Đề án Cơ sở khoa học hình thành mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010

Vấn đề dự báo tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng có vị trí quan trọng trong việc xây dựng chính sách phát triển của một quốc gia. Việc xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cơ sở để xây dựng và lập nên các kế hoạch về nguồn lực và các mục tiêu kinh tế và xã hội khác. Tuy nhiên viêc dự báo tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình phức tạp đòi hỏi vận dụng nhiều kiến thức chuyên ngành bổ trợ có liên quan, kiến thức chuyên môn sâu rộng biết nắm bắt tình hình và đưa ra những nhận định, dự báo chính xác.

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Cơ sở khoa học hình thành mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỳ nhất định (ngắn hạn) tương ứng với mức giá và tiền lương nhất định, sản lượng của nền kinh tế luôn ở dưới mức tiềm năng. Tức là nền kinh tế còn các nguồn lực tiềm tàng- công nhân thất nghiệp tự nhiên, vốn tích luỹ lớn, công suất máy móc chưa sử dụng hết,…Trong trường hợp đó cung không phải là vấn đề giới hạn. Các hãng vui lòng cung ứng sản lượng theo yêu cầu. Do vậy tổng sản lượng thực chất chỉ phụ thuộc vào tổng cầu. Mặc dù các giả định đưa ra đều phù hợp với thực tế các nước đã phát triển và sự phân tích được chứng minh chặt chẽ, được hầu hết các nhà kinh tế học hiện đại đồng tình. Song có lẽ điều đó khó có thể chứng minh được ở những nền kinh tế còn chưa có thể đáp ứng được nhu cầu cơ bản của đất nước. Có lẽ mỗi quan điểm trên có giá trị trong mỗi hoàn cảnh và điều kiện riêng. “Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế học vĩ môvà kinh tế học phat triển là những khả năng cung của các nền kinh tế đã phát triển và đang phát triển, đạc biệt là khả năng cùng về tư liệu sản xuất”(S.S.Park) đã từ sự phát triển của Hàn Quốc- một nước đang phát triển kinh tế đã đi lên hoà nhập vào khối các nước công nghiệp mới (NIC), cũng nêu rõ quan điểm “kinh tế học phát triển nên tập trung vào công việc tạo ra và mở rộng cung, chứ không phải tạo cầu”. Xuất phát từ thực tế ở các nước đang phát triển cung chưa đáp ứngđược cầu, việc gia tăng sản lượng phải bắt nguồn từ sự gia tăng trong đầu vào của các yếu tố sản xuất theo quan hệ hàm số giữa sản lượng với vốn, lao động, đất đai và nguyên liệu, kĩ thuật và công nghệ. Hàm sản xuất trên nói lên sản lượng tối đa có thể sản xuất được tuỳ thuộc vào lượng đầu vào trong điều kiện trình độ kỹ thuật và công nghệ nhất định. Mỗi một yếu tố (biến số) có vai trò nhất định trong việc tạo ra sự gia tăng sản lượng, do trình độ phát triển kinh tế mỗi nơi, mỗi lúc quyết định. -Vốn sản xuất là một bộ phận tài sản quốc gia được trực tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất hiện tại cùng với các yếu tố sản xuất khác, để tạo ra sản phẩm hàng hoá (đầu ra). Nó bao gồm các máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà kho và cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Trong điều kiện năng suất lao động không đổi, thì tăng tổng số vốn sẽ làm tăng thêm sản lượng, hoặc trong khi số lao động không đổi, tăng vốn bình quân đầu người lao động, cũng sẽ làm gia tăng sản lượng. Tất nhiên trên thực tế sự biến thiên của yếu tố vốn không đơn giản như vậy, vì nó có liên quan đến các yếu tố khác như lao động kỹ thuật. -Lao động là yếu tố sản xuất. Nguồn sức lao động được tính trên tổng số người ở tuổi lao động và có khả năng lao động trong dân số. Nguồn lao động với tư cách là yếu tố đầu vào khác được tính bằng tiền, trên cơ sở giá cả lao động được hình thành do thị trường và mức tiền lương qui định. Là yếu tố sản xuất đặc biệt, do vậy lượng lao động không đơn thuần chỉ là số lượng (đầu người hay thời gian lao động) mà còn bao gồm chất lượng của lao động, người ta vẫn gọi là vốn nhân lực. Đó là con người bao gồm trình độ tri thức học vấn và những kĩ năng, kinh nghiệm lao động sản xuất nhất định. Do vậy những chi phí nhằm nâng cao trình độ người lao động- vốn nhân lực, cũng được coi là đầu tư dài hạn cho giáo dục- đào tạo lại thường được coi là đầu tư cho sự nghiệp xã hội. -Đất đai là yếu tố sản xuất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Mặc dù với nền kinh tế công nghiệp hiện đại, đất đai dường như không quan trọng. Song thực tế cũng không phải hoàn toàn như vậy. Kể cả sản xuất công nghioệp hiện đại, không thể không có đất đai. Do diện tích đất đai là cố định, người ta phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai bằng vốn đầu tư thêm lao đọng và vốn trên một đơn vị diện tích nhằm tăng thêm sản phẩm. Chính vì điều này đã làm vai trò của vốn nổi lên thêm và đất đai trở thành kém quan trọng. Nhưng như vậy không có nghĩa là lao động và vốn có thể thay thế hoàn toàn cho đất đai. Các tài nguyên khác cũng là đầu vào trong sản xuất: các sản phẩm từ trong lòng đất, từ rừng và biển, nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong phú được khai thác sẽ làm tăng sản lượng một cách nhanh chóng, nhất là các nước đang phát triển. -Những thành tựu kĩ thuật và công nghệ mới là đầu vào đóng vai trò cực kì quan trọng bằng sự tiến bộ của các nước NIC trong mấy chục năm gần đây, do những thành tựu tiến bộ khoa học kĩ thuật đưa lại Những kĩ thuật và công nghệ mới ra đời là do sự tích luỹ kinh nghiệm trong lịch sử và đặc biệt là được tạo ra từ những tri thức mới- sự phát minh, đem áp dụng vào các qui trình sản xuất hiện tại. Sự chuyển nhượng và ứng dụng những phát minh tiến bộ kĩ thuật và công nghệ mới trong quá trình sản xuất, rõ ràng là một lợi thế lịch sử của các dân tộc, các nước kém phát triển. Vì những chi phí cho việc mua kĩ thuật và công nghệ mới ở các nước đã phát triển, rõ ràng là đỡ tốn kém thời gian và của cải hơn rất nhiều so với việc phải đầu tư để có những phát minh mới, phải đi từ đầu tư giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổng kết các tri thức kinh nghiệm và tự mày mò chế tạo rồi mới xó thể ứng dụng vào sản xuất. -Ngoài các yếu tố sản xuất, ngày nay người ta còn đưa ra một loạt các nhân tố kinh tế khác tác động tới tổng mức cung, như lợi thế do qui mô sản xuất, chất lượng lao động (hay yếu tố con người) và khả năng tổ chức quản lí. Những nhân tố tạo cung này rõ ràng đã làm tăng sản lượng. -Qui mô sản xuất thể hiện khối lượng sử dụng đầu vào. Trong khi tỷ lệ giữa các yếu tố sản xuất không đổi, các điều kiện khác như nhau. -Chất lượng lao động bao gồm những hiểu biết chung (trình độ văn hoá phổ thông); những kĩ năng kĩ thuật được đào tạo, kinh nghiệm và sự khéo léo tích luỹ trong lao động, ý thức tổ chức- kỉ luật và ý thức mong muốn đạt hiệu quả cao trong công việc. Để có đội ngũ những người lao động và kinh doanh giỏi, mà nhiều nhà kinh tế cho rằng đó là đọng lực để đạt được sự tăng trưởng cao, thì phải mcó đầu tư cao trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo và phải có thời gian. -Mỗi ngành, mỗi khu vực sản xuất vật chất có năng suất khác nhau. Sự đổi mới cơ cấu kinh tế vĩ mô làm cho các khu vực, các ngành có năng suất cao chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, tất yếu sẽ làm cho sản lượng tăng lên. Sự đổi mới trong cơ chế thể hiện ở sự bố trí lại nguồn lực cho cơ cấu mới, bố trí lại cơ cấu tích luỹ và tiêu dùng, và các biện pháp tạo cung, tạo cầu…Điều đó làm cho các nhân tố tích cực được nhân lên, giảm bớt một cách tương đối những chi phí, cũng đưa lại hiệu quả như một sự đầu tư. Như vậy tổ chức và quản lí kinh tế được coi như một nhân tố làm tăng thêm sản lượng. 1.2.2. Các nhân tố phi kinh tế Khi đề cập đến khái niệm phát triển kinh tế đã cho thấy, ngoài những tiêu chuẩn thông thường để đánh giá sự tiến bộ xã hội, mỗi quốc gia dân tộc có những quan niệm riêng về sự phát triển. Các nguồn lực không trực tiếp nhằm mục tiêu kinh tế nhưng gián tiếp có ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế gọi chung là các nhân tố phi kinh tế. Đặc điểm chung của các nhân tố này là: - Không thể lượng hoá được các ảnh hưởng của nó, do vậy không tiến hành tính toán đối chiếu cụ thể được. - Các nhân tố này có phạm vi ảnh hưởng rộng và phức tạp trong xã hội, không thể đánh giá một cách tách biệt rõ rệt được và không có ranh giới rõ ràng. Dựa trên những tiêu chuẩn thông thường về sự phát triển đã nêu, dựa vào những sự hiện tượng phổ biến nhất mà các nước đều có những sự biểu hiện trong quá trình đi lên, người ta có thể thấy những nhân tố phi kinh tế tiêu biểu nhất, bao gồm: ỉ Cơ cấu dân tộc: ở đây đề cập đến các tộc người khác nhau cùng sống tạo nên một cộng đồng quốc gia. Cơ cấu này có thể phân chia theo chủng tộc, theo khu vực sinh sống lâu đời tạo nên sự khác biệt nhất định.Do điều kiện sống khác nhau, đã tạo ra sự khác nhau về trình độ tiến bộ văn minh về mức sống vật chất và về địa lí, vị trí chính trị-xã hội trong cộng đồng. ỉ Cơ cấu tôn giáo: vấn đề tôn giáo đi liền với vấn đề dân tộc, mỗi tộc người đều theo một tôn giáo. Trong một quốc gia có thể có rất nhiều tôn giáo. Mỗi đạo giáo có những quan niệm, triết lí tư tưởng riêng ăn sâu vào cuộc sống của dân tộc từ lâu đời, tạo ra những ý thức tâm lí xã hội riêng của dân tộc. Những thiên kiến của tôn giáo nói chung có ảnh hưởng tới sự tiến bộ xã hội tuỳ theo mức độ, song có thể có sự hoà hợp, nếu có chính sách đúng đắn của chính phủ. ỉ Đặc điểm văn hoá xã hội: đây là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng nhiều tới quá trình phát triển của đất nước. Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát triển của mỗi quốc gia. Nói chung trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lượng lao động, của kĩ thuật và công nghệ, của trình độ quản liư kinh tế xã hội. Xét trên khía cạnh kinh tế hiện đại thì nó là nhân tố cơ bản của mọi nhân tố dẫn đến con đường phát triển. ỉ Thể chế chính trị- kinh tế –xã hội: ngày nay người ta ngày càng thừa nhận vai trò của thể chế chính trị xã hội như là một nhân tố trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, góp phần quyết định. Thể chế như một lực lượng đại diện cho ý chí của một cộng đồng, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội theo lợi ích của cộng đồng đặt ra. Một thể chế chính trị ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Ngược lại một thể chế không phù hợp, sẽ gây ra những cản trở, mất ổn định, thậm chí đi đến chỗ phá vỡ những quan hệ cơ bản làm cho nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hoặc gây ra xung đột chính trị,xã hội. Dù quan trọng đến đâu thể chế cũng chỉ tạo điều kiện thúc đẩy sự tăng trưởng, tức là tạo ra những thuận lợi để hướng các hoạt động theo hướng có lợi và hạn chế các mặt bất lợi. 2. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 2.1. Khái niệm và vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế - Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành của nền kinh tế cùng các mối quan hệ chủ yếu về định tính và định lượng, ổn định và phát triển giữa các bộ phận ấy với nhau hay của toàn bộ hệ thống trong những điều kiện của một nền sản xuất xã hội trong hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu kinh tế không chỉ thể hiện ở quan hệ tỉ lệ mà quan trọng hơn là mối quan hệ tác động qua lại về nội dung bên trong của hệ thống kinh tế. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (ngành) là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngànhvà làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó. Chuyển dịch cơ cấu đem tính khách quan thông qua những nhận thức chủ quan của con người. Nội dung cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều lĩnh vực (sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng); các ngành kinh tế quốc dân (công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, ytế, giáo dục,…); các thành phần kinh tế xã hội (Nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), và các vùng kinh tế. Vì vậy có thể chia cơ cấu kinh tế thành nhiều loại: cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu theo thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế kĩ thuật, cơ cấu quản lí,…Trong đó ba loại cơ cấu ngành, vùng lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế là những nội dung quan trọng nhất, phản ánh tập trung nhất trình độ phát triển của phân công lao động xã hội. Các bộ phận hợp thành của cơ cấu kinh tế có quan hệ tác động qua lại chặt chẽ với nhau. Tính hợp lý của một cơ cấu kinh tế chính là sự hài hoà, ăn khớp giữa các bộ phận cấu thành, cho phép sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của xã hội phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Về mặt định lượng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là sự chuyển dịch cơ cấu đầu ra. Sự chuyển dịch đó phụ thuộc vào hai yếu tố: Năng suất lao động và qui mô sử dụng các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên và khoa học công nghệ. Từ đó cho thấy, hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế xét về mặt lượng thể hiện ở hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực trên phạm vi toàn nền kinh tế. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì tăng trưởng kinh tế và biến đổi cơ cấu kinh tế là hai mặt của phát triển của nền kinh tế. Giữa chúng có mối quan hệ qua lại như mối quan hệ tác đọng giữa lượng và chất. Cơ cấu kinh tế hợp lí thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cần thiết để hoàn thiện hơn nữacơ cấu kinh tế trong tương lai. Xét trên góc độ tác động đến quá trình phát triển,cơ cấu kinh tế có vai trò cụ thể: - Tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã được vạch ra trong chiến lượccủa đất nước cũng như của ngành và địa phương. - Khai thác đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả nhất các nguồn lực phát triển, phát huy lợi thế so sánh, cho phép tạo ra các cực tăng trưởng nhanh. - Tạo điều kiện mở đường, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy sự phân công lao động giữa các ngành, vùng lãnh thổ và các thành phần kinh tế. - Bảo đảm tăng cường sức mạnh về quốc phòng và an ninh góp phần quan trọng vào sự ổn định chính trị của đất nước. - Tạo điều kiện cho nền kinh tế nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của hai lực: thị trường và nhà nước. Đó là một quá trình vừa có kế hoạch vừa mang tính tự phát. Sự hình thành cơ cấu kinh tế của một nước chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan hết sức phức tạp. Có thể phân các nhân tố thành hai loại là nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. - Nhóm nhân tố khách quan bao gồm ba nhóm nhân tố chủ yếu sau đây: + Nhóm thứ nhất gồm các nhân tố về điều kiện tự nhiên như dự trữ tài nguyên, khoáng sản, nguồn nước, đất đai, nguồn năng lượng, khí hậu và địa hình,…Chính Các Mác đã viết: ”Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những đối tượng của tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định”. Vì vậy nền sản xuất xã hội và cơ cấu của nó nói riêng chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện tự nhiên. Thiên nhiên vừa là điều kiện chung của sản xuất xã hội, vừa làtư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đối với việc hình thành cơ cấu kinh tế mang tính trực tiếp. Tuy nhiên trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển hiẹn nay, việc đánh giá vai trò các nhân tố điều kiện tự nhiên cần tránh cả hai khuynh hướng đối lập: hoặc là quá lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên hoặc xem nhẹ vai trò của nó. Cả hai khuynh hướng đó đều không đúng đắn. Dưới sự thống trị của khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại, tài nguyên thiên nhiên không phải là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển. Ngược lại nếu xem nhẹ yếu tố thiên nhiên sẽ hoặc không khai thác đầy đủ lợi thế so sánh để phát triển kinh tế hoặc là khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách lãng phí, phá hoại môi trường phát triển kinh tế lâu dài. + Nhóm thứ hai bao gồm các nhân tố kinh tế xã hội bên trong của đất nước như: nhu cầu thị trường, dân số và nguồn lao động, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ quản lý, hoàn cảnh lịch sử của đất nước. + Tiến bộ khoa học công nghệ có ảnh hưởng rất lớn đênswj biến đổi cơ cấu kinh tế. Trước hết nó làm thay đổi vị trí của các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Khoa học công nghệ cũng làm thay đổi vai trò của nguyên liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm, đòi hỏi có quan điểm mới trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên. + Nhóm thứ ba bao gồm các nhân tố bên ngoài như quan hệ kinh tế đối ngoại và hợp tác phân công lao động quốc tế. Do sự khác nhau về điều kiện sản xuất ở các nước, đòi hỏi phải có sự trao đổi kết quả lao động với bên ngoài ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Trong trao đổi quốc tế mỗi nước đều phát huy lợi thế so sánh của mình trên cơ sở chuyên môn hoá vào các ngành, lĩnh vực có chi phí tương đối thấp. Chính chuyên môn hoá đã thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội phát triển và kết quả là làm biến đổi cơ cấu kinh tế. Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế hiện nay, cơ cấu kinh tế của một nước còn chịu sự tác động của cơ cấu kinh tế của các nước trong khu vực. Khái quát hoá sự tác động qua lại đó, các nhà kinh tế đã nêu lên một đặc trưng quan trọng về sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo kiểu làn sóng. Xu hưóng hội nhập quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trên toàn thế giới. Các quốc gia đều có mối quan hệ về kinh tế, chính trị với nhau thông qua sự hợp tác đa phương, các tổ chức hợp tác như APEC, ASEAN, EU,…kinh tế đối ngoại phát triển kéo theo thương mại, đầu tư, hợp tác khoa học kỹ thuật- công nghệ phát triển theo. Xu hướng tự do hoá thương mại: thưong mại các nước cùng thâm nhập vào nhau, tước bỏ hàng rào thuế quan trong thương mai quốc tế. Tăng cường xuất khẩu, mở rộng nhập khẩu. Cạnh tranh quốc tế tăng lên ở môi trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu kinh tế phải thay đổi phù hợp để có hiệu quả. - Nhóm nhân tố chủ quan như quan điểm đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, cơ chế quản lý, chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tóm lại, các nhân tố qui định cơ cấu kinh tế của một nước hợp thành một hệ thống phức tạp, tác động nhiều chiều và ở những mức độ khác nhau. Do đó cần có quan điểm hệ thống, toàn diện và cụ thể khi phân tích và dự báo chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 2.3. Xu thế cơ bản trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan. Trong quá trình tăng trưởng kinh tế, docác bộ phận hợp thành có tốc độ tăng trưởng không giống nhau, tất yếu dẫn đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước sự biến đổi của cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của hai lực: thị trường và chính phủ. Thị trường là nơi diễn racác mối quan hệ tác động qua lại giữa người tiêu dùng và các doanh nghiệp để xác định sản lượng và giá cả và thông qua giá cả thị trường thực hiện chức năngphân phối nguồn lực vaò các lĩnh vực, bộ phận của nền kinh tế. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý nền kinh tế, can thiệp vào nền kinh tế thông qua pháp luật, kế hoạch, chính sách và các đòn bẩy kinh tế nhằm đạt được mục tiêu đã xác định trước. Cơ cấu kinh tế được hình thành từ hai lực tác động đó tất yếu là một cơ cấu có tính hướng đích, hợp lý, hiệu quả, tính kế thừa và phát triển, tính hệ thống và tính mục tiêu. Cần nhấn mạnh rằng cơ cấu kinh tế hợp lý không chỉ biểu hiện về mặt số lượng mà quan trọng hơn là mối quan hệ chất lượng giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Tính hợp lý của một cơ cấu kinh tế chính là sự hài hoà, ăn khớp giữa các bộ phận cấu thành, cho phép sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của xã hội, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ trạng thái phát triển thấp sang trạng thái phát triển cao hơn. Trong quá trình đó,cơ cấu kinh tế chịu sự chi phối của các xu hướng có tính qui luật, xu thế phổ biến sau đây: - Trong điều kiện khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại phát triển, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, cơ cấu kinh tế các nước có thể và cần phải chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. - Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP có xu hướng tăng lên, còn tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm xuống mặc dù số lượng tuyệt đối vẫn không ngừng tăng lên. - Trong nội bộ công nghiệp, tỷ trọng trong các ngành công nghiệp chế biến tăng lên, cơ cấu sản xuất thay đổi theo chiều hướng chuyển từ ngành sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động sang ngành sản xuất sản phẩm chứa hàm lượngcao về vốn và khoa học công nghệ. - Trong nội bộ ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ nông thôn trong giá trị sản lượng tăng lên và tỷ trọng ngành nông nghiệp thuần tuý giảm xuống. Trong nội bộ nông nghiệp, tỷ trọng của giá trị sản lượng ngành chăn nuôi sẽ tăng lên và tỷ trọng giá trị sản lượng ngành trồng trọt giảm xuống tương ứng. - Xét về cơ câu thành phần, theo đà phát triển của thị trường bộ phận kinh tế tư nhân ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, do xu hướng tự do hoá kinh tế ngày càng mở rộng. Kinh tế nhà nước có thể giảm xuống về tỷ trọng song sẽ nắm phần lớn cơ sở hạ tầng và các ngành công nghiệp quan trọng có tính quyết định, then chốt trong nền kinh tế. - Theo khu vực lãnh thổ, sự phát triển kinh tế giữa các vùng sẽ đảm bảo tính chất hài hoà hơn, một mặt giảm bớt sự chênh lệch quá mức về trình độ phát triển, mặt khác sẽ xuất hiện các trung tâm công xưởng nhanh. Sự hình thành các khu công nghiệp tập trung như vậy là một tất yếu khách quan nhằm khai thác một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. II. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua 1. Tăng trưởng kinh tế và một số nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. 1.1. Tăng trưởng kinh tế và lạm phát (chỉ số CPI) Sau 5 năm thực hiện đổi mới kinh tế nchủ yếu nhờ các biện pháp giải phóng sức sản xuất trong nước và mở cửa nền kinh tế, tận dụng nguồn lực bên ngoài, từ năm 1991 nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng với tốc độ khá cao, trung bình 7,67% hàng năm từ 1991-1999, mức kỷ lục là 9,54% năm 1995. Từ năm 1998, tăng tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm do nhiều nguyên nhân trong đó chủ yếu là yếu kém về cơ cấu và thể chế cũng như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu á. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong những năm đầu 1990, Việt Nam đã khá thành công trong việc kiềm chế và kiểm soát lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,5% năm1991 xuống còn 0,1% năm 1999. Từ năm 1996, lạm phát dao động ở mức một con số góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế đã có chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng của khu vực nông lâm ngư nghiệp và tăng tỷ trọng của khu vực công nghiệp xây dựng, dịch vụ. Tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch cơ cấu GDP cìn chậm. Năm 2000, khu vực nông lâm ngư nghiệp trong GDP vẫn còn chiếm 24,3%, trong khi đóng góp của khu vực công nghiệp - xây dựng là 36,6% và của khu vực dịch vụ là 39,1% từ mức 23,5% và 36% tương ứng của năm 1991 Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế cũng có những chuyển dịch đáng lưu ý là: sau thời kỳ suy giảm từ năm 1986 đến 1991 tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước tăng nhanh từ 29,25% năm 1991 lên 39,2% năm 1993 sau đó giữ ổn định khoảng trên 40% từ 1994-1999, trong khi đó tỷ trọng vủa khu vực kinh tế quốc doanh trong nước trong GDP liên tục giảm từ 70,75% năm 1991 xuống còn 49,4% năm 1999. Tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn lớn và chưa khai thác cao cho tăng trưởng kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân tập trung chủ yếu ở sản xuất nông lâm ngư nghiệp, sản xuất công nghiệp và cung cấp dịch vụ với qui mô nhỏ và rất nhỏ. Từ năm 1994, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có vai trò ngày càng tăng trong phát triển kinh tế Việt Nam. Mặc dù từ năm 1998, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giảm mạnh, tỷ trọng của khu vực này trong GDP vẫn tăng, chiếm 9,82% năm 1998 và 10,4% năm 1999. Việt Nam đã trải qua thập kỷ 90 với những thành tựu khá ấn tượng về phát triển kinh tế, đồng thời xuất hiện những vấn đề mới đe doạ tới sự phát triển bền vững. Tăng trưởng kinh tế với tốc độ tương đối cao và giá cả ổn định là những tiên đề thuận lợi cho công cuộc đổi mới trong giai đoạn tới cũng như cho việc giải quyết các vấn đề xã hội nổi cộm như việc làm, thất nghiệp, nghèo đói,…sẽ được trình bày ở phần tiếp theo. 1.2. Đầu tư và tiết kiệm Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1990-2000 đạt khoảng 682.880 tỷ đồng, tăng liên tục từ 6.747 tỷ đồng năm 1990 lên 68.048 tỷ đồng năm 1995 và 120.600 tỷ năm 2000 (giá hiện hành). Tổng đầu tư xã hội so với GDP cũng tăng nhanh, từ 15,1% năm 1991 lên 28,3% năm 1997 – là mức cao nhất trong cả giai đoạn. Từ năm 1998, khi khủng hoảng tài chính châu á nổ ra, tỷ lệ này có xu hướng giảm chỉ còn 26,3% năm 1999, là một trong những nguyên nhân chính làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong hai năm 1998 và1999. Năm 2000 mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu tăng trở lạivới mức khoảng 6,7% so với mức 4,8% của năm 1999, nhưng tổng đầu tư xã hội ước tính đạt khoảng 27,2% so với GDP. Trong cơ cấu vốn đầu tư, vốn của tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ trọng lớn: năm 1990 vốn nhà nước chiếm 43,8%, vốn của tư nhânvà dân cư chiếm 41,5% và vốn FDI chiếm 14,7%. Năm 1995, tỷ lệ tương ứng là 38,3%, 29,4% và 32,3%. Từ năm 1998, tỷ trọng của vốn FDI có chiều hướng giảm mạnh, năm 2000 mặc dù có dấu hiệu tăng trở lại cũng chỉ đạt khoảng 18,6% của tổng đầu tư xã hội. Đầu tư của tư nhân trong nước không những còn ở mức thấp mà còn tăng chậm, kết hợp với xu hướng giảm của FDI đã ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng kinh tế, từ đó gây sức ép cho đầu tư tăng trưởngừ ngân sách Nhà nước. Tiết kiệm trong nước trên GDP tăng từ 2,9% năm 1990 lên 18,2% năm 1995, năm 1996 có giảm nhẹ và từ năm 1997 trở đi tăng liên tục, đạt 23,6% năm 1999, ước đạt 25% năm 2000. Trong cả thập kỷ 90, tỷ lệ tiết kiệm/GDP tăng liên tục, kích cầu đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này còn thể hiện rõ hơn qua tỷ lệ tổng đầu tư phát triển so với tổng vốn sử dụng dành cho tiêu dùng và tích luỹ tăng nhanh từ 12,9% năm 1990 lên 24,9% năm 1995 và ước khoảng 27,9% năm 2000. Tiết kiệm trong nước tăng đã làm giảm sức ép phụ thuộc vào vốn đầu tư từ bên ngoài, góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế bền vững hơn. 1.3. Cán cân thương mại và tài khoản vãng lai Trong giai đoạn 1991-2000, tổng bình quân kim ngạch xuất khẩu ước đạt 67,3 tỷ USD, bình quân hàng năm tăng 18,2%. Xuất khẩu bình quân đầu người năm 1999 mlà 166 USD, tăng 4,6 lần so với năm 1990. Hiện nay, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 150 quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp châu lục. Nhiều mặt hàng của Việt Nam đã chiếm được vị thế cao trên thị trường thế giới như: gạo, dầu thô, hàng thuỷ sản chế biến, cà phê,cao su, quần áo may sẵn, giầy dép…Đối tác chính trong quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam là châu á: chiếm khoảng 63% tổng kim ngạch xuất khẩu và 74% tổng kim ngạch nhập khẩu. Trao đổi thương mại với các nứoc trong khối ASEAN chiếm 24,3% tổng kim ngạch xuất khẩu và 32,4% tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu , tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản vẫn còn cao nhưng đã có xu hướng giảm dần, thời kỳ 1996-2000 đạt 38,5% so với 48% của thời kỳ 1991-1996. Đồng thời, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng tương ứng từ 21,7% lên 35,9%. Kim ngạch nhập khẩu trong thời kỳ 1991-2000 tăng liên tục, nhưng với tốc độ giảm dần, đặc biệt từ năm1996 đến nay, là kết quả của các biện pháp thắt chặt nhập khẩu như hạn chế bằng hạn ngạch giấy phép nhập khẩu, đặc biệt đối với hàng nhập tiêu dùng. Tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm nhanh từ 16,4% xuống còn 8,1% vào thời kỳ 1996-2000, trong đó dự kiến năm 2000 giảm còn 4,7%. Kết quả của các biện pháp khuyến khích xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu đã cải thiện đáng kể cán cân thương mại. Theo đó, thâm hut thương mại giảm từ 3150 triệu USD năm 1996 xuống còn 113 triệu USD năm 1999. Trong suốt thời kỳ 1991-1998, tài khoản vãng lai của Việt Nam luôn bị thâm hụt, đạt mức cao nhất 2418 triệu USD vào năm 1996. Năm 1999, lần đầu tiên tài khoản vãng lai có mức thặng dư, ước đạt 146 triệu USD. Kết quả này có được chủ yếu là do giảm thâm hụt thương mại cùng với các biện pháp khuyến khích người Việt Nam ở nước ngời chuyển tiền về nước. Cải thiện về tài khoản vãng lai đã có tác động cải thiện cán cân thanh toán của nền kinh tế, qua đó góp phần tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô. 1.4. Thu – chi ngân sách nhà nước Thu ngân sách nhà nước so với GDP trong thời kỳ 1991-1999 trung bình đạt 20,2%, tăng từ 13,8% năm 1991 lên mức cao nhất là 23,3% năm 1995 như là kết quả của tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trong cả giai đoạn. Từ năm 1997, theo đà giảm sút tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách nhà nước so với GDP cũng giảm đáng kể, năm1999 ước đạt khoảng 18%. Chi ngân sách nhà nước so với GDP bình quân thời kỳ 1991-1999 đạt 23,9%, mức thấp nhất là 15,7% năm 1991 và cao nhất là 27,9% năm 1993 và 1994. Như vậy, trong 9 năm liên tục, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát ở mức thấp, trung bình cả thời kỳ là 3,7%, dao động từ 1,9% - 4,9%. Thu ngân sách nhà nước tăng bình quân hàng năm 7,3%. Trong cơ cấu thu ngân sách nhà nước, thu trong nước chiếm tỷ trọng lớn, tăng từ 76% năm 1990 lên 97,3% năm 1999. Trong giai đoạn 1991-1999, Nhà nướcđã thực hiện nhiều chính sách nhằm huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, đặc biệt là khuyến khích đầu tư tư nhân kể cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời ưu tiên ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu quan trọng, đặc biệt cho lĩnh vực xã hội. Theo đó, cơ cấu chi ngân sách nhà nước đã được điều chỉnh theo hướng tăng chi cho các lĩnh vực xã hội, năm 1992 chiếm 23,4% và năm 1998 tăng lên, đạt 26,3% tổng chi ngân sách nhà nước . Các lĩnh vực được ưu tiên ngân sách là giáo dục, đảm bảo xã hội. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục tăng từ 8,6% năm 1992 lên khoảng 15% tổng chi ngân sách nhà nước năm 2000. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua (từ 1986 đến nay) Có thể nói đây là một sự đổi mới khá cơ bản về đường lối công nghiệp hoá, có thể tạm gọi tên là giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, cụ thể là: - Nền kinh tế được mchuyển từ nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước. - Nền kinh tế từ cơ cấu tương đối khép kín sang nền kinh tế cơ cấu mở, hội nhập vào khu vực và thế giới. - Cơ cấu từ hai chủ thể sở hữu là Nhà nước và hợp tác xã, thành cơ cấu đa thành phần đan xen. Điều đáng chú ý là nước ta đang trong quá trình chuyển đổi, chưa có một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, chưa có đội ngũ cán bộ hiểu biết đầy đủ, chưa có một tiền lệ tiếp cận cơ cấu trong bước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, nên sự lúng túng là khó có thể tránh khỏi. Qua một thời gian nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn để vươn lên, đến giai đoạn 1991-1995 đã thu được những thành tựu nổi bật, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong thời kỳ đạt 8,2%; giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,9%, công nghiệp tăng 13,7% và các ngành dịch vụ tăng 10,1%. Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VIII đã nhận định chúng ta thu được những thành tựu to lớn, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, cho phép từ năm 1996 chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá. Từ tháng 7/1997 đến nay có sự tác động tiêu cực của của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, trong khoảng thời gian này có đặc điểm nổi bật là: - Những kết quả đổi mới theo kiểu cởi trói đã không còn là động lực mạnh mẽ như trước, chúng ta đứng trước một vấn đề phải tiếp tục đổi mới sâu, trong đó tập trung vào các lĩnh vực rất quan trọng như: cơ cấu sở hữu và doanh nghiệp nhà nước, hệ thống ngân hàng tài chính, liên kết hội nhập, cải cách hành chính…trên cơ sở phải tạo ra những động lực mới, phải tháo gỡ những bế tắc cơ bản để có được môi trường mới, mới khả dĩ có thể phát triển đi lên một cách mạnh mẽ được. - Châu á đang ở trong một cuộc khủng hoảng đầu tiên về tài chính và tiền tệ rất trầm trọng, Việt Nam phải đương đầu với một môi trường quốc tế kém thuận lợi, gặp những khó khăn lớn trong quá trình CNH, HĐH. Những mô hình phát triển của một số nước châu á trước đây được coi là thần kỳ, đang bị ảnh hưởng lớn của khủng hoảng, cần phải tỉnh táo xem xét lại. Nước ta không bị ảnh hưởng trực tiếp của khủng hoảng tài chính tiền tệ, song vì phần lớn ngoại thương và nguồn vốn đầu tư của nước ta là từ nền kinh tế khu vực, sự chững lại của các nền kinh tế này sẽ có ảnh hưởng xấu ít ra là trong giai đoạn một vài năm trước mắt về các nguồn đầu tư FDI và sự tăng trưởng xuất khẩu(khoảng 60% xuất khẩu của Việt Nam tới các nước châu á). Nền kinh tế đứng trước khó khăn lớn: tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, những cân đối lớn của kinh tế vĩ mô như ngân sách, cân đối ngoại tệ, đầu tư phát triển đứng trước thâm hụt lớn; tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ ảnh hưởng rất lớn đến thị trường nước ngoài và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nói chung là suy giảm mạnh. Những suy giảmlớn này sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu và bước đi CNH, HĐH mà chúng ta đã đề ra. Đứng trước những khó khăn này, chúng ta đã tiến hành điều chỉnh cơ cấu, tập trung vào những công việc chủ yếu sau đây: - Thực hiện điều chỉnh một bước cơ cấu đầu tư, theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, rút bớt các công trình kết cấu hạ tầng có vốn lớn, kéo dài chưa thật sự phát huy hiệu quả. - Cấm vay, đặc biệt cấm vay ngắn hạn để đầu tư vào kết cấu hạ tầng. - Nghị quyết TW 6 (lần 1) kịp thời có quyết sách phát triển nền kinh tế theo hướng phát huy nội lực, đầu tư mạnh vào công nghiệp và nông thôn, đảm bảo an ninh lương thực, phát triển công nghiệp, chăn nuôi và chế biến… 2.1. Điểm qua một số kết quả đạt được trong chuyển dịch cơ cấu Công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế vừa qua đã tạo cho nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng từ 4% năm1987 lên 9% năm 1996, đạt bình quân 7,3% mỗi năm trong thập kỷ vừa qua. Cuối năm 1997 nền kinh tế gặp khó khăn, song ước vẫn có thể tăng từ 8-9%. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP thời kỳ 1996-2000, tăng trưởng đạt 6,7%. Trong 10 năm 1991-2000, tt GDP đạt 7,5%/năm, tất cả các ngành chủ chốt đều tt, trong đó công nghiệp tăng nhanh nhất 12,9%, tiếp đến là dịch vụ 8,2%, nông nghiệp khoảng 5,4%. Với mức tăng trưởng trên, so với các nước thời gian qua và hiện nay là thành tựu đáng kể. 1- Cơ cấu kinh tế đã có một bước chuyển dịch theo hướng CNH: nông nghiệp tăng khá về giá trị tuyệt đối, song tỷ trọng giảm từ 38,7% năm1990 xuống còn khoảng 25% vào năm 2000, tương ứng công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% lên khoảng 34,5% và dịch vụ từ 38,6% lên 40,5% trong GDP. 2- Trong cơ cấu kinh tế hình thành một số sản phẩm mới, một số sản phẩm có khối lượng lớn như khai thác dầu khí, lắp ráp ô tô bứt đầu hình thành từ năm 1991, đên nay có 14 doanh nghiệp, tổng công suất lắp ráp hiện có 132.860 xe/năm;xe máy có 5 doanh nghiệp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và 40 cơ sở trong nước, tổng công suất 1.800.000 xe/ năm; công nghiệp điện tử tổng công suất sản xuất đèn hình 1.600.000 cái, lắp ráp tivi 2.000.000 cái, sản xuất mạch in 78 triệu chiếc. Đến nay đã có 62 doanh nghiệp sản xuất xi măng, 14 doanh nghiệp sản xuất thép xây dưng…Nhiều sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp tăng nhanh, khối lượng tương đối lớn như săm lốp ô tô tăng gần 55%/năm, thép tăng 30%/năm,dầu thô tăng 19,8%/năm,….. 3- Trong nội bộ các ngành, cơ cấu sản xuất có sự chuyển dịch theo hướng CNH + Về nông lâm ngư nghiệp: Trong khối ngành nông, lâm, ngư, thuỷ sản, tỷ trọng nông nghiệp giảm, giá trị ngành thuỷ sản và lâm nghiệp tăng. Trong trồng trọt, cây công nghiệp tăng lên, cây lương thực giảm, đã vượt qua tình trạng thiếu lương thực và trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 thế giới. Nhiều vùng cây công nghiệp và cây ăn quả đã hình thành: cà phê tăng rất nhanh. Từ năm1990 trở lại đây, hình thành các vùng cây ăn quả chuyên canh như mận ở Miền núi phía Bắc, nhãn ở Đồng bằng sông Cửu Long, vải ở đồng bằng sông Hồng,… + Về công nghiệp: Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, năm 2000 chiếm gần 80% trong toàn ngành công nghiệp và đã tạo ra tốc độ tăng trưởng cao, tuy nhiên công nghiệp cơ khí chế tạo tỷ trọng còn nhỏ. Sự phát triển của ngành công nghiệp khai thác, chủ yếu là dầu khí tăng nhanh nhất như mũi đột phá. Ngành VLXD đã tăng với tốc đọ trung bình hành năm hơn 15% ở thời kỳ 1991 - 1996. Chính phủ coi trọng công nghiệp vật liệu và hàng loạt dự án liên doanh lớn đã và đang được triển khai chủ yếu trong ngành sản xuất thép và xi măng. Trong ngành công nghiệp chế biến lương thực và thực phẩm la chủ yếu với tỷ lệ 30% tổng sản lượng công nghiệp năm 1996, tiếp đó là ngành vật liệu xây dựng 18%, dệt may 9% và hoá chất, phân bón 8%. + Khối ngành dịch vụ: Có những chuyển biến mạnh mẽ nhất là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống, từng bước nâng cao chất lượng phục vụ. Hiện nay ngành dịch vụ có chiều hướng chững lại. Ngành thương nghiệp phát triển khá, tạo ra sự sôi động của nền kinh tế, góp phần điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất và lưu thông hàng hoá trong cả nước. Ngành du lịch phát triển nhanh (kể cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa), năm 2000 gấp 7 lần so với1990, song sự phát triển chưa ổn định. Dịch vụ vận tải cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao lưu hàng hoá và đi lại của nhân dân với nhiều loại phương tiện và nhiều hình thức kinh doanh đa dạng phù hợp với kinh tế thị trường. Bưu chính viễn thông phát triển mạnh, đến nay mạng lưới viễn thông trong nước đã hiện đại hoá cơ bản. Tuy do tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á mức tt dịch vụ từ năm 1998 đến nay chậm lại, song khu vực dịch vụ ngân hàng tăng rất nhanh vào năm 1994: 22,4% và năm 1995: 27,6%, đến năm1998 chỉ đạt 4%. Các loại hình dịch vụ khác như tư vấn pháp luật, tư vấn đầu tư …đều đã được hình thành và bắt đầu phát triển. 2.2. Những hạn chế cơ bản của cơ cấu đòi hỏi phải tiếp tục chuyển đổi. 1- Nền kinh tế vẫn theo cơ cấu nặng về thay thế nhập khẩu: Tuy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao, tính từ 1991-1996 xuất khẩu tăng 3,5 lần, bình quân hàng năm 26-28%. Sonh việc gia tăng kim ngạch xuấtnhập khấu sản pơhẩm thô trong xuất khẩu chiếm 85% vào năm 1990, tuy có giảm song vẫn còn tới 70% vào năm 1996. Hàng nhập khẩu quan trọng là nhiên liệu, sắt thép, phân bón, linh kiện điện tử, hàng dệt, phụ tùng ô tô, xe máy,…tăng nhanh, nhưng nếu trừ các sản phẩm như vải, da phục vụ gia công xuất khẩu và phân bón cho nông nghiệp, các sản phẩm nhập khẩu khác có tỷ trọng lớn chủ yếu phục vụ sản xuất trong nước thay thế nhập khẩu. 2- Cơ cấu kinh tế hiện nay còn kém hiệu quả. Thể hiện ở các mặt: - Thu ngân sách tăng chậm và tỷ trọng so với GDP có xu hướng giảm dần. - Năng suất lao động thấp, tăng trưởng chậm lại có xu hướng giảm dần: thời kỳ 1991-1995 NSLĐ bình quân tăng 4,7%/năm, đến thời kỳ 1996-2000 giảm còn 3,7%/năm. So sánh năng suất lao động ngành chế biến thực phẩm của Việt Nam và một số nước khác trong khu vực, cho thấy NSLĐ ngành thực phẩm nước ta chỉ bằng 0,67 lần Trung Quốc, 0,15 lần Malaysia, 0,06 lần Hàn Quốc, 0,07 lần Đài Loan… 3- Cơ cấu kinh tế chưa tạo được năng lực cạnh tranh, hiện nay năng lực cạnh tranh còn rất kém. + Tỷ lệ tồn kho các sản phẩm lớn, tính đến tháng 4 năm 2000, tồn kho 2,7 triệu tấn than; 16 vạn tấn thép xây dựng; 15 tấn xi măng; 3,8 vạn tấn đường… + Một số sản phẩm không chiếm lĩnh được thị trường trong nước: Máy động lực phục vụ trong nông nghiệp chỉ dành được 5% thị phần trong nước, còn 95% thị phần còn lại do Trung Quốc và Nhật Bản nắm, trong đó Nhật Bản chủ yếu là máy cũ đã qua sử dụng. Trong hai năm 1998 và 1999, cả nước tiêu thụ 20.000 ô tô, trong đó các xí nghiệp liên doanh trong nước chỉ bán được khoảng 6000 cái( bằng 30% tổng số ô tô bán ra). + Giá thành một số sản phẩm còn cao, không có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, chẳng hạn xi măng sản xuất trong nước cao gấp 1,2-1,3 lần giá xi măng quốc tế; các ngành sản xuất đường, giấy…giá thành cao, rất khókhăn tiêu thụ trong nước và không có khả năng xuất khẩu. + Năng lực sản xuất dù nhiều, song tỷ lệ huy động công suất thiết kế thấp, một số sản phẩm cao cấp như: lắp ráp ô tô chỉ huy động 4,1%; xe máy 13,2%; xe đạp 20% và tivi 40% công suất thiết kế. III. Dự báo tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 2010 1. Xây dựng các kịch bản phát triển Trong quá trình hoạch định chiến lược, qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của các ngành kinh tế hay các vùng lãnh thổ, chúng ta đều phải dựa vào những nhận định, đánh giá thậm chí giả định nào đó về tương lai, mà tương lai lại không thuần nhất. Nhiều kết cục có thể xảy ra trong tương lai, phụ thuộc vào những yếu tố khách quan và chủ quan và con đường dẫn đến tương lai này hay tương lai khác cũng không phải là duy nhất. Việc mô tả một ương lai và con đường dẫ đến tương lai đó sẽ tạo nên một kịch bản (Scenario). Kịch bản là tập hợp các điều kiện và kết quả (thể hiện dưới dạng nếu…thì…) mô tả một tình huống trong tương lai cùng với một quĩ đạo các sự kiện cho phép chuyển dịch đối tượng nghiên cứu từ trạng thái ban đầu sang trạng thái được mô tả trong tương lai. Có nhiều phương pháp để xây dựng kịch bản, song các phương pháp này đều phải dựa trên một số điểm, một số nguyên tắc và bước tiến hành thống nhất sau: dựa trên các phương pháp phát triển hệ thống để xem xét quá khứ, phân tích hành vi của đối tác, ảnh hưởng của các tác nhân, từ đó thiết lập các kịch bản. Việc sử dụng ý kiến chuyên gia để hình thành các kịch bản đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng các kịch bản. Trong thời gian gần đây các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước thường xuyên xây dựng các kịch bản dựa trên việc xem xét hai nhóm yếu tố: Nội lực ( hay các điều kiện chủ quan) và ngoại lực (môi trường bên ngoài với tính khách quan của chúng). Các giả thiết nêu trong các kịch bản sẽ được lượng hoá làm cơ sở cho việc thiết kế những quỹ đạo phát triển dài hạn. Một cách đơn giản có thể phân chia các yếu tố nội lực và ngoại lực như sau: - Các yếu tố ngoại lực bao gồm môi trường quốc tế và khu vực, các điều kiện thuận lợi do việc gia nhập các tổ chức thương mại quốc tế (như AFTA, APEC, WTO, hiệp định thương mại Việt Mỹ..) mà có, quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc, Mỹ, EU, Nhật…,vấn đè quy chế tối huệ quốc, các nguồn vốn từ bên ngoài (FDI,ODA..). - Các yếu tố nội lực bao gồm các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển kinh tế, vấn đề sở hữu, luật đất đai, luật đầu tư, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, chính sách huy động vốn trong dân… Một trong những cách đơn giản nhất là xây dựng các kịch bản bao gồm các mức khác nhau của hai yếu tố nội lực và bối cảnh bên ngoài theo sơ đồ sau: Nội lực Bối cảnh quốc tế Mạnh Trung bình Yếu Thuận lợi Kịch bản 1 Kịch bản 2 Kịch bản 3 Bình thường Kịch bản 4 Kịch bản 5 Kịch bản 6 Khó khăn Kịch bản 7 Kịch bản 8 Kịch bản 9 Trên cơ sở trao đổi với các chuyên gia, lựa chọn 2 đến3 trong số 9 kịch bản trên để làm căn cứ tính toán các quĩ đạo phát triển, chẳng hạn kịch bản 1 với bối cảnh quốc tế thuận lợi và nội lực cũng phát huy ở mức cao nhất, kiạch bản 4 với bối cảnh quốc tế ở mức bình thường và phát huy mạnh nội lực và kịch bản 5 với nôị ngoại lực ở mức trung bình. Bước tiếp theo là lượng hoá các mức định tính đưa ra trong các kịch bản nêu trên bằng bộ các thông số, các thông số này sẽ là các đầu vào (biến ngoại) của các mô hình mô phỏng. Việc lượng hoá sẽ tiến hành từ đơn giản đến phức tạp, từ một vài chỉ tiêu đến một bộ chỉ tiêu, tuỳ thuộc vào điều kiện thông tin có được. 2. Cơ sở khoa học hình thành mục tiêu Trong các mục tiêu kinh tế vĩ mô, quan trọng hàng đầu là tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tăng trưởng và chuyển dịch có mật thiết với nhau: tăng trưởng khác nhau giữa các ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế; ngược lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ làm thay đổi tốc độ tăng trưởng và nếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ phù hợp những điêù kiện kinh tế đất nước và quan hệ quốc tế của mỗi thời kỳ sẽ thúc đẩy tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững. Những căn cứ khoa học của việc xác định mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thời kỳ đến 2010 bao gồm một số vấn đề cần được xem xét về mặt định hướng như sau: a. Xác định những quan hệ kinh tế cơ bản đã hình thành làm căn cứ xác định tốc độ tăng trưởng cho giai đoạn sau. Bao gồm quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng; tác động của vốn ODA; hiệu quả vốn đầu tư; tăng trưởng các ngành; giảm phát GDP và CPI. b. Xác định tác động của khủng hoảng kinh tế khu vực, điểm xuất phát năm 2000 của nước ta nhằm dánh giá mức độ ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, từ đó xác định tiềm lực kinh tế Việt Nam vào năm 2000. c. Đánh giá một số tác động quốc tế đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam đến 2010, bao gồm khả năng tăng trưởng thời kỳ 2001 – 2010 và đến 2020. d. Lựa chọn phương án tăng trưởng và cơ cấu kinh tế Việt Nam đén 2010 và 2020. Từ căn cứ và các nhận định trên, có thể đưa ra các phương án: + Phương án tăng trưởng bền vững với mức khả thi cao: Phương án này được thiết kế theo giả thiết năm 2000 nước ta sẽ ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, trong giai đoạn đầu đến năm 2005 các yếu tố nội lực được phát huy tốt, các yếu tố ngoại lực ở mức trung bình (tương ứng với mức tăng trưởng vốn cố định khoảng 7% bình quân năm, thu hút lao động thêm vào các ngành kinh tế quốc dân khoảng 2,5%năm và đóng góp của khoa học công nghệ vào tăng trưởng khoảng 1,8%), việc thực hiện các thoả thuận AFTA vào năm 2006 có thể làm giảm chừng nào mức tăng trưởng đến 2010. Nhờ chuyển dịch cơ cấu đầu tư tốt nên đến 2020 hiệu quả vốn tăng lên. Kết quả phương án này là tăng trưởng GDP bình quân 7,2%/năm. + Cận trên của sự tăng trưởng Phương án này giả thiết giai đoạn 2001 – 2005 cả hai yếu tố nội lực và ngoại lực đều ở mức rất thuận lợi ( tăng trưởng vốn cố định khoảng 8% bình quân năm, thu hút thêm 2,5% lao động và đóng góp của các yếu tố khoa học công nghệ, đổi mới chính sách, quản lý khoảng 2%/năm hoặc cao hơn vào tăng trưởng giai đoạn 2006 – 2010; nhờ chuẩn bị tốt 2001 đã hình thành được một số cơ cấu kinh tế có hiệu quả cao. Kết quả phương án này là tăng trưởng GDP bình quân 8 – 9%/năm; cũng có thể nghĩ tới mức cao hơn 9%/năm nếu vận dụng tốt yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ rtong đổi mới cơ cấu kinh tế. + Tăng trưởng trong điều kiện không thuận lợi Trong điều kiện môi trường quốc tế không thuận lợi, các yếu tố nội lực chưa phát huy, không chuẩn bị kịp để hội nhập, sử dụng đầu tư theo cơ cấu kinh tế không hợp lý, khả năng tăng trưởng giai đoạn 2001 – 2010 có thể thấp hơn mong muốn, kết quả phương án này là tăng trưởng GDP bình quân 5 – 6%/năm. Như vậy, có thể lựa chọn phương án tăng trưởng gấp đôi trong một thập kỷ(7,2%/năm) làm mức hiện thực và tối thiểu với tinh thần tiến công. Điều này đã có trong thực tế của nước ta 10 năm qua và của nhiều nước trong mấy thập kỷ gần đây. Đồng thời cũng là một mức cần thiết để nước ta rút ngắn khoảng cách so với các nước trong khu vực. Nhịp độ cao hơn không thật chắc chắn, nếu sự chuyển biến mọi mặt càon diễn ra chậm, song không loại trừ mà còn phải tranh thủ hết mức. Nhịp độ thấp hơn cũng là rất có thể, vì trước mắt còn nhiều khó khăn do nền kinh tế nước ta còn đang tình trạng chậm lấy lại nhịp độ tăng trưởng cao và phải xử lý nhiều vấn đề bức xúc, hơn nữa môi trường cạnh tranh ngay trong khu vực sát cạnh ta đang ngày càng gay gắt hơn, có nhiều yếu tố không thuận lợi cho ta. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo GDP với tốc độ tăng trưởng nêu trên có thể là: năm 2010 Nông nghiệp khoảng 17- 18%, Công nghiệp & Xây dựng 38- 39%, dịch vụ 43 – 44%. 3. Dự báo định lượng Để dự báo định lượng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế , ở đây em sử dụng mô hình Harrod – Domar: g = s/k Với g là tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP, s là tỷ lệ tích luỹ, k là hệ số ICOR Năm T T2 ICOR T*ICOR 1991 1 1 3 3, 1992 2 4 2,6 5,2 1993 3 9 3,7 11,1 1994 4 16 3,4 13,6 1995 5 25 3,1 15,5 1996 6 36 3,1 18,6 1997 7 49 3,8 26,6 1998 8 64 4,7 37,6 1999 9 81 5,4 48,6 2000 10 100 4,2 42, Tổng 55 385 37 221,8 Thay vào hệ phương trình chẩn ta có 10a + 55b = 37 55a + 385b = 221,8 F a = 2,48; b = 0,22 F ICOR = 2,48 + 0,22*T Suy ra: ICOR(2005) = 2,48 + 0,22*15 = 5,78 ICOR(2010) = 2,48 + 0,22*20 = 6,88 Năm T T2 Hệ số tích luỹ- s (%) T*s 1991 1 1 17,6 17,6 1992 2 4 22,4 44,8 1993 3 9 30,1 90,3 1994 4 16 30,4 121,6 1995 5 25 29,7 148,5 1996 6 36 29,2 175,2 1997 7 49 30,9 216,3 1998 8 64 27,0 216 1999 9 81 26,0 234 2000 10 100 27,0 279 Tổng 55 385 271,2 1543,3 Ta có hệ phương trình chuẩn: 10a +55b = 271,2 55a + 385b = 1543,3 F a = 23,67; b = 0,63 F s = 23,67 + 0,63*T Suy ra: s(2005) = 23,67 + 0,63*15 =33,12 s(2010) = 23,67 + 0,63*20 = 36,27 Theo mô hình Harrod – Domar ta có tốc đọ tăng trưởng kinh tế g = s/k F g(2005) = s(2005)/k(2005) = 33,12%/5,78 =5,73% F g(2010) = s(2010)/k(2010) = 36,27%/6,88 = 5,27% Dự báo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình Harrod – Domar Trong đó: Si(t) là cơ cấu kinh tế của ngành i tại thời điểm t (i = 1,2,3,…) gi(t) là tốc độ tăng trưởng của ngành i ở thời kỳ (t+1) Theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội Đảng xác định, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 – 2010 của ngành công nghiệp là 10,5%, ngành nông nghiệp 4,5%, ngành dịch vụ 8% Scn(2000) = 36,6% Snn(2000) = 24,3% Sdv(2000) = 39,1% gcn(2010) =10,5% gnn(2010) = 4,5% gdv(2010) = 8% Thay vào công thức (*) ta xác định được cơ cấu kinh tế của các ngành như sau: Scn(2010) = 38% Snn(2010) =23% Sdv(2010) = 39% Kết luận Vấn đề dự báo tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng có vị trí quan trọng trong việc xây dựng chính sách phát triển của một quốc gia. Việc xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cơ sở để xây dựng và lập nên các kế hoạch về nguồn lực và các mục tiêu kinh tế và xã hội khác. Tuy nhiên viêc dự báo tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình phức tạp đòi hỏi vận dụng nhiều kiến thức chuyên ngành bổ trợ có liên quan, kiến thức chuyên môn sâu rộng biết nắm bắt tình hình và đưa ra những nhận định, dự báo chính xác. Trong bài đề án của mình, mặc dù bản thân đã cố gắng hoàn thiện một cách tốt nhất tuy nhiên không tránh khỏi những sai sót. Mong các thầy cô giáo và các bạn sinh viên sửa chữa góp ý để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế phát triển Giáo trình Dự báo phát triển kinh tế xã hội Tài liệu Hội thảo khoa học của Bộ kế hoạch và đầu tư Thời báo Kinh tế Việt Nam Cơ sở khoa học hình thành mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong chiến lược đến năm 2000 và tầm nhìn 2020 Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35365.doc
Tài liệu liên quan