lao động nghiêm trọng sẩy ra nhiều. Theo thống kê của Thanh tra Nhà nước về tai nạn lao động ( Bộ LĐTB và XH ) từ năm 1992-1998 đã xẩy ra hàng vạn vụ tai nạn lao động trong đó có từ 1754 vụ tai nạn lao động chết người, làm 2016 người chết, trong đó có những vụ rất nghiêm trọng, riêng năm 1998 theo thống kê chưa đầy đủ đã xẩy ra 2737 vụ tai nạn lao động, trong đó có 12 vụ tai nạn lao động chết người, làm 362 người chết, 2238 người bị thương ( 950 người bị thương nặng ) từ năm 1999 đến giữa tháng 3 năm 1999 đã xẩy ra 5 vụ tai nạn lao động chết người làm chết 36 người trong đó có vụ cực kỳ nghiêm trọng xẩy ra ở mỏ than Mạo khê ngày 1/01/99 làm chết 19 người, bị thương 2 người khác. Căn cứ kết quả điều tra, các đoàn điều tra tai nan lao động đã đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự 49 vụ. Có thể nêu ra đây một số vụ tai nạn lao động điển hình xẩy ra trong năm 1998 : Vụ đổ tường mới xây cao 12,8 m dài 20 m ngày 26/3/98 tại nhà máy Xay xát Nhuận phát làm chết 5 người làm 10 người khác bị thương. Vụ sập một đơn nguyên 5 tầng tại công trình phá giỡ nhà cữ Bỉm sơn ( Thanh hoá ) ngày 8/8/98 công ty xây dựng K2 ( tổng công ty xây dựng Hà nội-bộ xây dựng ) tiến hành, làm 5 người chết và 10 người bị thương. Vụ sập đất tại bãi khai thác vàng sa khoáng ở Bản ná-Thần sa-Võ nhai-Thái nguyên ngày 28/11/98 làm 20 người chết … Ngoài tổn thất vô giá là tính mạng người lao động thì thiệt hại vật chất do tai nạn lao động gây ra cũng không nhỏ, chỉ tính riêng năm 1998 thiệt hại hơn 15 tỷ đồng. Qua theo dõi nhiều năm, những lĩnh vực thường xuyên xảy ra tai nạn lao động chết người là : xây dựng ( tỷ lệ tai nạn lao động chết người hàng năm chiếm 16-29% tổng số vụ tai nạn lao động chết người trong cả nước ), khai thác khoáng sản và sử dụng vật liệu nổ ( chiếm khoảng 10-15% ), xây dựng lắp đặt, sử dụng điện ( chiếm khoảng 8-10% ), sử dụng các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động ( chiếm khoảng 6% )… Những địa phương xảy ra nhiều tai nạn lao động là Tp HCM, Quảng Ninh, Hà nội, Đồng nai, Thái nguyên, Hải phòng, Gia lai, Khánh hoà, Thanh hoá… được thể hiện qua bảng sau : Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình hình tai nạn lao động có chiều hướng gia tăng, phân tích nguyên nhân ta thấy : 1. Người sử dụng lao động vi phạm các quy định của Nhà nước về an toàn lao động, VSLDD thể hiện ở môt số điểm sau đây : Vi phạm các tiêu chuẩn, quy trình quy phạm KTAT. Đây là tình trạng rất phổ biến ở các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ( chiếm hơn 0% số vụ tai nạn lao động ). Môi trường và điều kiện làm việc của người lao động không đảm bảo các quy đinh của nhà nước về an toàn vệ sinh lao động ( chiếm hơn 16% về số vụ ), nhiều máy móc thiết bị không đảm bảo an toàn, không đăng ký, cấp phép sử dụng vẫn đang sử dụng, nhiều vị trí làm việc có yếu tố nguy hiểm, độc hại nhưng không có thiết bị, phương tiện bảo vệ chung, người lao động không có các PTBVCN … Người sử dụng lao động, người lao động không được huấn luyện, cấp thẻ an toàn lao động theo quy định của Nhà nước, đặc biệt là số lao động tự do, lao động theo hợp đồng thời vụ, ngắn hạn, một số doanh nghiệp, người sử dụng lao động không nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với công tác an toàn vệ sinh lao động hoặc do chạy theo lợi nhuận nên đã không thực hiện đúng hoặc không thực hiện các quy định của Nhà nước. 2. Công tác thanh tra kiểm tra không được tiến hành thường xuyên, những vi phạm, nguy cơ dẫn đến sự cố, tai nạn lao động không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, hiện nay mới chỉ có 160 thanh tra viên an toàn lao động trong cả nước nhưng với hơn 34000 doanh nghiệp hiện có thì muốn thanh tra an toàn lao động hết lượt có lẽ phải mất đến hàng chục năm, hoạt động của hệ thống ATVSV đang bắt đầu đi vào nề nếp, nhưng Nhà nước chưa có văn bản quy định chế độ đãi ngộ thoả đáng để khuyến khích. 3. Việc điều tra, xác định nguyên nhân, biện pháp khắc phục và sử lý vi phạm ( kể cả truy cứu trách nhiệm hình sự ) một số vụ tai nạn lao động tiến hành còn chậm, việc sử lý chưa thực sự có tác dụng tích cực để giáo dục và ngăn ngừa vi phạm. 2. Tình hình bệnh nghề nghiệp. Cho tới nay, danh mục bệnh nghề nghiệp mà Nhà nước ta quy định có 21 bệnh. Tổng số người mắc bệnh đã được giám định và cấp sổ tính đế thàng 12/96 là 9530 người trong đó có bệnh bụi phổi silic chiếm tỷ lệ cao nhất 7378 người ( 77% ). Qua nghiên cứu thực tiễn vấn đề này trong vòng 20 năm ở các nghành kinh tế Việt Nam cho thấy : tỷ lệ người lao động bị bệnh bụi phổi silic có thay đổi từ thời kỳ, cao nhất là thời kỳ 1977-1980, chiếm 95,5% và thấp nhất trong thời kỳ 1986-1990, chiếm 79,15% bình quân 20 năm là 87,07%. Bụi phổi silic được phát hiện trong nhiều nghành nghề, nhưng chủ yếu vẫn là nghành khai thác than, đúc-cơ khí, khai thác và say nghiền đá, sản xuất vật liệu chịu lửa, gạch, ngói, sành sứ, thuỷ tinh, đá mài… Theo phân tích của viện giám định y khoa Trung ương năm 1993 cho thấy : tỷ lệ mắc bệnh phổi silic như sau : 3,4% công nhân mỏ than hầm lò, dưới 1% công nhân mỏ lộ thiên, 22-40% công nhân đúc cơ khí mắc bệnh bụi phổi silic, trong số người mắc bệnh bụi phổi silic thì bình quân tuổi đời cao nhất ở nghành than : nam 48,81 tuổi, nữ 44,70 tuổi; các nghành khác đều trên dưới 40 tuổi, tuổi đời bình quân trẻ nhất là ở nam công nhân sản xuất que hàn ( 34,33 tuổi ) và công nhân chế biến đá granite ( 33,71 tuổi ). Nghiên cứu các nghành có tỷ lệ mắc bệnh phổi silic nhiều nhất cho thấy những công nhân lao động có thâm niên nghề 11-20 năm bị mắc bệnh nhiều nhất ( gốm sứ 79,49%; than 74,28%; đúc- cơ khí 70,36%; gạch chịu lửa 68,3%; thuỷ tinh 61,11%). Bình quân tuổi nghề của những người mắc bệnh bụi phổi ở tất cả các nghành ở nam là 16,42; ở nữ là 10,60; trong đó cao nhất là nghành than: nam 21,53; nữ 18,20. Đúc cơ khí: nam là 15,40; nữ là 12,68. Gốm sứ: nam 17,52; nữ 15,36, thấp nhất là thuỷ tinh : nam 11,0; nữ 12,35. Tỷ lệ bệnh bụi phổi silic trong một số nghành công nghiệp hiện nay cũng rất khác nhau: Ngành giao thông vận tải : số công nhân có nguy cơ tiếp xúc với các yếu tố gây ra bệnh bụi phổi silic : 10 nghìn người ( 20% trong tổng số lao động của nghành tiếp xúc với các yếu tố độc hại ), nghiên cứu dịch tễ học bệnh bụi phổi silic trong nghành giao thông vận tải hiện nay cho thấy tỷ lệ mắc bệnh này là 4,47% ước tính tổng số lao động bị mắc bệnh, nghi nghờ mắc bệnh bụi phổi silic là 696 người ( khoảng 7% ) số đã nhận được bồi thường một lần và số đã nhận bảo hiểm thường xuyên là 209 trường hợp ( chiếm 2% ). Nghành xây dựng : tổng số công nhân mắc bệnh bụi phổi silic tại các cơ sở sản xuất thuộc Bộ xây dựng khoảng 34 nghìn người ( chiếm 20% ), phân bố tại 64 cơ sở trong nghành xây dựng. Loại hình cơ sở sản xuất có tỷ lệ bệnh bụi phổi silic cao nhất là sản xuất ximăng, gốm sứ, sản xuất gạch chịu lửa và các cơ sở khi xây dựng. Tính ra tỷ lệ chung ở một số nghành nghề xây dựng, tỷ lệ mắc bệnh bủi phổi silic là 12,5% số người được khám, nếu tính trên số công nhân có nguy cơ thì tổng số người bị bệnh sẽ là 4250 người. Trong nghành công nghiệp : toàn nghành ( không kể nghành than ) hiện có trên 400 doanh nghiệp với 370 nghìn cán bộ công nhân viên, trong đó có 121 cơ sở có nguy cơ mắc bệnh bủi phổi nghề nghiệp với số công nhân tiếp xúc với các yếu tố độc hại, nặng nhọc là 180 nghìn người, bao gồm 102700 là nam ( chiếm 57% ) và nữ là 77300 ( chiếm 43% ). Đến nay có 876 trường hợp mắc bệnh bụi phổi silic đã được chăm sóc, tính trên số lao động có nguy cơ là 0,48%. ước tính số người phát hiện mắc bệnh bụi phổi silic chờ cấp sổ lớn gấp 2 đến 3 lần con số trên. Nghành than : tổng số công nhân gần 64 nghìn người, số tiếp xúc với các yếu tố gây bệnh bụi phổi nghề nghiệp là 36897 người, chiếm 57,6% số công nhân tập trung chủ yếu ở các nghành nghề : như chống, cuốc lò, vận tải lò, đóng gác cửa lò, điện hầm lò, thông gió, thoát nươc, thợ sắt trong lò… Quảng ninh chiếm tới 88,3% trong tổng số công nhân mắc bệnh bụi phổi ở nghành than, còn lại thuộc các mỏ than thuộc công ty than nội địa đóng trên địa bàn: Bắc thái, Nghệ an, Lạng sơn, Đà nẵng ( trong đó chủ yếu thuộc mỏ than khe bố, nghệ an ). Tại các hầm lò : số công nhân mắc bệnh chủ yếu là những người trực tiếp khai thác ( chiếm 70% ), còn lại là các nghành nghề khác như : vận tải, cơ điện… Tại các mỏ lộ thiên số mắc bệnh chủ yếu là công nhân bắn mìn, khoan, vận hành máy xúc.. Qua đi vào nghiên cứu và xem xét tình hình tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp ta thấy rằng: tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp tương đối cao, cùng với đó là số vụ tai nạn trong các nghành nghề có xu hướng ngày càng gia tăng. Đây là một vấn đề bức xúc cần được các nghành các cấp xem xét tìm ra biện pháp để khắc phục tình trạng nói trên. có như vậy, người lao động mới yên tâm sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Cùng nhau xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, phát triển đưa đất nước hoà nhập vào sự phát triển chung của thế giới. III. Thực trạng công tác quản lý chế độ bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp. 1. Phương thức quản lý để giải quyết chế độ bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp hiện nay trong hệ thống bảo hiểm xã hội. Tổ chức quản lý chế độ bảo hiểm xã hội hiện nay : Theo nghị định 19/CP ngày 16/2/95 và quy định số 606 TTG ngày 26/9/95 thì hệ thống quản lý chế độ bảo hiểm xã hội hiện nay được hình thành như sau : + Hội đồng quản lý là cơ quan cao nhất của bảo hiểm xã hội Việt Nam. + Hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam bao gồm : ở trung ương có bảo hiểm xã hội Việt Nam ở các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương ( gọi chung là tỉnh ) là bảo hiểm xã hội tỉnh trực thuộc bảo hiểm xã hội Việt Nam. ở cấp quận huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh ( gọi chung là huyện ) có bảo hiểm xã hội huyện trực thuộc bảo hiểm xã hội tỉnh. Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan trực thuộc chính phủ, có nhiệm vụ giúp thủ tướng chính phủ chỉ đạo các công tác quản lý quỹ bảo hiểm xã hội và thực hiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Cơ quan bảo hiểm xã hội có nhiệm vụ cụ thể là : tổ chức công tác thu bảo hiểm xã hội, chi trả cho các đối tượng được hưởng bảo hiểm xã hội, đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. Thủ tục xét hưởng chế độ tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp hay hồ sơ hưởng chế độ tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp. Hồ sơ hưởng chế độ trợ cấp tai nạn lao động gồm : + công văn của người sử dụng lao động gửi bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan bảo hiểm xã hội thuộc bộ quốc phòng và bộ nội vụ đề nghị giải quyết chế độ trợ cấp tai nạn lao động. + Biên bản ( bản chính xác định tai nạn lao động hoặc biên bản đều tra tai nạn lao động theo quy định tại điều 108 bộ luật lao động .) + Giấy ra viện. + Biên bản giám định y khoa. + Quyết định của giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh trực thuộc trung ương, thủ trưởng cơ quan bảo hiểm xã hội thuộc bộ quốc phòng và bộ nội vụ về hưởng chế độ trợ cấp tai nạn lao động. Hồ sơ hưởng chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp: + Công văn của người sử dụng lao động gửi bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan bảo hiểm xã hội thuộc bộ quốc phòng và bộ nội vụ đề nghị giải quyết trợ cấp bệnh nghề nghiệp. + Biên bản xác định môi trường lao động có yếu tố độc hại gây ra bệnh nghề nghiệp của cấp có thẩm quyền theo quy định của bộ y tế. + Giấy ra viện. + Biên bản giám định y khoa. + Quyết định của giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thủ trưởng cơ quan bảo hiểm xã hội thuộc bộ quốc phòng và bộ nội vụ về hưởng chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp. Công tác tổ chức cấp sổ bảo hiểm xã hội hiện nay : Thực hiện theo điều 43 điều lệ bảo hiểm xã hội từ tháng 6/96, bảo hiểm xã hội Việt Nam đã triển khai cấp sổ bảo hiểm xã hội trên phạm vi toàn quốc. Một trong những yêu cầu của công tác cấp sổ là phải căn cứ vào hồ sơ gốc và quá trình làm việc của người lao động. Nhưng trên thực tế do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan như chiến tranh, lũ lụt, sát nhập và chia tách tỉnh, cơ quan. Các quy định về lập và lưu giữ hồ sơ của cán bộ công nhân viên chức trong thời gian qua chưa có quy định cụ thể và chưa được quan tâm đúng đắn nên số lao động bị mất và thất lạc hồ sơ gốc chiếm trên 30% đã ảnh hưởng đến tiến độ cấp sổ bảo hiểm xã hội. Công tác cấp sổ được chuẩn bị từ quý II năm 1996 nhưng bắt đầu chiển khai từ ngày 1/7/96 ở tất cả bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố và cơ quan bảo hiểm xã hội bộ quốc phòng, bộ nội vụ. Đây là một công tác lớn và rất phức tạp vì nó liên quan lớn đến gần 3 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội. Nếu xét duyệt không đúng sẽ là tiền đề cho việc lập hồ sơ thực hiện không đúng chính sách bảo hiểm xã hội sau này và dẫn tới có thể thất thoát số tiền rất lớn vì những người được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội là cả đời. Do vậy gần đây, đặc biệt là năm 1999 bảo hiểm xã hội đang triển khai già soát và cấp sổ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội theo đúng quy định của pháp luật nước ta. Thông qua đây giúp cho việc quản lý thu chi quỹ bảo hiểm xã hội cho đúng đối tượng, chống thất thu nguồn quỹ, tạo sự công bằng cho các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. 2. Những thuận lợi khó khăn trong quản lý chế độ chính sách BHXH về tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp . Qua phân tích, đánh giá xem xét tình hình công tác quản lý chế độ chính sách BHXH về tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp và công tác thực hiện ta thấy còn khó khăn và thuận lợi như sau : a. Thuận lợi : Theo điều lệ BHXH quy định về chế độ trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp đã quy định rõ điều khoản về điều kiện và nội dung cụ thể của vấn đề này như sau : -Định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động thuộc cơ quan, đơn vị mình bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp : + Phải tổ chức sơ cứu kịp thời . +Phải trả đủ tiền lương và các chi phí y tế trong khi sơ cứu, cấp cứu cho đến khi người lao động điều trị ổn định thương tật, bệnh tật . +Sắp xếp việc làm thích hợp cho người bị tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp sau khi ổn định thương tật mà còn khả năng lao động . +Bồi thường một số tháng lương cho người bị tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp hoặc gia đình họ tuỳ theo mức độ thương tật, bệnh tật theo quy định của bộ luật Lao động ngoài mức trợ cấp do BHXH giải quyết. -Định rõ trách nhiệm và việc làm của cơ quan BHXH . +Theo đề nghị của người sử dụng lao động , cơ quan BHXH giới thiệu người bị tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp ra giám định mức suy giảm sức khoẻ khả năng lao động sau khi điều trị ổn định thương tật . +Giải quyết chế độ trợ cấp thương tật một lần hoặc hàng tháng theo quy định kể từ thời điểm người lao động ra viện . +Trang cấp phương tiện theo niên hạn để trợ giúp sinh hoạt (nếu có) của người bị tai nạn lao động (chân, tay, răng, mắt, cột sống…) +Trả trợ cấp phục vụ cho người bị tàn tật nặng như mù mắt, cụt hai chân, tâm thần nặng hay liệt cột sống . +Nếu vết thương tái phát thì giới thiệu họ đi giám định y khoa để làm căn cứ giải quyết chính sách . +Nếu người bị tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp mà đủ điều kiện về hưu thì dược giải quyết chế đọ hưu trí, ngoài chế độ trợ cáp thương tật do tai nạn lao động . +Nếu bị chết do tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp thì ngoài chế độ tiền tuất chung, gia đình được trợ cấp thêm một lần do quỹ BHXH trả bằng 24 tháng tiền lương tối thiểu . -Về chế độ trợ cấp : Đã chia khng trợ cấp hàng tháng ra nhiều mức (gồm 7 mức) từ 31-100% (so với 4 mức trước đây ) để đảm bảo đmr sự công bằng hơn . ngoài mức trợ cấp thương tật hàng tháng, người bị tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp còn được trợ cấp phương tiện vật chất phục vụ cho sinh hoạt như:chân tay, mắt, răng giả, xe lăn, máy nghe điếc nếu do tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp làm tổn thương tơí các bộ phận đó .nếu bị chết do tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp thì ngoài chế độ tiền tuất chung, gia đình trợ cấp thêm một lần bằng 24 tháng tiền lương tối thiểu .Nếu người bị tai nạn lao động nhẹ từ 5-30% mức suy giảm khả năng thì được trợ cấp một lần bằng 4-8 tháng tiền lương tối thiểu . Tất cả các nội dung trên phù hợp với quy định của bộ luật lao động, được người sử dụng lao động, người lao động đồng tình ủng hộ .Chính vì vậyhọ đã ý thức được quyền lợi và trách nhiệm của họ . Nó thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách đối với người lao động nói chung và người bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp nói riêng, đề cao trách nhiệm của người sử dụng lao động và cơ quan BHXH coi sức khẻo con người là vốn quý nhất . Bởi vì tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp là ngoài ý muốn của người lao động và người sử dụng lao động . Hơn nữa trong quá trình lao động , người lao động trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội thì việc được hưởng các chính sách xã hội là hoàn toàn hợp lý . Hỗu hết các nước đều quan tâm đến vấn đề này, đã có những chính sách quy định cụ thể vấn đề này , ở nước ta chế độ trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp càng được đặt ra ,ngay từ đầu khi ban hành điều lệ tạm thời và cứ mỗi lần sửa đổi bổ xung chính sách ngày hoàn thiện hơn . b. Những khó khăn : Trong trường hợp bị tai nạn lao động trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc cũng được coi là tai nạn lao động . Quy định như vậy là chưa chặt trẽ nên khó kiểm soát vì mới chỉ không gian nhưng không chỉ về thời gian nên khó định lượng và dễ bị lợi dụng . Đã có trường hợp người lao động lợi dụng kẽ hở của chính cách để trục lợi quỹ BHXH, cũng có những trường hợp bị tai nạn lao động do nhiều nguyên nhân khác nhau ngoài mục đích lao động là tai nạn ruỉ ro nhưng được hợp thức hoá quy định trên để hưởng trợ cấp tai nạn lao động . Về việc quy định phân chia mức giảm khả năng lao động thành 7 mức từ 31-100% để làm căn cứ giải quyết chế độ trợ cấp hàng tháng, tuy có tiến bộ hơn trước bhưng vẫn còn sự chênh lệch khá lớn, nếu ở kh vực giáp gianh giữa mức trên với mức dưới thương tật chênh nhau 1% thì mức trợ cấp đã chênh nhau 20% so với mức lương tối thiểu .Đây là khe hở của chính sách đển ta lách qua một cách hợp lý. Mặt khác hiện nay quy định mức trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp giữa cũ và mới đang hiện hành hai mức khác nhau, hai người cùng một mức suy giảm khả năng lao động, do thời gian tai nạn trước và sau khi điều lệ có mức hưởng khác nhau tạo ra những thắc mắc so sánh trong đối tượng không đáng có. Theo quy định người bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp mà suy giảm khả năng lao động từ 31% trở nên và được hưởng mức trợ cấp hàng tháng, khi chết gia đình được hưởng chế độ tiền tuất hàng tháng . Tại nghị định 28/CP ngày 3/4/95 về chính sách ưu đãi đối với người có công quy định : thương binh, bệnh binh hạng 1,2 cũ ( tức là mất sức lao động và thương tật từ 61% trở nên ) nếu chết thì gia đình được hưởng chế độ tiền tuất . Như vậy, quy định điều kiện được hưởng trợ cấp tiền tuất đối vớin bi tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp thấp hơn đối với thương binh là không hợp lý , không cân đối giữa những chính sách đãi ngộ chung . Ngược lại, đối với người bị tai nạn lao động suy giảm khả năng lao động từ 21-30% trước đây đang được hưởng trợ cấp hàng tháng nếu chết thì không được hưởng tiền nai táng phí, trong khi đó công nhân cao su (cũ) nếu chết lại được hưởng trợ cấp tiền mai táng phí . Điều lệ BHXH hiện nay quy định chế độ trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp giống nhau . Như vậy có nhiều chỗ bất hợp lý. Tai nạn lao động thường xuyên xẩy ra bất ngờ gây thương tích có vết thương cụ thể , trong khi đó bệnh nghề nghiệp thì ngược lại :người lao động có thể sẽ biết trước sẽ bị mắc bệnh nghề nghiệp khi làm việc,bệnh nghề nghiệp tiến triển từ nhẹ đến nặng mà chủ yếu là nội khoa , nội tạng, do đó cách điều trị cũng khác nhau, mức suy giảm khả năng lao động cũng trừu tượng hơn so với vết thương thực thể … Như vậy cần nghiên cứu chế độ trợ cấp tai nạn lao động và chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp tách riêng cho hợp lý. Trong quá trình còn gặp phải khó khăn nữa là người lao động đôi khi còn chốn tránh đóng quỹ BHXH nói chung và quỹ bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp nói riêng, còn về phía người sử duụng lao động nhiều khi dung thủ đoạn như kí hợp đồng ngắn hạn hoặc không khai báo cụ thể số người thuộc diện doanh nghiệp mình đóng phí BHXH. Đây là một khoản thu tương đối lớn của quỹ BHXH, các cơ quan chức năng cần phải xem xét đề ra các giải pháp nhằm khắc ohục những hạn chế nói trên để quản lý tốt các chính sách BHXH cũng như tạo sự công bằng chung cho người lao động . 3. Kết quả và tồn tại trong giải quyết chế độ tnlao động-bệnh nghề nghiệp . a. Kết quả : Chi phí cho tai nạn lao động và các thiệt hại do tai nạn lao động tại các doanh nghiệp ,theo thống kê chưa đầy đủ của sở lao động –thương binh xã hội thể hiện qua bảng sau : Biểu (tình hình trợ cấp bảo hiểm tai nạn lao động (1991 - 1996) Nguồn: BHXHVN Năm Số người bị TNLĐ Số người chết Số người mất sức lao động >31% Số người nghỉ vì TNLĐ Số ngày nghỉ vì TNLĐ Chi phí BQ/1TNLĐ chết người (1.000đ) 1991 2163 163 309 44 25689 6147 1992 2391 203 363 152 22809 8540 1993 2149 211 427 199 35308 11021 1994 2092 207 560 210 18860 11094 1995 2195 264 614 103 36117 15717 1996 1927 285 1509 108 20891 17067 Còn tình hình trợ cấp bảo hiểm bệnh nghề nghiệp được thể hiện qua bảng sau: Năm Tổng số người bị bệnh Bệnh bụi phổi Bệnh điếc Nhiễm độc hoá chất Các bệnh về da Các bệnh khác Số người suy giảm sức khỏe>31% Tổng chi phí BHXH cho BNN (tr.đ) Số LĐ nghỉ hưu mất sức trước tuổi 1992 BQ/ng 1378 1128 143 28 46 22 285 307.5 0.223 2287 1993 BQ/ng 1865 1547 172 51 58 57 301 352 0.189 5230 1994 BQ/ng 2028 1653 186 67 80 32 268 185 0.091 1078 1995 BQ/ng 2239 1799 221 81 90 32 267 447.8 0.200 383 1996 BQ/ng 4630 3224 490 191 250 37 762 1251.8 0.270 70 Nhìn vào 2 bảng trên ta thấy: Bảo hiểm xã hội đã giải quyết trợ cấp cho một lượng lớn người bị tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp và gia đình họ giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống để họ có thể yên tâm lao động sản xuất. Qua đó cũng đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng các cấp các ngành đối với người lao động - người trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội. - Tồn tại: Quy định chưa rõ mức bồi thường tai nạn lao động từ mức ít nhất là 12-31 tháng hưởng, như vậy còn để một khoảng trống cho người giải quyết tự xác định, gây phức tạp, chủ yếu mắc mớ về mặt hoàn chỉnh các thủ tục hồ sơ, thời gian giải quyết trợ cấp của các cơ quan BHXH. Thực tế cho thấy gây phiền hà cho các đối tượng. Nhiều khi số tiền được trợ cấp cố khi thấp hơn chi phí mà các đối tượng bỏ ra để làm các thủ tục hưởng trợ cấp. Việc chi trả tiền bồi thường không kịp thời và thủ tục quá phức tạp, mất nhiều thời gian đi lại. Việc đưa người lao động ra hội đồng giám định y khoa còn phiền hà, tạo sự khó khăn cho người lao động khi đi giám định. Về chế độ trợ cấp và mức bồi thường cho những trường hợp bị tai nạn lao động theo qui định tuy đã rất cụ thể, nhưng mức lương của đa số các doanh nghiệp còn thấp nên đối với các trường hợp người lao động bị tàn phế hoặc bị chết thì mức bồi thường còn thấp, đặc biệt đối với những trường hợp lao động là chủ gia đình đông con. IV- Kết luận và một số ý kiến đề xuất. Trong quá trình triển khai và thực hiện các chính sách BHXH đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Đã tiến hành cấp sổ và giải quyết các chế độ trợ cấp cho hàng triệu người lao động, giúp họ và gia đình họ ổn định cuộc sống nhanh chóng để họ có thể yên tâm lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Đồng thời nó còn giải quyết được các vấn đề xã hội, giữ cho xã hội công bằng, văn minh hơn. Đó là những thành tựu, còn trong quá trình thực hiện, nó vẫn còn gặp phải những tồn tại mà các cấp, các ngành cần phải quan tâm tìm những biện pháp giải quyết. Sau đây em xin đưa ra một số ý kiến đề xuất như sau: 1. Những ý kiến đề xuất về BHXH. - Về đối tượng. Theo Nghị định 12/CP đối tượng BHXH đã được mở rộng, nhưng có một lực lượng người lao động chưa được BHXH là: nông dân, người lao động làm hợp đồng ngắn hạn, người lao động làm nghề tự do, người lao động làm trong các cơ sở có dưới 10 lao động. Những người lao động này có quyền và nhu cầu hưởng BHXH. Tuy nhiên trước mắt chưa thể nóng vội mở rộng đối tượng cho tất cả những người lao động nói trên mà phải xem xét, nghiên cứu thí điểm, cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác để khi chúng ta thực hiện sẽ có hiệu quả hơn. Phải quản lý được số lượng người tham gia bảo hiểm để tính toán được mức chi phí tối thiểu và xác định được mức trợ cấp thoả đáng. Vì bộ phận người lao động này không có người sử dụng lao động đóng góp cho họ nên mức đóng góp sẽ tương đối lón, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của họ. Do đó cần phải nghiên cứu mức đóng cho phù hợp. Bảo hiểm phải xem xét tới khả năng tài trợ của ngân sách Nhà nước. Không để ngân sách Nhà nước như trước đây BHXH đã gặp phải (ngân sách bù quá lớn). Cần phải xem xét các biện pháp để duy trì, phát triển mở rộng nguồn quỹ thông qua các hình thức đầu tư... - Về hình thức: Cần phải xem xét sử dụng cả 2 hình thức là bắt buộc và tự nguyện để có thể tạo điều kiện mở rộng thị phần cũng như lôi kéo được nhiều người lao động tham gia. Có như thế mới phát triển được ngành bảo hiểm. - Về mức đóng và mức hưởng: Hiện nay ở nước ta, mức đóng và mức hưởng cac chế độ BHXH dựa vào tiền lương, nhưng trong thực tế tiền lương của người lao động đang trong quá trình cải tiến nên có nhiều biến động, Nhà nước không thể quản lý chặt chẽ tiền lương và quỹ lương của xí nghiệp. Vì thế phương thức dựa vào tiền lương bình quân làm căn cứ để chi trả nên áp dụng với khu vực hành chính, sự nghiệp và lực lượng vũ trang. Còn các đối tượng khác có thể áp dụng phương thức đóng hưởng theo một mức trách nhiệm bảo hiểm. Nhưng dù theo mức nào chăng nữa cũng phải đủ bù đắp những nhu cầu thiét yếu cuộc sống của người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. - Về quỹ bảo hiểm xã hội: Cần có biện pháp quản lý quỹ chặt chẽ, tránh trường hợp lạm dụng quỹ bảo hiểm. Đồng thời cũng phải có biện pháp đầu tư bảo toàn và phát triển nguồn quỹ thông qua các hoạt động đầu tư và bất động sản, trái phiếu, cổ phiếu... theo các kỳ hạn khác nhau để có thể kịp thời trích rút, chi trả cho các chế độ một cách nhanh chóng. 2. Một số ý kiến về chế độ bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp. Như chúng ta đã biết Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp, nên lượng lao động trong ngành nông nghiệp là tương đối lớn. Do vậy, cần phải có biện pháp triển khai kịp thời hình thức BHXH cho người nông dân. Vấn đề AT - VSLĐ là một vấn đề hết sức quan trọng. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động. Chính vì vậy cần phải phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy định của Nhà nước về AT-VSLĐ nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của người sử dụng lao động và người lao động về nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của mình đối với việc bảo đảm ATLĐ, thực hiện phương châm "an toàn để sản xuất, sản xuất phải an toàn". Cần đặc biệt chú ý tới người lao động làm nhữgn công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hải, hoặc vận hành, sử dụng những thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về AT-VSLĐ. Phải làm cho người lao động thực hiện các quy định về AT-VSLĐ một cách tự giác, thường xuyên, nghiêm chỉnh. Tăng cường QLNN về AT-VSLĐ. Muốn vậy trước hết cần phải củng cố hệ thống thanh tra Nhà nước về an toàn lao động, bổ sung cán bộ, nâng cao chất lượng thanh tra viên tương xứng với nhiệm vụ được giao. Phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức công đoàn trong việc giám sát chấp hành các quyết định AT-VSLĐ. Củng cố và tăng cường hiệu quả của mạng lưới AT-VSLĐ. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tự kiểm tra AT-VSLĐ của các đơn vị cơ sở. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật AT-VSLĐ ở các lĩnh vực thường xuyên có nguy cơ xảy ra tai nạn lao động như: xây dung, khai thác khoáng sản, xây lắp và sử dụng điện, chế tạo và sử dụng các đối tượng có yêu cầu nghiêm ngặt về AT-VSLĐ. Quản lý chặt chẽ AT-VSLĐ đối với các máy và thiết bị, vật tư và các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về AT-VSLĐ. Kiên quyết đình chỉ, không đưa vào hoạt động các dây chuyền công nghệ, máy móc, thiết bị không đảm bảo AT-VSLĐ theo quy định của Nhà nước. Tăng cường trang bị phương tiện bảo vệ công nhân cho công nhân, thiết bị an toàn cho máy móc. Cần phải có thưởng phạt nghiêm minh với các trường hợp tốt và không tốt quy định về AT-VSLĐ. Cải thiện hơn nữa môi trường lao động trong các ngành nhằm giảm tai nạn lao động. Tăng cường nhân lực y tế và chất lượng chuyên môn cũng như trang thiết bị y tế, thuốc men cho y tế đang đóng vai trò quan trọng trong sơ cứu cấp cứu và phục hồi chức năng lao động cho công nhân bị tai nạn lao động. Điều tra kịp thời, chính xác các vụ tai nạn lao động, nhất là các vụ nghiêm trọng, chết người để từ đó đề ra được những biện pháp hữu hiệu có tính khả thi để khắc phục. Kiên quyết xử lý những hành vi vi phạm luật pháp AT-VSLĐ theo qui định tại Nghị định 38/CP ngày 25/6/1996 của chính phủ. Các cơ quan pháp luật Nhà nước phải xử lý nghiêm minh và kịp thời đối với các vụ tai nạn lao động nghiêm trọng mà các đoàn điều tra tai nạn lao động đã đề nghị truy tố trước pháp luật để giáo dục chung và ngăn ngừa tình trạng vi phạm quy định của Nhà nước về AT-VSLĐ. Đó là những giải pháp nhằm hạn chế tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp. Sau đây là những giải pháp về đóng và quản lý quỹ: - Chúng ta thu phí BHXH rồi chi trả cho các chế độ. Để xác định phí BHXH chính xác cần phải xác định phí tổi thiểu (phí thuần) của các chế độ. Việc xác định phí bảo hiểm tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp cần phải căn cứ vào kết quả điều tra thực tế về xác suất tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp trong cả nước, từng ngành, xác định mức trợ cấp trung bình cho các thang tỷ lệ mất khả năng lao động. - Biết rằng trong các điều kiện lao động khác nhau thì xác suất gây tai nạn lao động cho người lao động khác nhau, và mức độ ảnh hưởng đến khả năng lao động cũng khác nhau. Vậy nên chăng cần quy định phí bảo hiểm hay phí bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp luỹ tiến theo các ngành nặng nhọc, độc hại có xác suất tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp cao mà phần luỹ tiến này chỉ có người sử dụng lao động phải gánh chịu. - Cần phải hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu về bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp nhằm phân tích thực trạng của chế độ. Nghiên cứu nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu của bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp. - Để bảo hiểm tại nạn lao động - bệnh nghề nghiệp hoạt động hiệu quả, cần có sự quan tâm của các cấp, các ngành. Mục lục Trang Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm 2. Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm 3. Tạp chí bảo hiểm ...... Biểu 1 : Tình hình tai nạn lao động (91-98) ( Nguồn : Thống kê thanh tra Nhà nước ) TT Địa phương 1992 vụ/người chết 1993 vụ/người chết 1994 vụ/người chết 1995 vụ/người chết 1996 vụ/người chết 1997 vụ/người chết 1998 vụ/người chết 1 Tp.HCM 29/35 28/32 21/22 20/24 37/41 31/32 2 Quảng ninh 19/19 11/11 13/14 16/21 24/37 36/39 31/33 3 Hà nội 19/20 15/17 10/10 17/17 9/9 36/43 21/21 4 Đồng nai 9/9 5/7 8/8 8/11 11/12 20/20 17/18 5 Hải phòng 3/4 7/7 6/6 15/17 6/6 8/26 8/8 6 Thái nguyên(từ 92-96) 7/7 11/18 5/5 8/8 3/3 9/11 7/20 7 Gia lai 0/0 6/7 11/11 17/18 11/12 9/11 10/10 8 Khánh hoà 2/2 7/7 9/9 3/5 7/8 3/3 6/6 9 Thanh hoá 4/4 4/5 5/5 8/10 7/8 11/11 7/11 10 Bà rịa-Vũng tàu 1/1 7/8 5/5 5/10 8/10 5/5 6/6 11 Bình thuận 0/0 0/0 0/0 1/1 2/2 2/2 9/9 12 Bình dương(từ 92-96) 5/5 9/10 8/8 7/7 4/4 7/7 14/14 13 Hải dương(từ 92-96) 2/2 4/7 5/8 7/10 12/13 4/0 14/15 14 Lâm đồng 3/3 4/8 4/4 1/1 6/6 4/4 14/15

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35340.doc
Tài liệu liên quan