Đề án Đầu tư cho nông nghiệp Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

- Tìm cách tháo gỡ, khai thác mọi tiềm năng sẵn có và chủ yếu là dựa vào thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ngay trên điạ bàn nông thôn. Một trong những biện pháp đó là: khai hoang, phục hoá, xây dựng các công trình thuỷ lợi, xen canh, gối vụ, chuyển vụ, tăng vụ. Trong 10 năm qua bằng biện pháp đó đã giải quyết tại chỗ cho gần 3 triệu lao động . - Phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, theo hướng đầu tư thâm canh, áp dung các biện pháp khoa học công nghệ mới tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. - Phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ phi nông nghiệp nhằm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế ở nông thôn cũng là một biện pháp quan trọng giải quyết việc làm ở nông thôn hiện nay. - Tạo việc làm cho lao động ven biển bằng cả nghề đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản gắn với chế biến dịch vụ thuỷ sản. - Tiếp tục thực hiện biện pháp sinh đẻ có kế hoạch, nhằm hạn chế sức ép về dân số và lao động tăng thêm mỗi năm.

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đầu tư cho nông nghiệp Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tài chính kinh tế toàn vùng Đông Nam á và lan ra toàn khu vực Châu á. Theo số liệu tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn đầu tư nước ngoài đăng kí năm 2000 đạt khoảng 2.4 tỷ USD trong khi lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chỉ có 36 dự án với tổng số vốn đăng kí là 55.4 triệu USD (chiếm khoảng 2.31 % tổng vốn FDI đăng kí). Trong những ngày cuối cùng của năm 2000, chúng ta đã cấp giấy phép cho dự án chế biến nông nghiệp với số vốn là 150 triệu USD để gối đầu năm 2001 tạo đà tăng trưởng cho toàn ngành. Một nguồn vốn khác nữa là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức – ODA. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn số vốn ODA vào khu vực này giai đoạn 1993 – 1999 liên tục tăng qua các năm, đạt 3.081 tỷ USD. Số vốn này được tập trung chủ yếu xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giao thông nông thôn, các công trình thuỷ lợi, các dự án xoá đói giảm ngèo, ngoài ra còn một số dự án hỗ trợ tín dụng nông thôn. Trong số các dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn gồm có các dự án giao thông nông thôn (35.41 %), thuỷ lợi (23.22 %) trồng rừng, cấp điện (9.7 %), cấp nước (136 %) cho các vùng nông thôn, xây dựng các công trình công cộng như trường học, trạm bơm, chợ. Nhìn chung ODA chủ yếu tập trung vào đồng bằng Bắc Bộ ( 25 % ), Đông Nam bộ (19.99 %) và ĐBSCL (12 %). Nhật Bản đứng đầu trong các đối tác cung cấp ODA cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, ngoài ra còn phải kể đến Ngân hàng thế giới, ADB, Pháp, Đan Mạch ... Ngoài ra trong các năm qua nguồn vốn vay, viện trợ, hợp tác khoa học kỹ thuật của các quốc gia phát triển và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục gia tăng góp phần hỗ trợ nông lâm nghiệp phát triển . Cùng với việc tăng nguồn vốn đầu tư trong nước và ngoài nước, 3 năm 1996 – 1998, Nhà nước đã bước đầu đổi mới cơ cấu và phương pháp đầu tư theo hướng tập trung hơn vào các chương trình, mục tiêu trọng điểm thông qua các dự án như: phủ xanh đất trống đồi núi trọc, nước sạch nông thôn, dự án thuỷ lợi ở ĐBSCL... đồng thời chuyển đầu tư trực tiếp mang nặng tính bao cấp sang đầu tư gián tiếp để khuyến khích nông dân phát triển sản xuất. Và chuyển từ đầu tư cho khu vực quốc doanh sang đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn . Trong số 2882,4 tỷ đồng vốn đầu tư XDCB trong nông nghiệp năm 1996 có 1737 tỷ đồng dành cho thuỷ lợi ( 60 % ) 429 tỷ cho trồng trọt (15 %) trong đó trạm trại phục vụ trồng trọt 143,6 tỷ, chăn nuôi 213 tỷ đồng (7.4 %); lâm nghiệp 498 tỷ (17.2 %). Đáng chú ý là vốn đầu tư đưa KHKT vào sản xuất tăng từ 14,8 tỷ năm 1995 lên hơn 200 tỷ năm 1997, đã tạo điều kiện để mở rộng khuyến nông khuyến lâm và khuyến ngư tăng diện tích giống mới năng suất cao trong trồng trọt 1.2.2 Theo cơ cấu đầu tư Nhìn toàn diện có thể thấy những khoản đầu tư khá lớn vào nông nghiệp nông thôn, đặc biệt các công trình thuỷ lợi trồng cây công nghiệp phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản ... đã tạo sự phát triển tương đối nhanh và ổn định, mặt khác hiệu quả đầu tư cao hơn trên phương diện đánh giá hiệu quả sử dụng đồng vốn được nâng cao (hệ số ICOR dưới 2 trong khu vực nông nghiệp nông thôn). Đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn. Mục tiêu xây dựng cơ cấu kinh tế nông công nghiệp dịch vụ ở nông thôn đến năm 2000 là 50 % - 25 %, 25 % và nhịp độ phát triển nông nghiệp trung bình của cả nước trong giai đoạn 1996 – 2000 là 4 – 5 % / năm. Để thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cần đầu tư đủ dứt điểm cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn bởi một cơ sở hạ tầng tốt sẽ giúp giảm giá thành sản xuất, giảm rủi ro, thúc đẩy lưu thông hàng hoá trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp và các ngành liên quan trực tiếp đến nông nghiệp, khu vực phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Đầu tư vào cơ sở hạn tầng là đầu tư có tác dụng kép, nó không chỉ là động lực để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, mà còn kéo theo sự gia tăng mạnh đầu tư vào nông nghiệp nông thôn. Để thúc đẩy quá trình này phải đánh giá đúng thực trạng để xác định trọng điểm đầu tư, nhu cầu đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Biểu 6: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước phân theo ngành kinh tế (giá so sánh năm 1989) (tỷ đồng) 1990 1992 1994 1995 1995/1990 1 Tổng số 2145,8 3333,2 5729,8 5559,8 259,2 2 Nông nghiệp 324,7 370,0 437,2 536,7 165,3 3 Lâm nghiệp 42,3 52,1 99,6 15,0 248,2 4 Nông – Lâm nghiệp 367,00 422,1 536,8 641,7 174,8 5 So 4/1 17,1 12,7 9,4 11,5 Nguồn: Niên giám thống kê năm 1996, Nxb thống kê, tr 160. Đầu tư phát triển mạng lưới giao thông nông thôn . Hiện nay nhu cầu đầu tư cơ sơ hạ tầng ở nông thôn vừa lớn về quy mô, vừa nhiều về số lượng công trình. Mặc dù trong những năm gần đây vấn đề này đã được Ngân sách Trung ương và Địa phương quan tâm hơn nhưng nhìn chung đường nông thôn còn thiếu, chất lượng đường ở các vùng còn thấp. Cả nước hiện có 150.106 km đường bộ, trong đó có 31.264 km đường huyện, 91.216 km đường xã ô tô đi được và 35.700 km đường sông kênh mương. Bình quân mật độ đường nông thôn mới đạt 1.3 km/1000 dân, mức rất thấp so với nhiều nước trong khu vực (Thái Lan, Malaysia, Philipin: khoảng 3 km/1000 dân ). Trong số đó, chỉ 4 % đường được rải nhựa, 14% rải đá dăm, còn lại trên 80 % là đường cấp phối. Hiện còn 721 xã chưa có đường ô tô tới trung tâm xã, 5 huyện chưa có đường giao thông tới trung tâm huyện, số thôn, bản chưa có đường ô tô còn nhiều. Phần lớn cầu cống được xây dựng từ nhiều năm nay đã xuống cấp, 10 –30 % đường huyện không đi lại được vào mùa mưa. Đây là kết qủa của việc đầu tư chưa thích đáng vào việc xây dựng mạng lưới giao thông nông thôn ở nước ta thời gian qua. Trong tổng số vốn để xây dựng đường nông thôn, ngân sách các cấp đã cho 30 % còn lại 70 % là do dân đóng góp. Vốn đầu tư đã ít, quản lý lại lỏng lẻo, gây thất thoát lớn, ảnh hưởng đến chất lượng công trình và lòng tin của dân. Để đảm bảo sự phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH –HĐH, trong 5 năm 1996 –2000, cần phát triển giao thông nông thôn theo hướng tập trung làm đường từ huyện đế xã cho một phần trong số các xã chưa có đường ô tô tới trung tâm xã; duy tu và nâng cấp 5000 –7000 km đường huyện; xây dựng và cải tạo 10.000 cầu cống. Hỗ trợ một phần để nâng cấp 5.000 km đường xã. Dự tính số vốn đầu tư trong 5 năm 1996 – 2000 để đáp ứng nhu cầu trên là 8.500 tỷ đồng. Đầu tư cho thuỷ lợi . Đến nay, cả nước có 4.150 hồ đập, 2.000 trạm bơm, 10.000 cống tưới tiêu. Hệ thống đê điều được củng cố để chống lũ lụt và ngăn mặn. Mạng lưới thuỷ lợi bước đầu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, kết hợp cung cấp nước cho các ngành kinh tế khác, cho sinh hoạt, tiêu thoát nước cho các vùng dân cư đô thị và tạo điều kiện giao thông vận tải thuận lợi cho nhiều vùng dân cư nông thôn. Song, nhìn chung các công trình khai thác chưa đồng bộ, mức đảm bảo còn thấp, công trình còn thô sơ, phần lớn các công trình được xây dựng từ 20 đến 70 năm về trước, không tái đầu tư nên bị xuống cấp, hiệu suất sử dụng thấp. Công tác quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi còn yếu kém, hệ thống đê nhiều nơi chưa đảm bảo an toàn. Yêu cầu cấp thiết đầu tư để từng bước hình thành đồng bộ hệ thống công trình thuỷ lợi ở ĐBSCL, chống úng ở ĐBSH, đồng thời cần đầu tư thuỷ lợi để khai thác tiềm năng của các vùng bị nhiễm mặn ven biển, đầu tư thuỷ lợi miền núi, đầu tư cho việc tưới tiêu ở các tỉnh Duyên hải miền Trung. Để giải quyết cơ bản vấn đề thuỷ lợi trong những năm tới cần tập trung vào: đầu tư sửa chữa, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống thuỷ lợi ở các vùng trọng điểm sản xuất thóc gạo, đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ ở những nơi có điều kiện thuận lợi và có hiệu quả kinh tế xã hội ở Duyên hải Trung bộ và Trung du miền núi phía Bắc để phục vụ các chương trình định canh định cư, xoá đói giảm nghèo; bổ sung chế độ chính sách và cải tiến phương pháp quản lý các công trình thuỷ nông để nâng cao hiêụ quả sử dụng các công trình hiện có; đầu tư củng cố các hệ thống đê, nhất là hệ thống đê sông Hồng, củng cố các đê biển để ngăn mặn, đầu tư xây dựng công trình tạo nguồn nước, cung cấp cho các khu công nghiệp và các khu dân cư tập trung, tham gia tạo nguồn cho chương trình nước sạch nông thôn, giải quyết nước ăn cho đồng bào ở vùng cao. Vốn đầu tư dự tính cần khoảng 15 nghìn tỷ đồng. Năm 1998, vốn đầu tư cho thuỷ lợi đã tăng lên đáng kể, ở mức 2.800 tỷ đồng, năm 1999 khoảng 4.000 tỷ đồng và năm 2000 khoảng 3.800 tỷ đồng. Xét cả giai đoạn 1991 – 2000, vốn đầu tư cho lĩnh vực này đã tăng gấp hai lần năm 1997 và gấp sáu lần năm 1991. Biểu 8 Đầu tư cho thuỷ lợi so với tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước 5 năm 91-95 5 năm 96-2000 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số (Tỷ VND) 42000 110000 16500 17400 19500 27900 28700 Đầu t thuỷ lợi (Tỷ VND) 4168 14900 1780 2573 2800 4000 3800 tỷ trọng (%) 10,00 13,50 10,35 14,78 14,40 14,40 13,24 Đầu tư cho chương trình cấp nước sạch nông thôn. Đến tháng 11/1995, số dân nông thôn được cấp nước sạch mới là 42 %. Số người được cấp nước sạch phân bố không đều ở các vùng, ở miền núi còn khoảng một triệu người thiếu nước để dùng 3 – 4 tháng mùa khô hàng năm, riêng miền núi Bắc bộ tới 30 – 40 vạn người. Trong giai đoạn 1996 –2000, Nhà nước cần tiếp tục đầu tư cho chương trình cấp nước sạch cho các vùng nông thôn trọng điểm, nhất là vùng cao, đồng bằng thấp trũng thường bị ngập lụt và ven biển, để đến năm 2000 có 80 % dân cư được cấp nước sạch ở mức 120 người/ một nguồn, ưu tiên các vùng tập trung dân cư. Nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích đầu tư hoặc cho vay vốn để các hộ ở những nơi có điều kiện kinh tế có thể chủ động đầu tư để có nước sạch hoặc làm dịch vụ cấp nước. Đảm bảo đến năm 2010, hầu hết dân cư nông thôn có nước sạch để dùng. Tổng số vốn đầu tư dự kiến là 620 tỷ đồng, trong đó của UNICEF: 40 %, Chính phủ Việt nam 50 %, người hưởng lợi: 10 %. Đầu tư cho chương trình cung cấp năng lượng nông thôn. Năng lượng nông thôn gồm có nhiều nguồn: nguồn năng lượng thương mại (điện, than, dầu) mới chiếm khoảng 10 %, nguồn năng lượng truyền thống chiến 70 –80 %, năng lượng cơ bắp (sức kéo động vật) chiếm 15 %, các nguồn năng lượng khác (thuỷ điện nhỏ, khí sinh học, năng lượng mặt trời, gió...) hiện chưa đóng góp đáng kể. Tuy đã ưu tiên cho nông nghiệp, nông thôn nhưng nguồn và mạng điện quốc gia mới chỉ phát triển ở vùng đồng bằng, trung du, ven biển Bắc bộ. Việc cấp điện nông thôn còn chưa ổn định, quản lý kém, tổn thất còn quá lớn làm cho giá điện quá cao so với thành phố, trong khi nông dân lại phải tự bỏ vốn lớn để đưa điện về làng. Việc phát triển thuỷ điện nhỏ ở miền núi còn manh mún, chưa có sự hỗ trợ hữu hiệu của Nhà nước. Trong giai đoạn 1996 –2000, cần tập trung mở rộng mạng lưới cung cấp điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt, tăng lưu thông các loại năng lượng thương mại. Mục tiêu tổng quát của điện khí hoá nông thôn là giải quyết 100% số xã và 100% số hộ được dùng điện. Trước mắt đến năm 2000: 100% số xã và hộ ở vùng ĐBSH và Bắc Trung Bộ được dùng điện; ở các vùng khác: đưa điện tới 80 –100% xã. Lượng điện năng cho nông nghiệp nông thôn chiếm 18 –20% lượng điện thương phẩm cả nước. Ngoài lưới điện phải coi trọng các dự án phát triển thuỷ điện nhỏ ( 0.5 – 1.5kw) cho những khu dân cư miền núi. Để thực hiện mục tiêu trên cần có số vốn là 20.000 – 30.000 tỷ đồng. Trong điều kiện thu nhập của nông dân còn quá thấp, mức huy động có hạn (đáp ứng 20 –30% yêu cầu), Nhà nước cần có chính sách gọi vốn nước ngoài, cung cấp tín dụng, huy động vốn của các thành phần kinh tế. Đồng thời tăng cường công tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ mới nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn năng lượng khác. Hệ thống thông tin nông thôn . Trong nền kinh tế thị trường, ngoài các chức năng về chính trị, xã hội, thông tin trở thành yếu tố quan trọng. Người nông dân cần có thông tin chính xác và kịp thời để tự đề ra các quyết định chính xác trong sản xuất kinh doanh. Cung cấp thông tin kinh tế là việc Nhà nước cần làm, thông qua việc phát triển mạng lưới cơ sở vật chất kỹ thuật thông tin, phát triển hệ thống theo dõi, nghiên cứu và cung cấp thông tin. Tồn tại cơ bản hiện nay là cơ sở vật chất kỹ thuật còn đơn giản, ít thông tin và chất lượng thông tin còn thấp. ở các vùng sâu, vùng xa đặc biệt là các vùng dân tộc ít người còn thiếu các phương tiện nghe, nhìn, mức hưởng thụ thông tin và văn hoá còn rất thấp so với các vùng khác. Tới năm 1993, chỉ có khoảng 35% hộ có radio hoặc radio cassette, 15% hộ có tivi, chủ yếu là đen trắng. Số người thường xuyên đọc báo rất ít. Từ năm 1996 –2000, Nhà nước cần tập trung đầu tư xây dựng mới và hiện đại hoá hệ thống thông tin hữu tuyến và vô tuyến, đa dạng hoá các hình thức đưa thông tin tới nông dân, tăng cường chất lượng thông tin, nhất là về thị trường và công nghệ. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo và coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội. Để phát triển bền vững nông nghiệp và nông thôn, cần lấy giáo dục và đào tạo làm đòn bẩy nhằm biến gánh nặng dân số thành ưu thế nhân lực. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, chất lượng đào tạo ở các cơ sở đào tạo từng bước đã được nâng cao, tuy nhiên trên thực tế vẫn còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, khoa học công nghệ của đất nước, vẫn còn khoảng cách khá xa giữa với kiến thức được đào tạo và năng lực thực tiễn, nhất là kỹ năng và ứng dụng công nghệ mới nên đã hạn chế khả năng tự tìm, tự tạo việc làm trong nền kinh tế thị trường. Số học sinh, sinh viên tốt nghiệp về phục vụ trực tiếp trên địa bàn nông nghiệp và nông thôn còn thấp, phần lớn muốn ở lại làm việc tại các cơ quan trung ương, các thành phố lớn. Tình trạng sử dụng trái với ngành nghề được đào tạo và thấp hơn trình độ được đào tạo vẫn còn phổ biến. Việc đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, yêu cầu dịch vụ kết cấu hạ tầng nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương V còn chậm. Đã có hàng chục nghìn lượt người được đào tạo lại, bồi dưỡng trong lĩnh vực nông – lâm – thuỷ lợi, nhưng so với yêu cầu thì kết qủa còn hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng và thể loại đào tạo. Ngành nông nghiệp còn thiếu cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn ở nhiều lĩnh vực, thiếu nhiều công nhân bậc cao có tay nghề giỏi (trong vòng 4 –5 năm tới phần lớn các chuyên gia chủ chốt, công nhân bậc cao sẽ đến tuổi nghỉ chế độ, có nguy cơ hụt hẫng nghiêm trọng). Tỷ lệ cán bộ chuyên môn có trình độ từ đại học trở lên so với đội ngũ cả nước còn rất thấp: trên đại học chỉ có 11.25%, đại học 3.26%. Lực lượng lao động được đào tạo còn tập trung nhiều ở vùng đồng bằng phía Bắc và các thành phố lớn, còn lại rất ít ở vùng cao, vùng sâu, vùng ĐBSCL, Tây Nguyên, vùng núi phía Bắc. Sự liên kết giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học, giữa các trường đại học, cao đẳng với các viện khoa học, giữa các trường với hệ thống khuyến nông – lâm và các trường nông – lâm thuỷ địa phương chưa chặt chẽ, đã hạn chế việc phát huy tiềm lực vật chất và trí tuệ của cán bộ khoa học kỹ thuật trong ngành. Thiếu các chính sách trong quản lý để phát huy tài năng các chuyên gia, những người có chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề giỏi. Thiếu các chính sách trong đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, khuyến khích các tài năng trẻ, khuyến khích học sinh, sinh viên vào học trong các ngành và yên tâm công tác ở vùng sâu, vùng xa. Việc quan tâm đào tạo bồi dưỡng ở nước ngoài chưa nhiều, chưa có định hướng, kế hoạch đưa người đi đào tạo bồi dưỡng ở nước ngoài và phát huy hiệu quả khi về nước. Đầu tư giải quyết việc làm ở nông thôn. Trong những năm vừa qua vấn đề giải quyết việc làm đã đạt được những kết quả tích cực, nhưng vẫn chưa đáp ứng được về nhu cầu lao động việc làm ngày càng tăng ở nông thôn. Tình trạng thất nghiệp ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn đều có xu hướng tăng lên: ở thành thị tỷ lệ thất nghiệp ( với số lao động trong tuổi) năm 1997 là 6.01%; năm 1998 là 6.85%; năm 1999 trên 7.4%, thời gian nhàn rỗi thiếu việc làm ở nông thôn năm 1997 là 29.12% thì đến năm 1998 đã tăng lên 31.14%. Theo kết quả điều tra mẫu thuỷ sản ở bốn tỉnh ( Hải Phòng, Nghệ An, Bình Thuận, Cà Mau) tháng 10/1999 của vụ Nông –Lâm –Thuỷ sản, tổng cục thống kê vừa qua cho thấy: tỷ lệ sử dụng thời gian lao động đánh bắt hải sản ở các xã ven biển chỉ chiếm 60.98% trong năm. Tình hình sử dụng lao động nông nghiệp ở nước ta năm 1998 cho thấy: bình quân một lao động trồng trọt đảm đương 0.46 ha diện tích gieo trồng, mỗi năm chỉ làm 5 tháng, chăn nuôi phần lớn vẫn là ngành sản xuất phụ. Theo chuẩn mực của các chuyên gia trong Hội thảo khoa học quốc tế về lao động và giải quyết việc làm thì tỷ lệ thất nghiệp ở một quốc gia chỉ đưọc coi là chấp nhận được nếu dưới 3%, từ 4 –6 % là cao cần giải quyết, hơn 7% là ở mức báo động, nếu không quan tâm giải quyết sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ tăng trưởng kinh tế và bất ổn xã hội. Nguyên nhân của tình trạng trên là do: trước hết, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản ở bất kì nước nào cũng đều bị giới hạn bởi không gian, thời gian, cũng như tính chất của mùa vụ sản xuất. Châu á là nơi diện tích đất sản xuất bình quân đầu người vào loại thấp nhất thế giới, chỉ 0.15 ha (so với 0.25 ha ở Châu âu và 0.68 ha ở Bắc Mỹ), diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người ở nước ta lại càng thấp chỉ 0.1 ha. Trong khi đó dưới tác động của quá trình đô thị hoá, xây dựng các công trình thuỷ lợi, xây dựng nhà máy, khu dân cư , xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, do thiên tai lũ lụt, xói mòn ... mỗi năm nước ta lại giảm hơn hai vạn ha đất nông nghiệp. Về dân số, theo kết quả tổng hợp sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở 01/04/1999 cả nước có 76.3 triệu người, trong đó dân số ở nông thôn chiếm 76.5% ; từ 1989 đến 1999 dân số nước ta tăng khoảng 12 triệu người; đồng thời mật độ phân bố không đều giữa các vùng ( ĐBSH: 1180 người / km2, ĐBSCL: 408 người /km2, Tây Bắc và Tây Nguyên chỉ trên 60 người / km2). So sánh biến động giữa hai yếu tố đất nông nghiệp và dân số những năm gần đây cho thấy: từ năm 1995 đến 1998 đất nông nghiệp cả nước tăng bình quân mỗi năm 178,8 nghìn ha ( 0.6%/năm), trong khi đó tốc độ tăng dân số mỗi năm là 1.7%, số lao động mỗi năm tăng thêm hơn một triệu người dẫn đến diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người giảm 1,1%/ năm. Do đó không đủ việc làm để cân đối cho số lao động mới tăng thêm ,mỗi năm và giải quyết thêm việc làm cho gần chục triệu lao động đang thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay. Bên cạnh đó quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản ở nông thôn những năm qua tuy bước đầu có những thay đổi nhưng diễn ra còn chậm và chưa ổn đinh. Từ năm 1988 đến nay trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế: giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản vẫn chiếm tới hơn 70% giá trị sản xuất và dịch vụ ở nông thôn, cơ cấu lao động biến đổi rất chậm, lao động nông nghiệp chiếm tới gần 80% tổng số lao động xã hội( 1996: 80.94%, 1997: 79.80%, 1998:79.55%), trong sản xuất nông nghiệp vẫn có tới 70.4% số hộ thuần nông sản xuất manh mún, tỷ suất hàng hoá và hiệu quả kinh tế đạt thấp. Theo kết quả điều tra, mức thu nhập bình quân một người một tháng của dân cư đã tăng từ 141 nghìn đồng năm 1994 lên 208,3 nghìn năm1997. Nhưng để giải quyết việc làm ở nông thôn thì cần phải có số vốn lớn mở mang phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ, với mức thu nhập này phần lớn các hộ ở nông thôn chỉ đủ chi dùng tối thiểu cho đời sống và tái sản xuất cho vụ tới, khả năng tích luỹ tái sản xuất mở rộng còn rất hạn chế. Trong khi đó mức đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp và nông thôn mỗi năm còn thấp chỉ chiếm từ 10 – 15% trong tổng số vốn ngân sách Nhà nước (1993: 12.6%, 1994: 8.8%, 1995: 9.3%, 1996: 10%, 1997: 11.3%, 1998: 15.3%). Kết quả điều tra của Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn về tình hình phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn cho biết: số hộ ngành nghề phi nông nghiệp truyền thống ở nông thôn mấy năm qua tuy có được khôi phục ở một số vùng nhưng trên phạm vi cả nước thì quá trình khôi phục, chuyển biến còn rất chậm. Phần lớn các hộ ngành nghề ở nông thôn máy móc trang bị cũ, năng suất lao động thấp, gần 60% công việc làm thủ công, 80% cơ sở không có nhà kiên cố, 70% cơ sở sản xuất đang gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm. Biểu 9: Cơ câu phân bố lao động nông thôn theo ngành kinh tế năm 1997 (Đ/v: người) Vùng Tổng số Chia theo nhóm ngành kinh tế Nông – Lâm –Ngư CN và xây dựng Dịch vụ Số lượng % Số lượng % Số lượng % Cả nước 27.857.460 21.721.150 77,98 1.910.205 6,85 4.196.105 15,06 MN và trung du 5.500.581 5.087.070 92,48 113.630 2,07 299.881 5,45 ĐB Sông hồng 5.723.913 4.397.281 76,82 458.802 8,02 867.830 15,16 Khu bốn cũ 4.021.525 3.319.453 82,54 249.403 6,2 452.669 11,26 Duyên hải MT 2.785.685 2.087.961 74,95 210.499 7,56 487.225 17,49 Tây nguyên 1.104.727 984.637 86,33 25.630 2,32 94.760 8,55 Đông nam bộ 2.320.972 1.287.482 55,47 359.594 15,49 673.896 29,04 ĐBS Cửu long 6.400.057 4.587.266 71,68 492.647 7,69 1.320.144 20,63 Nguồn : Điều tra lao động việc làm toàn quốc năm 1997 ( Bộ Lao động - Thương binh Xã hội và Tổng cục thống kê) Mặt khác, xét về nguồn lao động ở nông thôn hiện nay tuy chiếm tới gần 80 % lực lượng lao động xã hội, nhưng vấn đê chất lượng lao động lại rất thấp: chủ yếu là lao động phổ thông làm các công việc giản đơn. Theo số liệu điều tra thực trạng lao động và việc làm năm 1998 của Bộ lao động, Thương binh và Xã hội số lao động chưa qua đào tạo nghề chiếm 91,94% tổng số lao động nông thôn, số người không biết chữ vf chưa tốt nghiệp cấp I chiếm 4,8 % , số lao động tốt nghiệp tốt nghiệp cấp III ở nông thôn chỉ chiếm 10,98 %, ở các vùng miền núi, Tây nguyên,vùng sâu, vùng xa tỉ lệ này còn thấp hơn nhiều.Do đố, cơ hội tìm kiếm việc làm của lực lượng lao động nông thôn tới các Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực thành thị là rất khó. Ví dụ: Trongkhu vực thuộc các thành phần kinh tế, năm nào cũng có nhu cầu tuyển dụng lao động kĩ thuật nhưng tuyển dụng cao nhất là 56,7 % nhu cầu có nơi chỉ đạt 3,9 %, mỗi năm khu Công nghiệp Biên Hoà tỉnh Đồng Nai cần tuyển năm vạn lao động có tay nghề thì số tuyển chọn đạt yêu cầu chỉ là 9,2 . 2. Những thành tựu đạt được và những vấn đề còn tồn tại 2.1 Những thành tựu Nhờ có vốn đầu tư được tăng cường từ nhiều nguồn , nhất là nguồn trong dân , phương pháp đầu tư đổi mới nên hiệu quả đầu tưcho nông nghiệp đã tăng so với trước , tạo ra những bước tiến vượt bậc cho nông nghiệp thể hiện rõ nét trên những thành công , những kết quả nổi bật của nông nghiệp như sau: + Giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Sản xuất lương thực tăng liên tục theo chiều hướng năm sau cao hơn năm trước với tốc độ nhanh và vững chắc: 1994: 26,2 triệu tấn, 1995: 27,6tr tấn, 1997:30,6 tr tấn,1998:31,8 tr tấn,1999:34,3 tr tấn, 2000:35,5 tr tấn. Bình quân mỗi năm tăng khoảng 5%(1,3 triệu tấn). Trong sản xuất lương thực, lúa tăng nhanh cả diện tích, sản lượng, năng suất, sản lượng năm 1990 cả nước gieo cấy 6 triệu ha năm 1999 tăng lên 7,65 triệu ha, năng suất lúa từ 32 tạ/ha năm 1990 lên 41 tạ/ha năm 1999, bình quân 10 năm năng suất lúa tăng gần 1 tạ/ ha; năng suất lúa là yếu tố quan trọng trong sản lượng lúa của Việt Nam, từ 19,2 triệu tấn năm 1990 lên 31,39 triệu tấn năm1999. + Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn có bước chuyển dịch tiến bộ, từ chỗ thuần nông độc canh cây lúa nước đã trở thành nền nông nghiệp đa canh, cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng công nghiệp và dịch vụ; ngành nghề nông thôn có bước phát triển khá. +Nông nghiệp ngày càng phát triển đa dạng từ chỗ độc canh cây lúa nước đến năm 1997 tỷ trọng cây công nghiệp, rau quả đạt 21,8% so với 19,5% so với năm 1987. Đồng thời hình thành các vùng sản xuất tập trung lớn: lúa gạo, cà phê, cao su, chè, mía đường, chăn nuôi,thuỷ sản ... tính chất sản xuất hàng hoá và định hướng xuất khẩu của nền nông nghiệp ngày càng cao, tỷ suất hàng hoá xuất khẩu ngày càng tăng: năm 1998 tỷ lệ gạo xuất khẩu 20% sản lượng, cà phê trên 95%, cao su 85%, chè 60%, thuỷ sản 10%... Các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn từng bước được phục hồi, mấy năm gần đây phát triển khá nhanh. Hiện nay có 1.450 làng nghề với 450.000 hộ thu hút khoảng 1,2 tr lao động nông thôn tham gia làng nghề. Kết quả sản xuất lúa của 2 thời kì 1991-1995 và 1996-1998 Đơn vị tính DT:1000ha, NS: tạ/ha, SL :1000Tấn 1991 1992 1993 1994 1995 BQ 91-95 1996 1997 1998 BQ 96-98 Diện tích 6302,7 6475,4 6559,4 6598,6 6765,6 6,500 7003,8 7099,7 7362,4 7130 Năng suất 31,1 33,3 34,8 35,7 36,9 34,5 37,7 38,8 39,6 38,82 Sản lượng 19622 21590 22836 23528 24964 22480 26397 27524 29141 27700 + cơ sở hạ tầng nông thôn từng bước được cải thiện, nhất là thuỷ lợi, giao thông nông thôn, điện nông thôn. Thuỷ lợi đến nay đã hình thành một hệ thống các công trình phân bố rộng với 743 hồ chứa nước lớn và vừa, 1.017 đập dâng, 4.716 cống tưới tiêu nước, 1.796 trạm bơm điện và hơn 2000 trạm biến thế chuyên dùng cho thuỷ lợi. Các công trình thuỷ lợi có khả năng tưới cho 3 tr ha, tiêu cho 1,4 tr ha, ngăn mặn cho 700 nghìn ha, hàng ngàn km kênh mương được bê tông hoá; nhiều công trình thuỷ lợi nâng cấp, bảo dảm tưới tiêu chủ động. + Trong việc áp dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp đã đạt được một số thành tựu: đã chọn tạo được nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, thanh tựu nổi bật nhất là chúng ta đã làm chủ được công nghệ sản xuất lúa lai F1 hệ Bắc ưu cho vụ mùa, giữ được dòng thuần để chủ động sản xuất bố mẹ trong nước. Nghiên cứu đề xuất và ứng dụng nhiều tiến bộ kĩ thuật mới vào sản xuất. Nhờ có giống mới nhất là các giống ngắn ngày cho phép tiếp tục chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, các biện pháp thâm canh tổng hợp cũng được triển khai; nhiều loại thuốc mới được sản xuất ... Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học phân tử và kĩ thuật gien. + Nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển, thu nhập và đời sống của tuyệt đại đa số bộ phận nông dân được cải thiện rõ rệt. Hầu hết có đủ lương thực thực phẩm cho tiêu dùng. Đồ dùng gia đình lâu bền được mua sắm nhiều, nhà ở được xây dựng khang trang. Bình quân thu nhập đầu người ở nông thôn là: năm 1996 : 188.000 đồng , năm 1998 : 212.000 đồng, năm 1999 là 225.000 đồng. Năm 1999 thu nhập bình quân ở nông thôn tăng 19,7 % so với năm 1996. Tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn từ 30% năm 1989 xuống còn 15,96% năm 1999. Bình quân giảm nghèo được 2 % năm nhiều vùng nông thôn không còn hộ đói. Tỉ lệ hộ giàu từ 3 % năm 1989 lên trên 10 % năm 1999. 2.2 Những vấn đề còn tồn tại Tuy đã tạo ra được những thành tựu vượt bậc , đưa nền nông nghiệp nước ta ngày càng tiến đến một nền nông nghiệp phát triển nhưng vấn đề đầu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn những năm đổi mới vừa qua và hiện nay cũng đang bộc lộ những mâu thuẫn và yếu kém. Thứ nhất , tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn vẫn còn thấp, những tiền đề vất chất để tăng trưởng còn yếu kém, cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm. Thứ hai , tỷ lệ vốn đầu tư cho khoa học kỹ thuật phục vụ nông nghiệp chưa tương xứng với vị trí và vai trò của nó nên chưa khơi dậy được những tiềm năng chất xám để tăng trưởng nông nghiệp với nhịp độ cao và ổn định. Đặc biệt là vấn đề đầu tư trong nghiên cứu, lai tạo và nhập nội giống cây, con có năng suất và chất lượng cao. Thứ ba , vốn đầu tư nươc ngoài cho nông nghiệp và nông thôn chiếm tỷ lệ thấm lại không tập trung vào các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thực trạng này một phần do chính sách đầu tư nước ngoài trong lĩnh nông, lâm, thuỷ sản chưa có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư, một phần khác do cơ sở hạ tầng nông thôn nước ta thấp kém. Trong điều kiện nguồn vốn trong nước có hạn, thì thu hút vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc khắc phục tình trạng thiếu vốn trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tuy nhiên, cho đến nay đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này còn quá ít cả về số lượng dự án và vốn đầu tư nên sự bổ xung vốn cho nông nghiệp và nông thôn còn hạn chế. Thứ tư , Cung cấp tài chính cho nông dân và các doanh nghiệp phi nông nghiệp ở vùng nông thôn chưa thoả đáng. Một trong nhưng cản trở chính đối với việc tạo việc làm mới ở nông thôn là sự thiếu vắng hệ thống tín dụng theo điều kiện của thị trường dành cho nông dân và các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ. Trong khi ba phần tư các doanh nghiệp tư nhân ở nông thôn cần vay vốn thì chỉ có 12-15% các doanh nghiệp vay được tiền từ Ngân hàng số còn lại hoặc phải chịu tình hình thiếu vốn, hoặc buộc phải vay tiền ngắn hạn với lãi xuất cao từ các tư nhân hoặc họ hàng, người quen. ít nhất có 50% các hộ nông thôn không được hệ thống tín dụng nông thôn chính thống phục vụ. Trong cả nước, tín dụng dành cho kinh tế tư nhân chiếm không đầy 10% và đây là tỷ lệ thấp so với mức trung bình 18% của các nước nghèo nhất và càng thấp và càng thấp so với mức trung bình 85% của các nước Đông Nam á. Nếu những vấn đề trên không được xử lý kịp thời sẽ làm chậm quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nước ta PHầN THứ BA PHƯƠNG HƯớNG , CHIếN LƯợC Và MộT Số GIảI PHáP ĐầU TƯ CHO NÔNG NGHIệP 1. Phương hướng, chiến lược đầu tư trong các năm tới Thập niên 2001-2010 có thể xem là một giai đoạn phát triển mới , có vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế –xã hội đất nước . Trong thập niên này nền nông nghiệp phải đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa để tạo điều kiện cần thiết góp phần đưa nền kinh tế chuyển sang một trình độ phát triển mới cả về lượng và chất . Để đạt được những mục tiêu trên , trong thập niên đầu thế kỉ 21 , nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta cần đạt được bước phát triển mang tính cơ bản dựa trên cơ sở những phương hướng , chiến lược trong đầu tư như sau: 1. Đầu tư có trọng điểm cho sản xuất lương thục, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia và tham gia mạnh mẽ vào thị trường lương thực thế giới. 2. Tập trung đầu tư cho phát triển các mặt hàng chúng ta có lợi thế, những mặt hàng sản xuất chủ yếu hướng ra xuất khẩu, không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng này trên thị trường khu vực và thế giới ( phấn đấu đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt 10 tỷ USD, trong đó gạo 1,5 tỷ, cà phê 1 tỷ, cao su 500 triệu, chè 200 triệu, điều 500 triệu, rau quả 1 tỷ, lâm sản từ 1-1,5 tỷ, thuỷ sản 3 tỷ ) 3. Đầu tư thoả đáng cho việc phát triển sản xuất các loại sản phẩm thay thế nhập khẩu như: đường, bông, thuốc lá, thức ăn chăn nuôi, sản phẩm chăn nuôi... 4. Coi thuỷ sản là ngành mũi nhọn, cần đầu tư phát triển mạnh của nông nghiệp . Đây là ngành sản xuất có tiềm năng xuất khẩu lớn nhất trong nông nghiệp nước ta. Do vậy cần thực hiện tốt chương trình đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, trong đó nuôi trồng là chủ yếu 5. Phấn đấu thực hiện thắng lợi chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, nhằm đưa độ che phủ của rừng từ 31% hiện nay lên trên 43% vào năm 2010. 6. Đầu tư phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản và các hoạt động nghành nghề dịch vụ trong nông nghiệp nông thôn 7. Quan tâm thoả đáng đến việc đầu tư xây dựng và phát triển cơ sơ hạ tầng kinh tế xã hội cho nông thôn, đặc biệt là thuỷ lợi, giao thông, nước sinh hoạt, thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện và trạm xá. 8. Đầu tư phát triển mạnh khoa học-công nghệ trong nông nghiệp , ưu tiên tăng cường đầu tư cho việc nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sản phẩm , công nghệ sản xuất tiểu thủ công nghiệp tronh nông thôn 9. Tập trung sức của trung ương, địa phương, của các đoàn thể, tổ chức chính trị, tổ chức quần chúng để giải quyết tốt các vấn đề xã hội cho nông thôn . 2.một số giải pháp đầu tư cho nông nghiệp 2.1 Giải pháp về nguồn vốn. -Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp nông thôn chiếm hơn 12% vốn đầu tư toàn xã hội nhưng đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Nhà nước cần ưu tiên tăng tỷ lệ vốn đầu tư cho nông lâm nghiệp và thuỷ lợi trong tổng vốn đầu tư của Nhà nước hàng năm (gồm cả đầu tư ngân sách, tín dụng đầu tư và vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nứớc ) từ mức khoảng 11% như hiện nay lên mức khoảng 20%, bao gồm cả việc để lại 100% thuế sử dụng đất nông nghiệp để đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn. Vốn đầu tư ngân sách Nhà nước cần bố trí thoả đáng vào lĩnh vực nghiên cứu nâng cao chất lượng nguyên liệu, công nghệ chế biến, nghiên cứu thị trường, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế cho nông nghiệp nông thôn. Làm được việc này sẽ có tác dụng to lớn trong việc tăng năng lực sản xuất nông lâm nghiệp và kinh tế nông thôn, hình thành các ùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, vùng nuôi trồng thuỷ sản, chương trình trồng rừng đặc biệt là dự án trồng 5 triệu ha rừng đây cũng là lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư. Nhà nước cần rà soát để đưa ra chính sách thu hút vốn đầu tư vào nông thôn, để môi trường đầu tư, điều kiện sống và làm việc ở nông thôn tốt hơn. - Cần có sự hỗ trợ và phối hợp đồng bộ giữa các chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, làm rõ trách nhiệm và chức năng của hai hệ thống tài chính, tiền tệ trong đầu tư phát triển. Trong số hơn 10.000 tỷ đồng( tính đến 30/6/2000) cho vay đầu tư trong các chương trình dự án của Nhà nước cho khu vực nông thôn vẫn còn nhiều chương trình, dự án còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đầu tư không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp, dẫn đến không có khả năng thu hồi vốn. Đầu tư cho các chương trình theo chỉ thị của Chính phủ như các chương trình xoá đói, giảm nghèo,mía đường, chương trình đánh bắt xa bờ, cho vay khắc phục hậu quả bão lũ... chưa phát huy hiệu quả cao, khả năng thu hồi vốn hết sức khó khăn. Vừa qua Chính phủ đã cho phép nâng mức vay không cần tài sản thế chấp đối với hộ sản xuất nông nghiệp, trang trại từ 10 triệu đồng theo QĐ67 lên 20 triệu đồng, tuy đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nông dân vay vốn phát triển sản xuất, nhưng do khả năng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước đang hết sức khó khăn nên dẫn đến nguy cơ khó thu hồi vốn. Tình trạng này làm cho các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh, nhất là Ngân hàng NN& PTNT bị suy yếu về khả năng thanh toán, làm tăng các khoản nợ xấu, nợ khó đòi. Để giải quyết tình trạng hệ thống ngân hàng đang dần dần trở thành cơ quan tài chính trong cấp phát vốn và cho vay đầu tư theo chỉ định của Chính phủ, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách tài chính, chính sách tiền tệ và phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của hai hệ thống này trong việc giải quyết các yêu cầu về vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế, có như vậy mới làm tăng tính trách nhiệm, tính minh bạch của hệ thống tài chính. Để thực hiện các mục tiêu phát triển dài hạn trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn, trong xây dựng các chính sách, chiến lược phát triển, Nhà nước cần tập trung các nguồn lực tài chính từ NSNN, đầu tư và sử dụng các nguồn này một cách hiệu quả hơn; tạo ra sự kết hợp đồng bộ giữa các chính sách tài chính với các chính sách tiền tệ, tín dụng trong đầu tư phát triển. - Tập trung vốn cho các ngành mũi nhọn để thúc đẩy nông nghiệp và kinh tế nông thôn (như thuỷ lợi, công nghệ sinh học hiện đại về giống bảo đảm cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, công nghệ chế biến nông sản, hải sản, công nghệ sau thu hoạch), phát triển công nghiệp chế biến với phát triển vùng nguyên liệu, đặc biệt chú ý giữa cung và cầu, khả năng cung ứng nguồn nguyên liệu và công suất các nhà máy chế biến, tránh sự chồng chéo lãng phí; đồng thời đẩy mạnh công tác xuất khẩu nông sản. -Về tín dụng nông thôn: trước hết cần mở rộng cả về nguồn vốn, phạm vi và hình thức hoạt động, cho nông dân vay vốn ưu đãi hay vay vốn với lãi suất bằng 0, thủ tục cần đơn giản, linh hoạt về mức vay, thủ tục vay, biện pháp thế chấp và phương thức cho vay (cho vay tổ chức hay thông qua tổ chức, đại diện). Có thể cho vay tín dụng bằng hiện vật hay bán hàng (vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu, giống) cho nông dân theo phương thức trả chậm, trả góp. -Cần có chính sách và giải pháp để nâng cao tỷ lệ cho vay trung và dài hạn, phù hợp với chu kì đầu tư, thu hồi vốn và chu kì sinh trưởng của cây trồng vật nuôi. -Cần có quy chế hoạt động và hỗ trợ tài chính đối với các hiệp hội ngành nghề trong làng, xã, thôn, xóm, khôi phục lại các quỹ hỗ trợ lẫn nhau ở nông thôn. Cần đầu tư trực tiếp và hỗ trợ tín dụng thông qua các chương trình kinh tế và dự án như chương trình xoá đói, giảm nghèo, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, thanh toán bệnh xã hội... Ngoài nguồn vốn của Nhà nước vào nông nghiệp, cần có các chính sách thu hút các nguồn vốn khác, trong đó đóng vai trò quan trọng là nguồn vốn ODA. Để thu hút nguồn vốn này cần có một số biện pháp sau: nâng cao hiệu quả của công tác quy hoạch thu hút và sử dụng ODA, xác định thứ tự ưu tiên phân bổ ODA, theo từng ngành và từng địa phương. Các ngành, các địa phương và các đơn vị xin sử dụng ODA cần tính toán chính xác hiệu quả và xác định đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, chịu trách nhiệm chính trong quá trình sử dụng vốn có chọn lọc và phải đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu. Hoàn thiện các quy định về quy trình thủ tục đầu tư. Đơn giản hoá các quy trình ra quyết định và có quy chế cụ thể với các nhà tài trợ. Trong khâu tổ chức thực hiện cần đổi mới cơ chế quản lý và năng lực điều hành của các cơ quan quản lý và sử dụng vốn ODA, đặc biệt là các địa phương nơi có dự án sử dụng ODA. Tất cả các dự án sử dụng vốn ODA phải thực hiện tốt quy trình đầu tư xây dựng trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế. Ưu tiên và phân bổ vốn đối ứng cho các dự án, đề ra các biện pháp chống tham nhũng để một mặt đảm bảo chất lượng công trình, mặt khác giữ được uy tín với các đối tác cung cấp ODAcủa nước ngoài. Có các biện pháp đồng bộ nhằm đẩy nhanh tốc độ giải ngân. Thực hiện tốt công tác nghiên cứu và chuẩn bị thực hiện dự án, thẩm định và xét duyệt dự án, hướng dẫn đấu thầu và xét chọn nhà thầu; có chính sách và biện pháp hữu hiệu đối với công tác di dân và tái định cư, giải phóng mặt bằng kịp thời cho thực hiện dự án... Chú trọng công tác đào taọ và nâng cao năng lực cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ và ngoại ngữ ở tất cả các cấp, cả trung ương và địa phương nơi có dự án. Nâng cao năng lực quản lý và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng như Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Tài chính và các địa phương... kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh, bổ sung và điều chỉnh chính sách, cơ chế tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện dự án đầu tư, đồng thời thực hiện tốt chức năng giám sát, kiểm tra và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. 2.2 Giải pháp về chính sách Để nâng cao hiệu quả đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn các cơ chế, chính sách trong những năm tới cần chú trọng những vấn đề sau: - Ưu tiên, tập trung đầu tư và thực hiện cơ chế tài chính, thuế, tín dụng nhằm thúc đẩy phân công lao động mới trong nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH-HĐH. Sắp xếp lại cơ cấu chi ngân sách Nhà nước theo hướng giảm chi thường xuyên, tăng chi cho đầu tư phát triển, trong đó ưu tiên hàng đầu cho nông nghiệp, nông thôn. - Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế, giá thuê đất, tín dụng ưu đãi để khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Sớm triển khai thực hiện các chính sách ưu đãi đối với phát triển sản xuất và thương nghiệp miền núi như các ưu đãi về thuế, tín dụng ưu đãi... - Thực hiện các chính sách ưu đãi về lãi suất và có thời gian trả nợ riêng đối với tín dụng cho các chương trình thuộc diện ưu tiên về phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bổ sung vốn pháp định cho các ngân hàng cho người nghèo, đơn giản hoá các thủ tục vay vốn, kéo dài thời hạn cho vay. - Thực hiện các chính sách tài chính khuyến khích các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn bỏ vốn, kinh nghiệm để đầu tư hoặc liên doanh, liên kết tạo các hình thức kinh tế hỗn hợp, có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Có chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp như: hỗ trợ vốn, cấp bổ sung vốn, khuyến khích doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng . - Thực hiện chính sách bảo hộ cho người sản xuất : trợ giá đối với đầu vào, thu mua nông sản phù hợp, quy định giá sàn đối với các mặt hàng có lợi thế xuất khẩu, các sản phẩm của các vùng chuyên canh. Thực hiện thí điểm cơ chế bù trực tiếp đầu tư trở lại cho người sản xuất các sản phẩm xuất khẩu từ nguồn quỹ bình ổn giá. 2.3 Giải pháp về cơ sở hạ tầng * Kiên cố hoá kênh mương và công trình thuỷ lợi - Các biện pháp về kỹ thuật: các địa phương trên cơ sở diện tích đất nông nghiệp đang quản lý và trên cơ sở quy hoạch nông nghiệp và cơ cấu cây trồng, tiến hành rà soát khảo sát mạng lưới quy hoạch tổng thể. Phân vùng đánh giá khả năng và đề xuất hướng nghiên cứu về tưới. Để đáp ứng được yêu cầu nước cần tiến hành lập và quy hoạch chi tiết như: quy hoạch khôi phục và sửa chữa các công trình cũ, quy hoạch xây dựng mới các hồ chứa vừa và nhỏ, quy hoạch các trạm bơm lấy nước, quy hoạch thuỷ lợi cho vùng cây công nghiệp... Trên cơ sở quy hoạch, cân đối lượng nước sông con để đề xuất công trình thượng nguồn bổ sung lượng nước. Tuy nhiên cần xây dựng cả quy hoạch phòng chống lũ và tiêu úng trên cơ sở quy hoạch đã được phê duyệt, tiến hành phân loại quy mô các cấp công trình. Các biện pháp về tài chính : Nguồn vốn đầu tư cho xây dựng các công trình thuỷ lợi trong đề án CNH–HĐH nông nghiệp nông thôn cần phải có từ nay đến năm 2010 là 56.000 tỷ đồng bao gồm cơ cấu vốn ngân sách Nhà nước, tín dụng ưu đãi... và huy động sức dân để xây dựng , duy tu, bảo dưỡng kênh mương nội đồng. Về huy động vốn cần tranh thủ nguồn vốn trong dân với cơ chế chính sách thoả đáng như Nhà nước hỗ trợ công tác kỹ thuật, định hướng, nhân dân đóng góp thuỷ lợi phí trước 2 đến 3 năm dùng trực tiếp vào việc xây hệ thống kênh mương và sau đó giao ngay cho nhân dân vùng hưởng lợi đóng thuỷ lợi phí trước, quản lý và vận hành. Có thể áp dụng thu hút vốn đầu tư theo hình thức BOT trong lĩnh vực thuỷ lợi nếu thay thuỷ lợi phí bằng chính sách giá nước, ai dùng người đó phải trả tiền. Như vậy chúng ta sẽ có rất nhiều nhà đầu tư, các doanh nghiệp và cá nhân tham gia đầu tư vốn vào các công trình phục vụ nông nghiệp, đặc biệt là các lĩnh vực thuỷ lợi . * Hoàn tất việc xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông. Các vấn đề đói nghèo, chậm phát triển ở nông thôn đều xuất phát từ yếu kém về cơ sở hạ tầng. Kết cấu hạ tầng ở nông thôn là đường giao thông, cầu cống, công trình thuỷ lợi, điện nước, thông tin liên lạc. Hầu hết các vùng nông thôn ở nước ta nằm trong tình trạng lưu thông hàng hoá bị ách tắc vì kết cấu hạ tầng yếu kém. Vì vậy, vấn đề sửa chữa, nâng cấp đường giao thông nông thôn cần phải được chú trọng nhiều hơn nữa trong các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của vùng, bảo đảm cho đường ô tô đến tận xã. 2.4 Phát triển mạnh khoa học công nghệ trong nông nghiệp nông thôn -Phát triển khoa học công nghệ là khâu then chốt trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta những năm tới. Hiện nay trình độ khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nước ta còn thấp và cách khá xa so với trình độ trung bình của thế giới. Thể hiện rõ nhất ở chất lượng sản phẩm thấp và sức cạnh tranh kém của nông sản và sản phẩm của các ngành kinh tế nông thôn nước ta so với các nước khác. Trong những năm tới nếu tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất mà không nâng cao được một cách cơ bản chất lựơng và sức cạnh tranh của sản phẩm thì nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta không thể thoát khỏi trình độ lạc hậu và kém hiệu quả so với các nước như hiện nay. Để nâng cao trình độ của sản xuất và hiệu quả của sản xuất, điều có ý nghĩa quyết định là phải phát triển mạnh khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Các nội dung cần đặc biệt chú trọng trong phát triển khoa học công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn bao gồm: - Ưu tiên đầu tư cho khâu giống để nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản trên thị trường nhất là thị trường xuất khẩu. Cần có sự đầu tư thoả đáng cho việc nâng cao năng lực nghiên cứu, lai tạo của các cơ sở nghiên cứu và sản xuất giống. Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình giống trọng điểm quốc gia. Có chính sách khuyến khích vật chất thoả đáng đối với những thành công trong lai tạo các giống cây, con tốt, đồng thời có cơ chế phân phối trong việc chuyển giao các giống tốt vào sản xuất đảm bảo được lợi ích chính đáng của những người làm công tác tạo giống cây trồng, vật nuôi. - Tăng cường đầu tư cho việc nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sản phẩm, công nghệ sản xuất tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn. Khuyến khích hiện đại hoá các công nghệ truyền thống và phát triển các loại hình công nghệ thích hợp để nâng cao chất lượng bảo quản và chế biến nông sản, tạo ra các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp có chất lượng tốt, mẫu mã và hình thức phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu. 2.5 Giải pháp về nguồn nhân lực - Phát triển nguồn nhân lực nông thôn, trước hết cần nhanh chóng đào tạo và đào tạo lại nguồn lao động nông thôn, để họ có thể tiếp thu được các tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tạo điều kiện đổi mới tư duy kinh tế và tổ chức cuộc sống. - Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông thôn cần hướng vào phục vụ CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn với nội dung cụ thể là: + CNH– HĐH bản thân ngành nông,lâm, thuỷ lợi bao gồm khâu sản xuất, sau sản xuất, dịch vụ từ sản phẩm nông nghiệp và phục vụ sản xuất. + Tăng cường đào tạo các kiến thức mới và cấp bách để phục vụ CNH-HĐH nông thôn đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển các hoạt đông phi nông nghiệp. Các nghề phụ và dịch vụ mới sẽ xuất hiện như: lập kế hoạch và phương pháp khuyến nông, khuyến lâm, kỹ thuật chăn nuôi, bảo vệ thực vật...Những vấn đề cần được quan tâm, bồi dưỡng, đào tạo như: tiếp cận thông tin, thị trường, công nghệ sinh học, quản lý... Một số nông dân cần được đào tạo tay nghề cao và chuyên môn hoá để làm hạt nhân phát triển. + Tăng cường cập nhật và phổ biến thông tin về các vấn đề khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội thiết thực cho người dân ở nông thôn như thành lập các trung tâm, mạng lưới thông tin, phát triển các phương tiện thông tin nghe nhìn. 2.6 Giải pháp về việc làm. - Tìm cách tháo gỡ, khai thác mọi tiềm năng sẵn có và chủ yếu là dựa vào thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ngay trên điạ bàn nông thôn. Một trong những biện pháp đó là: khai hoang, phục hoá, xây dựng các công trình thuỷ lợi, xen canh, gối vụ, chuyển vụ, tăng vụ. Trong 10 năm qua bằng biện pháp đó đã giải quyết tại chỗ cho gần 3 triệu lao động . - Phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, theo hướng đầu tư thâm canh, áp dung các biện pháp khoa học công nghệ mới tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. - Phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ phi nông nghiệp nhằm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế ở nông thôn cũng là một biện pháp quan trọng giải quyết việc làm ở nông thôn hiện nay. - Tạo việc làm cho lao động ven biển bằng cả nghề đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản gắn với chế biến dịch vụ thuỷ sản. - Tiếp tục thực hiện biện pháp sinh đẻ có kế hoạch, nhằm hạn chế sức ép về dân số và lao động tăng thêm mỗi năm. 2.7 Phát triển mạnh các ngành nghề dịch vụ trong nông nghiệp. Phát triển mạnh các ngành nghề dịch vụ để khai thác tối đa các nguồn lực trong nông thôn cho phát triển kinh tế, tạo việc làm tăng thu nhập cho lao động nông thôn. HIện nay, bình quân một lao động nông thôn mới sử dụng gần 70% quỹ thời gian lao động trong năm, thu nhập bình quân đầu người nông thôn mới đạt 2,54 triệu đồng/người/năm, thấp hơn khu vực thành thị 3,65 lần. Hiện cả nước có khoảng 1.540 làng nghề, trong đó khoảng 300 làng nghề truyền thống. Các năm qua, việc phát triển ngành nghề đã góp phần tích cực tạo việc làm trong nông thôn. Tuy nhiên, với mức tăng lao động nông thôn khoảng một triệu người/năm như hiện nay thì giải quyết việc làm trở thành một yêu cầu hết sức cấp thiết. Do vậy, cần phát triển mạnh các ngành nghề và dịch vụ trong nông thôn, trong đó đặc biệt quan tâm đến chất lượng và giá cả sản phẩm, dịch vụ, có sự hỗ trợ mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nguyên liệu cho các ngành chủ yếu từ các nguồn trong nước. PHầN Kết luận Đầu tư nói chung và đầu tư để phát triển nông nghiệp nông thôn nói riêng là chìa khoá của sự phát triển và nó được cụ thể hoá trong mối tương quan giữa tăng vốn đầu tư và tăng trưởng GNP hoặc GDP. Do vậy, thông qua những nội dung đã trình bày, bài viết đã xây dựng được các vấn đề sau: - Khái quát và phân tích có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, vai trò của đầu tư đối với phát triển nông nghiệp và nông thôn, xác định các định hướng, quan điểm về đầu tư vào khu vực nông nghiệp- nông thôn . Về kinh nghiệm nước ngoài, đề tài chọn những nước trong khu vực có kinh tế nông thôn phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cho ta những bài học kinh nghiệm quý trong chính sách đối với nông nghiệp và nông thôn. Từ kinh nghiệm nước ngoài rút ra những vấn đề chủ yếu cần nghiên cứu áp dụng trong điều kiện nước ta. - Nghiên cứu, phân tích và làm rõ thực trạng đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn - Xác định phương hướng, mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn trong những năm tới và kiến nghị một số giải pháp chủ yếu để tác động một cách trực tiếp và gián tiếp một cách có hiệu quả cho nông nghiệp và nông thôn . Đề tài được hoàn thiện với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn và các giáo viên của bộ môn Bảng danh mục tài liệu tham khảo 1. Tạp chí tài chính :3; 6; 7 -2001 2. Tạp chí Ngân hàng :13 ( 7-1998) 3. Tạp chí Con số và sự kiện: 7– 1999 5. Tạp chí Con số và sự kiện: 3; 4 – 2000 6. Tạp chí Nghiên cứu – Trao đổi: 1-1999 7 .Tạp chí Kinh tế và Phát triển:37–2000 8 .Tạp chí Kinh tế và Phát triển: 43; 45; 46 –2001 9. Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX 10. Kinh tế và dự báo :9- 1998 11. Kinh tế và dự báo :12-2000 12. Tạp chí nghiên cứu lý luận 5-1999. 13. Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn 2-2001 14. Đầu tư trong nông nghiệp thực trạng và triển vọng-Nhà xuất bản chính trị quốc gia mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29601.doc
Tài liệu liên quan