Đề án Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn

Khuyến khích phát triển mạnh mẽ và lâu dài kinh tế hộ nông dân và kinh tế hộ nông dân và kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp và nông thôn. Mọi thành phần kinh tế đều có vai trò quan trọng và đều được khuyến khích phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tạo mọi đIều kiện thuận lợi để kinh hộ phát triển sản xuất hàng hoá với quy mô ngày càng lớn và phát triển kinh tế trang trại. Khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã trên cơ sở liên kết,hợp tác tự nguyện giữa các hộ và đời sống kinh tế – xã hội nông thôn. Doanh nghiệp nhà nước tập trung thực hiện những việc mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được; hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Tổ chức sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước,để thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong kinh doanh lúa gạo, phân bón, phát triển chế biến nông, lâm, thuỷ sản với quy mô lớn, yêu cầu kĩ thuật cao,vốn lớn và liên kết kinh tế có hiệu quả với các hộ nông dân và hợp tác xã sản xuất nguyên liệu; giữ vai trò chủ yếu trong việc thực hiện các nhiệm vụ công ích. Đối với khu vực miền núi, doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu trong việc hỗ trợ phát triển sản xuất, chế biến và phát triển nông, lâm, thuỷ sản. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh các ngành nghề đa dạng. Thực hiện liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ, tạo điều kiện để nông dân và các hợp tác xã tham gia cổ phần ngay từ đầu với doanh nghiệp; khuyến khích kí kết hợp đồng tiêu thụ nông sản giữa doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và nông dân; doanh nghiệp hỗ trợ vốn, chuyển giao kĩ thuật, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân làm ra giá cả hợp lí.

doc33 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế bao gồm: + Cơ cấu nghành nghề. + Cơ cấu vùng kinh tế. + Cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành phố và đô thị. + Cơ cấu thành phần kinh tế Để tối ưu hoá cơ cấu kinh tế được hình thành phải đạt được các yêu cầu sau: Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật kinh tế; cho phép khai thác tối đa các tiềm năng kinh tế của đất nước; sử dụng được nhiều lợi thế so sánh của các nước phát triển muộn về công nghiệp; phù hợp với xu thế của cách mạng khoa học – công nghệ, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và đem loại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. 1.2.2. Đẩy mạnh cuộc cách mạng và công nghệ hiện đại đi đôi với tiếp nhận chuyển giao công nghệ mơí từ nước ngoài: Cho tới nay thế giới đã 2 lần trải qua cách mạng về kỹ thuật và công nghệ, lần thứ nhất với tên gọi là cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII, được thực hiện đầu tiên ở nước Anh mà nội dung chủ yếu là thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá; lần thứ 2 với tên gọi là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại được bắt đầu từ giữa thế kỷ XX mà nội dung của nó không chỉ dừng lại ở tính chất hiện đại của các yếu tố tư liệu sản xuất, mà còn ở kỹ thuật công nghệ sản xuất hiện đại, phương pháp sản xuất tiên tiến. Hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có nhiều nội dung phong phú, trong đó có thể chỉ ra các nội dung nổi bật sau: + Một là, cách mạng về phương pháp sản xuất: Đó là tự động hoá. Ngoài phạm vi tự động như trước đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi người máy thay thế con người điều khiển quá trình vận hành sản xuất. + Hai là, cách mạng về năng lượng: Bên cạnh những năng lượng truyền thống mà con người sử dụng trước kia như nhiệt đIện, thuỷ đIện, thì ngày nay con người ngày càng khám phá ra nhiều năng lượng mới và sử dụng rộng rãi trong sản xuất như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời. + Ba là, cách mạng về vật liệu mới: Ngày nay, ngoài việc sử dụng các vật liệu tự nhiên, con người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả cho các vật liệu tự nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hướng ngày càng cạn dần. + Bốn là, cách mạng về công nghệ sinh học: Các thành tựu của cuộc cách mạng này đang được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất, bảo vệ môi trường sinh thái. + Năm là, cách mạng về điện tử và tin học: Đây là một lĩnh vực mà hiện nay loài người đang đặc biệt quan tâm, trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử. Như vậy, khái niệm công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó không chỉ là các phương tiện, thiết bị do con người sáng tạo ra mà còn là bí quyết biến các nguồn lực sẵn có thành sản phẩm. Với ý nghĩa đó khi nói tới công nghệ thì cũng sẽ bao hàm cả kỹ thuật. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khoa học và công nghệ luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau: Khoa học là tiền đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả trực tiếp của khoa học. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đã và đang đóng vai trò rất to lớn đối với sự nghiệp CNH,HĐH trong tất cả các nước, nhất là các nước có nền kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên, cách thức tiến hành ở những nước khác nhau lại không giống nhau, có nước tiến hành bằng cách tự nghiên cứu, tự trang bị công nghệ mới cho các nghành kinh tế trong nước, có nước tiến hành thông qua chuyển giao công nghệ, cũng có nước tiến hành bằng cách kết hợp giữa tự nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Thực ra việc kết hợp giữa tự nghiên cứu và chuyển giao công nghệ là cần thiết đối với bất cứ quốc gia nào, nếu như muốn đạt trình độ phát triển cao. Song kinh nghiệm của Nhật Bản và các nước NICS trong thời kỳ tiến hành CNH, xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã chứng minh rằng chuyển giao công nghệ là cách làm rẻ nhất, có hiệu quả nhất để có được công nghệ hiện đại. Như vậy, thực chất của chuyển giao công nghệ là đưa công nghệ bao gồm cả phần cứng (máy móc thiết bị) và phần mềm (quy trình, phương pháp công nghệ) từ nước này sang nước khác, làm thay đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng công nghệ được chuyển giao. Thực tế cho thấy việc chuyển giao công nghệ chỉ phát huy được hiệu quả trong mô hình chiến lược CNH hướng ngoại, “ hướng vế xuất khẩu”. Chuyển giao công nghệ có những tác dụng sau: Một là, rút ngắn khoảng cách tụt hậu của các nước chậm phát triển so với các nước phat triển. Hai là, tạo điều kiện để khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực ở trong nước nhằm tăng trưởng kinh tế nhanh. Ba là, đối với những nước đang trong quá trình chuyển từ mô hình chiến lược CNH hướng nội, “thay thế nhập khẩu” sang mô hình chiến lược CNH hướng ngoại, “hướng về xuất khẩu” thì nó thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch này và cho phép đạt được hiệu quả kinh tế cao. ở Việt Nam sau một thời gian dài áp dụng không thành công mô hình CNH theo kiểu Liên Xô (cũ), mà thực chất là mô hình CNH hướng nội, nhờ đường lối đổi mới kinh tế, Đảng ta đã nhanh chóng vận dụng những bài học thành công về CNH của các nước trên thế giới và trong khu vực để chuyển sang mô hình CNH hướng ngoại. Điều này đã tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia vào qua trình chuyển giao công nghệ với các nước trên thế giới và trong khu vực. Hiện nay trình độ công nghệ của Việt Nam còn rất thấp kém so với các nước láng giềng, chậm so với Trung Quốc khoảng 10 năm, chậm so với Đài Loan từ 20-30 năm ở vào thời đIểm bắt đầu CNH. Vì vậy tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài là rất cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ phải rất tỉnh táo để tránh nhập công nghệ lỗi thời do các nước thải ra, tránh để không cho Việt Nam trở thành “bãi thải công nghệ” của các nước phát triển. Song song với quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ, Việt Nam còn phảI xây dựng cho mình chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia mang tính tổng thể lâu dài, bao cả nghiên cứu, chuyển giao, thử nghiệm và ứng dụng, bởi vì đây là năng lực nội sinh đảm bảo sự phát triển vững chắc và lâu bền của đất nước, Đại Hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam – 4/2001 đã khẳng định vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ: ”Phát triển khoa học công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.” 2.Về công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam Theo tinh thần của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và hội nghị trung ương lần thứ bảy (khoá VII), công nghiệp hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ thuật ở nông thôn, tạo nền tảng cho việc phát triển nhanh, bền vững theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế ở nông thôn, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân với tốc độ cao. Quá trình công nghiệp hoá nông thôn bao gồm: + Đưa phương pháp sản xuất công nghiệp, máy móc thiết bị vào sử dụng trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn để thay thế lao động thủ công; + áp dụng phương pháp quản lý hiện đại tương ứng với công nghệ và thiết bị vào nông nghiệp và nông thôn; + Tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc thiết bị và công nghệ mới vào nông thôn. Như vậy, công nghiệp hoá nông thôn không có nghĩa là chỉ phát triển công nghiệp ở nông thôn, mà bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lĩnh vực sản xuất – dịch vụ và đời sống văn hoá tinh thần ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghiệp ở nông thôn và cả nước nói chung. Công nghiệp hoá nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp hoá nông thôn. Nội dung chủ yếu là đưa máy móc thiết bị, ứng dụng các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp, các phương pháp và hình thức tổ chức kiểu công nghiệp vào các lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp hoá nông nghiệp còn bao hàm cả việc tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác triệt để lợi thế của nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm của nông nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho chúng. Hiện đại hoá là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học – kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, cảI tiến và hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ. Hiên đại hoá nông thôn không chỉ bao gồm công nghiệp hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật – công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực khác của sản xuất vật chất ở nông thôn, mà còn cả việc bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống văn hoá - tinh thần, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, hệ thống giáo dục, đào tạo, y tế, và các dịch vụ phục vụ đời sống khác ở nông thôn. Về bản chất, hiện đại hoá là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hóa hoàn toàn không có nghĩa là xoá bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ, càng không có nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn ngay một lúc, mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện từng bước nâng cao trình độ khoa học – kỹ thuật – công nghệ và tổ chức, quản lý nền sản xuất và đời sống xã hội ở nông thôn lên ngang tầm với trình độ thế giới. Hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao trình độ khoa học – kỹ thuật – công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là quá trình cần được thực hiện một cách liên tục vì luôn có những tiến bộ kỹ thuật mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất. II. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn: 1.Vì sao phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn: ở nước ta, 80% dân số sống ở nông thôn, trên 70% lực lượng lao động xã hội làm việc ở nông thôn. Việc phát triển toàn diện nông thôn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế – xã hội của cả nước. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng, nếu không phát triển nông thôn thỉ không một nước nào có thể phát triển ổn định, bền vững với tốc độ cao một cách lâu dài được. Các nước công nghiệp phát triển hiện nay cũng đã phải giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp hoá và phát triển các đô thị, với công nghiệp hóa, hiện đại hoá và cả đô thị hoá nông thôn. Những nước chưa giải quyết vấn đề này một cách thoả đáng đang phải trả giá bằng những hành động khắc phục hậu quả của lịch sử công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước đây. Vừa qua, không chỉ các nhà kinh tế thế giới bàn luận nhiều về vấn đề này, mà nhiều tổ chức quốc tế cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo về phát triển nông thôn, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Vì vậy, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta nhằm : Thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ nông thôn, nâng cao khả năng đầu tư và tiếp nhận đầu tư vào khu vực nông thôn. Điều này thể hiện ở chỗ thu nhập giữa các hộ thuần nông và các hộ ngành nghề ở nông thôn nước ta đang có sự chênh loch ngày càng lớn và thực tế là sau khi đưa vào chế biến nông nghiệp, giá trị của các sản phẩm nông nghiệp sẽ cao hơn rất nhiều. Mở rộng thị trường, tạo cơ sở phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và các ngành kinh tế khác ở nông thôn cũng như trên cả nước. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khi các doanh nghiệp nước ta đang gặp phải sự cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường quốc tế, trong khi đó thị trường trong nước, thị trường nông thôn có tiềm năng lớn nhưng chưa được khai thác tốt. Giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn, đặc biệt là vấn đề việc làm, khai thác các nguồn lực ở mỗi địa phương, khắc phục sự chênh loch không đáng có giữa các địa phương, giữa các dân tộc, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Hiện nay nước ta có khoảng 5 triệu người đang cần có việc làm hoặc có thêm việc làm, riêng ở nông thôn, ngoài số lao động có việc làm thường xuyên, còn phải giải quyết việc làm tạm thời cho người lao động lúc nông nhàn. Khắc phục tình trạng này là một nhiệm vụ đặt ra cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. ở đây cần khắc phục quan niệm cổ điển xem việc đưa máy móc thiết bị tiến hành công nghiệp hoá nông thôn là làm giảm bớt số lao động ở nông thôn. Bởi lẽ nó sẽ làm giảm số lao động trực tiếp thực hiện công việc trước đay phải làm thủ công, xong lại tạo ra nhiều chỗ làm việc mới cho các hoạt động khác. + Thực hiện đô thị hoá nông thôn, giảm bớt sức ép của dòng dân cư từ nông thôn chuyển vào đô thị, tạo điều kiện để các đô thị có thể phát triển thuận lợi. 2.Thực trạng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. 2.1. Nông nghiệp đã phát triển nhanh về sản lượng,đặc biệt là lương thực,nhưng chất lượng nông sản còn thấp,khả năng cạnh tranh yếu,hiệu quả thấp. Từ năm 1981 đến nay,nông nghiệp đã phát triển với nhịp độ bình quân 4,5 % là tốc dộ phát triển khá cao.Sản xuất lương thực đã tăng nhanh,khắc phục được tình trạng thiếu lương thực và có dư để xuất khẩu.Đồng thời,trong những năm gần đây,sản xuất các mặt hàng nông sản khác đều tăng nhanh so với nhu cầu trong nước; hàng hoá cần được xuất khẩu cũng tăng nhanh.Hiện nay chúng ta chỉ còn phải nhập khẩu với số lượng đáng kể 6 mặt hàng nông sản gồm: bông,dầu thực vật,sữa bò,thịt bò cao cấp,bột giấy và gỗ. Do vậy,giá cả hàng nông sản trong nước nói chung phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu.Trong thời gian vừa qua,nhiều nơi,nhiều lúc giá một số mặt hàng nông sản như lúa gạo,hoa quả,thịt lợn,thịt gà đã xuống thấp,chủ yếu do xuất khẩu kém hiệu quả. Do vậy trong hệ thống các biện pháp thúc đẩy nông nghiệp phát triển, thì việc tiêu thụ sản phẩm phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu. Để làm được việc này,đối với sản xuất nông nghiệp cần phải nhanh chóng thay đổi cơ cấu và chất lượng giống,áp dụng các qui trình và công nghệ tiên tiến và đồng bộ từ sản xuất đến chế biến,bảo quản để nâng cao chất lượng hàng hoá,trong đó phát triển công nghiệp chế biến để nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu là yếu tố hết sức quan trọng.Đồng thời, để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản nước ta,thì trên cơ sở đa dạng hoá sản xuất,tập trung phát triển những mặt hàng chiến lược dựa vào những lợi thế so sánh của cả nước và từng vùng. 2.2 Hình thành các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh tập trung như:lúa,cao su,cà phê, điều,mía,rau quả,lợn,bò,tôm,cá,nhưng nhìn chung sản xuất còn phân tán,manh mún;quy mô sản xuất hộ gia đình nhỏ bé,trước mắt có thể có hiệu quả,nhưng về lâu dài là trở ngại lón cho quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp. Trong khi các vùng chuyên canh cao su,cà phê và chè đã khá ổn định thì các vùng chuyên canh khác còn đang trong quá trình hình thành,ít về số lượng và nhỏ bé về qui mô,lại chưa ổn định.Các vùng cây ăn quả,chăn nuôi gia súc chủ yếu phát triển dựa trên cơ sở các vùng truyền thống,thiếu sự tác động của khoa học công nghệ,chưa đáp ứng được các yêu cầu nguyên liệu của công nghiệp. Hiện nay cả nước có gần 10 triệu hộ dân với đất nông nghiệp bình quân 0,8 ha/hộ và có tới hàng triệu thửa đất nhỏ và manh mún,quả thật chỉ phù hợp với sản xuất bằng lao động thủ công,nếu không sử lý thì không thể công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,nhất là đồng bằng sông Hồng và miền Trung. 2.3. Nông nghiệp nước ta đã bước đầu được thuỷ lợi hoá,hoá học hoá,cơ khí hoá,điện khí hoá và áp dụng các thành tựu của cách mạng sinh học,nhưng cơ sở hạ tầng còn thấp kém,lao động thủ công vẫn còn phổ biến,trình độ khoa học công nghệ còn thấp,thua kém nhiều nước trên khu vực và thế giới Trong nhiều năm qua,Nhà nước và nhân dân đã đầu tư lớn vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp và cơ sở hạ tầng nông thôn.Tới năm 1995,các công trình thuỷ lợi đã tưới cho 3 triệu ha đất canh tác ( chiếm 53 % ),tiêu 1,4 triệu ha, ngăn mặn 0,7 triệu ha và chống lũ cho hơn 2 triệu ha; có 94 % số xã có đường ô tô tới khu trung tâm; 63 % số xã với 51 % số hộ đã có điện để dùng.Tuy vậy,chất lượng các công trình thuỷ lợi còn thấp,cần tiếp tục tu bổ,nâng cấp và xây dựng mới.Đường được dùng cho bơm nước,các cơ sở chế biến ngành nghề và thắp sáng,nhưng mức độ sử dụng còn thấp,chất lượng đIện nông thôn kém. Trình độ cơ giới hoá còn thấp,tỷ lệ cơ giới hoá làm đất mới đạt 26 %,riêng đồng bằng sông Cửu Long đạt 60 %. Việc sử dụng các loại hoá chất trong nông nghiệp nước ta cũng ngày càng tăng,nhưng so với thế giới vẫn chỉ thuộc nhóm các nước trung bình. Mặc dù các loại hoá chất đã góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng nông phẩm,nhưng cũng đang đặt ra những vấn đề về môi trường, do vậy cần được quản lí và hướng dẫn chặt chẽ để sử dụng hợp lý. Về ứng dụng thành tựu cách mạng sinh học: trong 10 năm gần đây đã tạo ra được nhiều giống lúa, ngô, rau, cây ăn quả, cây lâm nghiệp, nhất là các loại giống lai cho năng suất cao. Những tiến bộ khoa học trong lĩnh vực chăn nuôi và thuỷ sản như :lợn có tỷ lệ lạc cao, sinh hoá có thể trọng lớn và gà công nghiệp có tốc độ sinh trưởng nhanh, tiêu tốn ít thức ăn cũng đã được cung cấp rộng rãi. Tuy nhiên, trình độ áp dụng thành tựu cách mạng sinh học của nước ta còn thấp so với các nước láng giềng. 2.4. Công nghiệp chế biến nông lâm sản đã có bước tiến bộ đáng kể nhưng còn nhỏ bé và có trình độ thấp. + Về chế biến nông sản. Nhìn chung, công nghiệp chế biến nông sản của nước ta đã bước đầu vượt qua được những khó khăn của thời kì đầu chuyển sang cơ chế thị trường và đã có một số tiến bộ. Những năm vừa qua, là thời kì tập trung cao cho công nghiệp chế biến nông sản. Hầu hết các doanh nghiệp chế biến nông sản đã đi vào đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu, đổi mới thiết bị và công nghệ, tăng thêm cơ sở và công suất, làm cho năng lực chế biến nông sản tăng nhanh, đặc biệt là công nghệ chế biến mía đường. Các doanh nghiệp cũng đã xúc tiến nhanh việc tiếp cận thị trường trong và ngoài nước,bố trí lại sản xuất,đa dạng hoá sản phẩm và cải tiến mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Sản phẩm chè chế biến từ 7 mặt hàng (3 loại chè đen và 4loại chè hương),nay đã có 45 mặt hàng chè tham gia vào thị trường;về cà phê, ngoài cà phê nhân đã có các mặt hàng cà phê hoà tan, cà phê rang xay xuất khẩu;mặt hàng gạo xuất khẩu cũng đa dạng hơn. Sản lượng công nghiệp chế biến nông sản cũng đã tăng đáng kể: sản lượng ngô,gạo qua chế biến là 12,5 triệu tấn,tăng 4,5 triệu tấn so với 5 năm trước đó;đường mật các loại 393.000 tấn,tăng 70.000 tấn. Đặc biệt là gạo chất lượng cao đã tăng rất nhanh chiếm 75 %, làm thay đổi hẳn cơ cấu và giá trị gạo xuất khẩu ở nước ta. Như vậy, giá trị sản lượng chế biến nông sản liên tục tăng với tốc độ cao, giá trị sản lượng chế biến lương thực tăng 17,4 % năm, giá trị sản lượng chế biến thực phẩm tăng 12,7 % năm. Tuy nhiên,trong lĩnh vực chế biến nông sản cũng còn nhiều mặt yếu kém, nổi bật là: tỷ trọng nông sản được chế biến công nghiệp còn thấp,chỉ đạt 30 % sản lượng mía,gần 60 % chè, dưới 20 % rau quả. Phần lớn các cơ sở chế biến lúa, gạo,chè được xây dựng đã lâu, thiết bị và quy trình công nghệ lạc hậu.Tuy nhiên, hiện nay đã có một số nhà máy mới được xây dựng có máy móc thiết bị tương đối hiện đại,nhất là các cơ sở liên doanh hay đầu tư vốn nước ngoài, nhưng số lượng các cơ sở này chưa nhiều.Chất lượng nông sản chế biến chưa cao nên sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế kém,làm cho nông dân nước ta phải chịu nhiều thua thiệt. + Về chế biến lâm sản Đến nay, công nghiệp chế biến gỗ nước ta đã phát triển thành một mạng lưới toàn quốc, gồm hơn 800 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhà nước là 271, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 473,doanh nghiệp liên doanh với nước ngoàI là 30. Tuy các doanh nghiệp đã cố gắng đầu tư chiều sâu, nhập thiết bị công nghệ mới để tinh chế và nâng cao chất lượng sản phẩm,nhưng nhìn chung công nghiệp chế biến gỗ ở nước ta đang ở trình độ thấp, sản xuất chủ yếu là quy mô nhỏ, phân tán, nguyên liệu chủ yếu là gỗ rừng tự nhiên;tỷ lệ thành phẩm thấp;sản phẩm chủ yếu là gỗ xẻ và đồ mộc các loại từ gỗ nguyên chiếm tỷ lệ 68,5 % ; đồ mỹ nghệ 3,0 %.ván nhân tạo chỉ đạt11,3%. Mặc dù vậy,việc kết hợp sử dụng nhân công với tay nghề truyền thống cao, hàng lâm sản chế biến của nước ta đã cạnh tranh chiếm lĩnh có hiệu quả thị trường của một số mặt hàng,như thị trường đồ gỗ ngoàI trời ở EU. 2.5. Ngành nghề nông thôn đang phát triển nhanh ,đóng góp vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và tăng thu nhập ở nông thôn,nhưng công nghệ,kỹ thuật,chất lượng sản phẩm còn thấp. Hiện nay ở nông thôn nước ta có nhiều cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, chế tạo và sửa chữa cơ khí, rèn đúc, xây dựng,dệt, may,thêu ren,làm đồ gốm,sứ,thuỷ tinh,da, nhựa,giấy,thủ công mỹ nghệ và dịch vụ.Cả nước có khoảng 300 làng nghề,trong đó có hơn 100 làng nghề truyền thống.Đại đa số các hộ và cơ sở ngành nghề phân tán rảI rác khắp nơI trong nước dưới các hộ và cơ sở chuyên ngành nghề và các hộ kiêm. Qua điều tra ở 9 tỉnh cho thấyhiện có tới 15,tổng số hộ hoặc cơ sở chuyên và 24,3 % hộ kiêm ngành nghề,thu hút số lượng lao động lớn.Trong đó,60,6 % số hộ và cơ sở này được hình thành từ năm 1989 trở lại đây,tốc độ tăng bình quân 8,6 %/ năm,riêng 4 năm gần đây tăng 10 %/ năm. Bình quân môĩ cơ sở chuyên ngành nghề tạo ra được việc làm ổn định cho 25 lao động,còn mỗi hộ chuyên ngành nghề cho 4-6 lao động.Thu nhập bình quân của một lao động ở cơ sở chuyên ngành nghề là 430 nghìn đồng/ tháng, ở hộ chuyên : 236 nghìn đồng/ tháng,bằng 1,6 – 3,9 lần so với lao động thuần nông. Các hộ ngành nghề chủ yếu sử dụng lao động gia đình.Trình độ văn hoá và ngành nghề của người lao động thấp.Bên cạnh một số nghệ nhân có tay nghề cao,thì 55 % lao động trong các cơ sở chuyên ngành chưa qua đào tạo,36 % không có chuyên môn kỹ thuật. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở và các ngành nghề ở nông thôn rất thấp,chỉ có 18,6 % các cơ sở có nhà xưởng kiên cố;85 % có sử dụng điện;37 % công việc được cơ khí hoá,còn 63 % làm bằng tay. Vốn của các cơ sở và hộ ngành nghề thấp,chủ yếu là vốn tự có.Bình quân một cơ sở có 370 triệu đồng,1 hộ chuyên : 36 triệu đồng ,1 hộ kiêm:10 triệu đồng,trong đó,vốn vay chiếm khoảng 20 %. Sản phẩm của ngành nghề nông thôn chủ yếu phục vụ thị trường trong nước,chỉ có một phần hàng thủ công mỹ nghệ tham gia xuất khẩu đạt giá trị cao. Nhìn chung, mặt hàng đơn điệu,chất lượng thấp,mẫu mã, bao bì kém. 2.6. Thu nhập và đời sống của một bộ phận lớn nông dân đã được cảI thiện,nhưng nhìn chung còn thấp,bấp bênh,tình trạng thiếu việc làm,nghèo đói,du canh, du cư,di dân tự do đang đặt ra rất gay gắt cần có giảI pháp khắc phục. Từ khi có “ Đổi mới” đời sống cuả đa số dân cư nông thôn đã được cải thiện rõ rệt,đIều kiện ăn,ở, đi lại,học hành,chữa bệnh đã tốt hơn nhiều.Tuy vậy, thu nhập của đa số nông dân còn rất thấp,phần thu nhập về nông nghiệp mới chỉ khoảng 100 USD/ người/ năm.Tỷ lệ nghèo đói còn cao,một số nơi rất cao,như Hoà Bình 56 %; Kon Tum 54 %;Quảng Bình 46 %; Gia Lai 45 %; Lai Châu 42 %. Thu nhập và đời sống của số lượng lớn dân cư nông dân,kể cả ở những vùng nông nghiệp trù phú như Đồng bằng sông Cửu Long, vẫn bị chi phối mạnh bởi thiên tai :bão,lũ,lụt và sự lên xuống thất thường của giá cả thị trường. Hơn nữa,do kinh tế nông thôn vẫn chủ yếu là nông nghiệp (75 %GDP nông thôn là nông nghiệp) nên thu nhập của nông dân tăng chậm,chênh lệch về thu nhập giữa dân cư nông thôn với thành thị và giữa các vùng nông thôn đang tăng lên. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng và đã đạt được kết quả to lớn,tới nay vẫn còn khoảng 2,5 triệu người thuộc các dân tộc khác nhau trong diện vận động định canh định cư, trong đó có 10 vạn hộ đặc biệt khó khăn. Tính đến nay đã có khoảng 222 nghìn hộ với khoảng 1 triệu người di cư tự do,phần lớn là các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ,chủ yếu do nghèo túng, đã gây ra nhiều khó khăn cho các địa phương có dân đến và nạn phá rừng tăng nhanh. Nhìn về tổng thể,những năm vừa qua nông nghiệp và nông thôn đã có những chuyển biến tích cực nhưng những vấn đề đặt ra cũng rất lớn và gay gắt.Để khai thác các tiềm năng,vượt qua được những thách thức và yếu kém hiện nay,con đường duy nhất là phải đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. 3.Những nội dung của công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. 3.1.Phát triển nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng, xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất trên qui mô lớn và từng bước hiện đại hoá. Trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh của từng vùng về tiềm năng đất đai,khí hậu và kinh nghiệm truyền thống,cùng với việc đẩy nhanh tiến độ các thành tựu khoa học kỹ thuật để tạo ra nhiều loại nông sản hàng hoá đa dạng đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.Để đạt được mục tiêu nêu trên không thể không tiến hành quy hoạch và thực hiện các biện pháp đồng bộ để tạo ra các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá lớn gắn kết liên hoàn giữa trước sản xuất,trong sản xuất và sau sản xuất, giữa sản xuất – chế biến và tiêu thụ,tạo hành lang thông suốt từ sản xuất của nông dân đến thị trường tiêu thụ. Phát triển và nâng cao sức cạnh tranh của ngành sản xuất truyền thống,từng bước phát triển các ngành sản xuất mới có khả năng, coi trọng các ngành sản xuất nông sản quý hiếm có lợi thế để phát huy tiềm lực đa dạng của nền nông nghiệp,đảm bảo sức cạnh tranh bền vững của nông sản hàng hoá Việt Nam trong quá trình hội nhập với thị trường khu vực và thế giơí.Trước hết,tập trung xây dựng một số ngành chủ lực sau đây: + Các vùng chuyên canh trồng lúa xuất khẩu ở Đồng Bằng sông Cửu Long và một vài tỉnh ở Đồng bằng sông Hồng,tổng diện tích khoảng 0,8-1 triệu ha để hàng năm làm ra 70 % lượng gạo xuất khẩu đạt chất lượng cao; + Các vùng chuyên canh ngô ở Đồng bằng sông Cửu Long,Đông Nam Bộ,Tây Nguyên,Đồng bằng sông Hồng và miền núi phía Bắc,với tổng diện tích khoảng 1 triệu ha để hàng năm sản xuất khoảng 4-5 triệu tấn ngô hàng hoá. + Các vùng trồng cao su ở Tây Nguyên và các tỉnh Duyên hải Trung Bộ để tới năm 2010 đưa tổng diện tích cao su của cả nước lên trên 700 ha; + Các vùng cà phê thâm canh cao ở Tây Nguyên, với diện tích khoảng 300.000 ha ; + Các vùng chè xuất khẩu tập trung ở miền núi phía Bắc với diện tích khoảng 100.000 ha ; +Vùng chuyên canh đIều ở Duyên hải miền trung,Đông nam bộ và một phần ở Tây Nguyên, với diện tích khoảng 300.000 ha; + Các vùng ăn quả tập trung,gồm cây ăn quả nhiệt đới ở Nam Bộ và cây ăn quả á nhiệt đới ở miền núi phía Bắc,khoảng 500.000 ha; + Các vùng rau xuất khẩu ở miền núi phía Bắc,Đồng bằng sông Hồng và một phần Tây Nguyên; + Các vùng mía phục các nhà máy đường với diện tích khoảng 500.000 ha; + Các vùng chăn nuôi bò thịt chất lượng tốt ở miền Trung và Tây Nguyên; + Các vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và Đông bằng sông Cửu Long; + Các vùng rừng nguyên liệu công nghiệp với tổng diện tích 3,5 triệu ha tới năm 2010 và 5 triệu ha vào năm 2020, tập trung ở miền núi Bắc Bộ,Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. + Vùng nuôi tôm và thuỷ sản xuất khẩu Đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh ven biển miền Trung. 3.2.Thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn 3.2.1.Thuỷ lợi hoá Tiếp tục mở mang diện tích được tưới tiêu bằng công trình,nâng cao năng lực quản lí và vận hành các hệ thống thuỷ nông và hiện đại hoá ngành thuỷ lợi bằng việc áp dụng các phương pháp tưới tiêu tiên tiến,thiết bị hiện đại.Đến năm 2020,hoàn thành cơ bản việc xây dựng các công trình tưới tiêu nước cho các vùng trồng lúa,tưới nước và tiêu úng cho 2 triệu ha rau màu,nâng cao mức độ an toàn kĩ thuật cho các hệ thỗng đê sông và đê biển. Tới năm 2000 cần hoàn thành các công trình thuỷ lợi để đảm bảo tưới cho 6 triệu ha lúa,1 triệu ha rau màu và cây công nghiệp; giải quyết cơ bản yêu cầu nước tưới và thoát lũ cho vùng ngập lũ,ngọt hoá vùng mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long; tiêu úng ở Đồng bằng sông Hồng và Bắc Khu Bốn cũ trong điều kiện mưa với tần suất 10 % đảm bảo cơ bản yêu cầu về thuỷ lợi đối với lúa và hạn chế tác hại của bão,lũ đối với vùng Duyên hải miền Trung,Tây Nguyên và các vùng khác; giải quyết nước sinh hoạt cho 1 triệu người; nâng cấp một bước hệ thống đê sông, đê biển,đê ngăn mặn. 3.2.2.Phát triển hệ thống giao thông nông thôn Phát triển hệ thống đường giao thông chất lượng tốt tới các tụ điểm nông nghiệp nông thôn và trong các vùng chuyên canh tập trung,từng bước làm đường tới những xã chưa có đường ô tô tới trung tâm xã và nâng cao hệ thống đường giao thông ở các vùng khác trong nước.Tới năm 2000 cần duy tu và nâng cấp 5.000 km đường cấp huyện,hỗ trợ nâng cấp 5.000 km đường xã hiện có,xây dựng mới khoảng 6.500 km đường ô tô, xây dựng và cảI tạo khoảng 3.000 cầu cống. 3.2.3.Cơ giới hóa Thực hiện cơ giới các khâu việc nặng Thực hiện cơ giới các khâu việc nặng nhọc,thời vụ khẩn trương,sử dụng các loại máy móc thiết bị có công suất thích hợp để nâng cao năng suất lao động,tới năm 2010,tỷ lệ cơ giới hoá khâu làm đất ít nhất là 70 %,tuốt lúa 80 %,cơ giới hóa khâu tưới tiêu nước 70 %;áp dụng trên diện rộng máy thu hoạch lúa,ngô,mía…máy móc trong làm vườn… Để phục vụ quá trình cơ giới hoá,cần hỗ trợ các cơ sở chế tạo cỡ vừa và nhỏ như các loại máy kéo 6-12 mã lực,động cơ 4,6,9,12 mã lực,máy nông nghiệp,các thiết bị chế biến nông lâm sản. 3.2.4.Điện khí hoá và thông tin liên lạc. Phát triển mạng lưới cung cấp điện ở nông thôn để tới năm 2010 toàn bộ dân cư nông thôn có điện,đảm bảo đáp ứng yêu cầu về điện của các ngành sản xuất nông thôn;phát triển sản xuất các loại máy phát điện cỡ nhỏ,động cơ điện dùng trong nông nghiệp và nông thôn.Trước mắt, tới năm 2000,đảm bảo 100 % xã ở Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ,60-80 % số xã ở các vùng khác có điện. Nhà nước tập trung đầu tư để nhanh chóng hoàn thành các chương trình phủ sóng phát thanh và truyền hình,phát triển mạng điện thoại,đa dạng hoá và hỗ trợ các hình thức đưa thông tin tới nông dân,nhất là thông tin và thị trường công nghiệp. 3.2.5 .ứng dụng thành tựu của cách mạng sinh học. áp dụng nhanh các thành tựu của các cách sinh học để tạo và nhân nhanh giống cây trồng,vật nuôi,đặc biệt là áp dụng thành tựu về giống có ưu thế lai;kỹ thuật cấy truyền hợp tử;kỹ thuật gen hócmon sinh trưởng;áp dụng công nghệ sản xuất các loại phân vi sinh cố định Nitơ để thay thế dần phân đạm hoá học;các chế phẩm vi sinh để bảo vệ cây trồng thay dần các loại thuốc hoá học độc hại với người và gia súc;các loại thuốc thú y và các loại vacxin thế hệ mới. 3.3. Phát triển công nghiệp,dịch vụ nông thôn. Nước ta đất chật,người đông,mật độ dân số vẫn còn cao,lao động trong nông thôn hiện đã dư thừa nhiều.Quá trình hiện đại hóa nông nghiệp từ nay về sau lại tiếp tục tăng thêm số lao động làm cho sức ép về việc làm trong nông thôn đã gay gắt lại càng gay gắt thêm.Phát triển công nghiệp dịch vụ của đất nước,trước hết là công nghiệp dịch vụ nông thôn nhằm tạo ra thị trường thu hút số lao động được gíải phóng ra khỏi nông nghiệp,giải quyết được việc làm trong quá trình hiện đại hoá nông nghiệp.Không những vậy,với năng suất lao động cao hơn nhiều lần so với nông nghiệp,công nghiệp và dịch vụ nông thôn sẽ tăng thu nhập cho nhân dân nông thôn. Bởi vậy,phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn là lối thoát cơ bản của nền nông nghiệp hiện đại hoá,là hướng chủ yếu và lâu dài để tạo việc làm,tăng thu nhập cho nông dân,từng bước công nghiệp hóa,đô thị hoá nông thôn,rút ngắn khoảng cách về mức sống giữa nông thôn và thành thị trong quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước. 3.3.1. Công nghiệp hoá chế bíên nông lâm sản. +Về chế biến nông sản. Công nghiệp chế biến nông sản tập trung vào những mặt hàng xuất khẩu chủ lực,có thế mạnh cạnh tranh quốc tế,đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn cho đất nước như: gạo, cao su, chè, hạt điều,rau quả,thịt,đảm bảo nhịp độ tăng trưởng không thấp hơn 12 %/năm.Tới năm 2010 phảI đạt kim ngạch xuất khẩu trên 3,5 tỷ USD,năm 2020 trên 6 tỷ USD. Từ nay tới năm 2020 phải khẩn trương phát triển hệ thống kho tàng,cơ sở phơI sấy lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long,đồng thời mở rộng công suất chế biến gạo xuất khẩu chất lượng cao,đảm bảo hàng năm xuất khẩu khoảng 3,5-4 triệu tấn gạo; đối với cao su,cà phê,hạt điều cần nhanh chóng phát triển các cơ sở chế biến sâu,tới năm 2010 phải đạt công suất chế biến cao su mủ khô 300 nghìn tấn,cà phê nhân 400 nghìn tấn,hạt điều 100 nghìn tận/năm.Phải đổi mới công nghệ và xây dựng các nhà máy chế biến chè đạt công suất 50 nghìn/năm; xây dựng các cơ sở chế biến nước quả,rau quả hộp,mứt…quy mô vừa và nhỏ để đáp ứng nhu cầu chế biến khối lượng hoa quả đang tăng nhanh (ít nhất khoảng 200 nghìn tấn); nâng cấp các cơ sở chế biến thịt đảm bảo chất lượng xuất khẩu đạt công suất 50-70/tấn/nghìn tấn/năm. Đồng thời cần phát triển chế biến hoa màu,đường,thức ăn chăn nuôi,dầu thực vật (lạc,dừa,sở,…) đáp ứng nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu.Riêng về đường,tới năm 2010 hoàn thành việc xây dựng các nhà máy để đạt công suất 1 triệu tấn/năm gắn với công nghiệp sau đường. +Về chế biến lâm sản: Cần phát triển ngành công nghiệp chế biến lâm sản của nước ta để tới năm 2020 đạt ngang tầm với các nước ASEAN và sau đó là các nước châu á khác.Trước hết phát triển công nghiệp giấy để tới năm 2010 đạt sản lượng 1,2 triệu tấn/năm,đảm bảo đáp ứng nhu cầu trong nước 13 kg/người,tới năm 2020 đạt 2,5 triệu tấn hay 24 kg/người;sản xuất ván nhân tạo,từ năm 2005 đạt sản lượng1,3 triệu m3 thành phẩm/năm;sản xuất đồ gỗ gia dụng, tới năm 2010 đạt sản lượng1 triệu m3 sản phẩm/năm,trong đó xuất khẩu 500 nghìn m3,ổn định việc làm cho gần 1000 doanh nghiệp.Đưa công suất chế biến hàng mây tre đan lên 100 nghìn tấn sản phẩm/năm,chủ yếu để xuất khẩu. Đồng thời cần tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích làm các hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng ít nguyên liệu,nhiều lao động,đạt giá trị cao.Mục tiêu tới năm 2010 đạt 1000 m3 sản phẩm/năm; duy trì và phát triển các cơ sở chế biến lâm đặc sản như nhựa thông,cánh kiến,quế,hồi,… Trước mắt,tập trung đầu tư chiều sâu,đổi mới công nghệ ở các cơ sở chế biến lâm sản hiện có,xúc tiến xây dựng một số nhà máy chế tạo ván nhân tạo công suất 35-54 nghìn m3/năm,nhà máy giấy có công suất trên 50 nghìn tấn/năm. +Về chế biến thuỷ sản: Năm 1995,nước ta đã xuất khẩu được 630 triệu USD hàng thuỷ sản.Cần tiếp tục tăng cường trang thiết bị,nâng cao chất lượng sản phẩm của các cơ sở hiện có,đồng thời mở rộng công suất chế biến để tới năm 2010 đạt giá trị xuất khẩu 1,8 tỷ USD,năm 2020 đạt 2,5 tỷ USD. 3.3.2 .Các ngành công nghiệp không dùng nguyên liệu là sản phẩm nông,lâm,ngư nghiệp. Đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp ở nông thôn không dùng nguyên liệu là sản phẩm nông,lâm,ngư nghiệp,nhưng sử dụng nhiều lao động và vật liệu tại chỗ,bao gồm ngành dệt,may mặc,dày dép,thuỷ tinh,sành sứ và cơ khí sửa chữa.Kim ngạch xuất khẩu của ngành này có thể đạt tới trên10 tỷUSD vào năm 2010,20 tỷ USD vào năm 2020,cao hơn các ngành chế biến nông,lâm,thuỷ sản,từ đó có thể tăng nhanh thu nhập của dân cư nông thôn. 3.3.3.Các ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp quy mô hộ gia đình. Nhà nước có chính sách hỗ trợ tích cực để khôI phục các làng nghề,khuyến khích hộ gia đình bổ xung vốn đầu tư vào các loại ngành nghề đa dạng khác,bao gồm chế biến nông,lâm,thuỷ sản,sản xuất vật liệu xây dựng,gốm,sứ,thuỷ tinh,rèn,đúc,…để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và tham gia xuất khẩu,tới năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 0,5tỷ USD,tới năm 2020 đạt 1 tỷ USD. 3.3.4. Về dịch vụ nông thôn. Thực hiện xã hội hoá dịch vụ ở nông thôn,thu hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế để đảm bảo cung cấp mọi dịch vụ và đời sống ở nông thôn,sau năm 2010 tạo ra trên 25 % GDP nông thôn. Chú trọng phát triển hệ thống khuyến nông,dịch vụ thuỷ nông,thú y,bảo vệ thực vật,cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm. III.Các quan điểm chỉ đạo và giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá,hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. 1.Các quan điểm chỉ đạo. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định:trong những năm tới vẫn coi công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp,nông thôn là một trọng điểm quan trọng,có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước.Vì vậy,cần tăng cường sự lãnh đạo và huy động của các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp nông nghiệp,nông thôn.Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp,lâm nghiệp,ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng cách ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ,nhất là công nghệ sinh học;quy hoạch và sử dụng đất hợp lí;đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi,tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích;đẩy mạnh thuỷ lợi hoá,cơ giới hoá,điện khí hóa,giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá.Đầu tư nhiều hơn cho việc phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn.Phát triển công nghiệp dịch vụ,các ngành nghề đa dạng,chú trọng công nghiệp chế biến,cơ khí phục vụ nông nghiệp,các làng nghề;chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ,tạo nhiều việc làm mới,nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn. Giá trị gia tăng công nghiệp( kể cả thuỷ sản,lâm nghiệp) tăng bình quân hằng năm 4,0-4,5 %.Đến năm 2010, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt khoảng 40 triệu tấn.Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng16-17 %( năm 2005 là 20-21%); tỷ trọng ngành chăn nuôI trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên khoảng 25%;thuỷ sản đạt sản lượng 3,0-3.5 triệu tấn ( trong đó khoảng1/3 là sản phẩm nuôI trồng).Bảo vệ 10 ha rừng tự nhiên,hoàn thành chương trình trồng 5 triệu ha rừng,nâng độ che phủ của rừng lên 43%.Kim ngạch xuất khẩu nông,lâm,thuỷ sản đạt 9-10 tỷ USD,trong đó thuỷ sản khoảng 3,5 tỷ USD.Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%. 2.Một số giải pháp cơ bản để đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. 2.1.Tích cực tham gia việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp,nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá. Phải nâng cao được năng suất và thu nhập trên một đơn vị diện tích lên gấp 2 lần so với hiện nay;khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng,từng gia đình,tạo ra việc làm mới,chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn,nhằm đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia.Chú trọng nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo trên cơ sở hình thành các vùng sản xuất lúa chất lượng cao,giá thành hạ,gắn với bảo quản,chế biến và tiêu thụ;đồng thời quan tâm phát triển sản xuất lương thực ở những vùng miền núi đặc biệt khó khăn.Phát triển sản xuất và chế biến các loại nông sản hàng hoá xuất khẩu theo lợi thế của từng vùng với quy mô hợp lí,tập trung nâng cao chất lượng,giá trị và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới như:lúa gạo,thuỷ sản,cà phê,hạt điều,hồ tiêu,chè,cao su,rau quả nhiệt đới,thịt lợn…Đối với những mặt hàng đang còn nhập khẩu,nhưng nước ta có điều kiện sản xúât như: ngô,đậu tương,thuốc lá,dầu ăn,sữa bột,bột giấy,…cần được bố trí sản xuất hợp lí ở mỗi vùng theo hướng coi trọng hiệu quả kinh tế.Phát triển nhanh công nghiệp,nhất là công nghiệp chế biến,ngành nghề,dịch vụ ở nông thôn và cơ cấu lao động,giải quyết việc làm ngay trên địa bàn nông thôn,nâng cao đời sống nhân dân. 2.2.Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật,đẩy mạnh ứng dụng và khoa học tiên tiến. Vấn đề đặt ra là làm sao tăng năng suất trong khư vực kinh tế nông thôn;thực hiện cơ khí hoá,đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ. Muốn tăng năng suất lao động, giảm bớt chi phí đầu vào, thay đổi hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp, hướng tới sản xuất hàng hoá trên diện tích quay vòng hàng trăm triệu ha kịp thời vụ, đáp ứng nhu cầu thâm canh, khâu quan trọng là tiến hành cơ khí hoá. Sản xuất máy nông nghiệp phảI được coi là hướng đầu tư chủ yếu của công nghiệp cơ khí. Hiện nay, cả nước có trên 115000 máy kéo các loại, gấp 1,5 lần số liệu năm 1985, nhưng mức bình quân như vậy vẫn thấp hơn nhiều so với các nước nông nghiệp phát triển trong khu vực như : TháI Lan , Trung Quốc. Song song với quá trình cơ khí hoá, cần đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, tăng cường vốn ngân sách cho các công trình thuỷ lợi trọng đIểm, đặc biệt là các dự án nằm trong trương trình phat triển kinh tế – xã hội và kiểm soát quá trình sống chung với lũ ở đồng bằng sông Cửu Long. Làm tốt công tác thuỷ lợi hoá sẽ nâng cao hiệu quả chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi. Chỉ thị số 63/CT- TW đã chỉ rõ “ củng cố và tăng đầu tư cho một số trung tâm nghiên cứu khoa học cơ bản hiện đại, nhất là về công nghệ sinh học, tạo một bước đột phá mới về giống; có quy định trong sản xuất, bảo quản, chế biến nông lâm hải sản để trước mắt khắc phục những yếu kém về năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam; tiến tới có thể xâm nhập sâu rộng ở thị trường nước ngoàI”. Theo đó, chúng ta cần đầu tư mạnh mẽ cho công nghệ sinh học, nhất là công nghệ gen. Một kiểu gen mới cho giống cây trồng, vật nuôi có thể làm cho năng suất tăng lên gấp nhiều lần. Trong điều kiện nền kinh tế đất nước đang trong quá trình hội nhập và hướng ra xuất khẩu, chúng ta phải nhanh chóng đưa công nghệ tiên tiến vào khâu bảo quản nông sản. Kinh nghiệm cho thấy, với công nghệ tiên tiến, thời hạn bảo quản sẽ dài hơn và số lượng tổn thất chỉ khoảng 0,1% - 0,2% năm; còn theo cách cũ thì thời hạn bảo quản ngắn hơn và tổn thất lên tới 1% - 1,2% năm. áp dụng công nghệ bảo quản tiên tiến sẽ góp phần nâng cao chất lượng nông sản và mang lại hiệu qủa kinh tế cao. 2.3. Phát triển nông nghiệp hướng ra xuất khẩu. Nền nông nghiệp nước ta đã và đang chuyển mạnh từ sản xuất nhỏ, manh mún,tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá. Các mặt hang nông sản hiện không chỉ thoả mãn nhu cầu trong nước mà còn hướng ra suất khẩu. Bình quân hàng năm giai đoạn từ 1990 – 2000 nước ta đã xuất khẩu được 2,6 triệu tấn gạo; 280 tấn cà phê; 21,1 nghìn tiêu; 23,35 nghìn tấn đIều; 155 nghìn tấn cao su; 24 nghìn tấn chè; đặc biệt là xuất khẩu thuỷ sản ( năm 1980 chỉ đạt 11 triệu USD ; đến năm 2000 đạt 11,47 tỷ USD và trong năm 2001 đạt tới 1,74 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu với tổng sản lượng là 2,2 triệu tấn. Thành tựu đó đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế chung của cả nước. Nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu các sản phẩm nông lâm thuỷ sản trong những năm qua chiếm tỷ trọng từ 45% - 47% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Bước sang thế kỷ XXI, toàn cầu hoá kinh tế là một tất yếu khách quan. Việt Nam đã và đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Với áp lực hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, nhất là khi Trung Quốc đã gia nhập WTO; hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã được Quốc hội hai nước thông qua; chúng ta đang chuẩn bị các cam kết về thuế quan để thực hiện AFTA vào năm 2006, là những điều kiện vừa tạo nhiều cơ hội mới, nhưng cũng có không ít thách thức mới. Thị trường nông sản Việt Nam phải được đặt trong mối tương quan với thị trường nông sản thế giới. Để các mặt hàng nông sản Việt Nam có chỗ đứng vững chắc trên thương trường quốc tế, chúng ta cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau: + Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thương Mại phối hợp với Bộ Ngoại Giao thông qua với các đại sứ quán ở nước ngoàI để tìm các đối tác kinh tế hữu hiệu, tìm thị trường và quảng bá cho hàng hoá Việt Nam. Dự đoán được xu hướng vận động của cung – cầu về hàng nông sản trên thị trường quốc tế, trên cơ sở đó , đề ra chiến lược lâu dài về xuất khẩu, đồng thời phải có chiến lược thông tin về thị trường quốc tế thông qua các trung tâm xúc tiến thương mại được lập ở nước ngoài để nắm nhu cầu thị hiếu của khác hàng ( cả về chủng loại sản phẩm mẫu mã, giá cả, thị hiếu người tiêu dùng); tạo chủ động trong xuất khẩu hàng nông sản. + Các bộ có liên quan cần đưa ra chính sách thuế ưu đãi đối với khu vực kinh tế nông nghiệp và nông thôn, nhất là những vùng kinh tế nông nghiệp trọng đIểm ( miễn giảm thuế sử dụng đất, giảm thuế suất đối với các loại vật tư nông nghiệp); Hình thành quỹ hỗ trợ hoặc bảo hiểm giá đối với các mặt hàng nông sản xuất khẩu. Xây dựng chính sách hỗ trợ về lãi suất đối với kinh tế nông nghiệp; đẩy mạnh đầu tư tín dụng chung, dài hạn đối với các vùng nông nghiệp trọng đIểm; đơn giản hoá thủ tục vay vốn ngân hàng, nhất là đối với nông dân. Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các ngành liên quan sớm cho ra ngân hàng hỗ trợ xuất nhập khẩu, một nhân tố quan trọng để xuất khẩu hàng nông sản. 2.4. Đầu tư và phát triển nguồn nhân lực: Hiện nay trình độ lao động tại khu vực kinh tế nông nghiệp và nông thôn nhìn chung còn yếu về chất lượng và thiếu về số lượng và về cơ bản vẫn là lao động thủ công. Trong một thời gian dài, chúng ta chưa chú trọng đến đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực này, đặc biệt là những ngành nghề gắn liền với quá trình bảo quản, chế biến – khâu quan trọng làm tăng giá trị nông sản. Kiến thức của nông dân về khoa học – kỹ thuật ( nhất là công nghệ sinh học), về thị trường còn rất hạn chế ( chưa hiểu thế nào là AFTA) , gia nhập AFTA thì sẽ có lợi và hạn chế gì). Vì vậy, đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp và nông thôn phải được coi là một giải pháp lớn và phải chiếm một tỷ trọng đáng kể Ngân sách Nhà nước dành cho nông nghiệp. Cần xây dựng mới và củng cố các trường dạy nghề phục vụ phát triển nông nghiệp: có chính sách thoả đáng đối với đội ngũ trí thức tình nguyện làm việc tại nông thôn; tổ chức và thực hiện các chương trình khuyến nông, khuyến ngư; đây là một biện pháp hết sức quan trọng nhằm nâng cao trình độ của nông dân trong đIều kiện chúng ta tiếp cận với kinh tế tri thức. Phát triển mạnh tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa bàn nông thôn, giúp cho nông dân hiểu biết hơn về thị trường trong nước và thế giới. Gắn liền với quá trình đổi mới là kiện toàn lại các loại hình kinh tế hợp tác xã, cần phát triển mô hình hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành. Thí điểm mô hình hợp tác xã nông – công – thương tín trong điều kiện phát triển nền kinh tế nông nghiệp hướng ra xuất khẩu. Thực hiện tốt cơ chế liên kết các thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước; đây là hình thức biểu hiện sinh động mối liên hệ liên minh công – nông về kinh tế ( hiện một số hợp tác xã nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long ngay từ khi thành lập đã có sự hỗ trợ của Nhà nước, nhờ đó, các công ty lương thực, vật tư, bảo vệ thực vật các tỉnh đã mua sắm được một số máy móc nông nghiệp, cải thiện điều kiện lao động cho nông dân ) . Việc mở rộng các hình thức liên kết giữa kinh tế tập thể và các thành phần kinh tế khác sẽ đem lại sức mạnh to lớn trong phát triển của các tổ chức hợp tác, hợp tác xã trong thời kỳ mới, phấn đấu để kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc trong nền kinh tế quốc dân, đó cũng là chính là việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay. 2.5.Tiếp tục đổi mới và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. Khuyến khích phát triển mạnh mẽ và lâu dài kinh tế hộ nông dân và kinh tế hộ nông dân và kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp và nông thôn. Mọi thành phần kinh tế đều có vai trò quan trọng và đều được khuyến khích phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tạo mọi đIều kiện thuận lợi để kinh hộ phát triển sản xuất hàng hoá với quy mô ngày càng lớn và phát triển kinh tế trang trại. Khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã trên cơ sở liên kết,hợp tác tự nguyện giữa các hộ và đời sống kinh tế – xã hội nông thôn. Doanh nghiệp nhà nước tập trung thực hiện những việc mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được; hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Tổ chức sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước,để thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong kinh doanh lúa gạo, phân bón, phát triển chế biến nông, lâm, thuỷ sản với quy mô lớn, yêu cầu kĩ thuật cao,vốn lớn và liên kết kinh tế có hiệu quả với các hộ nông dân và hợp tác xã sản xuất nguyên liệu; giữ vai trò chủ yếu trong việc thực hiện các nhiệm vụ công ích. Đối với khu vực miền núi, doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu trong việc hỗ trợ phát triển sản xuất, chế biến và phát triển nông, lâm, thuỷ sản. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh các ngành nghề đa dạng. Thực hiện liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ, tạo điều kiện để nông dân và các hợp tác xã tham gia cổ phần ngay từ đầu với doanh nghiệp; khuyến khích kí kết hợp đồng tiêu thụ nông sản giữa doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và nông dân; doanh nghiệp hỗ trợ vốn, chuyển giao kĩ thuật, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân làm ra giá cả hợp lí. Kết luận Phát triển nông nghiệp, nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là công việc quan trọng và khó khăn nhất, đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt trong điều kiện nước ta vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ cơ giới còn thấp, lao động trong nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn , tỷ lệ thất nghiệp cao, trình độ lao động thấp. Vì vậy, việc đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn có ý nghĩa to lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho nhân dân. Đó là một bước đột phá quan trọng nhằm giải quyết sức lao động của giai cấp nông dân chiếm 80% soó dân cả nước, tạo điều kiện khai thác tốt tiềm năng dồi dào về lao động và đất đai; là đòi hỏi cấp thiết của nhiệm vụ tăng cường và củng cố khối công - nông liên minh - nền tảng vững chắc của thế hệ mới; và đó còn là giải pháp quan trọng để thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, đảm bảo công bằng xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm mục tiêu đưa nông nghiệp và nông thôn nước ta mau chóng thoát khỏi tình trạng lạc hậu, đói nghèo. Xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phong an ninh vững chắc,….Ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Nói tóm lại, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ to lớn, cấp bách, lâu dàI và gian khó. Việc thực hiện nó đòi hỏi phảI có những nỗ lực chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội; đông thời phảI có những bước đI, biện pháp và chính sách hợp lý để thực hiện.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21134.doc
Tài liệu liên quan