Đề án Giá trị của học thuyết về lợi nhuận của Mark và ý nghĩa của việc nghiên cứu và thực hiện vấn đề lợi nhuận

Như vậy trong đề án này em đã trình bày một cách hệ thống học những vấn đề cơ bản về lợi nhuận, đó là các quan điểm về lợi nhuận trước Mark; học thuyết về lợi nhuận của Mark với đầy đủ các yếu phạm trù về giá trị thặng dư: nguồn gốc, bản chất, các hình thức biểu hiện, cùng các vấn đề của lợi nhuận đối với nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường nước ta nói riêng. Rõ ràng lợi nhuận là một phạm trù không chỉ của riêng CNTB. Nhưng vấn đề là tạo ra và sử dụng nó như thế nào để vừa phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển nên kinh tế thị trường của chúng ta, vừa đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảm bảo công bằng xã hội. Vai trò tích cực của lợi nhuận đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước là rất to lơn, tuy vậy tác hại của việc theo đuổi lợi nhuận cũng rất nguy hiểm, nhất là đối với một nước định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng còn kém phát triển như nước ta. Do đó vấn đề học tập, nghiên cứu, vận dụng vấn đề lợi nhuận cũng như các phạm trù khác của chủ nghĩa Mark nhằm góp phần xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, thành công của công cuộc đổi mới là nhiệm vụ của mỗi người sinh viên Đại học Kinh Tế Quốc Dân

doc27 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1729 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giá trị của học thuyết về lợi nhuận của Mark và ý nghĩa của việc nghiên cứu và thực hiện vấn đề lợi nhuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Trang Phần I: Lời nói đầu 2 Phần II: Nội dung 3 Chương I: Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận 3 1. Các quan điểm trước Mark về lợi nhuận 3 2. Quan điểm về lợi nhuận của Mark 6 3. Các hình thức biểu hiện của lợi nhuận 10 Chương II: Vai trò của động lợi nhuận 12 I. Lợi nhuận là động lực của nền kinh tế thị trường 12 II. Vấn đề lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam 16 Chương III: Giá trị của học thuyết về lợi nhuận của Mark và ý nghĩa của việc nghiên cứu và thực hiện vấn đề lợi nhuận 21 1. Giá trị của học thuyết về lợi nhuận của Mark 21 2. ý nghĩa của lợi nhuận đối với quá trình đi lên CNXH ở Việt Nam 22 3. Hậu quả của việc theo đuổi lợi nhuận 24 Phần III: Kết luận 26 Phần I: Lời nói đầu K.Mark đã cống hiến cả cuộc đời của mình vào một xã hội tốt đẹp, một xã hội công bằng văn minh đó chính là CNXH. K.Mark đã để lại cho nhân loại rất nhiều tác phẩm. Hai phát kiến vĩ đại nhất của Mac là học thuyết giá trị thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hai phát kiến này đã làm thay đổi nhận thức của toàn nhân loại. Mark đã biến chủ nghĩa xã hội không tưởng thành CNXH khoa học. Cho tới nay gần hai thế kỷ đã trải qua nhưng hai phát kiến vĩ đại này vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Đối với nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì vấn đề nhận thức và vận dụng các học thuyết của Mac - Đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư để làm kim chỉ nam cho các hoạt động để đi đến đích cuối cùng là một vấn đề cực kỳ quan trọng. Xuất phát từ nhận thức trên với nền kinh tế nước ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì không ai khác, không quốc gia nào khác mà tự tìm ra đường lối phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện tình hình hiện nay. Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ nguồn gốc, bản chất của các yếu tố bên trong của nền kinh tế đặc biệt là những yếu tố chính thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Một trong những yếu tố chính là lợi nhuận. Vậy thế nào là lợi nhuận? nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận là gì và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường... Đây cũng chính là những vấn đề cấp thiết, tất yếu đòi hỏi phải có lời giải đáp nhanh chóng, chính xác phù hợp với tình hình để đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay. Và đây chính là lý do vì sao em chọn đề tài này.Đây là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn. Quá trình nghiên cứu nó đòi hỏi phải xuất phát từ các quan điểm của các nhà kinh tế học trước Mark kết hợp với quan điểm của Mark và với thực tiễn. Trong quá trình viết đề án về đề tài này với một kiến thức vẫn còn chưa thực sự sâu rộng,còn có nhiều hạn chế và thiếu kinh nghiệm cho nên trong quá trình viết, em mong được thầy giáo cũng như những ai quan tâm chỉ bảo thêm để giúp em hoàn thiện kiến thức của mình, phục vụ tốt hơn cho quá trình học tập. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn An Ninh đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em hoàn thành đề án này. Phần II: Nội dung Chương I Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận I. Quan điểm về lợi nhuận của một số nhà kinh tế chính trị: 1. Các quan điểm trước Mark về lợi nhuận. Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng thương: Cơ sở hình thành của chủ nghĩa trọng thương:chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản trong giai đoạn phương thức sản xuất phong kiến tan rã và chủ nghĩa tư bản ra đời, khi kinh tế hàng hoá và ngoại thương đang trên đà phát triển. Quan điểm,nội dung nêu ra: Chủ nghĩa trọng thương rất coi trọng thương nghiệp và cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông mua bán trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có. Theo họ không một người nào thu được lợi nhuận mà không làm thiệt hại kẻ khác, dân tộc này làm giàu trên sự hy sinh lợi ích của dân tộc khác, trong trao đổi phải có một bên lợi một bên thiệt.Chủ nghĩa trọng thương coi đồng tiền là đại biểu duy nhất của của cải, là tiêu chuẩn để đánh giá mọi hình thức của nghề nghiệp. Hạn chế của chủ nghĩa trọng thương : chưa lý giải được nguồn gốc của lợi nhuận. Những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương có rất ít tính chất lí luận và thường được nêu lên dưới hình thức là những lời khuyên về các chính sách kinh tế. Khi phê phán chủ nghĩa trọng thương Mark đã viết: "Người ta trao đổi hàng hoá với hàng hoá, hàng hoá vớ tiền tệ có cùng giá trị với hàng hoá đó, tức là trao đổi giữa các vật ngang giá, rõ ràng là không ai rút ra được từ trong lưu thông nhiều giá trị hơn số giá trị đã bỏ vào trong đó. Vậy giá trị thặng dư tuyệt nhiên không thể hình thành ra được". 1.2. Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng nông. Cơ sở hình thành của chủ nghĩa trọng nông:Cũng như chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng nông ra đời trong thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) nhưng ở giai đoạn kinh tế phát triển hơn. Quan điểm,nội dung nêu ra: Chủ nghĩa trọng nông cho rằng lợi nhuận thương nghiệp có được chẳng qua là nhờ các khoản tiết kiệm chi phí thương mại, họ cho rằng thương mại chỉ đơn thuần là trao đổi ngang giá trị này lấy giá trị khác vì vậy không bên nào có lợi. Thương nghiệp không sinh ra của cải, trao đổi không làm cho tài sản tăng lên vì tài sản được tạo ra trong quá trình sản xuất còn trong trao đổi chỉ đơn thuần là trao đổi giá trị mà thôi. Vì vâỵ chủ nghĩa trọng nông cho rằng giá trị thặng dư hay sản phẩm thuần tuý là quà tặng vật chất của thiên nhiên và nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm thuần tuý. Như vậy chủ nghĩa trọng nông đã chỉ ra được là trao đổi không sinh ra của cải. 1.3.Quan điểm về lợi nhuận của trường phái cổ điển Anh : Cơ sở hình thành:Do sự phát triển của sản xuất và tính chuyên môn hoá ngày càng cao thì quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa trong nông ngày càng tỏ rõ tính chất khiến nó không đáp ứng được những yêu cầu mới đặt ra. Vì vậy kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh ra đời.Một số đại biểu của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh: + William Petty (1623 - 1687): Ông đã tìm thấy phạm trù địa tô mà chủ nghĩa trọng thương đã bỏ qua, ông cho rằng địa tô là số chênh lệch giữa giá trị sản phẩm và chi phí sản xuất (tiền lương, tiền giống...) còn về vấn đề lợi tức ông coi nó cũng như tiền thuê ruộng. + Adam Smith (1723 - 1790): Ông là người đầu tiên tuyên bố rằng "Lao động là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư". Theo ông lợi nhuận là "Khoản khấu trừ thứ 2" vào sản phẩm lao động. Theo cách giải thích này của ông thì lợi nhuận, địa tô và lợi tức chỉ là các hình thức khác nhau của giá trị do công nhân tạo ra ngoài tiền lương. Và chính ông cũng đã khẳng định rằng "giá trị hàng hoá bao gồm: tiền công + Lợi nhuận + Địa tô". + David Ricardo (1772 - 1823): Ông cho rằng "lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân". Ông đã thấy được xu thế hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận, ông giải thích nguyên nhân của sự giảm sút này nằm trong sự vận động biến đổi giữa 3 giai cấp: địa chủ, công nhân, nhà tư bản. Ông cho rằng do qui luật mầu mỡ đất đai ngày càng giảm, làm cho tiền lương công nhân và địa tô tăng lên còn lợi nhuận không tăng. Theo ông thì địa chủ là người có lợi, công nhân thì không có lợi cũng không bị thiệt, chỉ có nhà tư bản là bị hại vì tỉ suất lợi nhuận giảm xuống. Hạn chế của ông là chưa phân biệt được phạm trù giá trị thặng dư tuy nhiên ông vẫn khẳng định rằng: Giá trị do công nhân tạo ra lớn hơn tiền công mà họ nhận được và đó cũng chính là nguồn gốc sinh ra tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Rõ ràng, kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh đã có bước tiến mới trong nghiên cứu của W.Petty, A. Smith và D.Ricardo khi đã phân tích lợi nhuận, địa tô, tiền lương trên cơ sở lý thuyết về lao động và giá trị. Tuy vậy cả 3 ông đều có nhiều hạn chế, đó chính là việc chưa chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận, chưa phản ánh được quan hệ của nhà tư bản với công nhân trong việc tạo ra lợi nhuận, một mức bao che sự chiếm đoạt giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Tuy vậy kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh đã để lại những cơ sở lý luận có giá trị to lớn để K. Mark xây dựng nên học thuyết của mình. 2. Học thuyết giá trị thặng dư và lợi nhuận của Mark K.Mark (1818 - 1883) và F. Ănghen (1820 - 1895) là hai nhà tư tưởng vĩ đại đã có công sáng lập ra chủ nghĩa Mark, vũ khí tư tưởng sắc bén của giai cấp công nhân trên toàn thế giới. Hai ông đã chỉ rõ những đặc điểm, những qui luật kinh tế, những xu hướng vận động, những ưu thế và hạn chế của nó, mà trong đó nổi tiếng nhất là bộ tư bản. Trong bộ tư bản này Mark đã nêu lên một trong những phát kiến vĩ đại nhất của ông đó là học thuyết về giá trị thặng dư và chỉ ra rằng nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận chính là xuất phát từ giá trị thặng dư. Do vậy, muốn làm rõ được nguồn gốc, bản chất và vai trò của lợi nhuận chúng ta phải đi từ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, quy luật kinh tế cơ bản của CNTB. 2.1. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giá trị sử dụng không phải là mục đích, bởi vì nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng mang giá trị trao đổi. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra mặt hàng hoá có giá trị lớn hơn tổng số giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã mua để sản xuất ra hàng hoá đó, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư. Chúng ta hãy xem xét ví dụ sau về sản xuất Sợi: Tư bản ứng trước Giá trị của sản phẩm mới (20kgsợi) - Tiền mua bông : 20$ - Giá trị của bông chuyển vào sợi 20$ - Hao mòn máy móc 4$ - Giá trị của máy móc chuyển vào sợi 4$ - Tiền mua sức lao động của công nhân trong 1 ngày: 3$ - Giá trị do lao động của người công nhân tạo ra trong 12 giờ :0,5 x 12 = 6$ 27$ 30$ Như vậy toàn bộ chính phủ của nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức lao động là 27 đôla. Trong 12 h lao động, công nhân tạo ra 1 sản phẩm mới (20kg sợi) có giá trị bằng 30đôla, lớn hơn giá trị ứng trước là 3 đôla. Vậy 27 đôla ứng trước đã chuyển hoá thành 30 đôla, đã đem lại một giá trị thặng dư là 3 đôla. Do đó tiền đã biến thành tư bản. Phần giá trị mới dôi ra so với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng dư. Vậy giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. 2.2. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận. 2.2.1. Chi phí sản xuất TBCN. Như mọi người đều biết, muốn tạo ra giá trị hàng hoá thì tất yếu phải chi phí một số lao động nhất định là lao động quá khứ và lao động hiện đại. Lao động quá khứ tức là giá trị tư liệu sản xuất C Lao động hiện tại là lao động tạo ra giá trị mới V + m Đứng trên quan điểm xã hội thì chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá là C + V + m. Trên thực tế, nhà tư bản chỉ ứng ra một số tư bản để mua tư liệu sản xuất (C) và mua sức lao động (V). Do đó, nhà tư bản chỉ xem hao phí bao nhiêu tư bản chứ không xem hao phí bao nhiêu lao động xã hội. C.Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất TBCN, và ký hiệu bằng K (K = C + V). Khi đó công thức giá trị hàng hoá (C + V + m) chuyển thành (k + m) 2.2.2 Lợi nhuận Để sản xuất hàng hoá, xã hội phải chi phí một số lao động nhất định -Lao động quá khứ (lao động vật hoá) là giá trị của tư liệu sản xuất -Lao động sống (lao động hiện tại) là lao động tạo ra giá trị mới(v + m) Do đó giá trị xã hội của hàng hoá là c + v + m Nhưng nhà tư bản là chủ lao động, họ không phải hao phí lao động, họ chỉ quan tam đến việc đã bỏ chi phí bao nhiêu để sản xuất hàng hoá (gồm tiền mua tư liệu sản xuất và tiền mua sức lao động v). C. Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, và ký hiệu bằng k (k = c + m) Như vậy, khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức giá trị hàng hoá : gt = c + v + m sẽ chuyển thành gt = k + m Sau khi bán hàng hoá, nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã bỏ ra (c + m) mà còn thu được số tiền lời ngang bằng với m. Số tiền này gọi là lợi nhuận Vậy, giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước và mang hình thức chuyển hoá là lợi nhuận Nếu ta ký hiệu lợi nhuận là p thì công thức gt = c + v + m = k + m sẽ chuyển thành gt = k + p (hay giá trị hàng hoá bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận) Vấn đề đặt ra là giữa p và m có gì khác nhau? +Về mặt lượng : Nếu hàng hoá bán đúng giá trị thì m = p,m và p giống nhau ở chỗ chúng đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê. +Về mặt chất : m phản ánh nguồn gốc sinh ra từ v, còn p thì được xem như toàn bộ tư bản ứng trước đề ra. Dó đó p đã che dấu quan hệ bóc lột TBCN, che dấu nguồn gốc thực sự của nó, đó là lao động thặng dư không được trả công của người công nhân.Trên thực tế, do chi phí sản xuất TBCN luôn luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế, cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hóa cao hơn chi phí sản xuất TBCN và có thể thấp hơn giá trị hàng hoá là đã có lợi nhuận rồi. Tương quan giữa m và p chính là tương quan giữa giá bán hàng hoá của nhà tư bản với giá trị hàng hoá. Sự không thống nhất giữa m và p này đã càng làm che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản 2.2.3 Tỷ suất lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước. Nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p’ ta có: . 100% = . 100% Về mặt lượng p’luôn nhỏ hơn m’. Về mặt chất thì m’ phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê. Còn p’ không thể phản ánh được điều đó mà chỉ nói lên mức lãi của việc đầu tư.Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì có lợi. Do đó, việc thu p’ và theo đuổi p’ là động lực thúc đẩy nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản 2.3. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. 2.3.1. Cạnh tranh trong nội bộ ngành. Khái niệm:Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá đó có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch. Biện pháp cạnh tranh: Các nhà tư bản thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nâng cao năng suất lao động nhằm làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành: hình thành nên giá trị xã hội của từng loại hàng hoá. 2.3.2. Cạnh tranh giữa các ngành. Khái niệm:Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, tức là tự phân phối tư bản (V và C) vào các ngành sản xuất khác nhau. Kết quả của cuộc cạnh tranh: là hình thành dần tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá chuyển thành giá trị sản xuất. Như chúng ta đều biết, do các xí nghiệp trong nội bộ từng ngành, cũng như giữa các ngành có cấu tạo hữu cơ của tư bản không giống nhau, cho nên để thu được nhiều lợi nhuận thì các nhà tư bản phải chọn những ngành nào có tỷ suất lợi nhuận cao để đầu tư vốn.Xét 3 ngành sản xuất sau: Ngành sản xuất Chi phí sản xuất Giá trị thặng dư với m' = 100% P'(%) Cơ khí 80C + 20V 20 20 Dệt 70C + 30V 30 30 Da 60C + 40V 40 40 Như vậy, cùng một lượng tư bản đầu tư, nhưng do cấu tạo hữu cơ khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Do đó nhà tư bản ở ngành cơ khí sẽ chuyển tư bản của mình sang ngành da, làm cho sản phẩm ở ngành da nhiều lên làm cho cung lớn hơn cầu, do đó giá cả của ngành da sẽ thấp hơn giá trị của nó, và tỷ suất ngành da sẽ hạ thấp xuống. Ngược lại, sản phẩm của ngành cơ khí sẽ giảm đi, nên giá cả sẽ cao hơn giá trị, và do đó tỷ suất lợi nhuận ở ngành cơ khí sẽ tăng lên. Sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. Kết quả hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân. 3. Một số hình thức của lợi nhuận. 3.1. Lợi nhuận thương nghiệp. Đối với tư bản thương nghiệp trước CNTB thì lợi nhuận thương nghiệp được coi là do mua rẻ, bán đắt là kết quả của việc ăn cắp lừa đảo Đối với thương nghiệp TBCN thì lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dự được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp được hình thành do sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá nhưng điều đó không có nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cao hơn giá trị của nó, mà là họ mua hàng hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì bán đúng giá trị của nó. 3.2. Lợi tức cho vay. Lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân, mà nhà tư bản đi vay trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng.Lợi tức cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như sự cấp thiết, hoàn cảnh lịch sử, sự thoả thuận giữa các tư bản... Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. 3.3. Lợi nhuận ngân hàng. Ngân hàng TBCN là tổ chức kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Ngân hàng có hai nghiệp vụ: nhận gửi và cho vay. Trong nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng trả lợi tức cho người gửi tiền vào, còn trong nghiệp vụ cho vay, ngân hàng thu lợi tức của người đi vay. Lợi tức nhận gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay.Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng, cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng. Lợi nhuận ngân hàng ngang bằng với lợi nhuận bình quân. 3.4. Địa tô. Trong lĩnh vực nông nghiệp có 3 giai cấp: Địa chủ, tư bản kinh doanh nông nghiệp và giai cấp công nhân nông nghiệp làm thuê, nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh trong nông nghiệp thì họ phải thuê ruộng đất của địa chủ (chủ ruộng đất). Vì vậy ngoài lợi nhuận bình quân ra, nhà tư bản kinh doanh phải thu thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân đó, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài, và họ phải trả nó cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô TBCN. Vậy địa tô TBCN là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Chương II Vai trò của lợi nhuận I.Lợi nhuận là động lực của nền kinh tế thị trường. 1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển Như đã biết, các nhà tư bản, các doanh nghiệp đầu tư để tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh với mục tiêu là thu được càng nhiều lợi nhuận càng tốt và chính khoản lợi nhuận này là nguyên nhân chính quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tức là thu được lợi nhuận thì một phần lợi nhuận này sẽ được sử dụng để tái đầu tư để tái mở rộng sản xuất và doanh nghiệp sẽ ngày càng phát triển. Ngược lại nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì nó sẽ bị đào thải theo qui luật của sự phát triển. Vì vậycác nhà tư bản, các doanh nghiệp tìm mọi cách để tạo ra càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Để đạt được điều đó thì thời kỳ ban đầu họ kéo dài ngày lao động của người công nhân nhưng phương pháp này có nhiều hạn chế và bị sự phản đối gay gắt của nghiệp đoàn và giai cấp công nhân do đó để thu được lợi nhuận cao thì chỉ có cách nâng cao năng suất lao động bằng áp dụng những kỹ thuật mới, những phát minh mới vào trong sản xuất. Chính mục đích áp dụng những kỹ thuật mới đã làm cho các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Những phát minh khoa học lần lượt ra đời đặc biệt là ở thế kỷ 19 và 20 đã đưa lực lượng sản xuất phát triển một cách nhanh chóng. Người công nhân chính là người trực tiếp sử dụng vận hành công nghệ mới do đó đòi hỏi họ phải có một trình độ nhất định nào đó thì mới có thể sử dụng được các trang thiết bị kỹ thuật mới đó. Vì vậy mà mỗi người công nhân phải tự học hỏi để nâng cao trình độ, tay nghề nếu không chính họ sẽ bị đào thải. Còn về phíâ nhà tư bản thì họ cũng hiểu rằng để đạt được hiệu quả cao và tận dụng được hết công suất của các trang thiết bị kỹ thuật mới đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề với trình độ cao vì vậy quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ tay nghề của công nhân của nhà tư bản đã diễn ra ngày càng mạnh mẽ và trở thành một yêu cầu tất yếu. Qua đó trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao và nó đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển lên một tầm cao mới. 2. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển. Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: Sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế xã hội và quan hệ kinh tế - tổ chức. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau thông qua quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Như đã trình bày ở phần trên, mục tiêu hàng đầu của các nhà sản xuất là thu được lợi nhuận tối đa. Chính mục tiêu này đã thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và nó kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận đòi hỏi các nhà kinh tế, các tổ chức kinh tế phải bảo đảm được tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh tức là phải làm thế nào để với một chi phí bỏ ra là ít nhất sẽ thu về được số lợi nhuận lớn nhất. Điều đó đòi hỏi phải có tính chuyên môn hoá cao trong công tác tổ chức quản lý. Các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất bắt đầu cắt giảm biên chế, thu gọn bộ máy quản lý làm cho bộ máy quản lý gọn nhẹ hơn nhưng lại hoạt động rất có hiệu quả. Cùng với nó là quá trình phân bố lại lực lượng lao động một cách cân đối, có kế hoạch để đảm bảo khai thác một cách có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên. tất cả các vấn đề trên đều xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận và chính nó đã cho thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động dẫn ra một cách hết sức mạnh mẽ theo nguyên tắc làm nhiều hướng nhiều, làm ít hưởng ít. Sự phân chia lợi nhuận đã diễn ra dưới rất nhiều hình thức khác nhau một cách chặt chẽ giữa các bên tham gia vào quá trình phân chia làm cho chế độ sở hữu ngày càng được củng cố và phát triển. Quan hệ sở hữu từng bước được phát triển hơn, rõ ràng hơn giữa các nhà tư bản và người lao động nói riêng, giữa các cá nhân trong xã hội nói chung. Như vậy với mục tiêu theo đuổi lợi nhuận đã thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển bắt đầu từ quan hệ sản xuất tự suất tự cung và cho đến nay thì quan hệ sản xuất XHCN đã rất phát triển. 3. Lợi nhuận là động lực phát triển của doanh nghiệp Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ theo nhu cầu của thị trường và xã hội với mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận ,thu được hiệu quả kinh tế cao nhất. Có thể nói lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu cầu của thị trường cho tới khi tổ chức sản xuất ra hàng hoá dịch vụ và bán nó ra thị trường. Kinh doanh tốt sẽ tạo ra được nhiều lợi nhuận, khi đó sẽ tạo ra khả năng để đầu tư tái sản xuất mở rộng làm cho quy mô của quá trình sản xuất kinh doanh ngày càng được mở rộng, lợi nhuận sẽ ngày càng nhiều hơn. Ngược lại nếu doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả tức là quá trình sản xuất kinh doanh không mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp thì dấn đến phá sản là một tất yếu. Chính vì vậy, lợi nhuận là động lực kinh tế thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả xử dụng hợp lý các nguồn lực, nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận cao. Lợi nhuận của doanh nghiệp không những là bộ phận quan trọng trong thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp mà nó còn là nguồn lực thu quan trọng của ngân sách nhà nước, là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân của mỗi nước. Bởi vì thu nhập thuần tuý (hay còn gọi là tích luỹ tiền tệ) của doanh nghiệp là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân. Thu nhập thuần tuý càng lớn thì khả năng tăng thu nhập quốc dân càng cao. Măt khác, nhờ có lợi nhuận thu được các doanh nghiệp không những thực hiện được nghĩa vụ đóng góp quan trọng trong nguồn thu của NSNN thông qua các sắc thuế theo luật định mà còn tạo điều kiện tiền đề cho các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Như vậy với mục tiêu lợi nhuận của mình, các doanh nghiệp không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất và kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất chung của toàn xã hội. Ngoài ra, nhà nước, chính phủ phải tạo ra hành lang pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 4. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế. Lợi nhuận là lý do phát sinh và phát triển nền kinh tế thị trường. Nó thúc đẩy quá trình mở cửa của nền kinh tế nhằm mở rộng việc trao đổi hàng hoá, trao đổi khoa học kỹ thuật. Các nước tiến hành mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực từ bên ngoài và phát huy nguồn lực bên trong làm thay đổi mạnh mẽ trình độ kỹ thuật công nghệ trong nước. Đồng thời đầu tư ra nước ngoài sẽ mang lại mức lợi nhuận cao hơn ở trong nước. Như vậy để thu được lợi nhuận cao hơn đòi hỏi các nước phải tăng cường liên doanh liên kết, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. 5. Lợi nhuận thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội. Muốn mở rộng sản xuất càng ngày càng hiện đại thì đòi hỏi phải tích luỹ nhiều vốn. Như đã biết quá trình tái sản xuất mở rộng là sự lập lại quá trình sản xuất cũ với quy mô lớn hơn trước, với một lượng tư bản lớn hơn trước. Muốn như vậy thì phải biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Do đó để tiến hành được quá trình tái sản xuất xã hội mở rộng thì đòi hỏi trong quá trình sản xuất phải tạo ra được lợi nhuận, lợi nhuận tạo ra được càng nhiều thì quá trình tái sản xuất mở rộng càng diễn ra nhanh hơn và với quy mô lớn hơn. Ngược lại, việc thu được lợi nhuận cao sẽ kích thích các chủ doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất để thu được lợi nhuận cao hơn. 6. Vai trò của lợi nhuận đối với các mặt khác của đời sống xã hội. Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản vốn là một điều tất yếu khách quan, đó chính là một phần thu nhập của những người đóng góp sức lao động hay vốn tài sản của mình vào quá trình sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh những người này còn có những người vì một lý do nào đó mà không thể tham gia vào lao động được, đời sống của những người này là do gia đình họ hoặc xã hội đảm bảo. Mặt khác, đời sống của CBCNVC nhà nước và tất cả những người đang lao động ở tất cả các thành phần kinh tế cũng không phải dựa vào tiền công cá nhân mà nó còn dựa vào các quỹ phúc lợi công cộng của nhà nước, của các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Nó nhằm mục đích đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu. Phân phối thù lao ngoài lao động còn kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội. Mặt khác mỗi quốc gia đều có một bộ máy hành chính nhà nước, việc nuôi sống bộ máy nhà nước tiêu tốn một khoản chi phí rất lớn. Bên cạnh đó, vấn đề an ninh quốc phòng và vấn đề giáo dục luôn đòi hỏi được ưu tiên hàng đầu. Tất cả các khoản chi tiêu trên đều lấy từ NSNN, lấy từ phần vốn tích luỹ của các doanh nghiệp, các nguồn này đều được hình thành từ lợi nhuận thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh của toàn xã hội. Lợi nhuận thu được càng nhiều thì phần dành cho các vấn đề trên càng nhiều. Ngoài ra khi lợi nhuận cao sẽ có điều kiện đầu tư phát triển nhân tố con người cả về mặt lý luận và thực tiễn, đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Tất cả những điều trên đều góp phần nâng cao đời sống xã hội và tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, phát triển giáo dục, quốc phòng của quốc gia. II. Vấn đề lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam. 1. Vài nét về hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp Việt Nam từ 1975 đến trước đổi mới(1986) Sau khi thống nhất đất nước (1975) cả nước ta bắt tay vào xây dựng nền kinh tế với mục tiêu đưa cả nước tiến lên CNXH. Để đạt được mục tiêu đó, trong giai đoạn đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, Đảng và nhà nước ta đã áp dụng mô hình kinh tế “ chỉ huy tập trung”. Có thể nói, mô hình “ kinh tế chỉ huy tập trung” nói trên xét về thực chất là mô hình kinh tế tự cấp tự túc “phát triển ở trình độ cao, với quy mô lớn. Với mô hình này nhà nước kiểm soát hầu hết các phương tiện sản xuất kinh doanh, kiểm soát giá cả, tiền lương và toàn bộ quá trình phân phối hàng hoá, dịch vụ trong nề kinh tế. Riêng về phía các doanh nghiệp thì nhà nước cấp phát vốn hoàn toàn sau đó của năm, các doanh nghiệp phải nộp toàn bộ kết quả hoạt đông sản xuất của xí nghiệp mình cho nhà nước, nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nhà nước thu, còn nếu doanh nghiệp làm ăn thu lỗ thì nhà nước bù. Hình thức này đã triệt tiêu mọi động lực sản xuất của doanh nghiệp hiện tượgn “tái giá, lỗ thật”là khá phổ biến. Các doanh nghiệp hoạt động không lấy mục tiêu lợi nhuận làm chính, cán bộ công nhân thì luôn được hưởng một mức lương cứng, mọi phát minh, nỗ lực của họ chỉ được khen thưởng về mặt tinh thần. Tất cả các yếu tố trên đẫ thủ tiêu mọi động lực lợi ích của nền kinh tế nói chung, của các chủ thể kinh tế và người lao động nói riêng làm cho nền kinh tế hoạt động thiếu sinh khí và kếm năng động. Về tình hình các doanh nghiệp có thể tóm tắt một vài nét sau. - Các doanh nghiệp quốc doanh bị mai một, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu tự chủ, hoàn toàn ỷ lại cấp trên và nhà nước. Vì các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế: sản xuất , kinh doanh theo chỉ tiêu của nhà nước giao; được nhà nước cung cấp các yếu tố đầu vào ( máy móc thiết bị, vốn, vật tư...) và bao tiêu hàng hoá ở đầu ra cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nộp cho nhà nước còn lỗ thì nhà nước chịu do đó các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động rất kém hiệu quả. Theo đánh giá sơ bộ các doanh nghiệp nhà nước thì cho tới năm 1988 chỉ có 20.25% doanh nghiệp làm ăn có lãi, 30- 35% doanh nghiệp hoà vốn, còn lại khoảng 40% doanh nghiệp bị lỗ vốn. Các doanh nghiệp quốc doanh quản lý và sử dụng khoảng 70% tổng số vốn và giá trị vật tư của toàn xã hội và 26,3% thu nhập quốc dân. Hơn nữa, tài sản và vốn nhà nước giao cho các doanh nghiệp này không được bảo tồn, năng lực sản xuất không được tấi tạo và mở rộng, trái lại, bị thất thoát, mất mát nhiều nhưng trách nhiệm này không biết quy cho ai: - Các doanh nghiệp tư nhân không được thừa nhận hợp pháp, không được nhà nước tạo điều kiện sản xuất doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu hoạt động trong các ngành tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ. Do cơ sở vật chất kỹ thuật kém, lại không được sự khuyến khích đầu tư của nhà nước nên hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp là yếu kém, tỷ suất lợi nhuận thấp. Do chính sách phân biệt đối xử của nhà nước, đặc biệt là về thuế nên để đảm bảo nguồn lợi nhuận thu được thì họ kinh doanh chủ yếu dưới dạng trái phép trốn thuế, do đó, lợi nhuận thu được hầu hết là xuất phát từ hoạt động kinh tế ngầm. Như vậy “cơ chế kinh tế tập trung bao cấp” không quan tâm đến lợi nhuận và lợi ích của doanh nghiệp và người lao động đã triệt trên mọi động lực sản xuất , khiến cho nên kinh tế rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội bắt đầu từ những năm 70, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp hầu như bị đình đốn, giá cả tăng nhanh và thường tăng đột biến; tiền tệ bị mất giá bởi tình trạng siêu lạm phát, sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng... làm cho cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn. Về mặt xã hội. số người thất nghiệp tăng, người dân hoài nghi, lo lắng, buồn chán, ít quan tâm đến lý tưởng và thể chế nhất là tầng lớp trẻ. Đứng trước tình hình như vậy, đảng và nhà nước đã chủ trương đổi mới cơ chế kinh tế (vào năm 1986) và đã thu được những thành tựu đáng kể. 2. Vai trò của lợi nhuận trong công cuộc đổi mới ở nước ta (từ 1986 đến nay). Sau cuộc cải cách kinh tế (12/1986). Đảng và nhà nước ta đã thay đổi quan điểm về vấn đề lợi nhuận. Đảng ta đã khẳng định rằng lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Để đạt được mục tiêu này thì Đảng và Nhà nước đã chuyển đổi cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, quy định lại quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp để đảm bảo cho mục tiêu theo đối với lợi nhuận của các doanh nghiệp. Với những thay đổi đó thì chúng ta đã gặt hái được rất nhiều thành công. Với việc mở cửa nền kinh tế, hàng hoá từ nước ngoài tràn vào rất nhiều với mẫu mã và chủng loại rất đa dạng với giá cả thấp nhưng vẫn đảm bảo về chất lượng. Đứng trước tình hình đó, để đảm bảo cho việc tồn tại và phát triển của mình thì các doanh nghiệp , các đơn vị tổ chức sản xuất trong nước đã mạnh dạn đầu tư công nghệ, máy móc hiện đại các sản xuất cùng với nó là quá trình đào tạo đội ngũ cán bộ cộng nhân viên chức. Nhiều trường đại học và cao đẳng được hình thành hàng năm dầo tạo rất nhiều cán bộ được gửi ra nước ta rất nhiều cơ sở, đơn vị sản xuất kinh doanh được trang bị máy móc hiện đại được nhập từ nước ngoài. Việc chú trọng đến lợi ích là thúc đẩy đội ngũ cán bộ khoa học trong nước không những tìm tòi sáng tạo và đã có rất nhiều phát minh sáng chế ra đời đã mang lại nhiều tỷ đồng cho nhà nước và các doanh nghiệp. Với mục tiêu lợi nhuận đặt lên hàng đầu thì từ sau cải cách đến nay hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam đã phát triển rất mạnh mẽ. Trước đây với cơ chế bao cấp, nhà nước chỉ chấp nhận loại hình doanh nghiệp duy nhất đó là doanh nghiệp này trong thời kỳ đó hoạt động lại rất kém hiệu quả. Nhưng từ sau cải cách với những sự thay đổi về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp này có những bước chuyển maình rõ rệt. Để đạt được lợi nhuận thì các doanh nghiệp nhà nước dần dần chuyển đổi cách thức sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đầu tư kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất đây là một sự tiến bộ rõ rệt điều đó thể hiện hướng đi đúng đắn của nhà nước. Cùng với doanh nghiệp nhà nước thì hệ thống doanh nghiệp tư nhân cũng phát triển hết sức mạnh mẽ, nhiều hình thức doanh nghiệp tư nhân ra đời góp phần đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân. Việc xoá bỏ mô hình hợp tác xã tập trung thực hiện giai đất, giao ruộng cho nông dân đã khuyến khích bà con nông dân, vì lợi ích của mình mà hăng hái lao động. Chính điều này đã đưa nước ta từ một nước thiếu lương thực, đói ăn trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 3 trên thế giới. Những thay đổi trên đã làm cho đời sống của toàn xã hội được tăng lên rõ rệt, mức thu nhập bình quân đầu người không ngừng tăng lên. Chúng ta không chỉ có nhu cầu “ăn no, mặc ấm” mà bây giờ là chu cầu “ăn ngon, mặc đẹp”. Nhiều nhà cao tầng mọc lên, phương tiện đi lại đã đưa cơ giới hoá mặt hàng dân trí đã được nâng lên. 3. Vai trò của nhà nước đối với việc tăng cường ưu điểm, hạn chế nhược điểm của lợi nhuận trong nền kinh tế thi trường -Xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp:Để tạo sự ổn định chính trị,xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế . Muốn vậy, nhà nước cần tạo ra hành lang pháp luật đảm bảo cho sự cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, nghiêm trị những kẻ không chấp hành luật ,trốn thuế ,làm hàng giả ,kinh doanh hàng cấm .Khuôn khổ pháp luật mà nhà nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con người ,mà ngay cả bản thân Chính phủ cũng phảI tuân theo . -Đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả:Các doanh nghiệp có thể vì lợi ích tối đa của mình mà lạm dụng tàI nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môI trường sống của con người, và xã hội lại chịu hậu quả .Nhà nước cần buộc các doanh nghiệp cần phảI trả tiền cho những hậu quả mà doanh nghiệp đó gây ra -Bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệpvà người tiêu dùng:Trong nền kinh tế thị trường, các tổ choc độc quyền co thể tăng hoặc giảm số lượng hàng hoá để tăng lợi nhuận.Một nền kinh tế sẽ đạt hiệu quả cao khi cạnh tranh hoàn hảo, songcạnh tranh dẫn đến làm giảm lợi nhuận,do đó các các doanh nghiệp cố gắng để làm giảm cạnh tranh, và đảm bảo lợi ích cho nguời tiêu dùng. -Phân phối lại thu nhập, chống phân hoá giàu nghèo: Lợi nhuận khiến con người bất chấp tất cả,chạy theo lợi nhuận, ảnh huợng xấu tới đạo đức và tình người. Do vậy, Nhà nước cần nâng cao phúc lợi xã hội,bảo hiểm y tế góp phần vào việc nâng cao mức sống của người dân, bảo vệ, cũng như chống bất bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội. Chương III: GIá TRị CủA HọC THUYếT Về LợI NHUậN CủA K.Mark Và ý NGHĩA CủA VIệC NGHIÊN CứU Và THựC HIệN VấN Đề LợI NHUậN 1. Giá trị của học thuyết về lợi nhuận của Mark. 1.1. Giá trị lý luận Việc Mark phát hiện ra giá trị thặng dư đã thực sự là một cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị học, không chỉ phát hiện mà Mark còn xây dựng nên cả một học thuyết biện chứng và khoa học. Mark đã tìm ra nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư, nhận thấy sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Mark đã vạch trần được bản chất bóc lột tàn bạo và tinh vi của chủ nghĩa tư bản đối với giai cấp công nhân. Trong đó ông đã phân tích một cách đầy đủ và có hệ thống toàn bộ phạm trù kinh tế của chủ nghĩa tư bản, tìm ra quy luật, sự phát sinh, phát triển và chuyển hoá của các phạm trù đó. Có thể nói học thuyết kinh tế của Mark là một học thuyết kinh tế chính trị học và sáng tạo mọi vấn đề về lý luậnvà thực tiễn của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lý luận về giá trị thặng dư của Mark đã góp phần thức tỉnh sự nhận thức của giai cấp công nhân, giác ngộ và cung cấp cho họ một vũ khí lý luận khoa học, sắc bén cho cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, đồng thời để lại những giá trị lý luận cho sự phát triển kế tiếp các học thuyết kinh tế hiện đại sau này. 1.2 Giá trị thực tiễn. Học thuyết của Mark về giá trị thặng dư đã có một giá trị thực tiễn to lớn. Nó cùng với những bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mark trở thành hệ tư tưởng, vũ khí lý luận khoa học và bách thắng của Đảng Cộng Sản và Đảng công nhân trên toàn thế giới. Lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng như những thành tựu vĩ đại mà hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã minh chứng hùng hồn cho những giá trị ấy. Sự giàu có lũng đoạn của các trùm tư bản các cuộc chiến tranh tranh giành quyền lợi giữa các nước tư bản, sự cùng quẫn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động hồi đầu thế kỷ XX đã cho thấy giá trị thực tế của việc bòn rút gía trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản. Thành công của Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa tháng 10 vĩ đại, Chủ nghĩa xã hội hiện thực mang quy mô quốc tế cùng những thành tựu và hệ quả của nó chính là sản phẩm của sự vận dụng phát triển sáng tạo học thuyết giá trị thặng dư của Mark. Lịch sử đã chứng minh điều đó. Học thuyết giá trị thặng dư của Mark đến nay vẫn còn nguyên giá trị, cho dù sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội và sự phát triển, tự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản đang thắng thế. Sản xuất giá trị thặng dư vẫn là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, mặc dù nó đã biến tướng và tinh vi hơn. Với sự thành công trong đổi mới kinh tế và kiên trì sáng tạo chủ nghĩa Mark - Lênin ở Việt Nam, Cu Ba, Trung Quốc,...học thuyết giá trị thặng dư vẫn khẳng định nó là hòn đá tảng vĩ đại của một chủ nghĩa vĩ đại. 2. ý nghĩa của lợi nhuận đối với quá trình đi lên CNXH ở Việt Nam Là một nước tiên tiến lên CNXH “chưa” và “không đi qua giai đoạn phát triển TBCN” chúng ta không được kế thừa tất cả những tiền đề nảy sinh một cách tự phát như những sáng tạo cho dù chúng ta là “những nhân tố vô cơ” ( Mark - SĐD) Điểm xuất phát để nhận thức tầm quan trọng của lợi nhuận chính là điểm: sản phẩm của lao động thừa vượt qua những chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích luỹ quỹ sản xuất xã hội và dự trữ “ tất cả những cái đó đã và mãi mãi vẫn là cơ sở cho mọi sự tiến bộ về xã hội, về chính trị và tinh thần” “Nó sẽ là điều kiện và động cơ kích thích sự tiến bộ hơn nữa” Chúng ta lựa chon con đường đi lên CNXH từ điểm xuất phát là nước tiểu nông cũng có nghĩa là từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hoá mặc dù có sản xuất hàng hoá. Các thiếu của đất nước ta theo cách nói của Mác- không phải chủ yếu là cái đó, mà chính là chưa trải qua sự ngự trị của cách thức tổ chức kinh tế của kinh tế xã hội theo kiểu TBCN. Nói đến CNTB là nói đến một nền kinh tế thị trường cực thịnh mà biểu hiện tập trung là trình độ chuyên môn hoá và hiệp tác hoá hết sức sâu sắc và chặt chẽ không chỉ trong mỗi quốc gia riêng biệt. Đó chính là nên sản xuất đa xã hội hoá ở trình độ cao trong thực tế, là “ Cơ sở thực tế làm cho tất cả những cái gì tồn tại độc lập với các cá nhân đều không thể có được” Theo tinh thần đó có thể nói: Nền kinh tế thị trường cực thịnh là phòng chờ đi vào CNXH. Chủ nghĩa cơ sở những tiền đề do CNTB sáng tạo ra nhờ sự phát triển mạnh mẽ lưu lượng sản xuất trên cơ sở đó tạo ra một khối tiến bộ vượt bậc, cho sự phát triển phân công lao động sản xuất trong thực tế trở thành hiện thực. Con đường đi tới xã hội hoá sản xuất XHCN trong thực tế của nước ta cũng phải như vậy. Tuy nhiên nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế quá độ lên CNXH ( chứ không phải đi lên CNTB), do vậy “cách thức tổ chức kinh tế xã hội” theo kiểu sản xuất hàng hoá cũng mang tính chất quá độ. Nhưng dù nền kinh tế hàng hoá nào thì sản phẩm sản xuất ra đều nhằm mục tiêu là lợi nhuận. Có thế lợi nhuận với tư cách là phạm trù phản ánh mối quan hệ bình đẳng giữa những người đã làm chủ tư liệu sản xuất nằm trong các hình thức kinh tế thuộc sở hữu toàn dân có thế lợi nhuận phản ánh mối quan hệ bóc lột và bị bóc lột nhưng được coi là nhân tố “ trợ thủ của CNXH”, “xúc tiến CNXH” là các “ có ích” và “đáng mong đơi” Dù chúng phản ánh các quan hệ xã hội như thế nào đi nữa thì cốt lõi của vấn đề là phải tạo điều kiện, tạo môi trường cho sự gia tăng suất ngày càng cao. Duy có điều đối với lợi nhuận tư nhân TBCN thì nhà nước cần có chính sách hợp lý để không ngăn chặn sự phát triển của chung nhưng lại điều tiết được chúng đi vào “khuôn phép”. Trong bất cứ hình thức quan hệ xã hội nào thì lợi nhuận luôn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Nếu không có lợi nhuận thì cả bên này lẫn bên kia đều không có nguồn tích luỹ , sẽ không có gì để tạo ra khối lượng gía trị ngày càng lớn, điều kiện tất yếu để mở rộng sự phân công lao động xã hội. Ngoài ra khi nhà nước thuộc về nhân dân thì lợi nhuận chính là phương tiện để xây dựng CNXH. Đất nước ta đang đứng trước nhiệm vụ cháy bỏng là tạo ra tiền đề thực tiến tuyệt đối cần thiết đó là sự phát triển của sức sản xuất, phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi phải được diễn ra một cách tuần tự, đó cũng chính là những giai đoạn của một quá trịnh lịch sử tự nhiên mà chúng ta chỉ có thể rút ngắn chứ không thể bỏ qua. Và đây cũng là ý nghĩa thực tiễn được rút ra từ học thuyết lợi nhuận của Mark. Như vậy, lợi nhuận có một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Nhưng để phát triển thành công nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề sử dụng lợi nhuận phải được giải quyết một cách đúng đắn và hợp lý. 3. Hậu quả của việc theo đuổi lợi nhuận: Ngoài những ưu điểm to lớn của lợi nhuận thì nó cũng không tránh khỏi những mặt tiêu cực, hạn chế: - Việc chạy theo lợi nhuận cũng làm cho một số cá nhân ,doanh nghiệp tìm mọi cách trốn thuế ,giảm thuế ,buôn lậu làm hàng giả...gây ảnh hưởng không nhỏ đến ngân sách nhà nước và tính mạng của con người.Để thu được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp đã liên kết với nhau dẫn đến tình trạng độc quyền, các tổ chức độc quyền lợi dụng ưu thế của mình để quy định gía cả, thu được lợi nhuận cao hơn. Chính điều đó đã làm mất tình trạng cạnh tranh hoàn hảo và làm mất tính hiệu quả kinh tế... -Việc áp dụng máy móc để tăng lợi nhuận làm tăng tỷ lệ thất nghiệp,gây ra áp lực đối với thị trường lao động .Điều đó khiến bnj chủ xí nghiệp giảm tiền lưỡnguống và định mức tiền lương thấp hơn giá trị của sức lao động rất nhiều. Vì vậy, trong khi các nhà tư bản ngày càng giàu thì đời sống của người công nhân ngày càng bần cùng.Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư bản và giai cấp vô sản ngày càng sâu sắc. -Ngày nay, trong nền sản xuất hiện đại việc chạy theo lợi nhuận kéo theo việc áp dụng nhiều máy móc kỹ thuật hiện đại làm cho môi trường xung quanh trở nên ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác đến cạn kiệt ;gây nhiều bệnh tật, gây ô nhiễm .Nhân dân các nước đang phát triển bị bóc lột nặng nề. -Ngoài ra, Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì cấu tạo hữu cơ của tư bản càng nâng cao điều này làm cho tỷ suất lợi nhuận giảm xuống.Đây là kết quả mà không một nhà tư bản nào mong muốn cả,do vậy họ tìm mọi cách để kìm hãm sự giúp sức của tỷ suất lợi nhuận và vì vậy giai cấp công nhân bị áp bức bóc lột nặng nề.Nhà tư bản không quan tâm đến sức khoẻ và tính mạng của công nhân,bắt công nhân làm việc trong không gian chật hẹp,giảm bớt các thiết bị an toàn lao động dẫn đến nhiều tai nạn xảy ra,số công nhân chết tăng lên Phần III: Kết luận Như vậy trong đề án này em đã trình bày một cách hệ thống học những vấn đề cơ bản về lợi nhuận, đó là các quan điểm về lợi nhuận trước Mark; học thuyết về lợi nhuận của Mark với đầy đủ các yếu phạm trù về giá trị thặng dư: nguồn gốc, bản chất, các hình thức biểu hiện, cùng các vấn đề của lợi nhuận đối với nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường nước ta nói riêng. Rõ ràng lợi nhuận là một phạm trù không chỉ của riêng CNTB. Nhưng vấn đề là tạo ra và sử dụng nó như thế nào để vừa phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển nên kinh tế thị trường của chúng ta, vừa đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảm bảo công bằng xã hội. Vai trò tích cực của lợi nhuận đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước là rất to lơn, tuy vậy tác hại của việc theo đuổi lợi nhuận cũng rất nguy hiểm, nhất là đối với một nước định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng còn kém phát triển như nước ta. Do đó vấn đề học tập, nghiên cứu, vận dụng vấn đề lợi nhuận cũng như các phạm trù khác của chủ nghĩa Mark nhằm góp phần xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, thành công của công cuộc đổi mới là nhiệm vụ của mỗi người sinh viên Đại học Kinh Tế Quốc Dân TàI LIệU THAM KHảO -Giáo trình kinh tế chính trị Mac-Lênin (tập 1),NXB Giáo dục 1998 Chương IV,ChươngVI. -Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế của trường ĐHKTQD,NXb Giáo dục 1993;NXB thống kê 1996. -Tư bản quyển 1,tập I,quyểnIII tập 1,2,3(lý luận giá trị thặng dư,lý luận lợi nhuận). -Kinh tế học của P.Samuellson -Kinh tế học của Daved Bedd

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35253.doc
Tài liệu liên quan