Đề án Đổi mổi cơ chế điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế

Lãi suất chỉ là một phương tiện chứ không phải là mục đích, do đó chính sách lãi suất phải gắn liền với các chính sách kinh tế mà trực tiếp là chính sách tiền tệ-tài chính-tín dụng, chính sách kinh tế đối ngoại. Vì vậy chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường phải thay đổi tuỳ theo thị trường, tuỳ theo từng giai đoạn phát triển và yêu cầu phát triển kinh tế đặt ra trong mỗi thời kỳ của từng quốc gia. Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách lãi suất đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, trước tiên là nhiệm vụ trực tiếp của NHNN, cơ quan đại diện cho Nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Tuy nhiên để có được sự thành công trọn vẹn, cần thiết và đòi hỏi có sự phối kết của các Bộ, Ban ngành từ trung ương đến địa phương, tránh tình trạng quy định chồng chéo, mâu thuẫn với nhau, dẫn đến sự trông chờ, đùn đẩy trách nhiệm hoặc lợi dụng kẽ hở để vi phạm pháp luật.

doc45 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đổi mổi cơ chế điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tổ chức tín dụng đối với tổ chức kinh tế và dân cư áp dụng từ ngày 1-7-1997: Lãi suất trần cho vay bằng tiền đồng Việt Nam là 1%/tháng( ngắn hạn ), 1,1%/tháng (trung và dài hạn). Tổ chức tín dụng cho vay trên địa bàn nông thôn tối đa 1,2%/tháng. Ngân hàng phục vụ người nghèo cho vay đối với hộ nghèo 0,8%tháng. Mức trần lãi suất cho vay bằng đôla Mỹ gồm cả phí 8,5%/năm (cho cả ngắn ,trung và dài hạn ). Lãi suất nợ quá hạn 150% mức trần lãi suất cho vay cùng loại. Đối với tổ chức kinh tế và dân cư thuộc vùng núi, hải đảo, vùng đồng bào khơme sống tập trung giảm 15% so với mức lãi suất cho vay cùng loại. Sau đó ngân hàng nhà nước ra hàng loạt các quyết định phê chuẩn điều lệ tổ chức hoạt động của các ngân hàng thương mại, chấn chỉnh hoạt động của các tổ chức ngân hàng, hướng dẫn các ngân hàng xử lí nợ quá hạn, quy định về dự trữ bắt buộc… Ngày 26-12-1997 Chủ tịch nước ban hành lệnh số 1-L/CTN công bố luật ngân hàng nhà nước Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng. Ngày 17-1-1998 Ngân hàng nhà nước ra quyết định số 39-1998/QĐ-NHNN1 quy định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với tổ chức kinh tế, dân cư và mức lãi suất tiền gửi bằng đôla Mỹ của các tổ chức kinh tế: Lãi suất trần cho vay là 1,2%/tháng (ngắn hạn),1,25%/tháng (trung và dài hạn) áp dụng cho cả khu vực thành thị và nông thôn đối vơí các khoản cho vay phát sinh từ ngày 21-1-1997. Ngân hàng phục vụ người nghèo cho vay đối với hộ nghèo 0,8%/tháng. Cho vay khôi phục và phát triển sản xuất theo quyết định số 985/TTg ngày 20-11-1997 của thủ tướng chính phủ về khắc phục hậu quả cơn bão số 5 cho các tỉnh ven biển Nam Bộ và Trung Bộ là 0,5%/tháng (ngắn hạn) 0,6%/tháng (trung và dài hạn). Cho vay đối với các tổ chức kinh tế và dân cư thuộc vùng núi cao (khu vực 3 theo quy định tại thông tư số 41/UB-TT ngày 8-1-1996 về tiêu chí phân loại các khu vực miền núi và quyết định số 42/UB-QĐ ngày26-5-1997 về công nhận danh mục 3 khu vực miền núi và vùng cao của uỷ ban Dân tộc và miền núi), hải đảo, vùng đồng bào khơme sống tập trung giảm 30% so với mức lãi suất cho vay cùng loại. Cho vay học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề 0,7%/tháng. Lãi suất tiền gửi bằng đôla mỹ của các tổ chức kinh tế tại các tổ chức tín dụng tối đa là 1,5%/năm (với tiền gửi không kỳ hạn), 4%/năm (có kỳ hạn đến 6 tháng), 4,5% (có kỳ hạn trên 6 tháng). Cho đến tháng 1/1998 trần lãi suất cho vay đã giảm tới mức 1,2 và 1,25 góp phần hạ mức lãi suất chung của nền kinh tế, khuyến khích đầu tư, xuất khẩu. Diễn biến mức trần lãi suất cho vay thời kỳ 1996-1999 1-1-96 15-7-96 1-9-96 1-10-96 17-1-98 1-2-99 1-6-99 Lãi suất ngắn hạn 1,2 1,6 1,5 1,25 1,2 1,1 1,15 Trung hạn và dài hạn 1,25 1,65 1,55 1,35 1,25 1,15 1,15 Một thực tế khách quan của cơ chế thị trường là nó có chi phí cao, cho vay món nhỏ chi phí lớn, rủi ro cao, và thiếu vốn là khu vực nông thôn luôn có nhu cầu lớn nhưng huy động tại chỗ chỉ được rất ít và chi phí hoạt động ngân hàng cở nông thôn cao nên NHNN quy định trần lãi suất cho vay nông thôn luôn cao hơn thành thị nhằm thu hút vốn về nông thôn góp phần điều hoà vốn từ thành thị về nông thôn. Cho vay bằng công cụ lãi suất và bảo đảm cho các NHTM nông thôn bù đắp được chi phí. Nhưng có nhiều quan điểm cho rằng lãi suất cho vay phải luôn thấp hơn hoặc bằng thành thị mới thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Cho nên với quyết định 39/1998/QĐ/NHNN1 của thống đốc NHNN từ ngày 21/1/1998 đã xoá bỏ cách biệt về lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, rút từ chỗ 4 mức trần lãi suất xuống còn 3 mức trần lãi suất, khoảng cách giữa các trần cũng không còn xa nhau như trước và không quy định chênh lệch 0,35%/tháng. Quy định này có ưu việt là giẩm sự chênh lệch về lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh ở thành thị với mức lãi suất cho hộ nông dân vay vốn. Nhưng nông thôn lại thiếu vốn và không đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng nhất là các tổ chức tín dụng hoạt động trong khu vực nông thôn. Về quy định dự trữ bắt buộc ngày 10/2/1999 NHNN đã ra quyết định số 52/1999/QĐ-NHNN về dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 7% trên tổng số tiền gửi đối với các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và công ty tài chính. Trong khi đó là 5% đối với các NHTM cổ phần nông thôn, ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân trung ương, quỹ tín dụng nhân dân khu vực. Quy định này được loại trừ cho các khoản tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. 3.2. Đánh giá quá trình đổi mới Việc áp dụng trần lãi suất với sự linh động trong việc sử dụng công cụ chính sách lãi suất của nhà nước trong giai đoạn này đã gặt hái được khá nhièu thành công. Vào năm 1998, khu vực tiền tệ ngân hàng phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế châu á. Tình trạng xấu đi nhanh chóng của hoạt động kinh tế đối ngoại (năm 1997, giá trị kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 22% so với mức tăng 34,4% năm 1995 và 32,2% năm 1996; số vốn đăng ký đầu tư trực tiếp được cấp giấy phép chỉ bằng 73% năm 1996) đã gây ra những bất ổn trên thị trường ngoại hôí. Trong bối cảnh đó NHNN đã phải sử dụng công cụ chính sách lãi suất để giữ giá trị đồng nội tệ, cụ thể là tăng trần lãi suất tín dụng từ 1,1% lên 1,2%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn và từ 1,2% lên 1,25%/tháng đối với tín dụng dài hạn. Nâng lãi suất tái cấp vốn của NHNN cho các tổ chức tín dụng từ 0,9 lên 1.1%/tháng. Giảm lãi suất ngoại tệ đối với các loai hình không kỳ hạn, kỳ hạn 6 tháng và trên 6 tháng xuống các mức tương ứng là 0,5%/năm ; 3%/năm và 3,5%/năm. kết quả của việc điều tiết này là: Tiền gửi nội tệ trong 11 tháng đầu năm 98 đã tăng lên 18,8% so với mức giảm là 1,9% trong tháng 1 . Việc duy trì kiểm soát trần lãi suất đã góp phần hạn chế phần nào những tác động tiêu cực của hiện tượng giảm phát trong năm 1999. Việc áp dụng linh hoạt mức trần lãi suất trong từng giai đoạn cụ thể đã khuyến khích người dân gửi tiết kiệm đồng tiền nhàn rỗi của mình để hưởng lợi Tỷ lệ tiết kiệm quốc gia/GDP giai đoạn 1990-1998 Năm 90 91 92 93 90 91 96 97 98 Tỷ lệ tích luỹ/ GDP 2,9 10,1 13,8 14,5 17,1 19 16,8 18,6 16 Tăng trưởng tín dụng đầu năm 2000 có chiều hướng tích cực so với cuối năm 1999 tăng 8,3%, chủ yếu tăng từ cho vay đồng nội tệ. Đến hết 5/2000, tăng trưởng tín dụng bằng VNĐ so với cuối năm 1999 tăng 13,1%. Mặc dù đạt được khá nhiều thành công song chính sách trần lãi suất của NHNN Việt Nam áp dụng trong giai đoạn này vẫn tồ tại nhiều vấn đề bất cập. Một trong những biện pháp mà NHNN thực hiện để kích cầu nền kinh tế thông qua hệ thống công cụ tài chính là cắt giảm lãi suất cho vay, để bắt buộc cácNHTM phải cắt giảm lãi suất đầu vào nhằm khuyến khích dân chúng tăng tiêu dùng, mở rộng sản xuất nhưng thực tế kết quả đạt được chưa như mong muốn. Trong năm 99 tăng trưởng huy động vốn là 26% thì tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 12%. Trong quý I năm 2000 tăng trưởng huy động vốn tăng 6,5% trong đó tăng trưởng huy động bằng ngoại tệ tăng 10% và VNĐ tăng 4,4% ;tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 3,8% so với 31/12/1999. Nếu tính trong 4 tháng đầu năm 2000 thì mức tăng trưởng tín dụng đạt 5,6%, huy động vốn tăng 12.3% so với cuối năm 1999. Mức lãi suất tiết kiệm giữa USD và VNĐ còn chênh lệch khá cao:Đối vớitiền gửi là USD thì mức lãi suất là 1,5%/năm(3 tháng), 5%/năm (6 tháng ) và 5,5%/năm (12 tháng). Trong khi đó nếu tiền gửi là VNĐ thì mức lãi suất tương ứng là 3,24%/năm; 4,2%/năm ; 5,4%/năm. Điều này đẫ gây nên hiện tượng ứ đọng vốn VNĐ ở các ngân hàng và buộc các ngân hàng phải giảm laĩ suất đầu ra nhằm tháo gỡ tình trạng này, tình trạng gây nên hiện tượng “trượt dốc dài” của lãi suất VNĐ vào năm 1999 và đầu năm 2000. Thực tế tiền gửi VNĐ đã đước rút ra để mua ngoại tệ sau đó lại được giả vào các ngân hàng thương mại. Chính vì thế huy động ngoại tệ đã tăng mạnh đạt 13,1% so với cuối năm 1999 trong khi đó huy đồng đồng nội tệ chỉ đạt 8,3% vào thời điểm 31/5/2000. Việc quy định trần lãi suất cho vay cùng với sự điều chỉnh không kịp thời chính sách lãi suất đã tạo ra sự cứng nhắc, làm cho các tổ chức tín dụng không thể chủ động trong phương án kinh doanh. Cơ chế trần lãi suất tín dụng dường như không thích hợp với môi trường kinh tế vĩ mô thay đổi thường xuyên. Việc lạm phát âm xuất hiện và kéo dài liên tục vào nhiều tháng năm 96 và 99 đã buộc NHNN phải giảm liên tục trần lãi suất, đặc biệt là trong các năm 96 và 99 (trần lãi suất lên tới 4 lần và 5 lần năm 99). Do mức độ điều chỉnh lãI suất từng lần tương đối lớn với trần lãi suất điều tiết của NHNN nên trên thị trường dư nợ tín dụng không có động cơ tăng (mặc dù lãi suất giảm tương đối mạnh) vì khách hàng vay hy vọng lãi suất tiếp tục giảm và chính các tổ chức tín dụng cũng tạm ngưng huy động nguồn vốn có kỳ hạn 6 tháng, 9 tháng với lí do tương tự. Những khó khăn gặp phải do cơ chế trần lãi suất đòi hỏi phải có sự thay đổi chính sách điều hành lãi suất theo hướng tích cực hơn. 4. Giai đoạn từ 5/8/2000 đến nay. 4.1. Nội dung của việc đổi mới : Xoá bỏ cơ chế trần lãI suất thực hiện chính sách lãi suất cơ bản Do những diễn biến bất ổn định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng cũng như thị trường tiền tệ xảy ra vào năm 1999 và đầu năm 2000 như: Các NHTM đua nhau giảm lãi suất đầu ra để phá vỡ tình trạng ứ đọng vốn gây nên tình trạng trượt dốc dài của lãi suất cho vay. Cùng với nó là tình trạng đola hoá trong toàn bộ nền kinh tế do chênh lệch giữa USD và VNĐ gây ra một lượng tiền chảy từ trong nước ra nước ngoài. Trước tình hình đó NHNN đã xem xét lại chính sách trần lãi suất đã thi hành trong thời gian qua và nhận thấy những bất cập trong chính sách trần lãi suất trong việc thực hiện những mục tiêu đề ra. Tại nghị quyết về nhiệm vụ năm 2000 của Quốc hội khoá X thông qua việc đổi mới cơ chế điều hành lãi suất và tỷ giá cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Và ngày 5/8/2000 theo nghị quyết 242/2000/CP-NHNN quy định bãi bỏ lãi suất trần sàn cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng chuyển sang công bố lãi suất cơ bản dựa trên việc tham khảo lãi suất của 9 ngân hàng lớn nhất Việt Nam hiện nay. Theo luật ngân hàng nhà nước có hiệu lực từ ngày 1/10/1998, tạ điều 18 quy định “NHNN công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn". Và tại điều 9 của luật này giải thích “ Lãi suất cơ bản là lãi suất do ngân hàngnhà nước công bố để các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh". Như vậy theo quy định của luật NHNN về lãi suất cơ bản thì đây là một khái niệm rất rộng và rất đễ vận dụng cho việc điều hành lãi suất của NHNN trong từng giai đoạn thích hợp. Theo nghị quyết 242/2000/ CP -NHNN thì mức lãi suất cơ bản quy định cho thời kỳ này là 0,75%./tháng, TCTD được ấn định lã suất cho vay theo biên độ về nội tệ là 0,3%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với cho vay trung và dài hạn. Đối với USD là lãi suất SIBOR. Chỉ riêng đối với NHNN và PTNT thực hiện quyết định mới của tổng giám đốc về việc không phân biệt lãi suất giữa nông thôn và thành thị, Cụ thể là: vay ngắn hạn mới là 1%/tháng, trung và dài hạn là 1,05%/tháng. Ngoại tệ là 7,5%/năm đối với vay ngắn hạn và 9%/năm đối với trung và dài hạn. Ngày 27/2/2001 thống đốc NHNN ra quyết định 154/2001/QĐ-NHNN. Qua đó từ ngày 1/3/2001 lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng VNĐ đối với khách hàng là 0,725%/tháng. Như vậy sau 7 tháng thực hiện lãi suất cơ bản đã giảm 0,025%/tháng so với thời kỳ đầu. Theo quyết định của thống đốc NHNN Việt Nam từ ngày 1/4/2001 lãi suất tiền gửi USD của các pháp nhân tại các TCTD và lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng VNĐ đối với khách hàng đều được giảm xuống. Đồng thời cũng có hai quyết định khác cũng có hiệu lực từ ngày 1/4/2001 điều chỉnh về lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu của NHNN đối với các TCTD cùng được ban hành. Các quyết định trên đã cho thấy sự can thiệp kịp thời của NHNN vào thị trường tiền tệ nói chung và điều hành lãi suất nói riêng. Ngày 28/3/2001 NHNN đã ra quyết định số 137/2001 công bố lãi suất cơ bản là 0,7%/tháng Cùng ngày thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 238/2001 về việc điều chỉnh lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của các pháp nhân tại các TCTD với mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn tối đa là 1%/năm, tiền gửi có kỳ hạn tới 6 tháng tối đa là 1,5%/năm; tiền gửi có kỳ hạn trên 6 tháng tối đa là 2%/năm. Ngày 29/3/2001 Thống đốc NHNN ban hành quyết định số 242/2001 điều chỉnh giẩm lãi suất chiết khấu của NHNN đối với các TCTD là 0,4%/thángvà quyết định số 243/2001 về việc điều chỉnh lãi suất tái cấpv ốn của NHNN đối với các TCTD là 0,45%/tháng. Theo quyết định 557/2001/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN thì kể từ ngày 1/5/2001 mức lãi suất cơ bản là 0,65%/tháng. Như vậy đây là lần thứ 3 trong vòng 3 tháng trở lại đây NHNN đã liên tiếp cắt giảm lãI suất. Và đây cũng là lần cắt giảm lớn nhất: 0,05%/tháng kể từ khi NHNN thực hiện điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế mục tiêu chủ yếu của việc NHNN liên tục cắt giảm lãi suất trong thời gian gần đây là nhằm mục tiêu thúc đây mở rộng tín dụng. Bên cạnh đó việc cắt giảm lãi suất còn được coi là một bước đi phù hợptrước tìnhhình lãi suất thế giới liên tục giảm mạnh. Theo quyết định số 7/8/2001/QĐ-NHNN ngày 29/5/2001 thì kể từ ngày 1/6/2001 các TCTD tự ấn định lãi suất cho vay bằng USD trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ trong nước. Một trong những giải pháp bổ xung trong việc điều hành kế hoạch kinh tế năm 2001 được chính phủ đưa ra trong nghị quyết 05/2001/NQ-CP ngày 24/5/2001 là điêù chỉnh lãi suất tín dụng của nhà nước. Theo đó lãi suất đầu tư phát triển của nhà nước hạ xuống 5,4%/năm. Các đối tượng được hưởng lãi suất ưu đãi dặc biệt theo điểm 5 nghị quyết số 11/2000/NQ-CP (3/7/200). Quyết định số 117/2001/QD-TTg (10/10/200) và quyết định số 55/2001/QD-TTg 23/4/2001) sẽ áp dụng mức lãi suất thống nhất là 3%/năm. Còn lãi suất cho vay của ngân hàng phục vụ người nghèo đối với khu vực 3 là 5,4%/năm và các khu vực khác là 6%/năm. Theo quyết định số 836/2001/QD-NHNN thì mức lãi suất cơ bản kể từ ngày 1/7/2001 vẫn là 0,65%/tháng và biên độ giao động được giữ nguyên kể từ tháng 8/2000 là 0,3%/thángđối với ngắn hạn và 0,5% đối với trung và dài hạn. Quyết định số 838 và 839 (29/6/2001) cuả thống đốc NHNN kể từ ngày 1/7/2001, lãi suất chiết khấu của NHNN đối với các TCTD giảm xuống còn 0,35%/tháng. Các lãi suất chiết khấu và tái cấp vốn cũng giảm 0,05%/tháng. Như vậy sau gần một năm áp dụng chính sách lãi suất cơ bản, NHNNđã nhiều lần cắt giảm mức lãi suất cơ bản với tổng lượng cắt giảm là 1%, cùng với nó là việc cắt giảm lãi suất chiết khấu và tái cấp vốn, lãi suất cho vay người nghèo. Tất cả những điều đó đều nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế, kích thích đầu tư. Đây cũng là đấu hiệu chứng tỏ NHNN tiếp tục thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ để tiến tới tự do hoá lãi suất. 4.2. Đánh giá quá trình đổi mới Việc áp dụng chính sách lãi suất cơ bản đã có những thành công ban đầu đã ngăn chặn được đà giảm sút của lãi suất. Thực tế thì kể từ đầu tháng 10 năm 2000 lãi suất đã bắt đầu tăng trở lại kể cả lãi suất nội tệ và ngoại tệ. Tuy nhiên lãi suất nội tệ tăng nhanh hơn, lãi suất VNĐ tăng cuối năm 2000 đã tăng trên cả hai khu vực NHTMQD và NHTMCP. Thời gian đầu năm 2000 lãi suất huy động VNĐ của ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, NHTM cổ phần á châu … cho kỳ hạn 12 tháng tương ứng 0.5%-0,55%/tháng. Thời gian cuối năm 2000 các ngân hàng trên đã tăng lãi suất huy động vốn lên tương ứng là: 0,58%/tháng; 0,6%tháng; 0,7%/tháng; 0,6%/tháng. Đây là kết quả của việc NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn từ 0,4%/tháng lên 0,45%/tháng làm tăng nhu cầu sử dụng vốn VNĐ. Nếu như 4 tháng đầu năm 2000 huy đọng vốn tăng 12,3% trong khi dư nợ tín dụng chỉ tăng 5,8% thì đến hết tháng 9/2000 dư nợ tín dụng đã tăng 15,9% so với cuối năm 1999 và tăng gần 20% đến trung tuần tháng11 Bên cạnh những thành công thì cũng còn những vấn đề cần giải quyết ví dụ như nhiều NHTM không chấp nhận kiểu điều hành lãi suất cho vay của NHNN. Đơn cửngày 2/10/2000 hội sở ngân hàng ngoại thương VN công bố lãi suất cho vay ngắn hạn đối với tư nhân 0,75%/tháng, cho vay sản xuất hàng tiêu thụ trong nước là 0,65%/tháng, cho vay mua hàng xuất khẩu từ 6-6,5%/tháng, chiết khấu giấy tờ ngắn hạn là 0,6%/tháng. Lãi suất cho vay trung và dài hạn bằng VNĐ đối với các thành phần kinh tế là 0,7%/tháng. Như vậy lãi suất cho vay cao nhất của VCB chỉ bằng lãi suất cơ bản do NHNN công bố, không dùng đến biên độ mà NHNN cho phép. Lãi suất cho vay của NHTM Kỳ Thương không phân biệt mức ngắn hạn và dài hạn ở mức 0.85%/tháng, cao hơn mức lãi suất cơ bảndo NHNN công bố 1%/tháng. III. Tổng kết quá trình đổi mới chính sách lãi suất của Việt Nam. 1. Bảng tổng kết quá trình đổi mới từ năm 1989-2001 Như vậy sau hơn 10 năm thực hiện đổi mới có thể nói chính sách lãi suất đã có những thay đổi rõ rệt theo hướng giảm dần tác động trực tiếp, tăng dần khả năng vận dụng của các NHTM. Lãi suất kinh doanh của khu vực trung gian tài chính. 1989-1990 1992-1995 1996-1997 1998 1999 2000 Lãi suất thực âm Lãi suất thực dương Lãi suất thực được ấn định theo cụ thể theo kỳ hạn ngành nghề và khu vực kinh doanh. Các TCTD chấp hạn thụ động các mức lãi suất đã quy định áp dụng trần lãi suất tín dụng ngắn hạn, dài hạn và cho vay thoả thuận. Lãi suất tiền gửi vẫn được quy định cụ thể. Xoá bỏ lãi suất thoả thuận đưa thêm trần lãi suất khu vực nông thôn và khu vực quỹ tín dụng vào hệ thống lãi suất cho vay. Xoá bổ việc quy định cụ thể lãi suất tiền gửi. áp dung chênh lệch lãi suất đầu vào , đầu ra Thống nhất lãi suất khu vực thành thị và khu vực nông thôn. Tự do hoá lãi suất đầu vào (xoá bỏ chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra) Hợp nhất lãi suất cho vay ngắn hạn và dài hạn. Xoá bỏ kiểm soát lãi suất tiết kiệm ngoại tệ. Xoá bỏ trần lãi suất thực hiện lãi suất cơ bản. Lãi suất tín dụng dài hạn được ấn định thấp hơn lãi suất tín dụng ngắn hạn. Lãi suất tín dụng dài hạn cao hơn lãi suất tín dụng ngắn hạn. Lãi suất tái cấp vốn Giai đoạn 1990-1997 (Lãi suất tái cấp vốn thụ động ) Giai đoạn 1997 –2001 (Lãi suất tái cấp vốn chỉ đạo ) Trong giai đoạn này, lãi suất tái cấp vốn được quy định là tỷ lệ % của lãi suất cho vay trên khế ước xin tái cấp vốn. Điều đó có nghĩa là lãi suất cho vay của các NHTM xác định mức lãi suất tái cấp vốn, hoàn toàn ngược với bản chất của lãi suất tái cấp vốn – mức lãi suất chỉ đạo trên thị trường. Thực tế là lãi suất và lãi suất tái cấp vốn biến động ngược chiều nhau. Kể từ tháng 3/1997 lãi suất tãi cấp vốn được ngân hàng nhà nước ấn định một cách độc lập. Việc điều chỉnh lãi suất tái cấp vồn thường đi kèm với việc điều chỉnh cùng chiều các giới hạn lãi suất khác. Tương quan lãi suất nội ngoại tệ Giai đoạn 1992-1996 Giai đoạn 1997-2001 Kéo gần lãi suất nội ngoại tệ Điều tiết lãi suất nội tệ cao hơn lãi suất ngoại tệ Biểu đồ biểu diễn lãi suất thực của Việt Nam giai đoạn 1988 đến nay. Lãi suất thực Việt Nam giai đoạn 1989 đến nay Year 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 short rates 16.1 -18 -15 17.1 22 12.7 12.3 11.9 8.6 5.5 10.1 long rates 16.1 -34 -34 5.3 9.7 7.5 7.1 13.3 9.9 6.0 11.2 Inflation rates 34.7 67.5 67.6 17.6 5.2 14.4 12.7 4.5 3.6 9.2 0.1 2. Thành công chung của toàn bộ nền kinh tế. Sau hơn 10 năm thực hiện đổi mới toàn diện, sâu sắc toàn bộ nền kinh tế cùng với sự phấn đấu cao của nhân dân cả nước, kết hợp với hàng loạt các giải pháp, cơ chế chính sách và phát triển kinh tế xã hội trong đó có chính sách lãi suất. Nền kinh tế nứơc ta đã có những tiến bộ đáng kể. Tất cả các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của nhà nước đến năm 2000 đều đạt và vượt mức kế hoạch, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2000 đạt khoảng 6,75% vượt mức kế hoạch đã đề ra và cao hơn nhiều so với năm 1999. Từ kết quả hoạt động kinh tế của năm 2000 chúng ta có cơ sở để tiến hành đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm từ 1996 đến năm 2000 và chiến lược kinh tế xã hội 10 năm 1991-2000. Kết quả thực hiện kế hoạch giai đoạn 1996 – 2000. Chỉ tiêu Đơn vị Mục tiêu Thực hiện Giá trị So vớikế hoạch 1.Tốc độ tăng GDP trong đó: -Công nghiệp và xây dựng - Nông nghiệp - Dịch vụ 2.Tốc độ tăng kim ngạch xuấtkhẩu 3.tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu 4.Nhịp độ tănh tiêu dùng 5. Tổng vốn đầu tư %/năm %/năm %/năm %/năm %/năm %/năm %/năm Tỷ USD 9,0 – 10,6 14 –15 4,5 – 5 12 – 13 28 24 5 – 6 27,3- 34,5 7,0 10,8 4,3 5,8 21,2 13,7 5 31,1 Không đạt “ “ “ “ “ Đạt Đạt Nguồn: Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ VIII Số liệu của tổng cục thống kê Nhìn từ bảng thực hiện kế hoach 5 năm thì hiệu quả đầu tư toàn bộ nền kinh tế là thấp. Tốc độ vốn đầu tư có thể coi là đạt kế hoạch đặt ra, tuy nhiên tăng GDP chỉ đạt 2/3 kế hoạch. Vốn đầu tư xét trên cả hai khía cạnh tài chính và kinh tế xã hội đều không có hiệu quả. Hai khía cạnh tài chính và kinh tế xã hội đều không có hiệu quả. Tổng hợp kết quả thực hiện chiến lược 1991-2000. Các chỉ tiêu Đơn vị Mục tiêu Kết quả So với mục tiêu 1. Các chỉ tiêu giai đoạn1991 – 2000 -Tốc độ tăng GDP bình quân -Tốc độ tăng TB giá trị tổng sản lượng nông nghiệp -Tốc độ tăng TB giá trị tổng sản lượng công nghiệp -Tổng kim ngạch xuất khẩu -Nhịp độ tăng quỹ tiêu dùng -Tổng vốn đầu tư toàn xã hội % % % Tỷ USD % Tỷ USD 6,9-7,5 4-4,2 9,5-12,5 37-45 4,5-5 35-45 7,6 4,3 11,7 68,5 4,8 56 Đạt “ Đạt “ “ “ 2. Các chỉ tiêu tính đến năm 2000 -Dân số -Lao động -Tỷ lệ đầu tư phát triển/GDP -Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế -Cơ cấu tích luỹ tiêu dùng +Tích luỹ + Tiêu dùng -Tỷ trọng kim nghạch xuất khẩu/ GDP Tr. người Tr. người % % % % % % 80-81 42 30 13-20 100 23-30 70-77 27-30 78,9 40,2 25 16,5 100 18,1 81,9 30,7 Đạt “ Không đạt Đạt “ Không đạt Đạt “ 3. Một số sản phẩm chủ yếu đến năm 2000 -Sản lượng thuỷ sản -Đường -Điện -Dầu thô -Giấy -Thép -Xi măng -Vải -Than -Phân lân Triệu tấn “ “ tỷ Kwh tr. thùng vạn tấn Ngìn tấn Triệu tấn “ “ 1,6-1,7 1 30 10 30 2000 18-20 800 10 1,2 1,9 9,3 23,8 16,5 33,8 1224 10,4 352,6 11,1 1,12 Đạt “ Không đạt Đạt “ Không đạt “ “ Đạt Đạt Như vậy trọng kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 không đạt yêu cầu đặt ra nhưng chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 1991- 2000 đạt được kế hoạch đề ra theo phương án cao nhất. Các chỉ tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm, tăng trưởng công nghiệp, nông nghiệp, quỹ tiêu dùng đều hoàn thành khá tốt. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 1,71 lần so với kế hoạch, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp đôi từ 200 USD lên 400 USD. 3. Thành công của quá trình đổi mới chính sách lãi suất. Qua nghiên cứu quá trình thực thi chính sách lãi suất trong tình hình thực tiễn ở nước ta trong hơn 10 năm thực hiện đổi mới thấy rằng: Chúng ta đã chuẩn bị tích cực cho quá trình hội nhập và cũng đã làm được nhiều việc trong quá trình đó, cụ thể là: Đã chuyển từ lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương, xoá bỏ bao cấp qua lãi suất. Việc quán triệt cơ chế lãi suất dương là nhân tố quan trọng để chặn đứng tình trạng siêu lạm phát trong nền kinh tế vào những năm 80. Lượng tiền đang tràn lan trong lưu thông bị cuốn hút vào khu vực trung gian tài chính đã nhanh chóng góp phần vào việc kéo lạm phát từ mức siêu lạm phát xuống còn mức 2 con số. Đồng thời cơ chế lãi suất dương còn là một trong những nhân tố thúc đẩy phát triển nhanh chóng của mạng lưới TCTD trong nền kinh tếdặc biệt là các TCTD phi nhà nước. Sự phát triển của hệ thông trung gian tài chính cùng với sự điều chỉnh liên tục mức lãi suất đã làm cho mức tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế tăng vọt. Đây chính là nền tảng cho sự tăng mạnh hoạt động huy động vốn và cho vay của tổ chức tín dụng. Có thể nói một nền kinh tế hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn vay (tư 80-90%) thì viêc theo đuổi cơ chế lãi suất dương kéo theo sự phát triển mạnh của hệ thống ngân hàng là một kênh quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian qua. Đã thực hiện được lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn theo thong lệ quốc tế và phù hợp với rủi ro tín dụng thời hạn dài. Chuyển từ lãi suất cho vay trực tiếp của NHNN đối với các NHTM sang lãi suất tái chiết khấu và mức độ các mức tái chết khấu tăng hay giảm phù hợp với chủ trương mở rông hay thu hẹp tín dụng trong từng thời kỳ. Việc NHNN quyết định sử dụng lãi suất cơ bản được coi là yếu tố thành công nhất trong việc cải cách công cụ tiền tệ năm 2000. Chuyển sang áp dụng lãi xuất cơ bản tức là đã tiến dần tới tự do hoá lãI suất. Theo đánh giá của một số chuyên gia trong ngành ngân hàng, cái được nhất trong cơ chế điều hành mới này là đã tạo ra một khung pháp lí về lãi suất cho vay đối với các TCTD, giúp các NHTM chủ động trong việc giải quyết các quyết định, đồng thời tránh được các vướng mắc do trần lãi suất theo quy định cũ gây ra. Bên cạnh đó hệ thống ngân hàng và hệ thống tín dụng cũng được củng cố để tổ chức và nâng cao hiệu lực quản lý để làm cơ sở thực hiện chính sách tiền tệ. Hệ thống ngân hàng đã có những chuyển biến tích cực. Đã chuyển từ hệ thống ngân hàng 1 cấp sang 2 cấp. Việc chấn chỉnh hoạt động của NHNN, NHTM quốc doanh, các NHTM cổ phần cùng việc thực hiện một số biện pháp khác của chính sách tiền tệ, hoạt động của các ngân hàng đã trở nên có hiệu quả hơn. Đã đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động. Qua đó NHNN dã sử dụng các công cụ thị trường mở để điều tiết nền kinh tế. Đồng thời NHNN cũng sử dụng các công cụ khác của chính sách tiền tệ như dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản để tăng cường huy động vốn và điều tiết vốn cho thị trường tiền tệ. Phối hợp các biện pháp điều tiết lãi suất, các biện pháp kinh tế, hành chính để ổn định đồng nội tệ. Như vậy mặc dù trong tình hình khủng hoảng kinh tế trầm trọng của các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta vẫn đứng vững và đạt được những thành tựu đáng khích lệ. 4. Một số vấn đề còn tồn tại Mặc dù đạt được khá nhiều thành công trong quá trình hội nhập song việc đổi mới chính sách lãi suất ở Việt Nam vẫn còn những vấn đề cần giải quyết: Lãi suất tuy đã được điều chỉnh liên tục song vẫn là áp lực quá lớn đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cho đến nay các doanh nghiệp của Việt Nam đang rất thiếu vốn trong khi đó tại các NHTM lạ xảy ra hiện tượng ứ đọng vốn dài ngày. Chúng ta chậm sửa đổi công cụ chính sách lãi suất, chưa có một thị trường thứ cấp đúng nghĩa. Mặc dù NHTƯ đã ban hành cơ chế lãi suất cơ bản để thay thế cơ chế lãi suất trần, nhưng thực chất chỉ là thay đổi cách tính vì vẫn còn biên độ khống chế tức là vẫn còn trần lãi suất, có chăng khung lãi suất lần này có rộng hơn. NHTƯ cũng đã thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. Tại các nước khi thực hiện công cụ thị trường mở – công cụ can thiệp gián tiếp, nên họ bỏ khung lãi suất theo trần và giảm thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức tượng trưng. Song chúng ta lạị đồng thời sử dụng 2 giải pháp nhưng vì thiếu đồng bộ không ăn khớp nên hàng hoá diễn biến nghèo nàn, thị trường hoạt động vẫn còn sơ khai, lạc hậu so với các nước. Mối quan hệ giữa lãi suất VNĐ và USD chưa hợp lý. Lãi suất cho vay bằng USD thấp hơn khá nhiều so với lãi suất cho vay bằng VNĐ trong khi lãi suất tiết kiệm USD lại cao hơn VNĐ. Vì vậy nhiều doanh nghiệp đã tìm cách vay USD chứ không phải vay VNĐ. Cuộc chạy đua này đã dẫn đến khá nhiều tiêu cực trong hoạt động tín dụng. Đã xuất hiện hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh mang tính chất phá giá tạo nên cuộc chay đua leo thang về lãi suất huy động vốn giữa các NHTM. Thực tế cho thấy mấy năm gần đây có NHTM cứ cuối tài chính năm lại phát hành kỳ phiếu ngắn ngày với lãi suất khá cao và lại trả lãi trước nên rất hấp dẫn khách hàng. Nhiều người đã lợi dụng lãi suất kỳ phiếu cao hơn lãi suất cho vay để thu lợi bằng việc sử dụng sổ tiết kiệm hoặc gom tiền để mua kỳ phiếu, sau đó lấy kỳ phiếu thế chấp vay ngân hàng, kể cả vay ngân hàng nông nghiệp với lãi suất 1%, sau đó lại dùng tiền vay được mua kỳ phiếu và cứ thế quay vòng hưởng chênh lệch lãi trước. Bên cạnh đó hoạt động của NHTM và các TCTD ở nước ta cho đến nay vẫn mang tính truyền thống, chủ yếu là kinh doanh tín dụng, huy động vốn và cho vay hưởng chênh lệch lãi suất. Thu nhập của hoạt động tín dụng chiếm 80-90% tổng thu nhập. Các khoản thu từ dịch vụ ngân hàng, thanh toán, tư vấn, quản lí quỹ…chiếm tỷ trọng nhỏ do đó việc tăng hay giảm lãi suất có tác động trực tiếp rất lớn đến tình hình tài chính của từng NHTM. Chất lượng tín dụng còn thấp, nợ quá hạn còn ở mức cao (~10%) và có chiều hướng tăng. Vấn đề này khó có thể giải quyết khi thực trạng tài chính doang nghiệp chung vẫn còn yếu kém. Như vậy là quy mô tín dụng bị bó hẹp, nợ nước ngoài tăng khá nhanh, tuy là để đáp ứng nhu cầu vốn trước mắt nhưng lâu dần gánh nợ này ảnh hưởng đến cán cân thanh toán và nhu cầu ngoại tệ để thanh toán đúng hẹn nhất là khi các khoản vay nợ nước ngoài sử dụng không có hiệu quả. Tỷ giá diễn biến thất thường tạo nên dòng chuyển dịch tiền đồng sang ngoại tệ, người ta rút tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu bằng tiền đồng để mua ngoại tệ gửi vào ngân hàng. Nghịch lý trong chính sách lãi suất hiện nay là: Các ngân hàng cạnh tranh nhau huy động vốn đẩy lãi suất vay vào lên cao (vì không cho vay được sẽ lỗ) mà coi nhẹ khả năng trả nợ của người đi vay. Lãi suất càng cao độ rủi ro càng lớn. Các doanh nghiệp thiếu vốn song không giám vay vì lãi suất cao quá nếu có vay thì rất khó có khả năng trả nợ . Chương III: MộT Số Giải pháp và kiến nghị nhằm điều hành có hiệuquảchính sách lãi suất ở Việt Nam I. Những điều kiện trong việc điều chỉnh chính sách lãi suất của Việt Nam Về mặt lý luận và thực tiễn cho thấy chính sách lãi suất ảnh hưởng mạnh mẽ đến cung cầu các nguồn vốn có thể đầu tư. Chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường là trung tâm mọi chính sách do lãi suất tác động đến tỷ giá, đến chu trình vận động của vốn cũng như góp phần hạn chế và kiểm soát lạm phát từ đó tác động đến mọi hoạt động kinh tế chung. Nhưng chính sách lãI suất chỉ phàt huy hiệu quả khi việc hoạch định nó được căn cứ vào đIều kiện và thời kỳ cụ thểDo vậy việc xác định điều kiện của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới là vô cùng cần thiết. Căn cứ vao điều kiện cụ thể hiện nay của nước ta hiện nay và xu hướng phát triển của nó trong thời gian qua, chúng ta có thể đưa ra mấy nét cơ bản về điều kiện phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới như sau Thứ nhất, sự ổn định kinh tế vĩ mô đủ chắc chắn để chịu đựng các tác động, các cú sốc từ bên ngoài đối với nền kinh tế có thể xảy ra. Thứ hai, thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán) hình thành và vận hành có hiệu quả. Thứ ba, có môi trường pháp lý và thể chế tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ quốc tế. Có quy chế phòng ngừa, bù đắp rủi ro hữu hiệu, đảm bảo hạn chế và bù đắp được những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của các trung gian tài chính. Thứ tư, hệ thống các cơ quan phát triển lành mạnh, có uy tín. Các cơ quan này đòi hỏi không chỉ có công nghệ hiện đại( máy móc thiết bị), mà còn có sự phát triển về chiều sâu, có kinh nghiệm lâu dài về quản lý ở nhiều khía cạnh. Thứ năm, hệ thống ngân hàng ổn định, hoạt động hữu hiệu. Tăng cường sự thanh tra, giám sát chặt chẽ của NHNN đối với các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh cũng như trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Thứ sáu, các tổ chức kinh tế điều đảm bảo khả năng sử dụng vốn triệt để có hiệu quả. Thứ bảy, giải toả tình trạng ách tắc vốn tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mạnh dan đầu tư vốn cho công nghệ sản xuất, nâng tỷ trọng vốn vay trung hạn và dài hạn. II. Các mục tiêu hướng tới của chính sách lãi suất Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, cơ chế lãi suất mới không làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng huy động vốn ở trong nước và ngoài nước ở mức cao để đảm bảo vốn cho tăng trưởng tín dụng có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của chủ trương kích cầu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam. Tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng và khách hàng gửi, vay vốn có thể thoả thuận để lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất có điều chỉnh linh hoạt, có lợi cho các bên, khuyến khích tổ chức tín dụng mở rộng huy động vốn và cho vay vốn trung dài hạn. Riêng lãi suất cho vay bằng ngoại tệ tuy đã tiếp cận dần với thông lệ quốc tế nhưng sẽ thấp hơn mặt bằng thị trường quốc tế, phù hợp với cung –cầu vốn ngoại tệ, có lợi cho cả doanh nghiệp và NHTM, tạo điều kiện NHTM mở rộng cho vay vốn ngoại tệ, hạn chế gửi vốn ngoại tệ ở nước ngoài. Tạo khuôn khổ linh hoạt cho các tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất phù hợp với đặc điểmcủa từng vùng và mức độ rủi ro theo thời hạn cho vay và từng khách hàng, nhưng NHNN vẫn kiểm soát được lãi suất để tránh việc các tổ chứctín dụng tăng lãi suất cho vay quá mức, ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của nền kinh tế. thúc đẩy vốn tín dụng linh hoạt giữa các lĩnh vực kinh tế, khu vực thành thị và nông thôn phù hợp với sự phát triển không đều của thị trường tài chính nước ta hiện nay. Làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VNĐ-tỷ giá-lãi suất ngoại tệ linh hoạt hơn, phản ánh chính xác hơn cung cầu về vốn, ngoại tệ, cơ sở cho NHNN khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị trường. III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chính sách lãi suất trong thời gian tới 1. Đi tìm một hướng xác định và quản lý lãi suất cơ bản : Nghiên cứu về lãi suất cơ bản ở nhiều nức có đặc điểm chung là + Thứ nhất, lãi suất cơ bản do từng NHTM định ra trên cơ sở có sự nhất trí giữa các ngân hàng, có tham khảo bán chính thức giữa các ngân hàng lớn với Bộ Tài Chính và NHTƯ. trong thực tế, một số ngân hàng lớn công bố một cách riêng lẻ khi thay đổi lãi suất cơ bản của mình và các ngân hàng khác tự điều chỉnh theo cho phù hợp . + Thứ hai, lãi suất cơ bản là mức lãisuất, để trên cơ sở đó, tính lãi suất cho các món vay khác nhau. Lãi suất cho vay hình thành bằng cách thêm vào lãi suất cơ bản những phụ phí theo loại tín dụng được cấp. Ví dụ, lãi suất cơ bản là 12%/năm và phụ phí là 1,5% thì lãi suất cho vay là 13,5%/năm. Phụ phí được qui định bởi những khoản tín dụng không có bảo lãnh, tín dụng có nhiều rủi ro hoặc tín dụng có qui định hoa hồng. Như vậy , lãi suất cơ bản đã bao hàm phần bù đắp đủ chi phí và có lợi nhuận hợp lí cho từng NHTM ( tuy nhiên mức lợi nhuận đó giữa các NHTM có khác nhau ). Nhận thức đúng về lãi suất cơ bản trên cơ sở học tập kinh nghiệm các nước, căn cứ thực tiễn ở Việt Nam, theo chúng tôi : Trước hết, việc công bố lãi suất cơ bản của NHNN phải trên cơ sở có tham khảo mức tính của từng NHTM. Lãi suất cơ bản phải được xác định bao gồm bù đắp đủ chi phí đầu vào và có lợi nhuận tối thiểu của NHTM. Như vậy, NHTM có thể cho vay với mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất cơ bản mà không dẫn đến lỗ.Trường hợp này rất cần thiết để giải quyết tình trạng ứ đọng vốn tại NHTM và tăng trưởng được tín dụng cho nền kinh tế . Thứ hai, thưc tế còn nhiều khoản tín dụng có tính chất khác nhau về độ rủi ro, về mục đích sử dụng vốn, về phương thức cấp vốn trong từng NHTM, giữa các NHTM và giữa các vùng khác nhau. Do vậy, trên cơ sở lãi suất cơ bản, từng NHTM được phép cộng trừ một tỷ lệ nhất định gọi là biên độ. Biên độ này không cần lớn lắm nên lãi suất cơ bản đã sát gần lãi suất cho vay. Như vậy, NHTM có thể cho vay với mức lãi suất cao hơn lãi suất cơ bản, hoặc bằng, hoặc thấp hơn lãi suất cơ bản. Phần bằng lãi suất cơ bản gọi là lãi suất cứng, phần cộng thêm của biên độ gọi là lãi suất mềm , sẽ tạo điều kiện cho từng NHTM; tăng lợi nhuận nếu cho vay được, bù đắp cho NHTM hoặc khu vực có chi phí đầu vào cao hơn, đáp ứng cho vay đối với các khoản tín dụng hoặc có bảo đảm hoặc khoản tín dụng có rủi ro cao hơn, sử dụng để trả hao hồng đối với những loại tín dụng thông qua đại lý Thứ ba, để từng NHTM cho vay một mức lãi suất trên cơ sở lãi suất cơ bản và trên quan hệ cung – cầu vốn tín dụng, thì phải sớm hạch toán tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. Thứ tư, dù có thực hiện điều hành lãi suất tín dụng trên cơ sở lãi suất cơ bản như những đề suất trên thì cũng chỉ là quá độ chưa hoàn hảo so với yêu cầu tự do hoá lãi suất. Để sớm tiến tới tự do hoá lãi suất thì NHTƯ phải triển khai tích cực hình thái tái cấp vốn. Trong đó chú trọng là cho vay chiết khấu và tái chiết khấu đối với các thương phiếu của NHTM. Muốn vậy cần khẩn trương ra đời và khai thông hình thức lưu thông thương phiếu như Luật Thương Mại 2. Quy định tỷ lệ lãi suất hợp lý giữa ngắn hạn, trung hạn và dài hạn: Hiện nay sau các quyết định về điều chỉnh lãi suất cho vay của NHNN, lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn đã tăng tương đối so với lãi suất ngắn hạn. Song để đạt được mục đích chuyển vốn vay ngắn hạn sang dài hạn và trung hạn, thì vấn đề xác định mức laĩ suất hợp lý giữa ngắn hạn và dài hạn cần được xem xét và tính toán chu đáo. Cụ thể: - Lãi suất trung hạn và dài hạn phải cao hơn lãi suất ngắn hạn vì nó phải chứa các yếu tố rủi ro và trượt giá nhiều hơn. - Quá trình điều chỉnh phải nhằm tạo ra sự cân đối trong cơ cấu cho vay vốn. 3. Xác định chênh lệch tỷ lệ lãi suất cho vay trong nước và lãi suất nước ngoài hợp lý để thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài Ngoài nguyên tắc đảm bảo lãi suất cho vay trong nước phải cao hơn lãi suất thế giới cần đặc biệt chú ý đến tỷ lệ lạm phát và giá trị đồng nội tệ khi điều chỉnh. Thực tế cho thấy năm 1995 Việt Nam thu hút được số vốn đầu tư nước ngoài 6,471 triệu USD với 311 dự án được cấp phép. Vì vậy để đạt được sự hợp lý trong chính sách điều chỉnh lãi suất cho vay với lãi suất thế giới cần đồng thời tiến hành đồng bộ với các giải pháp khác để thúc đẩy cả quá trình đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, để giải toả tình trạng ứ đọng vốn nội tệ trong thời gian qua do các doanh nghiệp thích vay vốn bằng ngoại tệ hơn nội tệ gây ra tình trạng “đôla hoá” trong nền kinh tế. Nhưng việc lãi suất nội tệ cao hơn lãi suất ngoại tệ lại dẫn đến tình trạng: - Kém thu hút các nguồn vốn ngoại tệ từ lưu thông để nhằm mục đích phát triển kinh tế vì lãi suất không hấp dẫn. - Gây nên sự bất bình đẳng trong thu nhập giữa người gửi tiền ngoại tệ và người gửi tiền nội tệ. Đồng thời tạo cơ hội trục lợi không chính đáng cho những người vay vốn ngoại tệ ngân hàng. Vì vậy mục tiêu của ngành ngân hàng là cần phải điều chỉnh lại tỷ lệ lãi suất giữa nội tệ và ngoại tệ hợp lý song cần đặt quá trình điều chỉnh mối quan hệ phù hợp với chính sách tỷ giá hôi đoái trong tình hình hiện nay. 4. Chính sách lãi suất tiền gửi và cho vay cần đáp ứng với chính sách tiền tệ và những diễn biến về lãi suất và tỷ giá kịp thời. Khi xét tới vấn đề này trong tình hình Việt Nam đang thực hiện công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu thì một vấn đề cơ bản cần lưu ý là tầm quan trọng của các yếu tố quốc tế và trong nước trong việc xác định lãi suất trong nước. Thông qua các công cụ gián tiếp NHNN có thể điều tiết lượng tiền cung ứng làm tác động đến lãi suất thị trường liên ngân hàng, đặt biệt lãi suất tiền gửi , từ đó tác động đén lãi suất tín dụng. Cần lưu ý rằng tăng lãi suất tín dụng hoặc giữ lãi suất ở mức cao là làm cho nội tệ hấp dẫn, vững giá trên thị trường hối đoái. Nhưng nó lại tác động tiêu cực lên toàn bộ nền kinh tế và từ đó lên cả tỷ giá hối đoái, phản ánh méo mó sức mua thực của đồng nội tệ. Vì vậy cần hình thành và giữ vững mối tương quan hợp lý giữa tỷ giá hối đoái, giá cả trong nước và tỷ lệ lãi suất để xác lập một chiều hướng vận động thích hợp của tỷ giá là tạo môi trường thuận lợi cho nền kinh tế. 5. Hoàn thiện môi trường pháp lý Ngân hàng tạo niềm tin và khuyến khích nhân dân và các tổ chức kinh tế gửi tiết kiệm. Lý luận và thực tiễn cho thấy kinh doanh tiền tệ là loại hình đòi hỏi hết sức khắt khe về sự hoàn thiện môi trường pháp lý do hai lý do : thứ nhất do tính hấp dẫn bản thân đồng tiền, thứ hai do tính rủi ro của hoạt động kinh doanh tiền tệ. Chuyển sang kinh tế thị trường hoàn thiện môi trường pháp lý ngân hàng là yêu cầu cấp bách. Trước hết là việc sửa đổi và hoàn thiện luật Ngân hàng-tài chính, tăng cường vai trò kiểm soát của NHNN , hình thành và hoàn thiện các ngân hàng cổ phần, các công ty tài chính. Từ đó thúc đẩy khả năng sử dụng vốn hợp lý của các NHTM tạo niềm tin cho nhân dân khi đi gửi tiết kiệm đẩy nhanh khả năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho chiến lượt phat triển kinh tế Việt Nam hiện nay. 6. Tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. Hiện nay, xu hướng hội nhập toàn cầu hoá là một xu hướng tất yếu. Toàn cầu hoá đặt ra những cơ hội và thách thức mới làm sói mòn và giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp như quy định trần lãi suất. Thay vào đó để đảm bảo kiểm soát tiền tệ có hiệu quả, các nước đều chuyển dần sang thực hiện các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở … Để đảm bảo hội nhập thành công trong lĩnh vực tài chính, trước hết lãi suất phải được tự do hoá. +Tuy nhiên, đối với Việt Nam lúc này, tự do hoá lãi suất chưa phù hợp do một số nguyên nhân sau: - Việt Nam đang phải đối mặt với thực trạng hệ thống tài chính vẫn còn kém phát triển và tình trạng thiếu thông tin về thị trường tài chính, đặt biệt là khu vực miền núi và nông thôn. - Nếu xã hội áp đặt vào hệ thống tài chính quá nhiều các mục tiêu quốc gia như chính sách lãi suất ưu đãi các đối tượng chính sách, phát triển khu vực nông nghiệp,nông thôn… thì việc can thiệp của chính phủ là khó tránh khỏi. Điều này sẽ làm cho lãi suất kém hiệu quả . - Các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu còn kém phát triển, chưa đủ sức mạnh chi phối lãi suất thị trường. - Tình trạng tài chính của NHTM đang xấu đi, do vốn tự có thấp và tồn tại một số lượng nợ khó đòi. Khi tiến hành tự do hoá lãi suất có thể làm giảm khả năng sinh lời, sự lành mạnh của các ngân hàng và hạn chế các doanh nghiệp vay vốn. - Nền kinh tế chưa thưc sự vững chắc đủ để chịu những áp lực của việc tự do hoá lãi suất hoàn toàn: chúng có thể làm mất ổn định vĩ mô qua việc tăng lạm phát, nợ nước ngoài và làm suy giảm kinh tế. + Vì vậy, để tiến hành tự do hoá lãi suất NHNN với tư cách là người điều hành chính sách tiền tệ quốc gia sẽ sử dụng các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp để tham gia điều chỉnh các mức lãi suất trên thị trường nhằm phát huy vai trò của lãi suất đối với sự phát triển của kinh tế xã hội. Cho nên để thực hiện thành công cơ chế tự do hoá lãi suất có sự quản lý của nhà nước Việt Nam ta cần thực hiện: - ổn định kinh tế vĩ mô về các mặt : tốc độ tăng GDP, kiểm soát lạm phát, cân đối ngân sách Nhà nước. - Củng cố hệ thống tài chính-ngân hàng từ trung ương đến cơ sở. Tăng cường thông tin về thị trường tài chính-tiền tệ-chứng khoán, đảm bảo cân bằng giữa cung và cầu về vốn. - Xác định và phân chia rõ ràng nhiệm vụ, các mục tiêu chính sách quốc gia về kinh tế-xã hội cho hệ thống tín dụng-ngân hàng-ngân sách. - Đẩy mạnh và phát triển hơn nữa các công cụ tài chính như thương phiếu và những giấy tờ có giá ngắn hạn để thực hiện có hiệu quả các công cụ tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu thay thế cho vai trò của lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ. - ổn định và lành mạnh thị trường tài chính các ngân hàng thương mại tăng cường vốn tự có, xử lý các khoản nợ khó thu hồi, đổi mới nghiệp vụ và chất lượng cán bộ. Tăng cường công tác kiểm tra và thanh tra Nhà nước. - Nâng cao năng lực quản lý nền kinh tế của các cơ quan vĩ mô đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập kinh tế nước ta. - Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp làm ăn có lãi và trả nợ. IV- Kiến nghị : Cần có một chính sách lãi suất riêng cho người nghèo Trong thời gian qua NHNN đã thực hiện lãi suất cho vay ưu đãi đối với người nghèo điều này giúp họ khắc phục được một số khó khăn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, khuyến khích được các hộ nghèo mạnh dạn vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, tập dượt làm quen với sản xuất hàng hoá, dần dần vươn lên hoà nhập với cộng đồng trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên thực tế cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo trong thời gian qua đã bộc lộ một số tồn tại: - Cho vay lãi suất ưu đãi đã nảy sinh tư tưởng "ỷ lại" là tiền tệ để trở lại bao cấp qua con đường tín dụng, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp. - Có tư tưởng vốn "ban phát" nên dễ xảy ra hiện tượng bình quân chia đều,tiêu cực trong phân chia cho vay, nảy sinh nhu cầu giả tạo để sử dụng vốn sai mục đích . - Khó phát huy nội lực, huy động vốn trong nội bộ dân cư để bổ sung nguồn vốn cho vay người nghèo (vì huy động cao theo lãi suất thị trường, nhưng cho vay theo lãi suất ưu đãi chênh lệch lãi suất cho vay và huy động âm). Muốn huy động nguồn vốn trong dân cư,ngân sách phải bù lỗ. Một thực tế để huy động 1050 tỷ đồng kỳ phiếu của ngân hàng nông nghiệp nhằm tạo nguồn cho vay hộ nghèo, Ngân sách nhà nước phải bù cấp chênh lệch lãisuất năm 1999 là 117 tỷ đồng, trong khi ngân sách nhà nước còn hạn hẹp thì đây là một vấn đề khó. Vì vậy hoạt động phục vụ người nghèo thiếu tính bền vững. - Thiếu sức thuyết phục để thu hút các nguồn vốn của các tổ chức quốc tế bổ sung nguồn vốn cho vay người nghèo vì các tổ chức quốc tế cho rằng, đây là kênh tín dụng bao cấp, thiếu cơ sở phát triển bền vững. Đây là một trong những nguyên nhân chính mà hơn 3 năm nay, Ngân hàng nông nghiệp chưa nhận được khoản vay lớn từ các tổ chức tài chính quốc tế như WB, ADB ... - Một số tỉnh có thu hút được một số dự án của các tổ chức quốc tế cho vay người nghèo với lãi suất thị trường thì vấn đề nảy sinh là: Trên cùng một địa bàn, cho vay cùng một đối tượng hộ nghèo nhưng với lãi suất khác nhau gây ra hiện tượng mất bình đẳng, so bì và khó thực hiện. Trong thời gian tới để phát huy hiệu quả cho vay hộ nghèo nhằm khắc phục những tồn tại nêu trên đảm bảo cho hệ thống ngân hàng phát triển bền vững, theo tôi cần thiết phải chuyển cho vay hộ nghèo sang lãi suất thị trường theo hướng: + Thực hiện thống nhất lãi suất cho vay hộ nghèo theo lãi suất thị trường theo từng thời kỳ nhưng có giảm 30% lãi suất đối với vùng núi cao hải đảo (vùng III) như lãi suất cho vay của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn + Để khuyến khích những hộ sử dụng vốn có hiệu quả,nên áp dụng chính sách thưởng lãi suất từ 10% - 20% lãi suất cho vay khi hộ trả nợ tốt ( cả gốc và lãi ). + Thực hiện tốt cơ chế cho vay hộ nghèo theo lãi suất thị trường, cùng với nguồn vốn tín dụng Nhà nước cần tăng cường các chính sách hỗ trợ người nghèo một cách kịp thời và đồng bộ như: quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn nhất là các vùng nghèo nâng cao dân trí, chuyển giao khoa học kỹ thuật khuyến nông khuyến ngư, định hướng sản xuất, tìm kiếm dự án sản xuất nông nghiệp sắp tới và sự quan tâm hỗ trợ các chính sách khác đối với người nghèo sẽ mang lại hiệu quả cao góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo củaĐảng và nhà nước ta đã đặt ra. Kết luận Lãi suất chỉ là một phương tiện chứ không phải là mục đích, do đó chính sách lãi suất phải gắn liền với các chính sách kinh tế mà trực tiếp là chính sách tiền tệ-tài chính-tín dụng, chính sách kinh tế đối ngoại. Vì vậy chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường phải thay đổi tuỳ theo thị trường, tuỳ theo từng giai đoạn phát triển và yêu cầu phát triển kinh tế đặt ra trong mỗi thời kỳ của từng quốc gia. Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách lãi suất đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, trước tiên là nhiệm vụ trực tiếp của NHNN, cơ quan đại diện cho Nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Tuy nhiên để có được sự thành công trọn vẹn, cần thiết và đòi hỏi có sự phối kết của các Bộ, Ban ngành từ trung ương đến địa phương, tránh tình trạng quy định chồng chéo, mâu thuẫn với nhau, dẫn đến sự trông chờ, đùn đẩy trách nhiệm hoặc lợi dụng kẽ hở để vi phạm pháp luật. Trong chiến lượt phát triển kinh tế của Việt Nam cần phải có một bước tiến mới trong quá trình điều chỉnh xây dựng và hoàn thiện chính sách lãi suất theo nguyên tắc lãi suất cơ bản , đảm bảo tính mềm dẻo linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế, nâng dần tính chất gián tiếp và hạn chế dần việc điều tiết can thiệp mang tính chất trực tiếp, góp phần huy động vốn và điều tiết cho vay vốn, đặc biệt là vốn trung hạn và dài hạn cho đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế. Như vậy , bài viết đã khái quát toàn bộ quá trình đổi mới việc điều hành chính sách lãi suất ở việt Nam trong suốt quá trình từ 1988 đến nay , đồng thời đã đánh giá những thành công , hạn chế của nó và nêu ra một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chính sách lãi suất cơ bản mà NHTƯ đang áp dụng hiện nay . một lần nữa , em xin chân thành cảm ơn thầy giáo – Th.S Đặng Ngọc Đức đã giúp đỡ , hướng dẫn để em có điều kiện hoàn thành đề án này ./ tài liệu tham khảo Ngân hàng và vai trò của ngân hàng trong quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường – PTS Nguyễn Quốc Việt. Nhà nước và các công cụ kinh tế vĩ mô- GS. PTS Nguyễn Đình Hương. Một số lý thuyết về lãi suất ngân hàng- PTS Nguyễn Thế Khải. Lãi suất trong nền kinh tế thị trường – Nguyễn Bá Nha. Tư bản (Tập 2,3)- Các mac Lịch sử các học thuyết kinh tế. Báo cáo Đại hội Đảng VIII về công tác tài chính tiền tệ. Đổi mới hệ thống tài chính tiền tệ ngân hàng trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta- Cao Sỹ KiêmThống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam. Tiền tệ- Ngân hàng và thị trường tài chính – FREDERIC S.MISHKIN. Thời báo kinh tế các số năm 1996-1997-1998 Thời báo tài chính các số năm 1995-1996-1997-1998 Báo đầu tư và thương mại Tạp chí thị trường tài chính các số năm 1996-1997-1998 Tạp chí ngân hàng số các năm 1996-1997-1998-1999-2000 Tạp chí cộng sản các số năm 1996 Tạp chí nghiên cứu kinh tế các số năm 1996-1997-1998 Tạp chí phát triển kinh tế các số năm 1996-1997-1998 Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35185.doc
Tài liệu liên quan