Đề án Các giải pháp cơ bản giải quyết sở hữu nhà nước ta hiện nay

Kiến nghị về chính trị pháp lý: Đảng cộng sản Việt Nam nên ban hành các chủ trương, chính sách sở hữu đúng đắn, kịp thời, phù hợp. Nhà nước cần phải kịp thời thể chế hoá chúng thành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ sở hữu xã hội vận hành tốt. Với các chính sách tập trung như: chính sách sở hữu; chính sách đối với việc sử dụng, quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước của các cơ quan, tổ chức cá nhân; hoàn thiện pháp luật về sở hữu, chính sách đối với các thành phần kinh tế vv. Kiến nghị về kinh tế - xã hội: Nhằm tạo ra cơ sở kinh tế - vật chất - kỹ thuật để bảo đảm, cũng như tạo ra môi trường kinh tế - xã hội ổn định, lành mạnh cho các quan hệ sở hữu tự do vận hành trong khuôn khổ pháp luật trong đó: - Các thành phần kinh tế nhà nước, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong thị trường, có sự quản lý của nhà nước. - Giáo dục ý thức pháp luật, trách nhiệm xã hội giáo dục truyền thống lịch sử và các kiến thức hiểu biết về sở hữu cho mọi công dân. Để từ đó có thái độ xử sự đúng đắn, hợp pháp. Giải quyết vấn đề sở hữu để tạo động lực cho phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Như giải quyết vấn đề phân biệt rõ quyền sở hữu, quyền quản lý và quyền sử dụng. hay vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.

doc27 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các giải pháp cơ bản giải quyết sở hữu nhà nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Vấn đề sở hữu và sở hữu nhà nước là một vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng và rất phức tạp có nhiều ý kiến rất khác nhau về vấn đề này, do nội dung đề cập tương đối rộng đòi hỏi phải có sự thảo luận, nghiên cứu có quy mô và nghiêm túc. Tuy nhiên do khả năng kiến thức em khó có thể đề cập đầy đủ khía cạnh của vấn đề nay. Chắn em sẽ nhiều thiếu sót vì vậy em rất mong sự góp ý và chỉ bảo của thầy ! Em xin cảm ơn! Đặt vấn đề: Sở hữu và sở hữu nhà nước, lý do và tầm quan trọng của việc nghiên cứu vấn đề này. Sở hữu là một phạm trù lịch sử, là hệ thống các quan hệ xã hội giữa người và người trong quá trình sử dụng TLSX. Sở hữu biến đổi tính chất của nó cùng với sự biến đổi của các hình thái kinh tế, xã hội tong lịch sử. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một hình thức sở hữu đặc trưng biểu hiện QHSX trong xã hội đó. Đây là một vấn đề có tính chất sống còn của mọi giai cấp, mọi tổ chức và cá nhân. Sở hữu về TLSX là cơ sở đầu tiên quyết định địa vị thống trị xã hội của giai cấp cầm quyền. Sở hữu là cơ sở kinh tế và là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các quyền năng pháp lý của nhà nước. Đối với nước ta hiện nay, việc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển TBCN là một mô hình trước nay chưa từng có thì việc đòi hỏi phải củng cố và hoàn thiện một hệ thống lý luận khoa học sắc bén, trong đó có lý luận về vấn đề sở hữu" là tất yếu khách quan. Năm 1986 đât nước ta bắt đầu thực hiện đổi mới nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Trong những năm đầu đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành công nhất định tuy nhiên bên cạnh đó là một loạt những vấn đề nảy sinh. Trong đó, cải cách chế độ sở hữu nhà nước là một vấn đề hết sức nan giải nhưng không thể không tránh được. Những quan niệm về sở hữu nhà nước trước đây đã không còn phù hợp và hầu hết các doanh nghiệp này đều chưa thay đổi tư duy kinh tế, làm ăn kém hiệu quả buộc nhà nước phải dùng ngân sách để bù lỗ. Từ những quan điểm nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng giải quyết sở hữu nhà nước là yêu cầu khách quan của nền kinh tế hàng hoá đặt ra, giảỉ quyết sở hữu nhà nước một cách đúng đắn sẽ tạo cơ sở vững chắc để tiếp tục sự nghiệp đổi mới kinh tế của đất nước. B. Giải quyết vấn đề: Phạm trù sơ hữu. Một số vấn đề lý luận về sở hữu nói chung. Trước khi đi vào phân tích nội dung của đề án em xin nhắc lại một số khái niệm về phạm trù sở hữu và sở hữu nhà nước : Sở hữu là quan hệ cơ bản nhất của con người trong quá trình sản xuất . Đó là sự chiếm hữu của một người hay một cộng đồng người đối với những thực thể của thế giới vật chất. Quan hệ sở hữu bao gồm quan hệ giữa chủ thể sở hữu với chủ thể sở hữu và chủ thể sở hữu với đối tượng sở hữu. Những quan hệ nay mang tính chất kinh tế xã hội, quyết đinh các hình thức phân phối tài sản, sản phẩm, thu nhập, giá trị giữa các chủ thể sở hữu. Quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên, bao chùm của sở hữu. Nó tương đối ổn định, tĩnh tại nhưng đôi khi chỉ là quyền danh nghĩa. Đó là trường hợp chủ thể sở hữu không thực hiện được nó, không sử dụng nó mà giao lại cho người khác và chỉ giữ quyền thu nhập về sở hữu. Quyền sử dụng là quyền sử dụng đối tượng sở hữu theo mục đích và nguyện vọng của người sử dụng đối tượng sở hữu, có thể thống nhất ở một người hoặc phân chia giữa nhiều người. Điều này có nghĩa là người sử dụng đối tượng sở hữu có thể không phải là chủ sở hữu và ngược lại. Quyền định đoạt là quyền thực hiện toàn diện với đối tượng sở hữu theo bất cứ cách nào kể cả việc chuyển quyền sở hữu cho người khác, thậm chí từ bỏ nó. Trên thực tế người chủ sở hữu chỉ thực sự là chủ sở hữu khi người đó có quyền định đoạt đối tượng sở hữu. Sở hữu toàn dân là sở hữu trong đó của cải tự nhiên được toàn dân sử dụng, các thành viên trong xã hội có quyền ngang nhau trong việc sử dụng của cải này. Sở hữu nhà nước là một phần của sở hữu toàn dân (bao gồm những tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất nhất định...) được chuyển cho cơ quan nhà nước điều hành và sử dụng theo ý chí của nhân dân, theo quyết định của cơ quan quyền lực đại diện cho nhân dân với những điều kiện nhất định. Sở hữu tập thể là hình thức sở hữu mà chủ thể sở hữu không phải là một các nhân cụ thể mà là một tập hợp người, một tập thể cùng sở hữu. Sở hữu tư nhân là hình thức chiếm hữu trong đó những sản phẩm lao động rơi vào tay chủ thể và khác với sở hữu các nhân sở hữu tư nhân có quy mô lớn hơn nhiều. Như chúng ta đã biết mỗi hình thái kinh tế xã hội có một hình thức sở hữu đặc trưng biểu hiện QHSX trong xã hội đó. Trong các tác phẩm của Mác luôn xuyên xuốt một quan điểm: Sở hữu không phải là vật dụng mà con người có quyền sở hữu nó, càng không phải là quan hệ của con người với vật dụng. Sở hữu là một quan hệ khách quan giữa người với người trong sản xuất. Trong lịch sử không có một hình thái sở hữu nào mà không phản ánh những quan hệ trong sản xuất. Theo cách diễn đạt của Mác thì sở hữu được thực hiện chỉ thông qua chính nền sản xuất. ” Nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó cũng không thể có một nền sản xuất nào cả ”. Sở hữu- đó là những quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải vật chất. Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, đối tượng của sở hữu cũng luôn biến đổi và ngày càng được mở rộng. Lịch sử cho thấy đối tượng chủ yếu của sở hữu đã từng chuyển dịch từ sở hữu nô lệ, đất đai sang sở hữu tư bản( sở hữu vốn ) dưới dạng sức lao động, tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị . . . ). Trong điều kiện nước ta hiện nay thì đối tượng chủ yếu của sở hữu là những tư liệu sản suất quan trọng như đất đai, tài nguyên, nhà máy, hầm mỏ, phương tiện kỹ thuật hiện đại. Chủ nghĩa Mác đã khẳng định: "Không thể xoá bỏ ngay tư hữu và thiết lâp ngay chế độ công hữu về TLSX ” Sự bình đẳng về mặt xã hội của con người trong mối quan hệ qua lại của họ đối với TLSX tức là sự chiếm hữu mà tiêu chí duy nhất của nó là lao động sống. Lực lượng sản xuất: Phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người, nó biểu hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tạo ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất xã hôi bao gồm: Tư liệu sản xuất và người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất do công cụ lao động và trình độ khoa học-kỹ thuật (ngày nay trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là động lực phát triển nhanh, mạnh) phát triển, trong đó kỹ năng, lao động của con người là quyết định. Con người là nhân tố trung tâm là mục đích của nền sản xuất xã hội. Trong điều kiện ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ rất phát triển, vị trí trung tâm của con người càng được nhấn mạnh. Do vậy, việc nâng cao dân trí là nhu cầu bức bách. Nó vừa là đòi hỏi của nền sản xuất xã hội, vừa là điều kiện để thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển nhanh hơn. Chính quá trình phát triển của nền kinh tế quốc tế mà trực tiếp nhất, sâu xa nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất với các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là động lực thúc đẩy nhanh mạnh nhất, nó cho biết rằng các quyền gắn liền với phạm trù sở hữu đã có sự biến đổi đáng kể. Thường ở thời kỳ đầu (Như trong thời kỳ CNTB cạnh tranh tự do) thì 3 quyền trong quyền sở hữu (quyền sở hữu, quyền quản lý và quyền sử dụng)thống nhất trong một chủ thể. Sự xuất hiện của tư bản cho vay đã làm cho quyền sở hữu và quyền sử dụng tách rời nhau. Khi lực lượng sản xuất được xã hội hoá (trong điều kiện của kinh tế thị trường) thì 3 quyền trên tách rời giữa các chủ thể (khi đó lao động quản lý trở thành một nghề. Ví dụ trong công ty cổ phần, quyền sở hữu nằm trong tay các cổ đông, quyền điều hành chung thuộc Hội đồng quản trị, còn quyền quản lý trực tiếp thuộc về giám đốc(hoặc tổng giám đốc). Trong đó quyền sở hữu vẫn giữ vai trò quyết định chi phối quyền quản lý, sử dụng, phân phối. II. Sở hữu nhà nước: 1, Sở hữu nhà nước và các hình thức của sở hữu nhà nước. Về sở hữu nhà nước : Trước đây chúng ta thường dùng khái niệm sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân là một. Do nhầm lẫn như vậy, có thời gian dài người ta bỏ quên hình thức sở hữu nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt tới hình thức sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi vì sở hữu toàn dân gắn kết với sự phát triển của kinh tế quốc doanh. Vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng có như vậy mới có CNXH nhiều hơn. Trong một xã hội mà nhà nước còn tồn tại thì sở hữu toàn dân chưa có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu nhà nước, xét về tổng thể mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu nhà nước ở nước ta, sở hữu nhà nước có thể tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, hoặc dưới hình thức doanh nghiệp mà vốn nhà nước nắm đa số hay nắm hàm lượng cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt hoặc có cổ phần trong các doanh nghiệp khác với hàm lượng chưa nhiều. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ ở giai đoạn cuối do sự phát triển của LLSX sau ba cuộc phân công lao động xã hội (lần thứ 1, ngành trăn nuôi tách khỏi trồng trọt; lần thứ 2, thủ công nghiệp tách khỏi công nghiệp; lần thứ 3, với sự xuất hiện của tầng lớn thương nhân). Do năng xuất lao động đã lao hơn trước, con người có kinh nghiệm hơn v.v... Trong xã hội có sản phẩm dư thừa và xuất hiện những người chiếm đoạt của cải dư thừa đó và trở thành giàu có, (tư hữu riêng) đã đẩy nhanh quá trình phân hoá tầng lớp xã hội và giai cấp xuất hiện. Có giai cấp thì tất yếu có đấu tranh giai cấp. Để cuộc đấu tranh giai cấp nằm trong vòng trật tự nhất định không phá vỡ xã hội thì có một tổ chức đặc biệt ra đời để quản lý xã hội. Đó là nhà nứơc. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của nhà nứơc chủ nô duy trì và bảo vệ chế độ sở hữu của chủ nô đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội ngay cả sở hữu bản thân người nô lệ (nô lệ là công cụ biết nói không được xem là người). ở đây, trình độ tư hữu của còn thấp nhưng tính chất khắc nghiệt và bất bình đẳng là tuyệt đối. Trong xã hội phong kiến: Sở hữu đẳng cấp phong kiến thể hiện rõ ở chế độ"phong tước, cấp điền" của các vua chúa phong kiến. Nhà nước và pháp luật phong kiến bảo vệ, duy trì chế độ sở hữu của địa chủ lãnh chúa phong kiến đối với ruộng đất và duy trì tình trạng nửa phong kiến của nông dân và giai cấp phong kiến. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa: Trên cơ sở tan rã dần của sở hữu phong kiến đã xuất hiện và phát triển quan hệ sở hữu tư sản. Đó là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư (do công nhân làm thuê sáng tạo ra bị giai cấp tư sản chiếm không) Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì có 2 phương thức quá độ lên CNXH. Đối với những nước như nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nghèo, lạc hậu chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, thì nhất thiết cần có một thời kỳ lịch sử với sự tồn tại của đa thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân để sử dụng sức mạnh và ưu thế của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá, tất cả nhằm tạo ra tiền đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho CNXH. Mặc dù vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay nhằm phát triển LLSX thì sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo để định hướng cho sở hữu tư nhân nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung đi theo đúng quĩ đạo. 2, Quá trình hình thành và phát triển sở hữu nhà nước ở Việt Nam. a. Giai đoạn 1945 – 1959: Cách mạng tháng tám thành công ngày 02/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một nhà nước công - nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam á ra đời với mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội mới theo con đường phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Hiến pháp 1946 đã tạo cơ sở pháp lý và từ đây quyền sở hữu tài sản riêng của công dân trở thành quyền hiến định. Nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc đó phải xoá bỏ quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất quan trọng của thực dân Pháp, của các đế quốc khác, các thế lực phản động và thù nghịch, của giai cấp địa chủ phong kiến Pháp luật giai đoạn 1945 - 1959 đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc xác lập quan hệ sở hữu mới dưới chính quyền dân chủ nhân dân. Từ đó xây dựng cơ sở vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của chế độ mới. Trong giai đoạn này ta đã dùng chính quyền vô sản làm công cụ cải tạo xã hội thiết lập quan hệ sản xuất XHCN, chúng ta coi công hữu là mục tiêu. b. Giai đoạn 1959 – 1960: Miền Bắc tiến lên CNXH, còn miền nam tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới để đi đến cuộc tổng tiến công và nổi dậy ngày 30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, cả nước đi lên CNXH. Miền Bắc về cơ bản hoàn thành cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế phi XHCN. Nhiệm vụ chủ yếu thời kỳ này ta xác lập và hoàn thiện chế độ sở hữu XHCN ở miền Bắc. Điều 12, hiến pháp 1959 khẳng định "Kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân". Trong đó tồn tại các hình thức sở hữu là: Sở hữu nhà nước, sở hữu của các nhà tư sản dân tộc, sở hữu của tiểu thương, thợ thủ công, hộ nông dân cá thể; sở hữu tập thể của các HTX, được quy định tại điều 11 Hiến pháp 1959... thực hiền các Nghị quyết Đại hội Đảng, lần thứ III, IV, là vừa xây dựng vừa cải tạo, trong cải tạo có xây dựng sở hữu thời kỳ này tạo tiền đề quan trọng có ý nghĩa to lớn cho thời kỳ tiếp theo. c. Giai đoạn 1980 – 1986: Hiến pháp 1980 thay thế hiến pháp 1959 đã ghi nhận phạm vi và bản chất của sở hữu toàn dân. Trong đó tại các điều 18, 19, 23, 24, 27 của hiến pháp 1980 đã quy định các hình thức sở hữu cơ bản sau: Sở hữu toàn dân đối với đất đai, hầm mỏ, rừng núi sông hồ... (Điều 19); Sở hữu tập thể; sở hữu của công dân. Tuy nhiên, xét về thực tế nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, năng suất lao động thấp, dân trí thấp vv... Còn về chủ quan, do quá nhiệt tình, cộng với sự thiếu hiểu biết nhận thức không đúng nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nên đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu XHCN. Một thời gian dài chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí coi nó là hình thức đối lập với XHCN, là mầm mống khôi phục chế độ bóc lột. Thật ra, sở hữu cá nhân không biến thành tư bản, không biến thành công cụ để bóc lột người lao động. Sở hữu cá nhân chủ yếu đối với các vật phẩm tiêu dùng, nhằm thỏa mãn các nhu cầu của người lao động phụ thuộc vào trình độ của sở hữu xã hội. Trong "tuyên ngôn Đảng cộng sản" đã chỉ ra "Chúng tôi cần gì phải xoá bỏ sở hữu ấy, sự tiến bộ của công nghiệp đã xoá bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xoá bỏ cái đó rồi. Do nhấn mạnh đề cao, tuyệt đối hoá vai trò và tính ưu việt của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể (HTX) nên đến một thực tế. Năng suất lao động thấp kém, hàng hoá khan hiếm thiếu lương thực, khủng hoảng kinh tế, xã hội. Trước tình hình đó Đảng ta đã nhìn nhận lại, nhận thức lại và thừa nhận sai lầm khuyết điểm do chủ quan nóng vội muốn có ngay CNXH và vận dụng quy luật kinh tế sai (đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất). Từ đây, đường lối đổi mới toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam được tập trung trong văn kiện Đại hội VI (1986) và tiếp tục sau này được các Đại hội VII, VIII khẳng định là: Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. d: Cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay: Chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, tiến hành hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, trước hết là điều chỉnh các hình thức sở hữu vốn có, là kết hợp một cách tối ưu các lợi ích. Lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích của nhà nước. Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không phải là"thụt lùi" không làm "Mất CNXH" như một số người lầm tưởng mà chính là một chủ trương lớn để khai thác, phát huy mọi tiềm năng của toàn xã hội cũng như tranh thủ các nước và các tổ chức quốc tế. Cơ sở lý luận của việc xác lập tính đa dạng các hình thức sở hữu thể hiện ở luận điểm của C.Mác và Ănghen cho rằng các hình thức sở hữu đựơc xác lập bởi trình độ xã hội hoá sản xuất. Vì vậy, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đa dạng hoá sở hữu là một thành tựu lớn cả về lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới. Với những thành tựu đáng mừng về kinh tế - xã hội của đất nước ta sau hơn 10 năm đổi mới đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, hợp lý. Thực tế cũng cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu để phù hợp với tính chất đặc điểm của từng thành phần kinh tế và phù hợp cũng như khai thác, thúc đẩy được các yếu tố của lực lượng sản xuất ở các trình độ khác nhau phát triển. Khi thực hiện chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nứơc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật thể chế hoá về sở hữu phản ánh trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất nước ta còn thấp không đồng đều. Vì thế ứng vói nó là các hình thức sở hữu đa dạng. Bởi vì: phát triển nền kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh là mục đích cuối cùng của chế độ xã hội ta. Trong phạm vi hẹp có thể coi sở hữu là một trong những phương tiện để đạt mục tiêu này và bước đầu thực hiện CNH, HĐH đất nước (văn kiện hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII 1/1994) vai trò của mỗi hình thức sở hữu trong một chế độ sở hữu có ý nghĩa và tác dụng khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Điều 15, hiến pháp 1992, quy định"cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu ta nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng". Ta lần lượt xem xét xu hướng vận động và biến đổi của các hình thức sở hữu, ở nước ta hiện nay. 3, Đánh giá về việc thực hiện sở hữu nhà nước ta hiện nay. a. Thực trạng sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp nhà nước: Sở hữu nhà nước và gắn liền với nó là khu vực kinh tế nhà nước luôn được Đảng và nhà nước ta xác định giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống sở hữu và trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực trạng sở hữu nhà nước hiện nay ra sao ? Hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường như thế nào? Rất nhiều lời giải đáp cho những câu hỏi này thường xuyên được đăng trên các tạp trí chính trị, kinh tế khoảng chục năm trở lại đây. Sở dĩ như vậy là bởi vì những câu hỏi này rất nóng, rất thời sự . Tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi này đồng nghĩa với việc xác định các doanh nghiệp nhà nước đang đứng ở đâu, đang có trong tay những gì và những doanh nghiệp này đang và sẽ phải đương đầu với những thách thức gì ? Qua hơn mười năm thực hiện đổi mới, tính đến cuối tháng sáu năm 1998 cả nước còn 5700 doanh nghiệp nhà nước. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đã được nâng lên. Tốc độ tăng trưởng GDP của các doanh nghiệp nhà nước gần gấp rưỡi so với bình quân toàn nền kinh tế và gấp đôi so vứi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tỷ trọng của doanh nghiệp nhà nước trong thu nhập quốc dân tăng từ 32% năm 1990 lên 42% năm 1996. Các doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp một phần không nhỏ cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên mức đóng góp đó hoàn toàn chưa tương xứng với sự đầu tư, sự mong đợi của nhà nước và phần lớn có được là từ thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ có một phần rất nhỏ là từ thuế lợi nhuận. Số lượng các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn quá nhiều và bố trí không được hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn không cao. Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước còn quá nhỏ bé, gần 40% tổng số các doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới một tỉ đồng. Hầu hết công nghệ kỹ thuật của các doanh nghiệp rất lạc hậu, các máy móc, thiêt bị phần lớn thuộc thập kỷ 60 thậm trí lâu hơn thế. Việc quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước còn rất nhiều yếu kém và không nhất quán. Hệ thống quản lý hành chính địa phương, trung ương và hệ thống quản lý các doanh nghiệp theo ngành không rõ ràng, chồng chéo lên nhau ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền tự chủ, khả năng quyết đoán trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp chưa thích ứng kịp với cơ chế mới nên không có khả năng trụ lại trước sự cạnh tranh và thử thách khắc nghiệt của thị trường. Cụ thể là 40% trong tổng số các doanh nghiệp nhà nước hiện nay đang ở trong tình trạng thua lỗ. b, Thực trạng sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh : Tuy mới chỉ xuất hiện ở nước ta hơn chục năn trở lại đây nhưng khu vực kinh tế liên doanh với nước ngoài tăng lên nhanh chóng cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Tỷ trọng đóng góp trong GDP của khu vực liên doanh năm 1997 là : 6,1 %, năm 1998 : 8,2 %, năm 1999 là : 9,8 %, năm 2000 là : 11,1 %. Hầu hết các doanh nghiệp này đều làm ăn có hiệu quả, giải quyết một lượng lớn việc làm cho người lao động đặc biệt là lao động dư thừa ở nông thôn, cho phép tận dụng vốn và công nghệ hiện đại của nước ngoài. Năm 1996 vốn nước ngoài trực tiếp đầu tư thông qua liên doanh chiếm 18,6 %, năm 1997 là 20,3 % trong tổng số vốn đầu tư của cả nước ( so với các nưởctrong khu vực thì tốc độ đầu tư của nước ngoài như vậy vẫn còn thấp và hiện nay đang có xu hướng chững lại). Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, những năm gần đây trong các doanh nghiệp liên doanh nổi cộm lên rất nhiều điều bất hợp lý cần được nhanh chóng làm rõ ràng và giải quyết chiệt để. Năm 1997-1998 một loạt các công ty liên doanh như : P & G, công ty CocaCola Việt Nam, công ty BGI lần lượt tuyên bố lỗ lớn và đề nghị giải pháp chuyyển sang 100% vốn nước ngoài. Sự thua lỗ hàng loạt ở các liên doanh trên đã làm cho dư luận nghi ngờ dẫn đến nhiều ý kiến khác nhau thậm trí trái ngược về hình thức đầu tư này.Vẫn biết được thua, lỗ lãi là việc rất bình thường sự cạnh tranh của kinh tế thị trường, có thể xẩy ra đối với bất cứ doanh nghiệp nào làm ăn không hiệu quả chứ không hề phụ thuộc vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó. Nhưng hàng loạt các công ty liên doanh (phía đối tác nước ngoài rất nổi tiếng, có nhiều kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường thế giới ) tuyên bố lỗ nặng thì quả là không bình thường, và liệu tình hình trên có còn tiếp tục hay không, nguyên nhân của nó là gì, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau trong việc trả lời câu hỏi trên. Có ý kiến cho rằng nguyên nhân hiện tượng trên là do thị trường Việt Nam còn quá nhỏ bé trong khi đó các dự án đầu tư của cùng một loai sản phẩm lại quá nhiều hay định hướng đầu tư của Việt Nam chưa tốt. Nhiều người khác lại đưa ra ý kiến cho rằng, các công ty nước ngoài đã lợi dụng thậm chí đã lừa gạt phía đối tác Việt Nam, bắt đầu từ việc liên doanh, rồi cố tình tạo ra thua lỗ nặng để cuối cùng xin đổi sang 100% vốn nước ngoài. Trong khi trước đó doanh nghiệp Việt Nam đã giúp phía nước ngoài lo các thủ tục pháp lý, lập văn phòng, giúp làm quen và định hướng thị trường Việt Nam. Phía Việt Nam do góp vốn ít 30%-40%, chủ yếu là góp bằng quyền sử dụng đất, thường bị thao túng và không được điều hành, có rất nhiều khoản chi phí không theo kế hoạch như đã được duyệt trước khi ký giấy phép. Đặc biệt là chi phí : chi phí cho quảng cáo sản phẩm, trả lương cho người nước ngoài, chuyên gia tư vấn, hội họp... ví dụ như công ty P&G đã tự ý chi 31% doanh thu cho quảng cáo, khuyến mại như vậy là đã vượt quá 26% tổng doanh thu cho công viềc này. Kế hoạch là sử dụng 6 người nước ngoài nhưng thực tế họ lại sử dụng 16 người với mức lương rất cao và chi phí 11 tỷ đòng cho chuyên gia tư vấn. Máy móc thiết bị và nguyên liệu của liên doanh đều được mua theo địa chỉ đã được chỉ định từ phiá nước ngoài. Lợi dụng sự thiếu thông tin về giá cả (vô ý hoặc cố ý ) của phía Việt Nam phia nước ngoài mặc sức đưa vào liên doanh những máy móc thiết bị đã được tân trang và khống giá lên rất cao so với thực tế. Sau khi khảo sát 42 doanh nghiệp liên doanh, bộ lao động và thương binh xã hội đã phát hiện 76% may móc thuộc thế hệ những năm 50 -60, 70% máy móc đã hết khấu hao, 50% thiết bị đã được tân trang. Trong khi các doanh nghiệp liên doanh sau khi chuyển sang 100% vốn nước ngoài thì họ đã có sẵn một thị phần, sản phẩm của họ đã được người Việt Nam biết tới. Một cán bộ cao cấp của GMX - công ty tư vấn quốc tế đang thực hiên dự án hỗ trợ chuyển giao công nghệ tại Việt Nam đã nhận xét như sau :” Liên doanh có lỗ cũng là lẽ thường, có thể lỗ trong những năm đầu để lãi trong những năm sau, vấn đề là Việt Nam không đủ trường vốn để làm đối tác cùng chịu lỗ với họ thì không nên liên doanh mà nên theo hình thức nước ngoài đầu tư 100% vốn “. Tiếp đó là một vấn đề rất nhạy cảm tại các liên doanh hiện nay đó là : sự xâm phạm nhân quyền của công nhân Việt Nam. Tác phong làm việc của công nhân Việt Nam từ lâu vẫn chậm chạp chưa đáp ứng được những đòi hỏi của các “ông chủ “ nước ngoài, một số người lại không nghiêm túc, làm giả ăn thật, trộm cắp... Trong khi đó các nước Tư Bản lại có thói quen trừng phạt nghiêm khắc đối với những hành vi này và ở một số doanh nghiệp sự trừng phạt này đã đi quá đà dẫn đến xung đột giữa người nước ngoài với người địa phương. Như vậy lỗi lầm nay không hoàn toàn thuộc về một bên nào. Tuy nhiên tranh cãi đúng sai hoặc thổi phồng vấn đề lên sẽ không thể cải thiện tình hình tốt hơn được mà chỉ làm cho tình hình nghiêm trọng, rắc rối hơn. Nếu tính từ thời điểm doanh nghiệp nhà nước đầu tiên thực hiện cổ phần hóa (doanh nghiệp Đại lý liên hiệp vận chuyển bán 82% cổ phần, nhà nước chỉ giữ lại 18% cổ phần) đến nay đã được gần 9 năm. Tính đến ngày 13-12-2000 đã có 525 doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa. Tổng số vốn của 18 doanh nghiệp đầu tiên thực hiện cổ phần là 121318 triệu đồng. Các doanh nghiệp này đã thu được những thắng lợi rât đáng khích lệ. Vốn bình quân tăng 45%/năm, doanh thu tăng 56,9 %/năm, lợi nhuận tăng bình quân 70,2%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng 98%, thu nhập người lao động tăng 20%/năm, tỉ suất lợi nhuận so với vốn tăng 74,6%. Phương thức quản lý thay đổi, chế độ thành lập hội đồng quả trị theo tỷ lệ cổ phần, bầu chọn giám đốc và các chức danh khác đã làm cho đội ngũ lãnh đạo này có trách nhiệm cao hơn, quyền lợi gắn liền với trách nhiệm. Tình trạng lãng phí, mất mát tài sản giảm xuống nhanh chóng. Thu nhập của công nhân tăng lên bình quân là 700.000 nghìn đồng/tháng, tạo ra một không khí nhiệt tình sản xuất. Tuy nhiên quá trình cổ phần hoá hiện nay tiến triển rất chậm và rụt rè do quan điểm cổ phần hoá vẫn chưa thống nhất. Ai đại diện cho số cổ phần của nhà nước, xác định đối tượng và giá trị các doanh nghiêp cổ phần, bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài với tỉ lệ bao nhiêu, tiền bán cổ phần được sử dụng vào đâu, giải quyết lượng lao động bị cắt giảm khi thực hiện cổ phần như thế nào đến nay vẫn chưa có giải pháp thực sự hợp lý, khoa học. Có một số quan niệm lệch lạc đánh giá chưa đúng về vai trò của cổ phần hoà cho rằng cổ phần hoá là đi chệch với định hướng XHCN hay chỉ cần cổ phần hoá các doanh nghiệp lỗ còn các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì không cần cổ phần. Các doanh nghiệp sau cổ phần thường bi. coi như “ con nuôi “, bị phân biệt đối xử và bất bình đẳng so với các doanh nghiêp nhà nước đặc biệt là trong chính sách về vay vốn, tín dụng, thuế... III. Các giải pháp cơ bản giải quyết sở hữu nhà nước ta hiện nay: 1, Tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Trong 5 năm tới, phấn đấu hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, cơ cấu lại các DNNN hiện cũ, đồng thời lựa chọn thành lập mới những DNNN ở các ngành, lĩnh vực và địa bàn quan trọng thật sự cần thiết. Thực sự tập trung cho sự phát triển của DNNN ở những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Trong những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, DNNN nói chung cần có quy mô lớn, đợc Nhà nớc tạo điều kiện đầu tư đủ vốn cho hoạt động, công nghệ sản xuất và quản lý được hiện đại hoá; một bộ phận giữ vốn nhà nớc 100%, bộ phận còn lại phần lớn có cổ phần nhà nước chi phối.Phải làm cho DNNN trong các ngành và lĩnh vực này nhanh chóng mạnh lên, làm đòn bẩy đẩy nhanh sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế . Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá bộ phận DNNN mà Nhà nớc không cần giữ 100% vốn là một hướng quan trọng để thực hiện có hiệu quả vốn đầu tư thuộc sở hữu nhà nớc, tạo động lực cho hoạt động kinh doanh, thu hút thêm vốn đầu tư của xã hội, phát huy vai trò làm chủ xí nghiệp và kinh tế của người lao động tại doanh nghiệp và tăng cường sự kiểm soát của xã hội, chống lãng phí, tham nhũng có hiệu quả. Phần vốn thuộc diện do bán cổ phần thu được chỉ được dùng để hỗ trợ, đầu tư cho chính các công ty cổ phần hoá và một phần để đầu tư cho các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của DNNN. Cần bổ sung, sửa đổi chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động sau khi cổ phần hoá; quy định phơng thức tiến hành cổ phần hoá; quy định về sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong DNNN sau cổ phần hoá. Chấm dứt sự phân biệt đối xử đối với những DNNN sau khi đã cổ phần hoá. Đối với những DNNN có quy mô nhỏ không nằm trong những ngành, lĩnh vực then chốt, sớm thực hiện việc giao, bán hoặc khoán kinh doanh, cho thuê, làm cho các doanh nghiệp này có khả năng sống động trong cơ chế thị trờng, tiếp tục duy trì hoạt động và tạo thêm việc làm cho xã hội. Để tăng được sức cạnh tranh của DNNN, trong vài ba năm tới thực hiện những giải pháp đồng bộ và kiên quyết để xử lý dứt điểm tình trạng nợ nần tồn đọng lớn, làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của DNNN, trớc hết là đối với những DNNN có quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt. Đối với số lao động dư thừa, có kế hoạch khẩn trương, chủ động và cơ chế, chính sách phù hợp để trong khoảng vài ba năm cơ bản có thể chuyển hết số lao động này ra khỏi doanh nghiệp, sau đó tiếp tục giải quyết dần. Đồng thời, đối với số doanh nghiệp mà Nhà nớc có 100% vốn hoặc có cổ phẩn chi phối, cần có chương trình và cơ chế, chính sách phù hợp để đổi mới, hiện đại hoá công nghệ sản xuất và quản lý, nâng cao trình độ của công nhân và trình độ đội ngũ cán bộ quản lý tại doanh nghiệp, coi đây là vấn đề sống còn để nâng cao chất lợng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh của DNNN . Thực hiện chế độ công ty đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước (công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Nhà nuớc, hoặc công ty cổ phần có vốn nhà nước) và tổ chức các Công ty đầu tư tài chính Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VIII). Theo chế độ công ty, Nhà nước không giao vốn mà chuyển sang phương thức đầu tư vốn cho doanh nghiệp thông qua Công ty đầu tư tài chính Nhà nuớc, đồng thời doanh nghiệp tự bổ sung vốn thông qua thị trường vốn; vốn và tài sản của DNNN được tính đúng với giá trị thực, Nhà nước chỉ quản lý giá trị đồng vốn đầu tư vào DNNN, không còn quản lý bằng hiện vật, công ty nhà nước là một pháp nhân kinh tế đầy đủ, có tài sản riêng, vốn riêng, có quyền tự chủ trong kinh doanh; hội đồng quản trị công ty (và tổng công ty 90, 91) là đại diện chủ sở hữu trực tiếp vốn của Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trực tiếp, đầy đủ trong việc sử dụng các nguồn vốn khác tại doanh nghiệp trước pháp luật, có quyền định đoạt trong kinh doanh theo các định chế của Luật về sử dụng vốn của Nhà nước trong kinh doanh và Luật doanh nghiệp. Cơ quan Nhà nước các cấp không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, mà thực hiện quyền của ngời chủ sở hữu tại công ty nhà nước thông qua Công ty đầu tư tài chính Nhà nước và các thành viên hội đồng quản trị ở các tổng công ty, công ty do Công ty đầu tư tài chính Nhà nước (hoặc tổng công ty) cử ra. Quy định chế tài (thưởng, phạt) để tạo động lực mạnh đối với cả cán bộ quản trị kinh doanh và người lao động trong công ty nhà nước. Đối với lĩnh vực hoạt động công ích, rà soát lại, thu hẹp bớt danh mục ngành nghề, trên cơ sở đã sắp xếp lại các tổ chức kinh tế hoạt động công ích hiện nay; đề ra cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc thành lập và việc chuyển DNNN từ hoạt động kinh doanh sang tổ chức kinh tế hoạt động công ích. Chấn chỉnh cơ chế giao nhiệm vụ và cơ chế tài chính đối với hoạt động công ích. Các tổ chức kinh tế hoạt động công ích của Nhà nước làm nòng cốt, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế khác tham gia hoạt động công ích. Khẩn trương củng cố, tập trung sức phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty để làm nòng cốt trong các ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Chuyển các tổng công ty sang hoạt dộng theo phương thức "công ty mẹ", “công ty con" , tổ chức công ty tài chính trong các tổng công ty. Trong khoảng 5 năm tới, thí điểm xây dựng vài ba tập đoàn kinh tế của Nhà nước có vị trí xứng đáng trong khu vực ASEAN (trớc hết là lựa chọn trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông, điện, dầu khí, hàng không, hàng hải, ngân hàng thương mại, bảo hiểm) với bước đi chặt chẽ, hiệu quả. Tăng cường và đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng tại DNNN, phù hợp với yêu cầu các DNNN phải thực sự cạnh tranh trên thị trường và hội đồng quản trị thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp. 2, Hoàn thiện cơ chế hợp tác, liên doanh và phát triển các công ty cổ phần có vốn nhà nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhắm đa dạng hoá sở hữu, đưa yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng hiệu quả kinh doanh và xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện cổ phần hoá quyền sở hữu và quyền kinh doanh được tách biệt rõ ràng, sự can thiệp trực tiếp của chính quyền vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giảm đến mức thấp nhất. Người lao động với tư cách cổ đông họ tham gia quyết định chiến lược phát triển của công ty, phân chia lãi và chịu thua lỗ dưới hình thức cổ phần mà họ đã góp. Theo điều 1 nghị định số 44/1998/NĐ-CP đối tượng cổ phần hoá là những doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư. Hiện nay, đối tượng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được chia thành ba loại : doanh nghiệp mà nhà nước nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt (cổ phần nhà nước chiếm trên 50% hoặc gấp đôi số cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong doanh nghiệp như vậy nhà nước vẫn kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp ) ; doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối ; cuối cùng là doanh nghiệp mà nhà nước không tham gia mua cổ phần khi tiến hành cổ phần hoá. Hiện nay có 4 hình thức cổ phần hoá như sau : - Giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn phát triển doanh nghiệp. - Bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. - Tách một phần doanh nghiệp có đủ điều kiện để cổ phần hoá. - Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. Tuỳ theo điều kiện và tình hình hoạt động cụ thể của mỗi doanh nghiệp mà có thể áp dụng hoặc kết hợp các hình thức cổ phần trên. Đối với loại doanh nghiệp mà nhà nước nắm cổ phần chi phối thì mỗi pháp nhân được mua không quá 10% mỗi cá nhân mua không quá 5% tổng số cổ phần của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp mà nhà nước không nắm cổ phần chi phối thì mỗi pháp nhân được mua không qua 20%, mỗi các nhân được mua không quá 10% tống số cổ phần của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nhà nước không tham gia cổ phần thì không hạn chế số cổ phần được mua đối với mỗi pháp nhân và cá nhân. Để hoàn thiện và phát triển các công ty cổ phần có vốn nhà của nhà nước thì nhà nước phải thực hiện ngay một vài công tác sau : Lập danh sách những doanh nghiệp cổ phần hoá để hình thành chương trình phân loại và sắp xếp theo từng đối tượng, áp dụng theo những hình thức phù hợp. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ lựa chọn danh sách với tư cách là người chủ sở hữu. Dựa trên bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động sản xuât kinh doanh của doanh nghiệp để xác định mục tiêu cụ thể, phù hợp với từng loại doanh nghiệp, như loại cần huy động thêm vốn, lọai cần thu hồi vốn, loại để cho người quản lý và công nhân tự làm chủ... Mọi tài sản của doanh nghiệp trước khi cổ phần đều thuộc sở hữu nhà nước, nhà nước chịu trách nhiệm đối với công nợ của doanh nghiệp vậy thì đương nhiên nhà nước cũng có trách nhiệm với vốn tự có của doanh nghiệp (vốn mà nhiều doanh nghiệp tưởng là tự nhiên mình có và tùy tiện chia chác ). Xác định giá trị của những doanh nghiệp được cổ phần hoá phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành : giá trị hữu hình và giá trị vô hình để kết hợp hai phương pháp tính giá trị theo thống kê kế toán và theo tỷ suất lợi nhuận bình quân. Phương pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp được cổ phần cần được thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục, thủ tục đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người để tránh sự lạm dụng của những người thực thi cổ phần hoá cũng như sự nghi ngờ của công chúng. Nhà nước không chỉ chú ý đến thu hồi vốn, mà cần phải xác định những khoản phí tổn nhất định vì lợi ích của sự phát triển đất nước. Những khoản phí tổn cho bảo hiểm, trợ cấp cho người lao động tìm việc làm mới, bán cổ phiếu theo giá ưu đãi cho những nhóm xã hội nhất định, cho những đối tượng nhất định... Ngoài ra những chi phí về các hoạt động tư vấn, quảng cáo, kiểm toán, môi giới đầu tư qua cổ phiếu. Các doanh nghiệp được cổ phần hoá sẽ hoạt động trong khuân khổ luật công ty, cả về hình thức tổ chức quản lý, lẫn hoạt động tài chính. Vì vây nhà nước cần thành lập một cơ quan hoạt động như một công ty tài chính quốc gia với đội ngũ các nhà sáng lập và quản trị để thay mặt nhà nước thực hiện và quản lý các hoạt động đầu tư vốn của nhà nước thông qua các công ty cổ phần. Các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá các chiến lược phát triển kinh doanh sẽ được hội đồng quản trị vạch định thông qua đại hội cổ đông. Giám đốc là người do hội đồng quản trị bầu, thuê hoặc chỉ định sẽ trực tiếp kinh doanh và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị. 3, Hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản và vốn của nhà nước. Hơn mười năm qua, chúng ta đã triển khai nhiều chủ trương, thực hiện nhiều biện pháp sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nớc (DNNN) để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của nhà nước. Những biện pháp kiên quyết và sâu rộng nhất tập trung kiểm soát số lượng DNNN vốn đã bị bung ra trong một thời gian trước đó; sắp xếp lại những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, hình thành một số tiêu chuẩn - điều kiện cho các DNNN nhỏ về vốn pháp định, ngành nghề kinh doanh, quy mô, luận chứng về thị trường, tiêu thụ sản phẩm. Khắc phục tính chất hành chính trung gian của các tổng công ty cũ, thành lập mới các tổng công ty nhà nước 90 và 91 trong những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và cổ phần hóa một số DNNN, thực hiện Luật Doanh nghiệp nhà nước, bắt đầu xóa bỏ dần chế độ chủ quản của các cơ quan hành chính nhà nước. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện các tổng công ty nhà nước; thực hiện các biện pháp lành mạnh hóa tài chính; lập kế hoạch, chiến lược đổi mới công nghệ, hoàn thiện quản lý, nâng cao sức cạnh tranh và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của DNNN. Tiến hành chuyển một bộ phận DNNN sang công ty cổ phần, bắt đầu triển khai các hình thức giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN trên cơ sở phân loại doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VIII). Muốn đạt được kết quả tốt nhất, trong giai đoạn 2001 - 2005 phải hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, cơ cấu lại và đổi mới hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, trước mắt nên tiến hành một số phương hướng giải pháp cơ bản như sau: - Một là, tiếp tục kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước nhằm tập trung nguồn lực của Nhà nước để chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, làm lực lượng chủ đạo để bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô; cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế và xuất khẩu, đóng góp lớn cho ngân sách; làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. - Hai là, đẩy mạnh cổ phần hóa các DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn. Sửa đổi, bổ sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho ngời lao động trong doanh nghiệp để tạo động lực phát triển sản xuất kinh doanh và gắn bó người lao động với doanh nghiệp, dành một tỷ lệ thích hợp bán ra ngoài để thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý của các cổ đông ngoài doanh nghiệp. Sửa đổi phương thức xác định giá trị doanh nghiệp và bán cổ phần theo cơ chế thị trường để tránh phiền hà, tiêu cực... - Ba là, sáp nhập, khoán kinh doanh, cho thuê hoặc giao, bán, giải thể, phá sản các DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài không cổ phần hóa được và Nhà nước không cần nắm giữ để sử dụng có hiệu quả tài sản của Nhà nước, bảo đảm việc làm, thu nhập, quyền lợi hợp pháp của người lao động. Đề nghị Quốc hội sửa đổi bổ sung Luật phá sản doanh nghiệp theo hướng ngời quyết định thành lập doanh nghiệp có quyền đề nghị tuyên bố phá sản doanh nghiệp. - Bốn là, kiên quyết xử lý dứt điểm nợ không thanh toán được của các DNNN trên cơ sở làm rõ nguyên nhân phát sinh và trách nhiệm của hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc đối với từng khoản nợ cụ thể. Nguyên tắc là phân loại nợ để xử lý theo từng đối tượng khác nhau. Vừa chỉ đạo tập trung thống nhất, vừa hoàn thiện cơ chế, chính sách và có biện pháp lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp. Xúc tiến thành lập công ty mua bán nợ và tài sản của doanh nghiệp để xử lý triệt để các vấn đề nợ, tài sản không cần dùng của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho DNNN sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. - Năm là, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với DNNN và bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước. Cần phân định rõ hơn nữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý nhà nước tập trung vào việc xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với DNNN trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau, chỉ đạo xây dựng quy hoạch và chiến lợc phát triển của DNNN trong tổng thể quy hoạch và chiến lược phát triển kinh tế của xã hội, của ngành và của các địa phương, xây dựng quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán cho DNNN; tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật, chủ trương, chính sách, chế độ quy định của Nhà nước tại doanh nghiệp. Xác định quản lý điều hành sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ của doanh nghiệp. Người lãnh đạo doanh nghiệp chịu trách nhiệm đầy đủ về mọi quyết định của mình trong sản xuất kinh doanh. Phân định rõ quyền của cơ quan nhà nước với tư cách là chủ sở hữu và trách nhiệm của người sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Cán bộ quản lý doanh nghiệp quyết định và chịu trách nhiệm về sự thành bại trong sản xuất, kinh doanh. - Sáu là, nâng cao vai trò của các tổ chức Đảng ở DNNN. Thực tế cho thấy DNNN nào có đảng bộ vững mạnh, chấp hành pháp luật, đảng viên gương mẫu, lãnh đạo doanh nghiệp và đảng ủy đoàn kết nhất trí thì ở đó phát huy được dân chủ, khích lệ được tinh thần lao động sáng tạo của cả tập thể và sản xuất kinh doanh phát triển. Bởi vậy, muốn việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp thu được nhiều kết quả, nhất thiết các tổ chức đảng tại DNNN phải được kiện toàn phù hợp với đặc điểm tổ chức quản lý của doanh nghiệp trong điều kiện mới. Cũng cần nghiên cứu để sớm có mô hình tổ chức Đảng phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp không những đối với doanh nghiệp nhà nước mà còn với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. C: Kết luận 1, Tóm tắt chung và một số kết luận về vấn đề sở hữu nhà nước ở Việt Nam. Giải quyết sở hữu nhà nước hiện nay giữ một vai trò then chốt, quyết định đến sự thành bại trong đổi mới nền kinh tế và giải quyết sở hữu nhà nước được nhiều người cho rằng đó chính là chiếc chìa khoá vàng mở ra sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên chiếc chìa khoá đó có được sử dụng hiệu quả hay không thì lại phụ thuộc rất nhiều vào suy nghĩ và hành động thực tế của mỗi chúng ta. Trong thời kỳ quá độ chúng ta cần phải vận dụng, kết hợp hài hoà, tài tình giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân tạo điều kiện để chúng tự khắc phục những khiếm khuyết và phát huy những ưu thế của nhau. Cần chống lại khuynh hướng chạy từ cực nọ sang cực kia, từ tả sang hữu thường hay thấy ở các nước quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Sở hữu nhà nước ở các nước này đã bị thủ tiêu một cách thô bạo và vô trách nhiệm giống như trước đây sở hữu tư nhân từng bị thủ tiêu. Họ tưởng rằng để chuyển sang cơ chế thị trường phải đem tất cả các doanh nghiệp quốc doanh ra cho thuê và hậu quả để lại thật khó lường. Thừa nhận quyền bình đẳng của sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác không có nghĩa là quay sang tiêu diệt sở hữu nhà nước. Như vậy giải quyết sở hữu nhà nước là một vấn đề cực kỳ khó khăn, nó đòi hỏi các nhà hoạch định phải sáng suốt, nhậy bén, không được phép mắc sai lầm. Bên cạch giải quyết sở hữu nhà nước một cách hợp lý chúng ta cần phải có một môi trường kinh tế vĩ mô thích hợp, một “sân chơi, luật chơi “ bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tạo một sự phát triển bền vững và ổn định. Tóm lại sở hữu nhà nước và giải quyết sở hữu nhà nước là một vấn đề rất phức tạp và còn nhiều búc xúc tuy nhiên chúng ta không thể và không được phép lảng tránh. 2, Một số kiến nghị cá nhân về vấn đề sở hữu nhà nước ở Việt Nam. Kiến nghị về chính trị pháp lý: Đảng cộng sản Việt Nam nên ban hành các chủ trương, chính sách sở hữu đúng đắn, kịp thời, phù hợp... Nhà nước cần phải kịp thời thể chế hoá chúng thành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ sở hữu xã hội vận hành tốt. Với các chính sách tập trung như: chính sách sở hữu; chính sách đối với việc sử dụng, quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước của các cơ quan, tổ chức cá nhân; hoàn thiện pháp luật về sở hữu, chính sách đối với các thành phần kinh tế vv... Kiến nghị về kinh tế - xã hội: Nhằm tạo ra cơ sở kinh tế - vật chất - kỹ thuật để bảo đảm, cũng như tạo ra môi trường kinh tế - xã hội ổn định, lành mạnh cho các quan hệ sở hữu tự do vận hành trong khuôn khổ pháp luật trong đó: - Các thành phần kinh tế nhà nước, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong thị trường, có sự quản lý của nhà nước. - Giáo dục ý thức pháp luật, trách nhiệm xã hội giáo dục truyền thống lịch sử và các kiến thức hiểu biết về sở hữu cho mọi công dân. Để từ đó có thái độ xử sự đúng đắn, hợp pháp. Giải quyết vấn đề sở hữu để tạo động lực cho phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Như giải quyết vấn đề phân biệt rõ quyền sở hữu, quyền quản lý và quyền sử dụng... hay vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. ----------o O o---------- Danh mục tài liệu tham khảo 1. C.Mác và Ănghen: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản toàn tập, tập 4. 2. C.Mác và Ănghen:Toàn tập, tập 4 Nxb ST HN 1987 4. Văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII và IX. 5. Kinh tế chính trị Mác - Lênin, tập 1, năm 1997, NXB Giáo dục. 6. Kinh tế chính trị Mác - Lênin, tập 2, năm 1990, NXB Giáo dục 7. Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật - Trường Đại học Luật Hà Nội năm 1996. 8. Giáo trình luật dân sự , tập 1 và tập 2, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 1998. 9. Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 243-8/1998, 250-3/1999, 220 5/1997, 227-4/1997, 237-2/1999, 244-9/1998. 10. Niên giám thống kê 1995 11. Tạp chí phát triển kinh tế số 57 năm 1995 ; số 13,74 năm 1996 ; số 92 năm 1998. 12. Một số báo và tạp chí khác như : Tạp chí Triêt học, tạp chí Cộng sản, tạp chí nghiên cứu lý luận…. Mục lục A. Đặt vấn đề: Sở hữu và sở hữu nhà nước, lý do và tầm quan trọng của việc nghiên cứu vấn đề này B. Giải quyết vấn đề: I. Phạm trù sơ hữu. - Một số vấn đề lý luận về sở hữu nói chung. - Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về sở hữu. - Đối tượng sở hữu và các hình thức sở hữu về tư liệu sản suất và vốn. II. Sở hữu nhà nước: 1, Sở hữu nhà nước và các hình thức của sở hữu nhà nước 2, Quá trình hình thành và phát triển sở hữu nhà nước ở Việt Nam. 3, Đánh giá về việc thực hiện sở hữu nhà nước ta hiện nay. III. Các giải pháp cơ bản giải quyết sở hữu nhà nước ta hiện nay: 1, Tiếp tục phát triểnvà nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước 2, Hoàn thiện cơ chế hợp tác, liên doanh và phát triển các công ty cổ phần có vốn nhà nước. 3, Hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản và vốn của nhà nước. C. Kết luận: 1, Tóm tắt chung và một số kết luận về vấn đề sở hữu nhà nước ở Việt Nam. 2, Một số kiến nghị cá nhân về vấn đề sở hữu nhà nước ở Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35268.doc
Tài liệu liên quan