Đề án Các giải pháp tăng cường thâm nhập thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam

Nói về tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam của các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam quả thật là sự vươn lên đáng khích lệ. Ngành dệt may rơi vào bối cảnh thị trường Đông Âu- Liên Xô cũ sụp đổ, tiếp đến là sự tràn ngập của hàng may mặc nhập ngoại “rẻ như bèo”, tiếp đến là khủng hoảng tài chính khu vực có lúc đã khiến người ta nghi ngờ sự tồn vọng của ngành dệt may nước nhà. Sự thực thì đã có lúc nguồn sống chính của cả ngành may cũng như để đóng góp cho đất nước là làm thuê cho nước ngoài, tiếng nhiều nhưng lãi thực chẳng bao nhiêu. Đặt trong bối cảnh như vậy ngành dệt may đã thực sự chuyển mình trong những năm qua. Ngành đã thực hiện cuộc cách mạng công gnhệ đưa toàn ngành tiếp cận với công nghệ hiện đại. Quan trọng hơn là ngành thay đổi nếp nghĩ, lề lối làm ăn, từng bước vững chắc thoát khỏi vị tró làm thuê. Ngành cũng đã từng bước tự tìm tói thị trường xuất khẩu trực tiếp và tiếp tục tăng hạn ngạch với thị trường hàng dệt may đã có uy tín như UE, Nhật Bản. Bên cạnh đó, ngành dệt may đang tiếp cận được thị trường Mỹ đầy tiềm năng về nhập khẩu hàng dệt may. Ngoài những thành tựu ngành đạt được chúng ta còn phải kể đến những mặt tồn tại mà muốn tìm chỗ đứng trên thị trường hàng dệt may thế giới thì chúng ta cần phải khắc phục tình trạng phát triển khập khễnh của ngành dệt và ngành may và sau đó còn phải quản lý hạn ngạch và phân bổ chúng cho hợp lý. . Nói tóm lại, tiềm năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam là rất lớn bởi những ưu thế của quốc gia và sự học hỏi của những nước phát triển về công nghệ, quản lý của các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam, để từng bước không ngừng phát triển ra những thị trường xuất khẩu mới của ngành.

doc44 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các giải pháp tăng cường thâm nhập thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ua hàng đến với người xuất khẩu + Các nhà nhập khẩu lớn sử dụng khách du lịch thường giao cho các đại lý vận tải nhận hàng từ các nhà cung cấp và chuyên trở tới địa điểm của người nhập khẩu do vậy nhà xuất khẩu sẽ ít bị liên quan đến vấn đề vận tải . - Các tổ chức phối hợp : các tổ chức phối hợp là sự pha tạp giữa xuất khẩu gián tiếp và xuất khẩu trực tiếp . Nó là kênh gián tiếp vì không phải là một bộ phận của nhà sản xuất song cũng có thể xem nó như một kênh trực tiếp khi nhà sản xuất có thể sử dụng cách điều hành mang tính hành chính mang tính chính sachs hoạt động của tổ chức phối hợp . Có hai loại tổ chức phối hợp là phối hợp qua trung gian và các tổ hợp xuất khẩu + Phối hợp qua trung gian xuất hiện khi một nhà sản xuất sử dụng hệi thống phân phối nước ngoài của doanh nghiệp khác để bán sản phẩm của người đó . Hình thức này có ích cho các doanh nghiệp nhỏ không có sẵn hệ thống phân phối riêng của mình vừa có lợi cho các doanh nghệp lớn vẫn hoạt động bình thường ngay cả khi lượng bán sản phẩm của họ bị giảm sút + Tổ hợp xuất khẩu là hình thức mà nột nhà sản xuất có thể tham gia xuất khẩu với tư cách là thành viên một tập đoàn hay hiệp hội xuất khẩu . Một tổ hoịp sẽ xuất hiện khi hai hay nhiều công ty độc lập trong cùng một lĩnh vực kinh tế giống nhau hay gần giống như liên kết lại vì mục tiêu kiểm soát thị trường . Đố có thể là một hiệp hội tình nguyện vcủa các nhà sản suất một loại hàng hóa được thành lập để phối hợp các hoạt động marketing như thoả thuận về ghía cả hạn chế sản xuất hoặc giao hàng , phân chia thị trường nhằm mục tiêu tăng cuờng lợi nhuận cho các thành viên trênh thị trường thế giới hiện nay có các loại tổ hợp sau + Các tổ chức quốc tế được thành lập vì mục đích thống trị hẳn một thị trường nhất định(chẳng hạn OPEC) +những hiệp định quốc tế trong đó có các quốc gia mua và bán là các bên tham gia hiệp định Các hiệp hội được thành lập để các hội viên nâng cao hiệu quả cạnh tranh iại thị thường nước ngoài. B. Xuất khẩu trực tiếp: Hầu hết các nhà sản xuất chỉ sử dụng các trung gian phân phối trong các điều kiện cần thiết. Khi đã phát triển đủ mạnh để tiến tới thành lập tổ chức bán hàng riêng của mình để có thể kiểm soát trực tiếp thị trường thì họ thích sử dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp hơn. Trong hình thức này nhà sản xuất dao dịch trực tiếp với khách hàng nước ngoài ở khu vực thị trường nước ngoài thông qua tổ chức của mình. Về nguyên tắc mặc dù xuất khẩu rực tiếp có làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh song có những ưu điểm cơ bản sau : Giảm bớt lợi nhuận trung gian sẽ làm tăng chênh lệch giữa giá bán và chi phí , Tức là làm tăng lợi nhuận cho nhà sản xuất . Nguời sản xuất có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng , với thị trường , biết được nhu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng do đó có thể thay đổi sản phẩm và các điêù kiện bán hàng trong những điều kiện cần thiết Các tổ chức bán hàng trực tiếp của nhà sản sxuất gồm các loại sau * Cơ sở bán hàng trong nước : Các bộ phận này hoặc có thể liên quan trực tiếp với nghiệp vụ bán hàng xuất khẩu hoặc hoạt động như một như một trụ sở marketing xuất khẩu đặt trong nước để phốiư hợp hay điều hành các tổ chức phụ thuộc khác đặt tại thị trường nước ngoài .Có ba loại tổ chức xuất khẩu đặt trong nước là : + Gian hàng xuất khẩu : Tổ chức này là hình thức đơn giản nhất , Bao gồm một tổ chức bán hàng và một số nhân viên trợ giúp nhiệm vụ chủ yếu là bán hàng trực tiếp và thực sự còn có các hoạt động marketing khác (quảng cáo , dịch vụ tín dụng…). Do bộ phận định hướng thị trường nội địa của doanh nghiệp đảm nhận . Mặc dù có ưun thế đơn giản song nó có hạn chế là hoạt động marketing xuất khẩu bị lu mờ do đó nó ddược các bộ phận khác thực hiện với trình độ hiểu biết nghiệp vụ xuất khẩu rất hạn chế . + Phòng xuất khẩu: Là một đơn vị hoạt đông độc lập quản lý phần lớn các hoạt động xuất khẩu.Phòng xuất khẩu có thể được tổ chức theo chức năng , theo vùng địa lý ,sản phẩm , khách hàng hay một vài kiểu kết hợp tuỳ thuốcự thay đổi nhiệm vụ marketing xuất khẩu. + Chi nhánh bán hàng xuất khẩu : Để tách biệt hoàn toàn các hoạt động nội địa, một số doanh nghiệp có thể thành lập chi nhánh bán hàng xuất khẩu như một công ty con , mặc dù chi nhánh bán hàng xuất khẩu vẫn do công ty mẹ quản lý song nó chịu trách nhiệm và có quyền hạn đầy đủ trong các hoạt động xuất khẩu , thậm chí cả lợi nhuận với hình thức này nhà sản xuất có thể đánh giá chính xác lợi ích của xuất khẩu và tránh được đối lập không cần thiết bắt nguồn từ kinh doanh nội địa. Nó được thành lập với mục đích sau: thống nhất sự kiểm soát hoạt động xuất khẩu và kiểm soat chi phí lợi nhuận liện quan đến xuất khaảu , phân phối đơn đặt hàng giữa các nhà máy của doanh nghiệp nhanh hơn và giám sat trách nhiệm hiệu quả hơn.dẽ huy động các nguồn tài chính cần thiết hơn ,cung cấp các lo sản phẩm hoàn thiện đồng thời tiết kiệmđược các loại thuế kinh doanh. * Đai diện bán hàng xuất khẩu : Đối với nhiều loại sản phẩm các nhà xuất khẩu có thể sử dụng các đại diện bán hàng thường trực hoặc tạm thời của mình ở thị trường nước ngoài. Đại diện là cãc nhân viên của doanh nghiệp có nhiệm vụ thu thập các đơn đặt hàng của khách hàng có hai loại đại diện là: Văn phòng đại diện Người đại diện được hưởng lương * Chi nhánh bán hàng tại nước ngoài : là một bộ phận của doanh nghiệp đặt tại nước ngoài coá trachs nhiệm quản lý và cả súc tiến bán hàng và phân phối hàng óa trên toàn bộ khu vực thị trường đã định . Trong tực tế khi một vùng thị trường đã được hình thành bởi các đại lý và các nhà phân phối địa phương thì ta thiết lập một chi nhánh bán hàng . Và ở mức độ cao hơn chi nhánh bán hàng có thể được nâng lên thành mức công tychi nhánh bán hàng tại nước ngoài với quyền tự chủ và trách nhiệm rộng lớn hơn. ưu điểm : Là cơ sở để các nhà sản xuất trưng bày sản phẩmcủa họ, giá trị của công cụ súc tiến bán hàng này rất rõ nét . Lf trung tâm cung cấp dịc vụ cho khách hàng. Nhược điểm: chi phí các loại thuế phải đóng, quy chế chuyển lợi nhuận về nước ở một số quốc gia , chi phí đào tạo và hoạt của nhân viên . Do đó hình thức này chỉ thích hợpvới các nhà sản suất lớn và có tiềm lực mạn về tài chính . * Tổ chức trợ giúp ở nước ngoài : là một công ty riêng rẽ được lhành lập và đăng ký ở nước ngoài song hầu hết vốn cổ phần của nólaị do nhà xuất khẩu nắm quyền xuất khẩu sở hữu . So với chi nhánh bán hàng , hình thức tổ chức này có ưu diểm là không có vấn đề về thuế , tuy nhiên có thể có vấn đề khác về pháp lý * Đại lý nhập khẩu : về hình thức đậi lý nhập khẩu cũng tương tự như đại lý xuất khẩu hoặc thậm chi chúng giống nhau về tư cách pháp nhân , về chức năng dịch vụ và cách trả thù lao . Sự khác biệt là ở chỗ đại lý nhập nằm ở thị trường xuất khẩu của nhà sản xuất do đó hợp đồng giưã nhà sản xuất và đại lý nhập khẩu được điều chỉnh theo luật của của nước sở tại . Một hình thức xuất khẩu trực tiếp khác đáng chú ý là xuất khẩu các dịch vụ kỹ thuật và sản xuất, hiện nay có những hình thức chủ yếu sau: Chuyển giao và xuất khẩu bí quyết công nghệ, có hai loại cần phân biệt là: + Chuyển nhượng giấy phép sử dụng bằng phát minh sáng chế:Đây là sự nhượng lạy sự khai thác một sáng chế đã được công bố và độc quyền khai thác được bảo đảm trong một khoảng thời gian nhất định mà nhà nước đã cấp cho nhà sáng chế. Ta thường thấy công thức này khi nhà xuất khẩu không tự sản xuất; khi một nhà sáng chế đơn lẻ hay một hiệp hội kĩ thuật không thể sản xuất hoặc bán kết quả của sáng chế đó; hoặc là do cần có những đầu tư nhất định, những quy định hải quan, những định mức kĩ thuật nội địa… Thậm chí có những thị trường bị gò bó thực tế không thể bảo đảm cho nhà xuất khẩu sản xuất tại chỗ hoặc không thể đưa sản phẩm vào thị trường thông qua đại lí hay nhà nhập khẩu tại nước đó. Việc như dàng vì khách hàng khi tiến hành khai thác công ngiệp sáng chế đó có nhu cầu được bảo đảm về giá trị kinh tế chắc chắn của nó. Lợi thế đối với người nhượng quyền là nhanh chóng triên khai sáng chế của người ợng lại giấy phép cho phép sử dụng sáng chế mà không tự mình sản xuất song điều đó cũng không hoàn toàn dễ đó và bảo đảm đi tiên phong trên thị trường trước các đối thủ cạnh tranh. + Chuyển giao quốc tế về kỹ thuật là một thao tác quốc tế mà đối tượng của nó là tạo ra những điểm mới trong sản xuất hoặc khai thác một kỹ thuật nào đó dưới sự kiểm soát huặc không kiểm soát của nó và cung ứng cho người nhận tổng thể những kiến thức và dữ liệu thí nghiệm mà nó đã tự áp dụng và cung cấp cho người nhận những công cụ, hiện naỳ loại hình xuất khẩu này khá phát triển, qua các giai đoạn tự cung cấp bí quyết kỹ thuật, xây dựng xí nghiệp và duy trì sản xuất, điều mà không thể có sự chuyển giao đơn thuần mà còn phải làm cho kỹ thuật thích nghi nữa.trong một số trường hợp điều đó còn bao gồm và việc đào tậo cho khách hàng và nhân sự của họ để có thể tiếp nhận, hấp thụ và khai thác có hiệu quả kiến thức kỹ thuật cũng như tổ chức sản xuất và đôi khi cả thương mại nữa. *- Trợ giúp kỹ thuật cho nước ngoài là việc bán dịch vụ kèm theo bán trang thiết bị và những loại cung ứng khác có thể giúp cho việc thực hiện một dự án cho tơí khi đưa một đơn vị sản xuất vào hoat động thông qua việc đào tạo nhân sự cung cấp kiến thức liên quan đến việc tổ chức và các phương pháp công nghệ … Thực chất đây là sự quay trở lại hoặc sự tiếp tục của một thao tác xuất khẩu trước đó. *- Hợp đồng quản lý cũng là một dạng bán dịch vụ xuất khẩu vì nó đảm bảo việc quản lý, trong một thời hạn xác định hoặc không xác định, một đơn vị sản xuất hoặc dịch vụ mà nhà xuất khẩu đã tự mình xây dựng hoặc không. Hình thức xuất khẩu này ở nước ngoài gần giống với hình thức đại lý. Đầu tư trực tiếp . Phương thức mở rộng hoạt động cao hơn của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài là đầu tư trực tiếp để xây dựng các xí nghiệp đặt tại thị trường đó.Khi một doanh nghiệp đã có được kinh nghiệp về xuất khẩu và nếu thị trường nước ngoài đủ lớn thì các cơ sở sản xuất đặt tại hị truường nước ngoài có có những ưu điểm nổi trội . - Thứ nhất :doanh ghiệp có thể tiết kiệm được chi phí về nhân hoặc nguyên liệu thô , được hưởng những ưu đãi của chính quyền nước ngoài , và tiết kiệm được chi phí vận tải - Thứ hai :doanh nghiệp xẽ tạo được hình ảnh tốt ở nước ngoài và tạo thêm được công ăn việc làm . Thứ ba: Doanh nghiệp sẽ thiết lập được mối quan hệ trặt trẽ với chính quyền sở tại , khách hàng các nhà cung cấp và các nhà phân phối bản xứ làm cho sản phẩm thích nghi tốt hơn với ddiều kiện thị trường đó . Thứ tư : Doanh nghiệp kiểm soát được hoàn toàn họat động đầu tư và kinh doanh và do đó có thể triển khai các chính sách marketing phục vụ được các mục tiêu quốc tế lâu dài của nó . Hạn chế chủ yếu của phương thức này là mức độ may rủi cao hơn , chẳng hạn tài khoản bị phong toả hay bị phá giá , thị trường bị xấu đi hay khả năng xí nghiệp bỉtưng thu . Tuy nhiên trong một số trường hợp đây là phương thức duy nhất để có thể hoạt động lâu dài tại một thị trường nước ngoài nào đó . Phương thức đầu tư trực tiếp có có các hình thức sau : a.Xí nghiệp chìa khoá trao tay: Là một hoạt động khá lâu dài và rất tổng hợp trong đó người ta xuất khẩu rất nhiều thứ cả nguyên liệu (trang thiết bị máy móc ,vật liệu…) và dịch vụ (bí quyết kỹ thuật , trợ giúp kỹ thuật ,đào tạo nhân sự …)cần thiết để xây dựng đưa vào hoạt động .(một số biến tướng của nó là BOT(xây dựng chuyển giao…)) b. Chi nhánh chung hay xí nghiệp liên doanh: thành lập từ mong muốn của nhà xuất khẩu hoặc đòi hỏi của đất nước mà nó muốn thâm nhập . thực chất đó là một dạng cộng đồng sở hữu với cả ưu và nhược điểm của nó : sự khác biệt có thể có trong lựa chọn chiến thuật , chiến lược, quản lý … Khó khăn trong kiểm soát việc lựa chọn công thức này có ưu thế khi nhà xuất khẩu chờ đợi một sự liên kết với bạn hàng địa phương .nếy bạn hàng đó cung cấp được nguồn tài chính hoặc kiến thức về thị trường địa phương mà nó không có , hoặc từ mong muốn hiện diện ở một nước hoặc một nghành đang có triển vọng phát triển vọng phát triển . Có nhiều phương án liên doanh là : + Liên doanh với một doanh nghiệp địa phương là hình thức chung nhất ở các nước đang phát triển mà luật pháp đòi hỏi cộng thêm cả thời hạn mà doanh nghiệp nước ngoài được phép hoạt động + Liên kết dưới dạng một doanh nghiệp hỗn hợp khác với dạng trước ở chỗ bạn hàng địa phương là nhà nước ,trong những nghành chiến lược như liên lạc viễn thông , năng lượng hoặc giao thông vận tải . c. Xí nghiệp hoàn toàn sở hữu nước ngoài : nếu được luật lệ địa phương cho phép và nếu có đủ kinh nghiệm về thị tường nước ngoài thì doanh nghiệp có thể thành lập chi nhánh của mình ở nước ngoài dưới dạng một xí nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp .Có hai dạng chi nhánh là: + Chi nhánh lắp ráp: Các chi nhánh sản phẩm được sản xuất ở chính quốc và chi nhánh ở nước ngoài chỉ thực hiện lắp rápthành sản phẩm hoàn thiên để tiêu thụ. + Chi nhánh sản xuất : đó là hình thức trên còn thêm việc sản xuất tại chỗ một phần hoặc toàn bộ các chi tiết của sản phẩm . Điều đó cho phép doanh nghiệp có được nhiều lợi thế về thương mại , về tài chính ,về thuế vì nó tận dụng được chi phí địa phương , bảo hộ pháp lý và hải quan , và khả năng lớn hơn trong việc thích nghi nhanh với biến động của nhu cầu . III. lựa chọn phương thức thâm nhập thị truờng nước ngoài Như đã tình bày ở trên, khi doanh nghiệp quyết định thâm nhập vào một thi trường nước ngoài thì nó phải giải quyết vấn đề lựa chọn phương thức thâm nhập thích hợp nhất với điều kiện và khả năng của nó . Nếu sử dụng hình thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ thì phải quyết định xem nên xuất khẩu trực tiếp hay qua trung gian. Nếu qua trung gian thì nên sử dụng bao nhiêu trung gian và đó là những trung gian nào , cách thức thiết lập quan hệ với các trung gian đó ra sao .Còn nếu quyết định đầu tư vào thị trường nước ngoài thì nên chon hình thức đầu tư nào là thích hợp nhất .Tất cả các vấn đề đó cần được doanh nghiệp cân nhắc kỹ lưỡng dựa trên phân tích khách quan hơn là những nhận định chủ quan ,để đảm bảo hiệu quả hoạt động lâu dài của doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài . Các cách tiếp cận khác nhau trong lựa chọn phương thức thâm nhập. Có 3 cách tiếp cận: * Cách tiếp cận đơn giản: Doanh nghiệp sẽ đi theo cách tiếp cận này khi nó chỉ cân nhắc một phương thức duy nhất để thâm nhập vào nhiều thị trường nước ngoài. Nhưng cách tiếp cận này bỏ phí mất nhiều cơ hội kinh doanh. * Cách tiếp cận thực dụng: Doanh nghiệp đi thêo cách tiếp cận này khi nó bắt đầu việc kinh doanh trên trên thị trường nước ngoài theo phương thức quen thuộc nhất với nó hoặc với một phương thức quen thuộc nhất với một phương thức đảm bảo độ rủi do thấp nhất . * Cách tiếp cận chiến lược: Mục tiêu của cách tiếp cận này là tìm ra cách thức thâm nhập thích hợp nhất đối với doanh nghiệp .Nó đòi hỏi phải ước lương được tất cả các cách thức thâm nhập có có thể có và sau đó so sánh chúng với nhau để tìm ra quyết định. Những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn phương thức thâm nhập. Khi doanh nghiệp lựa chọn các phương thức thâm nhập thị trường phải chú các nhân tố sau: a. Điiêù kiện thị trường : - Số lượng và cơ cấu tập hợp khách hàng tiềm năng. Đặc điểm nhu cầu , mong muốn và thị hiếu tiêu dùngcủa khách hàng Trình độ phát triển của kinh tế thị trường Khả năng của doanh nghiệp : Năng lực quản lý Kinh nghiệm hoạt động trên thị trường nước ngoài Sức mạnh về tài chính và khả năg huy động nguồn tài chính bổ xung Quy mô của công ty và chủng loại sản phẩm Đặc tính của sản phẩm: Bản chất của sản phẩm ảnh hưởng tới phương thức thâm nhập Thủ tục lựa chon phương thức thâm nhập thị trường : Thu thập các thông tin cần thiết Phân loại thông tin và loại bỏ Ra bài toán quyết định Xây dựng phương thức thâm nhập Từ trên rút ra các phương án Xác dịnh phương án ưu tiên Ra quyết định cuối cùng Ra kế hoạch thực hiện Thủ tục lựa chọn trung gian phân phối . Sau khi đã chọn phương thức tốt nhất để thâm nhập thị trường ,cần phải lựa chọn các trung gian phân phối cụ thể tham gia vào hoạt động đó: Xác định yêu cầu doanh nghiệp: - Các loại khách hàng chủ yếu của doanh nghiệp Chất lượng của các điểm bán hàng và đại diện chúng Các nhãn hiệu hiện có trên thị rường Mức giá sản phẩm Các điều kiện giao hàng Khả năng lưu kho hàng hóa của các đại lý Loại đại lý nào thích hoạp với yêu cầu doanh nghiệp Kinh nghiệm của nhà sản xuất trên thị trường nước ngoài Khả năg tài chính của doanh nghiệp b.Xác định các thông tin về các đại lý phân phối trên thị trường . Để thu thập danh sách các đại lý và nhà phân phối , có thể sử dụng các thông tin sau: - Các cơ quan chính phủ, Các tổ chức buôn bán Các ngân hàng Các phòng thương mại Các cơ quan dịch vụ thông tin thương mại. c.Đánh giá và lựa chọn đại lý Để chọn được đại lý phù hợp cần xem ét các điểm sau: - Khả năng hoạt động của đại lý trên thị trường Kinh nghiệm hoạt động của đại lý trên thị trường Hinh thức tổ chức của đại lý Mức độ ưu tiên của đại lý dành cho doanh nghiệp. d. Quyết định người phân phối ký hợp đồng và biện pháp hoạt động Lựa chọn hình thức phù hợp với các trung gian phân phối Sau khi đã lựa chọn được các trung gian phân phối thì cân phải giải quyết các chính sách ứng sử của doanh nghiệp đối với các trung gian là thành viên của kênh phân phối . Chương II Thực trạng thâm nhập thị trường nước ngoài của hàng dệt may Việt Nam I. Thực trạng về thị trường của hàng dệt may may của Việt Nam. 1. Thực trạng của hàng dệt may Việt Nam. Sự ổn định hay bất ổn định về chính trị xã hội là nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của một quốc gia, và đối với hàng dệt may Việt Nam phải được sự cho phép tại cơ quan quản lý có thẩm quyền do pháp luật quy định. ở Việt Nam, Bộ thương mại đã thiết kế mẫu giấy phép xuất khẩu theo mẫu của liên hợp quốc với nội dung đã được tiêu chuẩn hoá theo quy định quốc tế. Giấy phép xuất khẩu hàng dệt may chỉ cấp cho các tổ chức có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu hàng dệt may trong phạm vi hạn ngạch quy định cho mặt hàng đó. Hàng dệt may xuất khẩu phải làm thủ tục hải quan khi xuất khẩu, theo các quy định chính thức về xuất khẩu hàng dệt may và có khi theo yêu cầu của nước nhập khẩu. Chế độ hạn ngạch xuất khẩu của VNđược quy định theo quyết định ssố 96/HĐBT ngày 5/4/91của HĐBT về quản lý xuất nhập khẩu. Hàng năm Bộ Thương mại công bố danh mục hàng dệt may quản lý bằng hạn ngạch sau khi thống nhất với UBKH nhà nước. Bộ quản lý sản xuất được chủ tịch HDBT duyệt. Sau đó Bộ thương mại phân bố hạn ngạch xuất khẩu cho cán bộ ngành địa phương . Trong thanh toán quốc tế bên xuất khẩu hàng dệt may phải biết là bên nhập khẩu có quyền thanh toán hàng hoá bằng ngoại tệ có thể nhận khi xuất khẩu, đó thường là các ngoại tệ tự do chuyển đổi. Một biện pháp quan trrọng nhà nước cần phải gửi loại ngoại tệ thu đựơc do xuất khẩu vào các ngân hàng ở nước ngoài. Nếu người đó mở tài khoản ở nước ngoài thì lô hàng đó chưa được thanh toán và người xuất khẩu vi phạm chế độ quản lý ngoại tệ của nhà nước. Khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước tại các thị trường nhập khẩu và xuất khẩu hàng dệt may cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu qua ta. Thuế nhập khẩu làm tăng giá cả trong nước của hàng nhập khẩu cho nên chúng có ảnh hưởng tương tự như sự phá giá đối với tỷ giá chính thức. Thuế xuất khẩu hàng dệt may có xu thế làm giảm xuất khẩu hàng dệt may và do đó làm giảm nguồn thu ngoại hối của đất nước. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy trong việc phát triển nhanh xuất khẩu hàng dệt may là ý khí và sự khéo léo của chính phủ trong việc điều chỉnh tỷ giá chính thức, thuế quan và trợ cấp để duy trì tỷ giá thực tế kích thích hàng dệt may về lâu dài và ngăn ngừa tỷ giá nhập khẩu trượt lên cao với tỷ giá xuất khẩu . a. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Trong quá trình đổi mới hơn 10 năm qua dệt may là ngành công nghiệp phát triển rất nhanh. Sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may có vai trò quan trọng trong công cuộc CNH,HĐH nền kinh tế đất nước ta. Tính đến đầu năm 2000 năng lực sản xuất của toàn ngành có thể sản xuất 162 000 tấn sợi, 800 triệu mét vải, 39 trriệu sản phẩm dệt kim, 400 triệu sản phẩm mang các loại và nhiều hàng dệt may khác. Ngành dệt may đang hiện có gần 90 vạn lao động làm việc, chiếm gần 20% tổng số lao động công nghiệp của cả nước. xuất khẩu hàng dệt may đã, đang,và sẽ là ngành quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 với mức tăng trưởng cao (từ 30-40%) liên tục và ổn định suốt gần chục năm qua tỷ trọng kim ngạch trong cơ cấu xuất khẩu cũng ngày càng tăng và chiếm một tỷ lệ quan trọng (chiếm khoảng 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu). Tuy nhiên xuất khẩu hàng dệt may hiện nay mới chỉ dừng ở mức gia công là chủ yếu (chiếm khoảng 75-80%) đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước hàng năm khoảng 300 tỷ USD. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế khu vực hai năm qua xuất khẩu của nước ta cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng nặng nề, mặc dù lúc đầu có quan điểm cho rằng nước ta có mức độ hội nhập chưa cao nên ít bị ảnh hưởng. Thực ra không hoàn toàn như vậy, nước ta đang là nước chậm phát triển lại đang trong quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Bên cạnh đó ngành dệt may được khối EU cấp khá nhiều hạn ngạch nhưng so với Trung Quốc và ASEAN khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam vẫn thua kém. Số lượng hạn ngạch ưu đãi cho Việt Nam chỉ bằng 20% của các nước ASEAN và 5% của Trung Quốc. Số mặt hàng dệt may của Việt Nam bị hạn chế vào thị trường EU là 28 nhóm. Sản phẩm dệt may của ta xuất khẩu vào EU tập chung ở một số sản phẩm truyền thống dễ làm như áo sơ mi quần âu áo jacket.....những sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao còn sơ chống hạn ngạch được cấp. ở khu vực thị trường hàng dệt may châu átập chung ở Nhật Bản, Hàn Quốc hàng dệt may Việt Nam đang có uy tín cao nhưng cũng bị cạnh tranh gay gắt và mất dần lợi thế bởi hàng dệt may của các nước đang hồi phục sau khủng hoảng tiền tệ Châu á vừa qua ở thị trường Mỹ và Bắc Mỹ hàng dệt may xuất khẩu của doanh nghiệp còn rất nhỏ bé và gặp nhiều khó khăn trong quá trình thâm nhập vì chúng ta chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc do chính phủ Mỹ quy định. b. Bảng giá trị xuất khẩu của hàng rệt may Việt Nam. Bảng : Giá trị xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam Năm Ngành dệt Ngành may Ngành dệt may 1990 27,8 90,7 118,5 1991 29,4 142,9 172,3 1992 39,6 357,2 396,8 1993 61,7 512,0 582,7 1994 107,8 691,6 799,4 1995 147,8 878,8 1026,6 1996 175,5 1162,7 1338,2 1997 176,8 1172,2 1349,0 1998 177 1174,5 1351,5 1999 207,2 1539,8 1747 Nguồn: UNIDO, Bộ kế hoạch và đầu tư, Tổng cục thống kê. 2. Thị trường hàng dệt may của Việt Nam a. Thị trường EU. Châu Âu từng được mệnh danh là lục địa già nhưng lại là một khu vực thị trường rộng lớn, là nơi cung cấp các thiết bị, công nghệ hiện đại, là một trung tâm tài chính, kinh tế lớn.Với số dân 374.2 triệu người và có GDP hơn 9000 tỷ USD, EU thật sự là một thị trường đầy tiềm năng, có mức tiêu thụ hàng dệt may lớn (17 kg/người/năm). Do diễn trình lịch sử giữa Liên hiệp Châu Âu (EU) và từng quốc gia thành viên với Việt Nam ở mức độ khác nhau đã có quan hệ thương mại. Ngoại thương 2 năm còn có nhiều triển vọng vì Việt Nam quan hệ buôn bán với nhiều nước thuộc EU đã có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ buôn bán, thoả thuận chiến lược hợp tác 1996 – 2000. Hoạt động của Uỷ ban hợp tác EU đang thúc đẩy tiến trình hợp tác chung và trong từng lĩnh vực cụ thể như y tế, giáo dục, trợ giúp kỹ thuật giúp Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Bên cạnh đó, EU còn viện trợ nhân đạo ủng hộ Việt Nam trong các diễn đàn quốc tế về kinh tế thương mại, tài chính tiền tệ. EU đã sắp xếp Việt Nam vào danh sách các nước được ưu tiên phát triển hợp tác 30% tổng số vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam là của các nước thuộc EU. Thời kỳ đầu các Công ty Châu Âu tập trung vào bất động sản thì nay đã quan tâm đến chế biến nông sản, cơ sở hạ tầng. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của EU đã sản xuất và xuất khẩu, đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Hàng trăm doanh nghiệp EU đã đặt văn phòng đại diện để làm cầu nối giữa Công ty chính với thị trường Việt Nam Tình hình xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU trong những năm gần đây đã tăng dần lên rõ rệt. Năm 1991, tổng kim ngạch 2 chiều giữa Việt Nam với EU chỉ có 360 triệu USD, đến năm 1997 đã tăng gần 10 lần. Năm 1998 rồi 1999 đã có những động thái khích lệ, gia tăng xuất khẩu của Việt Nam cho chính năm đó và tạo cơ hội phát triển cho năm 2000 vào những năm tiếp theo. Khi Hiệp định về hàng dệt may thời kỳ 1992 – 1997 sắp hết hạn, EU đã ký tiếp Hiệp định đó cho thời kỳ 1998 – 2000 tăng hạn ngạch so với Hiệp định trước là 31%. Thêm vào đó do tận dụng quy định trong Hiệp định có thể chuyển đổi hạn ngạch, Việt Nam đã được sử dụng thêm hạn ngạch của Singapo, Inđonêxia và Philipin tới mức 10% hạn ngạch của các chủng loại. Hàng năm EU nhập khẩu 63 tỷ USD hàng dệt may các loại trong đó Đức là thị trường lớn nhất chiếm khoảng 402 triệu USD. Riêng hàng dệt may là 145 triệu USD, sau Đức là Anh giữ vị trí thứ 2 với kim ngạch nhập khẩu 290, 6 triệu USD (riêng hàng dệt may là 38,5 triệu USD). Hà Lan là nước nhập khẩu hàng Việt Nam đứng thứ 3 với 240,8 triệu USD (riêng hàng dệt may là 30,6 triệu USD), Pháp giữ vị trí thứ 4 với kim ngạch nhập khẩu hàng Việt Nam là 223,4 triệu USD. Những quốc gia còn lại như Bỉ, Italia, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Phần Lan ... Đều có nhập hàng dệt may của Việt Nam nhưng số lượng không đáng kể. Điều đó cho thấy tỷ trọng hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang EU còn quá ít. Mặc dù thừa nhận rằng Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU đã tạo 1 bước tiến trong xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Bảng giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU Đơn vị: triệu USD Năm Giá trị xuất khẩu Năm Giá trị xuất khẩu 1993 250 1997 450 1994 275 1998 620 1995 350 1999 700 1996 420 2000 820 Nguồn: Tổng công ty Vinatex Vừa qua, Liên minh Châu Âu đã đồng ý tăng hạn ngạch dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường nay lên 4324 tấn (tức 26%) cho những mặt hàng Việt Nam có khả năng xuất khẩu. Tính chung toàn tổng công ty đã xuất khẩu được 106,6 triệu USD (tính theo giá FOB), nộp ngân sách 33,7 tỷ. Trong đó, 10 mặt hàng dệt may được tăng hạn ngạch xuất khẩu đi EU như cat 4, áo T – shirt, polo – shirt cat 5 áo len tăng 19,98%, cat 6 tăng 12,89%, cat 7: sơ mi nữ tăng 17,82%.. . hiện còn nhiều mặt hàng khác Việt Nam được EU cấp hạn ngạch xuất khẩu nhưng do số lượng đơn đặt hàng ít nên tỷ lệ sử dụng hạn ngạch rất thấp bao gồm cat 12, tất dài chỉ sử dụng 2,93% hạn ngạch được cấp, cat 9: khăn vải bông, khăn vải vệ sinh sử dụng 21,72%, cat 10: găng tay sử dụng 33,3%.. . Danh sách 16 mặt hàng dệt may xuất đi EU được tăng hạn ngạch Cat 4: áo T – shirt và Polo – shirt, 9,8 triệu chiếc tăng 39,99% Cat 5: áo len, 3, 25 triệu chiếc, tăng 19,98% Cat 6: quần 5 triệu chiếc, tăng 12,89% Cat 7: sơ mi nữ, 2,75 triệu chiếc, tăng 17,82% Cat 8: sơ mi nam, 13 triệu chiếc , tăng 43,5% Cat 15: áo khoác nữ, 475.000 chiếc, tăng 43,5% Cat 21: áo jacket, 18 triệu chiếc, tăng 14, 16% Cát 26: váy áo liền, 1,15 triệu chiếc, tăng 44,47% Cat 29: bộ quần áo dệt kim nữ, 350 000 bộ, tăng 32% Cat 31: áo lót nhỏ, 4 triệu chiếc, tăng 36,99% Cat 68: quần áo trẻ em, 425 tấn, tăng 32,69%. Cat 73: quần áo khác, 1 triệu bộ, tăng 32,69% Cat 78: quần áo thể thao, 1200 tấn, tăng 71, 42% Cat 83: quần, áo, 350 tấn, tăng 65% Cat 97: lưới đánh cá, 200 tấn, tăng 86,91% Cat 118: vải lanh trải giường, trải bàn, 250 tấn, tăng 194,1%. b. Thị trường Mỹ. Dân số nước Mỹ khoảng 272 triệu người ít hơn các nước EU nhưng mức tiêu thụ hàng dệt may lại nhiều hơn gấp rưỡi EU (27 kg/người/năm) nên tổng nhu cầu sử dụng là rất lớn,thêm vào đó nhu cầu sử dụng đa dạng , phong phú. Nhu cầu lớn của thị trường Mỹ đối với hàng dệt may được đáp ứng chủ yếu bằng nguồn nhập khẩu nên đây được xem là một thị trường tiềm năng rất lớn đối với các nước xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới. Quá trình phát triển thương mại Mỹ và Việt Nam có thể được tính bắt đầu vào ngày 3/2/1994 Mỹ đã huỷ bỏ cấm vận thương mại với Việt Nam và sau đó Mỹ cho phép các Công ty Mỹ được xuất khẩu các mặt hàng có nhu cầu thiết yếu cho con người. Đến ngày 12 – 7- 1995 chính phủ Mỹ quyết định bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam, hai bên đã mở rộng trao đổi các đoàn thương mại tìm hiểu thị trường của nhau, đồng thời hợp tác cung cấp thông tin và những văn bản luật pháp, những chính sách, cơ chế, thủ tục để có những bước chuẩn bị cần thiết cho việc đàm phán Hiệp định thương mại của 2 nước. Sau 8 vòng đàm phán song phương 2 bên đã được thoả thuận về nguyên tắc các điều khoản của Hiệp định thương mại song phương. Hiệp định xử lý các vấn đề liên quan đến thương mại, hàng hoá, dịch vụ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quan hệ giữa 2 nước. Triển vọng về quan hệ thương mại hai nước sau khi ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ là rất lớn. Do Mỹ là thị trường hấp dẫn và khá lý tưởng đối với các nước xuất khẩu hàng hoá trên thế giới, nước Mỹ có một nền ngoại thương phát triển mạnh và là một thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá hàng năm tăng lên đến trên 1 ngàn tỷ USD.Chiếm trên 12% tổng giá trị xuất khẩu và trên 14% tổng giá trị nhập khẩu của thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận được với thị trường Mỹ, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ tuy thấp nhưng có tốc độ tăng trưởng cao. Bảng giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ Đơn vị: Triệu USD Mặt hàng 1994 1995 1996 1997 1998 Hàng dệt 0,14 1,78 3,59 5,326 5,053 Hàng may 2,45 15,09 20,01 20,602 21,347 Cộng 2,56 16,87 23,60 25,928 26,40 Nguồn: Bộ thương mại Mỹ Nhìn vào bảng trên cho thấy sản phẩm hàng dệt xuất khẩu sang Mỹ những năm 1995 – 1997 đã có tốc độ tăng trưởng rõ rệt nhưng lại giảm vào năm 1998. Còn sản phẩm hàng may xuất khẩu sang Mỹ lại tăng nhanh ngay đầu những năm 1995 và tăng dần đến năm 1998 cho thấy ngành may nói riêng đã có những bước đầu hội nhập vào thị trường Mỹ khá thành công. Ngành dệt may nói chung đã có từng bước phát triển nhưng chưa đồng bộ và chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ và 53,769 tỷ USD. Mỹ là thị trường có sức mua các loại sản phẩm dệt may lớn nhất thế giới bao gồm nhiều chủng loại khác nhau kể cả các sản phẩm trung bình. Điều đáng lưu ý là khách hàng Mỹ chỉ mua hàng thành phẩm không qua gia công. Vì vậy, hàng dệt may của Việt Nam muốn được hưởng thuế ưu đãi (GSP) vào Mỹ phải sản xuất bằng các loại vải và nguyên liệu tại Việt Nam. Thách thức với các doanh nghiệp Việt Nam ở chỗ Mỹ là nước nhập khẩu nhiều nhưng Mỹ vẫn giành một thị phần đáng kể cho các doanh nghiệp Mỹ, vậy điều đầu tiên khi thâm nhập thị trường Mỹ là doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh với nền công nghiệp Mỹ. Lực lượng cạnh tranh lớn thứ hai là các quốc gia đã và đang xuất khẩu hàng dệt may có uy tín trên thị trường Mỹ trong những năm qua như ; Mêxicô( xuất khẩu sang Mỹ 6.9 tỷ USD hàng dệt may ), Trung Quốc (xuất khẩu sang Mỹ 4.42 tỷ USD), Bangladesh, Đài Loan, Hàn Quốc . . . c. Một số thị trường khác. Nhật Bản là 1 cường quốc về công nghiệp dệt may, song do giá nhân công tại Nhật Bản ngày càng cao và lại thiếu nhân công, đồng yên lại tăng giá nên từ năm 1980 Nhật Bản đã chuyển đổi chiến lược là giảm sản xuất trong nưcớ và tăng nhập khẩu hàng dệt may. Năm 1998 nhập khẩu 14 tỷ USD hàng dệt may trong đó Việt Nam chiếm 0,467 tỷ USD. Ưu thế của thị trường Nhật Bản là không hạn ngạch, thuế nhập khẩu lại thấp, địa lý gần nên hàng dệt may nước ta có khả năng cạnh tranh với các nước xuất khẩu khác. Ngoài thị trường Nhật Bản hàng dệt may của Việt Nam đã vươn tới các thị trường khác như thị trường SNG và Đông Âu, thị trường Bắc Âu và Trung Đông, bên cạnh đó còn phải kể đến các nước trong khu vực. Với thị trường SNG và Đông Âu mấy năm gần đây đã bắt đầu được khôi phục. Cộng hoà Liên bang Nga đã trở thành một trong 10 nước nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam với kim ngạch nhập khẩu là 41,4 triệu USD năm 1997 và 59,3 triệu USD năm 1998. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bắt đầu quan tâm khôi phục lại thị trường Đông Âu với phương thức bán chủ yếu là hàng đổi hàng với giá trị kim ngạch hàng dệt may dự kiến lên đến 100 triệu USD. Hàng dệt may Việt Nam mới xuất khẩu sang thị trường Bắc Âu khoảng 10 tỷ USD. Thị trường Trung Đông là 1 hướng đi mới cho ngành dệt may Việt Nam. Xuất khẩu sang thị trường Trung Đông có nhiều điểm thuận lợi, nhu cầu nhập khẩu ao do công nghệ sản xuất hàng tiêu dùng của các nước này chưa phát triển. Mặc dù kim ngạch còn thấp nhưng một số mặt hàng dệt may của Việt Nam đã tỏ ra có khả năng thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường này. Ngoài ra hàng năm hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu một lượng lớn sản phẩm sang các nước trong khu vực như Đài Loan, Hồng Kông, Singapo, Hàn Quốc,.. . Tuy nhiên các nước này không phải là thị trường nhập khẩu chính mà là nước nhập khẩu để xuất sang nước thứ 3. II. Thực trạng về thâm nhập thị trường nước ngoài của hàng dệt may Việt Nam 1. Những thành tựu đạt được. Trong quá trình đổi mới hơn 10 năm qua, tổng công ty dệt may Việt Nam đã chỉ đạo các doanh nghiệp tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để dần dần ký được các hợp đồng xuất khẩu trực tiếp. Đặc biệt, từ năm ngoái, tổng công ty dệt may đã thực hiện 7 dự án với mức đầu tư là 106,4 tỷ đồng và 26 dự án với mức đầu tư là 532 tỷ đồng, trong đó 50 tỷ đồng là vốn tín dụng ưu đãi. Tổng Công ty cũng đã sử dụng nguồn vốn ODA để đầu tư cho 11 dự án tại Viện dệt, nhà máy dệt Nam Định và May 10, bước đầu các dự án này đã mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực. Không những thế, năng lực sản xuất và chất lượng hàng dệt may của ta đã đứng vững và có uy tín trên các thị trường thời trang khắt khe nhất thế giới như Pari, London, Roma, Berlin, Tokyo... cùng với việc không ngừng đổi mới công nghệ, sử dụng những loại nguyên phụ kiện và vải hợp xu thế thời trang, chất lượng hàng dệt may Việt Nam ngày nay đã đạt các tiêu chuẩn quốc tế. Hàng loạt các tập đoàn dệt may có tên tuổi trên thế giới đã vào Việt Nam đặt hàng như hãng Nike, Adidas, Stone, Fashion.. . 2. Những mặt tồn tại và nguyên nhân. Bên cạnh những thành tựu đạt được đáng khích lệ trong những năm qua, ngành dệt may của ta còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại nhất định. Ngành dệt may Việt Nam do chưa có kế hoạch tổng thể, chưa có chiến lược phát triển đồng bộ, chưa được đầu tư đúng mức nên còn gặp nhiều khó khăn và bị phân hoá thành 2 cực rõ rệt. Ngành dệt chủ yếu gặp phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài (trên 90%), hệ thống máy móc công nghệ lạc hậu, sản xuất ra sợi và vải không đáp ững được yêu cầu chất lượng cho các xí nghiệp may xuất khẩu, chủ yếu là tiêu thụ tại thị trường trong nước lên đến 70% doanh thu. Trong khi đó các doanh nghiệp may được trang bị máy móc khá hiện dại lại may xuất khẩu là chính, doanh thu tiêu thụ nội địa chỉ chiếm 7,5 – 9,4% sản phẩm may của Việt Nam không chiếm lĩnh được thị trường nội địa bởi giá cao và phải mượn mác của các nước khác để xuất khẩu. Nước ta phải nhập nguyên liệu dệt thành vải để dùng, lại phải nhập vải may thành sản phẩm rồi mới đem đi xuất khẩu dưới nhãn mác nước ngoài. Ngành dệt may bị ép giá hạ khi bán sản phẩm ra nước ngoài. Thị trường nội địa bị vải và quần áo nước ngoài vào chiếm lĩnh. Có tới 70% các xí nghiệp nay làm hàng gai công để xuất khẩu hàng như chúng ta mới chỉ khởi động ở 2 thị trường chính là Nhật Bản và EU. Nói như vậy bởi vì kim ngạch xuất khẩu của ta vào 2 thị trường này còn rất nhỏ bé so với nhu cầu của 2 thị trường này. Những năm ta xuất khẩu vào 2 thị trường này là trên 1 tỷ USD. Trong khi đó họ nhập khẩu 4 – 5 chục tỷ USD hàng dệt may. Thị trường Bắc Mỹ đầy tiềm năng nhưng bị hạn chế bởi kim ngạch, hàng dệt may Việt Nam không thể thâm nhập được do thuế nhập khẩu cao. Những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại: + Năng lực và thiết bị của ngành dệt mới huy động được gần 40% công suất thiết bị nhưng hầu hết công nghệ lạc hậu và thiếu đồng bộ giữa các khâu. Đặc biệt là thiết bị dệt và nhuộm, ngành may chưa chủ động tiếp cận được trực tiếp với khách hàng tiêu thụ sản phẩm ở thị trường thế giới (xuất khẩu sản phẩm qua đối tác trung gian). + Hệ thống quản lý chất lượng của ngành dệt may chưa được quan tâm chú ý đúng mức. Nhiều doanh nghiệp chưa có giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng sản phẩm. Tính đến cuối năm 1999 toàn ngành mới có 8 doanh nghiệp đăng ký quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 trong đó 4 đơn vị được cấp chứng chỉ. + Chất lượng nguồn nhân lực của ngành dệt may còn nhiều bất cập. Lực lượng lao động của ngành dệt may khá đông (trên 90% vạn người), nhưng số lượng công nhân kỹ thuật trình độ thợ bậc cao, giỏi còn ít. Đội ngũ cán bộ chủ chốt trong các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế trong tiếp cận với phong cách quản lý hiện đại, đặc biệt là kinh nghiệm giao dịch xuất nhập khẩu, nghiên cứu thị trường thế giới. + Vốn cho đầu tư phát triển của ngành dệt may còn thiếu, đặc biệt ở các doanh nghiệp Nhà nước. Hiện tượng đầu tư dàn trải, manh mún theo xu hướng tự cân đối khép kín ở nhiều doanh nghiệp làm cho ngành dệt – may ở tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa các khâu sản xuất. + Chính sách đầu tư phát triển ngành dệt may chưa hợp lý: như quy định về thời gian thu hồi vốn vay đầu tư phát triển cho ngành dệt từ 7 – 10 năm, ngành may từ 5 – 7 năm. Thực tế ở Việt Nam đầu tư vào ngành dệt phải từ 12 – 15 năm, ngành may từ 10 – 12 năm mới thu hồi được hết vốn. Các thủ tục triển khai đầu tư xây dựng thường kéo dài nhiều năm chưa có cơ chế chính sách cụ thể thích hợp để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước bỏ vốn đầu tư nhiều hơn vào ngành dệt – may. III. Đánh giá chung về hoạt động thâm nhập thị trường nước ngoài. Nhìn chung về các phương thức thâm nhập thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã đạt được một số thành công nhất định trong việc thâm nhập thị trường nước ngoài. Nhưng các biện pháp này chưa đủ mạnh để có thể chiếm lĩnh được một thị phần rộng lớn trong thị trường quốc tế và có thể chiếm lĩnh thị phần của các đối thủ cạnh tranh quốc tế bởi một số các lý do sau : Uy tín của hàng dệt may của việt trên thị trường quốc tế còn thấp . Độ hiểu biết của khách hàng quốc tế về hàng dệt may việt nam còn chưa cao. Hàng hóa chưa được mang nhãn mác của chính mình . Chương III Các giải pháp nhằm đẩy mạnh thâm nhập thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam I. Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy thâm nhập thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp dệt mayViệt Nam sang những thị trường chủ yếu. 1. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Trong hơn 10 năm qua, nhờ thực hiện đường lối mới và mở cửa của Đảng và nhà nước, nghành công nghiệp dệt may đã không ngừng phát triển cả về, năng lực sản xuất, trình độ trang thiết bị, không ngừng đổi mới công nghệ theo hướng gắn liền với thị trường xuất khẩu như EU, Nhật Bản, Mỹ, Canada. . . Các thị trường nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu rất lớn. Như thị trường Châu Âu (EU) là 1 khu vực thị trường rộng lớn, là nơi cung cấp các thiết bị công nghệ hiện đại, là trung tâm tài chính – tiền tệ lớn, với số dân 374,2 triệu người và có GDP hơn 9000 tỷ USD, có mức tiêu dùng hàng dệt may cao 17kg/người/năm. Ngoài ra, Nhật Bản cũng là thị trường đầy triển vọng trong việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Ưu thế của thị trường này là không hạn ngạch, thuế nhập khẩu thấp, địa lý gần nên khả năng cạnh tranh hàng dệt may của ta có ưu thế hơn các nước xuất khẩu khác. Khí hậu của Nhật Bản chia ra làm 4 mùa rõ rệt nên nhu cầu hàng dệt may là rất lớn 20,3 kg/người và thay đổi liên tục. Bên cạnh đó, Mỹ cũng là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may đầy tiềm năng của Việt Nam. Tuy thị trường Mỹ là một thị trường mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam nhưng nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ là rất lớn, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may tăng đều qua các năm (từ năm 1992 – 1998 tổng kim ngạch tăng 35 911 triệu USD – 53 769 triệu USD) quả thật là 1 thị trường khổng lồ nhập khẩu hàng dệt may. Thị trường Mỹ còn là thị trường mua các loại hàng dệt may bao gồm nhiều chủng loại khác nhau kể cả sản phẩm trung bình. Điều đó cũng là lợi thế đối với hàng dệt may Việt Nam. Không những thế các thị trường khác đã và đang làm tăng tiềm năng xuất khẩu ngành dệt may của Việt Nam như thị trường SNG và Đông Âu, Bắc Âu, Trung Đông và các thị trường trong khu vực. Bên cạnh đó kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng dần liên tục qua các năm, mức tăng trưởng trung bình đạt 40% năm. Tóm lại triển vọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường trên trong tương lai là rất lớn .Thêm vào đó Việt nam có ưu thế hơn về khả năng cạnh tranh với các nước xuất khẩu khác như ; giá nhân công rẻ, vị trí địa lý thuận tiện cho việc xuất khẩu và đặc biệt Việt Nam đang từng bước tạo dựng uy tín trên thị trường thế giới về chất lượng sản phẩm bằng sự quản lý chất lượng hàng hoá xuất khẩu của nhà nước. 2. Những giải pháp nhằm thúc đẩy xuất thâm nhậm hàng dệt may. Tổng công ty dệt may nên khai thác và huy động mọi nguồn vốn để tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng và nâng cao trình độ công nghệ thiết bị cho các doanh nghiệp dệt may tạo lập sự cân đối trong toàn ngành, đặc biệt giữa khâu kéo sợi và dệt, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt và may, may xuất khẩu. - Các cơ quan chức năng ở các khu vực tập trung (Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh) nên phát triển chủ yếu các hình thức chuyên môn hoá ngang (sợi, dệt). Các nhà máy dệt chuyên trách với quy mô khác nhau, sẽ mua sợi và chủ yếu dệt các loại vải cấp thấp và trung bình phục vụ thị trường trong nước. Bên cạnh đó, xây dựng 1 số nhà máy sợi – dệt liên hợp (liên kết dọc) để chuyên sản xuất 1 số loại vải cáo cấp phục vụ cho nhu cầu cao cấp của thị trường trong nước và xuất khẩu. ở vùng không tập trung, để tiết kiệm được trong khâu vận chuyển, có thể tổ chức sản xuất theo liên kết dọc (liên hợp sợi dệt) nhưng với quy mô không lớn, chủ yếu dệt các loại vải cấp thấp và trung bình để phục vụ tiêu dùng trong nước. Các cơ quan chức năng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng và khuyến khích chính sách doanh nghiệp đăng ký tiêu chuẩn ISO 9002 nhằm nhanh chóng nâng cao chất lượng của hàng dệt may Việt Nam.Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu thiết kế mẫu mã sản phẩm dệt may, nghiên cứu thời trang, quảng cáo các sản phẩm mới để hàng dệt may Việt Nam nhanh chóng đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đối với sản xuất trong nước, các doang nghiệp nhanh chóng chuyển dần việc nhận gia công sang chủ động mua nguyên liệu và tăng năng lực tạo ra nguồn nguyên liệu trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu. Ngoài ra, nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu thị trường chú ý cả thị trường trong nước và ngoài nước, thị trường hiện có và thị trường tiềm năng của ngành. Đối với thị trường xuất khẩu chú ý đến thị trường Mỹ và tiếp tục đẩy mạnh mở rộng thị trường xuất khẩu như EU, Nhật, Nga, Đông Âu, Bắc Âu, tìm hiểu thị hiếu khách hàng và sở thích tiêu dùng của từng thị trường tạo ra những mẫu mã mới, khác lạ hiệu quả so với các đối thủ cạnh tranh. II. Một số kiến nghị đối với Nhà nước 1. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác thương mại quốc tế Để mở rộng quan hệ hợp tác thương mại quốc tế trên thế giới trước hết chúng ta cần xem xét khả năng hội nhập của mình và đánh giá chính xác các bạn hàng quốc tế. Bộ thương mại tăng cường đàm phán thương mại để mở rộng thị trường và giành ưu đãi cho việc xuất khẩu hàng dệt may. Bên cạnh đó, Bộ thương mại nên khuyến khích các doanh nghiệp dệt may mở văn phòng đại diện, đại lý ở nước ngoài để đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường. Phát huy vai trò tích cực của các cơ quan thương vụ, tham tán thương mại ở các Đại sứ quán Việt Nam tại các nước trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu cho ngành dệt ma nước ta trong thời gian tới. Thành lập câu lạc bộ 100 doanh nghiệp hàng dệt may xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam để cổ vũ, tập hợp những điển hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam từ đó giới thiệu với khách hàng trong và ngoài nước. Danh sách này hàng năm được đổi mới theo thực tế kinh doanh xuất khẩu. 2. Những chính sách chủ yếu phục vụ cho việc thúc đẩy xuất khẩu Để khuyến khích xuất khẩu hàng dệt may chính phủ đã sử dụng nhiều biện pháp nhằm mở rộng xuất khẩu chiếm lĩnh thị trường. Nhưng có lẽ các doanh nghiệp Việt Nam còn khá rụt rè trong việc tung vốn ra để mở rộng kinh doanh. Do vậy, chính sách hỗ trợ vốn bằng nhiều hình thức khác nhau có lẽ là một biện pháp hữu hiệu nhất để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may. Trợ cấp xuất khẩu là một trong những biện pháp hữu hiệu giúp Nhà nước tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu và do đó đẩy mạnh được xuất khẩu. Bên cạnh đó Nhà nước miễn giảm thuế và hoàn lại thuế cho một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong những bước đầu ra thị trường còn ít bạn hàng kinh doanh nhưng sản phẩm có chất lượng và có tiềm năng chiếm được một vị trí nhất định trong tương lai. Ưu tiên cho ngành dệt may vay vốn đầu tư ưu đãi của ngân sách với lãi suất 5%/năm và thời hạn vay từ 10- 12 năm để tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị cho ngành dệt may. Muốn đẩu mạnh xuất khẩu hàng dệt may trong những năm tới chính phủ cần cải tiến chế độ phân bổ hạn ngạch. Đặc biệt cần ổn định hạn ngạch cho các doanh nghiệp đã thực hiện tốt hạn ngạch được cấp, nếu ngược lại sẽ mất thị trường và khách hàng truyền thống. Việc tổ chức đấu thầu hạn ngạch càn hết sức thận trọng vì lợi ít, hại nhiều. Chỉ nên đấu thầu phần hạn ngạch hàng năm tăng thêm và với một số mặt hàng hạn chế (khoảng 3 - 4 mặt hàng). Đối tượng dự thầu phải là những doanh nghiệp thực sự sản xuất, xuất khẩu hàng có uy tín có chất lượng cáo qua các năm. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát, đánh giá thực lực việc thực hiện hạn ngạch. Chỉ cấp hạn ngạch cho doanh nghiệp thực sự sản xuất hàng xuất khẩu đi các thị trường có hạn ngạch. Liên Bộ chỉ cấp hạn ngạch các chủng loại hàng các năm qua sử dụng hết hạn ngạch. Các chủng loại hạn ngạch khác lâu nay dư thừa nhiều nên để các phòng quản lý xuất nhập khẩu ở 3 khu vực cấp giấy phép xuất khẩu (E/L) tự động. Tổ điều hành liên bộ theo dõi và thông báo ngừng cấp E/L hết hạn ngạch (hiện nay đã nối mạng hệ thống cấp E/L toàn quốc). Xúc tiến thương mại bằng các phương pháp và khả năng cũng là một trong những biện pháp tăng cường thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may. Giới thiệu cho doanh nghiệp của Việt Nam về thị trường Châu Âu (EU) từ hệ thống thuế quan phổ cập các biện pháp phi hạn ngạch, giá cả hàng dệt may. Ngược lại, thông tin cho phía khách hàng Châu Âu hiểu về thị trường, chủng loại, mẫu mã, giá cả hàng dệt may Việt Nam. Kết luận Nói về tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam của các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam quả thật là sự vươn lên đáng khích lệ. Ngành dệt may rơi vào bối cảnh thị trường Đông Âu- Liên Xô cũ sụp đổ, tiếp đến là sự tràn ngập của hàng may mặc nhập ngoại “rẻ như bèo”, tiếp đến là khủng hoảng tài chính khu vực có lúc đã khiến người ta nghi ngờ sự tồn vọng của ngành dệt may nước nhà. Sự thực thì đã có lúc nguồn sống chính của cả ngành may cũng như để đóng góp cho đất nước là làm thuê cho nước ngoài, tiếng nhiều nhưng lãi thực chẳng bao nhiêu. Đặt trong bối cảnh như vậy ngành dệt may đã thực sự chuyển mình trong những năm qua. Ngành đã thực hiện cuộc cách mạng công gnhệ đưa toàn ngành tiếp cận với công nghệ hiện đại. Quan trọng hơn là ngành thay đổi nếp nghĩ, lề lối làm ăn, từng bước vững chắc thoát khỏi vị tró làm thuê. Ngành cũng đã từng bước tự tìm tói thị trường xuất khẩu trực tiếp và tiếp tục tăng hạn ngạch với thị trường hàng dệt may đã có uy tín như UE, Nhật Bản... Bên cạnh đó, ngành dệt may đang tiếp cận được thị trường Mỹ đầy tiềm năng về nhập khẩu hàng dệt may. Ngoài những thành tựu ngành đạt được chúng ta còn phải kể đến những mặt tồn tại mà muốn tìm chỗ đứng trên thị trường hàng dệt may thế giới thì chúng ta cần phải khắc phục tình trạng phát triển khập khễnh của ngành dệt và ngành may và sau đó còn phải quản lý hạn ngạch và phân bổ chúng cho hợp lý.. .. Nói tóm lại, tiềm năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam là rất lớn bởi những ưu thế của quốc gia và sự học hỏi của những nước phát triển về công nghệ, quản lý của các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam, để từng bước không ngừng phát triển ra những thị trường xuất khẩu mới của ngành. Nhận xét của giáo viên hướng dẫn Tài liệu Tham Khảo Giáo trình Marketing quốc tế – Nguyễn Cao Văn Giáo trình sau đại hoc kinh doanh quốc tế- Đỗ Đức Bình Kỷ yếu hội thảo khoa học - khoa KT&KDQT Bài giảng kinh doanh quốc tế(vở viết) Tạp chí 1) Khả năng cạnh tranh của nghành công nghiệp dệt may trong bối cảnh tự do hoá thương mại _ Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 270-11/2000 2) Để hàng dệt may Việt Nm chiếm lĩnh thị trường thế giới _ Tạp chí phát triển kinh tế số 118-8/2000 3) Triển vọng xuất khẩu sang EU đang tăng dần lên _ Tạp chí kinh tế Việt Namvà thế giới số 77- năm 2000 4) Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của nghành dệt may Việt Nam _ Tạp chí kinh tế và phát triển số 41- năm 2000 5) Những thay đổi cơ bản trong thương mại hàng dệt may thế giới và ảnh hưởng của chúng tới cạnh tranh xuất khẩu hiện nay _ Tạp chí Thương mại số 23- năm 2000 6) Thị trường EU và ngoại thương Việt Nam _ Tạp chí Thương mại số 9- năm 2000 7) Thêm hàng dệt may đi EU _ Tạp chí kinh tế Việt nam và thế giới số 56- năm 2000 8)dệt may Việt nam hướng ra thị trường nước ngoài _Tạp chí kinh tế Việt nam và thế giới số 77- năm 2000 9) Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may _ Tạp chí Thương mại số 12-năm1999 10) Để dệt may trở thành ngành mũi nhọn -Báo kinh tế -đầu tư số 6- năm 2000 11) Kinh nghiệm một số nước về phát triển ngành công nghiệp dệt may và khả năng vận dụng vào Việt Nam _ Báo công nghiệp số 20- năm 2000 12) Hàng dệt may Việt Nam và thị trường Mỹ những triển vọng và thách thức _ Báo phát triển kinh tế số 40 – năm 2000 Tạp chí ngiên cứu đông nam á 13) Việt nam hội nhập ASEA- Lợi thế khác biệt – số4/2001 14) Khu mậu dịch tự do ASEA – Hội nhập của việt nam- số 2/2001 15) Hội nhập kinh tế quốc tế với một số chính sách thương mại- sô4/2001 16) Kinh tế châu á thái bình dương

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29330.doc
Tài liệu liên quan