Đề án Giải pháp hoàn thiện và phát triển mô hình công ty tài chính trong tổng công ty Nhà nước ở nước ta

Quá trình đổi mới kinh tế nói chung và hệ thống tài chính - tiền tệ nói riêng đòi hỏi chúng ta không ngừng học hỏi những cái mới. Những cái mới đó đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết về nó, thử ngiệm nó trong thực tiễn, từ đó mới có thể thực hiện trên diện rộng và mô hình Công ty tài chính nói chung và mô hình Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế nói riêng là một trong những cái mới như thế. Vai trò, vị trí, tác dụng của nó đã được kiểm nghiệm trên thế giới và bước đầu tại Việt Nam với xu thế phát triển một nền kinh tế tiền tệ ở mức cao đòi hỏi chúng ta phải có một hệ thống taì chính tiền tệ đủ sức đáp ứng yêu cầu đề ra mà bước đầu là tài chính hóa các quan hệ kinh tế ở mức thấp. Mô hình Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế là một phần của những điều đó.

doc38 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 582 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp hoàn thiện và phát triển mô hình công ty tài chính trong tổng công ty Nhà nước ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động kinh doanh, Công ty tài chính được phân loại thành ba loại hình chủ yếu: * Các Công ty tài chính tiêu dùng: Cung ứng phần lớn vốn cho các gia đình và cá nhân này, phục vụ mục đích mua sắm tiêu dùng. Hầu hết các khoản cho vay đều được trả góp theo định kỳ. Loại cho vay này thường là các món nhỏ với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường để giảm rủi ro. * Các Công ty tài chính bán hàng: Cung cấp tín dụng gián tiếp cho người tiêu dùng để mua sắm các loại hàng do Công ty mẹ hay một nhà sản xuất nào đó bán ra. Các Công ty tài chính này mua lại khoản nợ của người mua hàng, từ người bán hàng và thu nợ từ khách hàng. * Công ty tài chính - thương mại: Chúng mua những khoản tiền phải thu hoặc chiết khấu các khoản phải thu của doanh nghiệp. Các khoản phải thu này là vốn lưu động, dịch vụ chưa thu được tiền nhưng cần tiền để tái đầu tư. Ngoài cách này, các Công ty tài chính còn cung cấp các loại hình như: cho thuê tín dụng, thuê thiết bị Như vậy, mỗi loại hình Công ty có những khách hàng riêng biệt của mình và đi đôi với nó là một phạm vi cung ứng dịch vụ riêng.Tuy nhiên thời gian gần đây, sự phân biệt trên đã dần mờ nhạt dần. 2. Về mô hình Công ty tài chính trong Tổng Công ty, tập đoàn kinh tế. 2.1. Những điểm chính về Tập đoàn kinh tế. Tập đoàn kinh tế đã ra đời, tồn tại và phát triển từ lâu trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới. Quá trình tích tụ, tập trung sản xuất đã tạo ra một làn sóng chưa từng có để hình thành các tập đoàn lớn hoạt động trong các ngành, các lĩnh vực then chốt có lợi nhuận cao. Tập đoàn là một hình thức sản xuất tiên tiến, đại diện cho trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, đóng vai trò chi phối mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế các nước, nhất là các nước, trong giai đoạn hiện nay. Một là: Có quy mô rất lớn về vốn, doanh thu và thị trường. Hai là: Phạm vi hoạt động rất rộng; đa số các tập đoàn lớn trên thế giới là các Công ty đa quốc gia hoạt động trên toàn cầu. Ba là: Tập đoàn có thể sản xuất theo đơn ngành hay đa ngành. Xu thế hiện nay là mở rộng ra ngành mà lĩnh vực tài chính là đặc biệt quan trọng. Bốn là: Tập đoàn là một tổ hợp các Công ty, trong đó các Công ty đóng vai trò là Công ty mẹ chi phối các thành viên về các mặt tài chính và chiến lược phát triển. Để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của mình đồng thời đảm bảo sự vững chắc cho sự phát triển đó, đòi hỏi trong mỗi tập đoàn phải có Công ty tài chính trong mô hình của mình. 2.2. Sự cần thiết: Có thể thấy sự cần thiết cho ra đời một Công ty tài chính được thể hiện ở một số khía cạnh sau đây: - Thứ nhất: Các Công ty tài chính giúp tập đoàn tìm hiểu và khai thông các nguồn vốn; huy động các nguồn vốn cho Công ty mẹ từ nguồn bên ngoài đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu về vốn. - Thứ hai: Công ty tài chính giúp quản lý một cách có hiệu quả thông qua sử dụng vốn đúng mục đích, đúng dự án đem lại hiệu quả kinh tế. - Thứ ba: Các Công ty tài chính giúp tập đoàn mở rộng lĩnh vực, đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh, nhằm giảm thiểu rủi ro vì nâng cao lợi nhuận. - Thứ tư: Với sự hoạt động của mình, các Công ty tài chính giúp các tập đoàn đạt được sự thống nhất cao, khai thác được tất cả các nguồn lực của tập đoàn thông qua một số cơ chế tài chính chung. Nói chung, với một xu thế là tiền tệ hóa các mối quan hệ kinh tế, tiến đến một nền kinh tế tiền tệ, thì các Công ty tài chính ngày càng trở thành bộ phận then chốt của tập đoàn. 2.3. Đặc điểm: Xuất phát từ đặc thù của mình Công ty tài chính trong tập đoàn có một số đặc điểm sau đây: - Về mục đích thành lập:Nó có hai nhiệm vụ cơ bản là: Huy động vốn để phụ tập đoàn và kinh doanh tiền tệ. - Về loại hình sở hữu: Công ty tài chính có thể là 100% vốn thuộc sở hữu của tập doan hoặc là sở hữu hỗn hợp, trong đó tập đoàn giữ đa số cổ phần. - Về nội dung hoạt động: Công ty tài chính thuộc các tập đoàn kinh tế chú trọng đến chức năng huy động vốn để phục vụ nhu cầu của tập đoan. Tiếp đó, nội dung này có thể được mở rộng hơn nữa khi quy mô của bản thân Công ty phát triển. - Về phạm vi hoạt động: Thị trường đầu tiên và chủ yếu của nó là các thành viên của tập đoàn, sau đó là mở rộng phạm vi ra bên ngoài gắn liền với phạm vi và thị trường hoạt động của tập đoàn. - Về mối quan hệ giữa Công ty Tài chính và các thành viên: Gắn bó chặt chẽ với nhau; vừa là khách hàng và bạn hàng của nhau . Chúng cùng quan hệ với nhau thông qua một mức lãi suất nội bộ. .Để thấy rõ hơn phần nào đặc điểm của các Công ty tài chính trong các tập đoàn kinh tế ta sẽ so sánh một số điểm giữa Công ty tài chính và các phòng ban tài chính trong các doanh nghiệp. Sự khác biệt được thể hiện dưới bảng sau: STT Phòng ban tài chính Công ty tài chính 1 Là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ có chức năng tham mưu cho lãnh đạo. Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ 2 Không có tư cách pháp nhân Hạch toán độc lập và có tư cách pháp nhân 3 Theo dõi, kiểm tra, quan sát về lĩnh vực kế toán, thống kê, tài chính của doanh nghiệp. - Giao dịch với các thành viên với tư cách là các khách hàng đặc biệt - Kinh doanh tiền tệ, được ủy thác thực hiện huy động, điều hòa vốn và đầu tư tài chính 4 Thực hiện chức năng kế hoạch hóa tài chính: Kế hoạch tài chính, cân đối và quản lý các nguồn vốn, các quỹ tập trung - Là trung gian giữa các thành viên, giữa tập đoàn với các tổ chức tín dụng và thủ trường tài chính Như vậy quy mô và phạm vi hoạt động của Công ty tài chính là rộng hơn nhiều so với phòng ban tài chính, chúng hoạt động với tư cách là doanh nghiệp thực sự. 2.4. Các hoạt động chủ yếu của Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế. 2.4.1. Huy động vốn: 2.4.1.1. Phát hành giấy tờ có giá: Cổ phiếu trái phiếu, chứng chỉ nợ. * Phát hành cổ phiếu: Đây là hình thức ban đầu của các Công ty tài chính Cổ phần. Quy mô của phát hành và số lượng phát hành phụ thuộc vào quyết định của Công ty mẹ, cũng như phụ thuộc vào quy mô ban đầu của Công ty tài chính. Phát hành Cổ phiếu cũng thực hiện khi Công ty muốn bổ sung vốn điều lệ. * Phát hành trái phiếu trung và dài hạn với quy định không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, thì loại hình huy động vốn này trở thành công cụ chủ yếu để huy động vốn từ bên ngoài của các Công ty tài chính. * Phát hành chứng chỉ nợ: Đó là giấy nhận nợ của Công ty, nó sẽ phát hành loại này khi có nhu cầu cấp thiết về vốn ngắn hạn. Có hai loại chủ yếu là: - Chứng chỉ nợ loại lớn: Ghi rõ thời hạn trả và mức lãi suất. - Hợp đồng mua lại: Đó là các hợp đồng bán chứng khoán cho các đối tượng, thửa tiền mặt và thỏa thuận mua lại trong thời gian ngắn. 2.4.1.2. Vay từ các tổ chức tín dụng: - Các Công ty tài chính có thể vay các nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng theo những điều kiện nhất định. Tùy theo cơ chế hoạt động mà vay các hình thức như: vay mượn trực tiếp, tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư từ các tổ chức tín dụng để cho vay các dự án phát triển. 2.4.1.3. Vay từ tâp đoàn: Theo hình thức này, các tập đoàn với uy tín của mình đưa ra phát hành các giấy tờ có giá để huy động vốn rồi chuyển chúng cho Công ty tài chính vay. 2.4.2. Hoạt động đầu tư vốn: 2.4.2.1. Cho vay: Đây là hoạt động chủ yếu của các Công ty tài chính để tạo lợi nhuận. Chỉ có hình thức này mới bù đắp các khoản chi phí đã bỏ ra. Hoạt động này rất đa dạng, phong phú, bao gồm: * Nếu căn cứ vào thể thức cho vay, bao gồm: - Tín dụng ứng trước:. - Thấu chi:. - Chiết khấu thương phiếu:. * Nếu căn cứ vào đối tượng, hoạt động cho vay gồm: - Cho vay theo ngành nghề - Cho vay tiêu dùng. - Cho các tập đoàn và thành viên vay. - Cho các tổ chức tín dụng khác vay. 2.4.2.2. Đầu tư chứng khoán: Các Công ty tài chính còn là nhà đầu tư trên thị trường tài chính. Đầu tư chứng khoán là nguồn lợi quan trọng thứ hai sau cho vay. Hoạt động này giúp Công ty tài chính có thể phân tán rủi ro trong hoạt động của mình. 2.4.2.3. Cho thuê tài sản. Đó là hình thức mà theo đó, khách hàng có thể sử dụng tài sản vào mục đích nhất định. Đáng chú ý là: nếu trong hợp đồng có kèm theo lời hứa của người cho thuê sẽ bán lại tài sản này cho người đi thuê chậm nhát là khi kết thúc hợp đồng thì gọi là cho thuê tài chính; nếu không có thì gọi là cho thuê hoạt động. Hợp đồng thuê tài chính được nêu ở trên có 4 tiêu chuẩn đó là: * Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi kết thúc hợp đồng. * Hợp đồng có quy định quyền chọn mua * Thời hạn hợp đồng: Phần lớn thời gian hoạt động của tài sản. * Hiện giá tiền thuê cao hỏn giá trị tài sản. 2.4.3. Các hoạt động kinh doanh khác. * Các dịch vụ kinh doanh ngoại hối: mua- bán ngoại tệ huy động vốn ngoại tệ, đầu tư tài chính trên thị trường tài chính quốc tế. * Bao thanh toán: Hoạt động này gần giống chiết khấu thương phiếu nhưng có điểm khác là: Các khoản nợ được mua là cả hóa đơn; Công ty tài chính thường giữ lại từ 10 -20% số tiền nợ của chủ nợ để dự phòng hàng hóa bị trả lại. Lãi suất người mua được hưởng là cao bởi vì hoạt động này có tính rủi ro cao. * Các dịch vụ khác như: chuyển nhượng chứng khoán cầm cố: tư vấn đầu tư, tư vấn tài chính. 2.5. Các yếu tố tác động đến hoạt động của Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế. 2.5.1. Tác động từ Nhà nước: Nhà nước co tác động cực kỳ quan trọng đến hoạt động của Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế cũng như các trung gian tài chính khác. - Xây dựng hệ thống pháp luật, tạo ra khuôn khổ cho các Công ty tài chính hoạt động, nhất là các pháp luật về kinh tế. - Tạo dựng môi trường kinh tế - xã hội, thực hiện các chính sách phát triển từ đó tác động đến xu hướng phát triển, hỗ trợ các trung gian tài chính phát triển. - Đầu tư vào các ngành quan trọng có vai trò là cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế từ đó giúp các chủ thể kinh tế phát triển. 2.5.2. Tác động từ tập đoàn. Công ty tài chính là một bộ phận trong chiến lược phát triển chung của tập đoàn thực thi chiến lược đã định. Tuy nhiên, các Công ty tài chính cũng có tính độc lập của nó. Công ty tài chính là một bộ phận của tập đoàn, vì thế nó chịu sự ràng buộc của các mối quan hệ ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau trong tập đoàn. Nó hoạt động không những vì lợi ích riêng mà còn xuất phát từ lợi ích chung của các tập đoàn. Nó hoạt động không những vì lợi ích riêng của một cơ chế hoạt động rõ ràng cho các thành viên để tránh sự chồng chéo, cạnh tranh lẫn nhau. Bản thân các Công ty tài chính phải tự vận động trong cơ chế đó. 2.5.3. Những tác động từ thị trường. Các Công ty tài chính tham gia thị trường cũng phải tuân theo các quy luật kinh tế khách quan, cũng phải gánh chịu những rủi ro có thể xảy ra. Bản thân các Công ty tài chính phải thích nghi được với các quy luật đó. Công ty tài chính là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ nên nó cũng chịu sự tác động của những yếu tố đặc thù riêng. III. Về mô hình Công ty tài chính trong Tổng Công ty ở nước ta. Trong công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta, cải cách doanh nghiệp Nhà nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Những Nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước đều nhất quán quan điểm là: Phải tạo dựng được những tập đoàn kinh tế mạnh để trở thành đầu tầu của nền kinh tế. Hướng đi chủ yếu của các Tổng Công ty 91 là hướng tới trở thành các tập đoàn kinh tế và trong mô hình của nó có các Công ty tài chính. Đây được coi là bước đột phá trong phát triển doanh nghiệp Nhà nước.Thực hiện chủ trương này, đã có 5 Tổng Công ty 91 thành lập Công ty tài chính trong cơ cấu của mình, đó là: Bưu chính Viễn thông, Dầu khí, Cao su, dệt may và công nghiệp tàu thủy. Những Công ty tài chính này hoạt động trong khuôn khổ điều chỉnh của hai luật là: Luật doanh nghiệp Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng. Mục tiêu thành lập là góp phần làm đa dạng hóa các dịch vụ và các loại hình tổ chức tín dụng Việt Nam, thực hiện chủ trương phát huy nội lực và nhất là tạo thêm kênh dẫn vốn để bổ sung cho các hoạt động ngân hàng truyền thống ở nước ta. Việc ra đời các Công ty tài chính góp phần thu hút nhiều nguồn vốn cho Tổng Công ty như: vay ưu đãi, tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư phát hành giấy tờ có giá tạo điều kiện thuận lợi cho các Tổng Công ty. Các Công ty tài chính này có sự hiểu biết trong ngành, vì vậy nó có lợi thế về khả năng tiếp cận thông tin của các thành viên, nắm bắt được tình hình, đồng thời thời gian thẩm định, chi phí thẩm định dự án thấp hơn so với các ngân hàng. Sau một thời gian hoạt động, các Công ty này đã đáp ứng phần nào yêu cầu đề ra là: Tạo ra định hướng phát triển lâu dài cho mô hình Tổng Công ty; cung cấp vốn và khâu trung gian về vốn cho Tổng Công ty và các thành viên. Đặc biệt là chưa thấy xuất hiện nợ xấu, tất cả đều kinh doanh có lãi do biết tận dụng ưu thế của mình. Tuy nhiên, mô hình này vẫn còn là mới mẻ ở nước ta, do đó trong quá trình hoạt động còn rất nhiều vướng mắc cần tháo gỡ. Những nội dung này sẽ được làm rõ hơn khi tìm hiểu hoạt động của mô hình được thực hiện ở chương sau. Kết luận chương I Trong nền kinh tế thị trường, Công ty tài chính là một loại hình tổ chức tài chính phi ngân hàng, thực hiện một số hoạt động ngân hàng và cung cấp một số dịch vụ hệ thống tài chính cũng như thị trường tài chính. Hình thức của các Công ty tài chính là rất đa dạng, trong đó một hình thức phổ biến là Công ty tài chính trong các tập đoàn kinh tế. Sự tồn tại của mô hình này là một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường cũng như của các tập đoàn kinh tế. Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế đã góp phần làm tăng thêm các nguồn huy động và sử dụng vốn của tập đoàn, góp phần làm đa dạng hình thức kinh doanh của các tập đoàn kinh tế, từ đó đưa các tập đoàn tiến sâu hơn vào lĩnh vực tài chính - tiền tệ. Quá trình này được Công ty tài chính thực hiện tuần tự từ các nghiệp vụ trong nội bộ tập đoàn sau đó là vươn ra bên ngoài. Phần lớn các Công ty tài chính trong tập đoàn lớn có phạm vi hoạt động rất đông, vượt qua biên giới quốc gia. Phạm vi đa quốc gia này giúp cho bản thân các Công ty tài chính cũng như các tập đoàn tăng phạm vi, sức mạnh của mình trên thế giới. Mô hình Công ty tài chính trong Tổng Công ty ở nước ta đã bắt đầu được chú ý phát triển từ các Quyết định 90 - 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Ban đầu nó được triển khai tại một số TCT 91 và cho đến nay đã có 5 Công ty tài chính được thành lập. Hiệu quả ban đầu đem lại của các Công ty này là đáng khích lệ, tuy nhiên, trong quá trình hoạt động bản thân các Công ty này còn rất nhiều khó khăn và vướng mắc. Chương II. Thực trạng hoạt động của Công ty tài chính trong Tổng Công ty Nhà nước ở nước ta. I. Những thành tựu ban đầu: 1. Huy động vốn. - Mục tiêu thành lập Công ty tài chính là để tích tụ vốn, tập trung chuyên môn hóa để nâng cao sức cạnh tranh cho các Tổng Công ty và các thành viên của nó. Tuy nhiên, các Công ty tài chính còn bị ràng buộc bởi những quy định khác nếu tổng số vốn huy động và tự có của 5 Công ty tài chính tính đến 6/2001 là gần 827 tỷ đồng trong đó nguồn vốn tự có chiếm tỷ trọng cao. Tỷ lệ vốn huy động so với vốn tự có như sau: Bảng 1. Tỷ lệ vốn huy động so với vốn tự có của Công ty tài chính. Đơn vị: % Tên Cty Năm Bưu điện Dầu khí Công nghệ tàu thủy Dệt may Cao su 1999 17% - - 152% 295% 2000 69% 2% 192% 275% Nguồn: Tạp chí Ngân hàng 3/2002 Nguồn vốn huy động từ CBCNV hiếm tỷ lệ nhỏ (1,7% vào tháng 6/2001), nguồn vốn ủy thác đầu tư có vị trí quan trọng, nguồn vốn đi vay từ các tổ chức, tín dụng có tỷ lệ tăng trưởng khá và ngày càng chiếm tỷ trọng khá: chiếm từ 10,8% tháng 3/1999 tăng lên 23,9% tháng 11/2000 và 29,4% tháng 6/2001. Bảng 2: Các chỉ tiêu nguồn vốn Đơn vị: Triệu đồng TT Chỉ tiêu 3/1999 11/2000 6/2001 1 Vốn điều lệ 170.093 520.396 826.954 2 Các loại quỹ khác 11.208 3 Tiền gửi CBCNV và tổ chức kinh tế 2.439 4.609 14.200 4 Vay các tổ chức tín dụng 18.451 124.261 243.220 5 Vốn ủy thác 20.083 112.520 234.708 6 Tài sản nợ khác 31.570 Nguồn: Tạp chí Ngân hàng 3/2002. - Một chỉ tiêu đáng lưu ý là vốn điều lệ của Công ty là khá thấp (như trên). Trong đó: Duy nhất Công ty tài chính khi có vốn Điều lệ là 100 tỷ, còn lại chỉ từ 30 đến 50 tỷ đồng. * Nguồn vốn từ phát hành giấy tờ có giá gần như không có gì bởi phải sau 3 năm hoạt động có lãi mới được xem xét cấp giấy phép, dưới sự bảo lãnh của một tổ chức tín dụng có uy tín. Hơn nữa các Tổng Công ty mẹ vẫn chưa thực hiện bất cứ nghiệp vụ nào loại này. * Nguồn vốn ngắn hạn vay từ các ngân hàng thương mại có tỷ lệ cao (từ 80% - 90% vốn thu hút là của Ngân hàng thương mại là ngắn han và ủy thác đầu tư, nguồn vốn trung và dài hạn là quá ít. * Nguồn vốn từ vốn vay ưu đãi Nhà nước lại phụ thuộc vào quỹ hỗ trợ phát triển với nguồn này, con số vay lúc dồi dào nhất cũng không vượt quá 100 tỷ đồng. 2. Về sử dụng vốn: - Theo báo cáo chưa đầy đủ, trong 2 năm 1999 - 2000: Ba Công ty tài chính là Cao su, Dệt may, Bưu điện: Tăng chi nợ cho vay ủy thác mới đạt gần 580 tỷ, còn lại các hoạt động khác bằng vốn tự có và huy động được, chỉ chiếm 1/3 tổng tài sản có, như vậy, khó có thể nào các Công ty tài chính có những dự án đích thực. Đặc biệt, đối với 2 ngành dầu khí và tàu thủy, một dự án thuộc nhóm B cần vốn từ 50 đến 400 tỷ thì với nguồn vốn hạn chế không thể được của hàng chục dự án mỗi năm. - Với cơ cấu nguồn vốn là ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao, tỷ trọng dư nợ ngắn hạn của các Công ty tài chính khá cao (từ 34,4% - 37,6% tổng vốn sử dụng). Trong khi đó trung và dài hạn khá khiêm tốn (cao nhất là chiếm 138%). - Một trong những điều cần quan tâm là khả năng cho vay nội bộ trong các Tổng Công ty. Đến năm 2002, 65% số đơn vị thành viên của Tổng Công ty Bưu chính viễn thông và 100% ở Tổng Công ty Dầu khí. Tuy nhiên quy mô vốn cho vay thấp, điều đó thể hiện ở tỷ lệ vốn vay của các thành viên với Công ty tài chính so với tổng vốn vay của các đơn vị này là rất thấp, lần lượt là: 0,21%; 10%, 10% ở 3 Tổng Công ty trên vào năm 2000. Điều này xuất phát từ nghịch lý là: Nhu cầu vốn của các Tổng Công ty 91 là rất lớn nhưng năng lực của các Công ty Tài chính thì có hạn. Ngay bản thân các Ngân hàng thương mại lớn khi cho các Tổng Công ty 91 vay vốn phải áp dụng hình thức đồng tài trợ do gặp phải các quy định về hạn chế cho vay. Kết quả sử dụng vốn được thể hiện ở bảng dưới dây. Bảng 3: Chỉ tiêu sử dụng vốn Đơn vị: Triệu đồng TT Chỉ tiêu 3/1999 11/2000 6/2001 1 Tiền mặt - Tiền gửi tại Ngân hàng 333 1.979 11.420 2 Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng 68.150 81.028 185.909 3 Dư nợ ngắn hạn 64.382 145.632 284.799 4 Dư nợ dài hạn 8.693 53.668 68.034 5 Góp vốn mua cổ phiếu 16.958 6 Cho vay ủy thác đầu tư 20.082 113.354 229.062 7 Tài sản có khác 19.846 Tổng cộng: 162.944 397.087 826.954 Nguồn: Tạp chí Ngân hàng 3/2002. 3. Các hoạt động khác: * Đầu tư tài chính và dịch vụ tài chính tiền tệ: Theo quy định các Công ty tài chính được phép đầu tư với mức tối đa là 40% vốn Điều lệ. Mặt khác, trong quy chế tài chính của Tổng Công ty đầu tư vào các đơn vị sản xuất thông thường. Nó đã làm quen một chức năng của Công ty tài chính là giúp Tổng Công ty đầu tư vốn ra ngoài. Vì thế hạn chế việc đầu tư tài chính của Công ty tài chính. Về các hoạt động dịch vụ tài chính tiền tệ tại Công ty tài chính đã giúp các Công ty mẹ và các thành viên về các vấn đề như: cổ phần hóa, thẩm định dự án. Nhưng các khoản phí thu từ dịch vụ này khá thấp. Đơn cử tại Công ty tài chính Bưu điện. Năm 2001 đã giúp thẩm định 640 dự án với tổng vốn đầu tư 2.240 tỷ; nghiên cứu các phương án hỗ trợ về quản lý vốn, tài sản, cổ phần hóa Tổng phí dịch vụ thu được chỉ đạt khoảng 600 triệu, khá thấp so với yêu cầu đề ra. * Về hoạt động ngoại hối: Do những yêu cầu từ phía Ngân hàng Nhà nước nên chưa Công ty tài chính nào được phép hoạt động trong lĩnh vực này. Đã có một số Công ty hội tụ đủ điều kiện nhưng vẫn chưa được cấp phép. Nhìn chung sau một thời gian hoạt động, các Công ty đã ổn định tổ chức và bắt đầu thu được hiệu quả nhất định. Theo đó thu nhập hàng năm trước thuế của các Công ty là khoảng 4 - 5 tỷ / năm. Như vậy hoạt động của các Công ty là bước đầu có lãi, tuy vẫn còn nhiều điểm hết sức hạn chế. II. Những khó khăn, hạn chế: 1. Khó khăn trong hoạt động nghiệp vụ: * Đối với huy động vốn: Do được quy định một cách hạn hẹp nên không thể huy động vốn một cách rộng rãi, hơn nữa các nguồn đi vay khác lãi suất cao hơn do đó gây bất lợi cho các Công ty tài chính. * Đối với việc cho vay: Do không được cho vay quá 15% vốn tự có nên khả năng cho vay thấp (do vốn tự có thấp, hơn nữa khách chủ yếu của các Công ty tài chính là các đơn vị hạch toán độc lập (theo Quyết định 296/1999 - Ngân hàng Nhà nước) nên đối tượng cho vay bị hạn chế. Hơn thế nữa việc cho vay phần lớn là dưới hình thức ngắn hạn do đó chưa thực sự đem lại hiệu quả rõ rệt. * Đối với việc kinh doanh ngoại hối: Do chưa được cấp phép nên gặp nhiều khó khăn trong thực hiện cấp tín dụng cho các vấn đề có liên quan đến các yếu tố nước ngoài như: loại đầu tư, hoạt động nhập khẩu * Chất lượng dịch vụ về tài chính tiền tệ còn thấp do bản thân các Công ty còn chưa thực sự nhập cuộc về lĩnh vực này. * Khả năng sử dụng vốn của các Công ty còn hạn chế, tỷ trọng tiền quý của tại các tổ chức tín dụng của các Công ty lớn, do đó doanh thu hàng năm của các Công ty xuất phát từ các hoạt động này, kéo theo nó là hạn chế về hoạt động ngân quỹ. Rõ ràng là các hoạt động nghiệp vụ mà các Công ty này thực hiện là hết sức hạn chế. Rất nhiều nghiệp vụ đã được nêu ra ở chương I các Công ty này chưa thực hiện. Nổi bật là hoạt động phát hành giấy tờ có giá chưa hề được thực hiện mặc dù nó là một cách huy động vốn rất cơ bản. 2. Khó khăn - hạn chế trong các hoạt động nội bộ: - Các Tổng Công ty can thiêp sâu vào hoạt động của các Công ty tài chính, do đó các Công ty này không thể quyết định những vấn đề then chốt như: quyết định lãi suất cho vay và huy động. - Bản thân các Tổng Công ty chưa thực sự nhuần nhuyễn với một cơ chế có một Công ty tài chính trong cơ cấu. Bản thân các đơn vị thành viên còn khá lạnh nhạt với các Công ty tài chính. III. Nguyên nhân và bài học bước đầu. 1. Nguyên nhân: Những hạn chế mà các Công ty tài chính gặp phải là toàn diện ở mọi mặt khó khăn về nghiệp vụ, cơ chế hoạt động, mô hình tổ chức. Những hạn chế này nảy sinh là do Công ty tài chính còn là một mô hình còn mói nên dễ nảy sinh những vướng mắc. Những hạn chế này thể hiện từ cơ chế chính sách của Nhà nước, của các cấp quản lý và từ bản thân các Công ty. 1.1. Nguyên nhân từ các cơ quan quản lý Nhà nước. Chúng ta đã thấy được rằng phải có Công ty tài chính trong các Tổng Công ty mạnh. Nhưng chúng ta chưa hình dung được cụ thể về mô hình này. Một la: Chưa xác định được vị trí, định hướng cho Công ty tài chính trong Tổng Công ty ngoài việc coi đây là mô hình mới đã được đưa tên vào Điều lệ mẫu thành lập các Tổng Công ty 91. Hai là: Các Công ty tài chính phải tự xoay xở với hệ thống cơ chế chính sách về tài chính tiền tệ còn nhiều chấp vá, chồng chéo, mâu thuẫn. Ba là: Các Công ty tài chính không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong khi các Tổng Công ty muốn sử dụng chúng như một công cụ điều tiết vốn của Tổng Công ty. Bốn là: Các quy định của Ngân hàng Nhà nước về cơ chế và phạm vi hoạt động còn rất nhiều bất cập về huy động vốn sử dụng vốn, về hoạt động ngoại hối, về đầu tư tài chính, như đã nêu ra ở các phần trên. Các Công ty tài chính đứng trước hoàn cảnh là lực bất tòng tâm như đã được chỉ ra 1.2. Nguyên nhân từ các tổng công nhà nước * Một là: Cơ chế quản lý vốn đầu tư. Đa số các Tổng Công ty chưa thực sự tin tưởng vào các Công ty tài chính. Vẫn thực hiện chế độ bao cấp về vốn, đầu mối thanh toán, cho các đơn vị phụ thuộc làm các đơn vị thành viên vẫn hết sức thụ động. Rõ ràng là tồn tại tới hai đầu mối về vấn đề vốn trong TCT. * Hai là: Cơ chế điều hòa vốn nhàn rỗi Các Tổng Công ty chưa có chính sách quản lý, điều hành vốn nhàn rỗi tại Tổng Công ty mà để các thàn viên "mặc ai nấy làm" làm mất đi vai trò thu hút và điều hòa vốn của Công ty tài chính. Trong một Tổng Công ty, có những đơn vị thừa vốn để gửi thu lợi nhuận, trong khi một số khác lại phải đi vay vốn các Ngân hàng thương mại với lãi suất cao dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn nhàn rỗi tại các Tổng Công ty thấp. * Thứ ba: Cơ chế quản lý của Tổng Công ty còn bất cập. - Một cơ chế quản lý điều hành chung vẫn còn nhiều vướng mắc bởi bản thân các Tổng Công ty đang vẫn phải loay hoay tìm lời giải cho vấn đề này. Mối quan hệ giữa Công ty mẹ - Công ty con giữa các thành viên với nhau còn rất nhiều mâu thuẫn về lợi ích, nên rất nhiều các Công ty con chỉ hoạt động vì lợi ích riêng. Do đó khi có thêm một Công ty tài chính rất mới mẻ sẽ gây rất nhiều lúng túng trong các mối quan hệ nội bộ. 1.3. Nguyên nhân chủ quan từ bản thân các Công ty. * Đội ngũ nhân lực còn thiếu kinh nghiệm, năng lực chuyên môn chưa hẳn đã cao do đó dẫn đến các hoạt động còn chưa thực sự sôi động. * Đó là sự thiếu chủ động, nhanh nhạy của Công ty tài chính trong việc tìm kiếm các đối tượng khách hàng trong phạm vi đối tươngj được pháp luật cho phép. 1.4. Nguyên nhân từ nền kinh tế. - Trong thời gian hoạt động gần đây của các Công ty tài chính, nền kinh tế đã gặp phải một số khó khăn nhất định gây tác động không nhỏ đến các Công ty này. Từ năm 1999 đến nay, các cơ chế điều hành lãi suất lần lượt qua các hình thức: quy định trần lãi suất, lãi suất cơ bản (8/2000) và lãi suất theo thỏa thuận (6/2002). Những cơ chế này, các tổ chức tín dụng đã phải đưa ra các chính sách lãi suất riêng của mình. Các Ngân hàng thương mại với ưu thế của mình có lợi thế hơn hẳn trong điều kiện hạ lãi suất cho vay hoặc sẵn sàng chấp nhận lỗ để lôi kéo khách hàng. Trong điều kiện đó, nguồn thu từ tiền gửi đã thực sự giảm sút đồng thời các Công ty cũng phải hạ lãi suất của mình để lôi kéo khách hàng với những hoạt động này, hiệu quả bước đầu của Công ty tài chính là không cao. - Cũng có một điểm nữa cần nhận thấy là các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của các Công ty tài chính cũng như các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác còn chưa có một cơ sở đầy đủ như: Thị trường chứng khoán, các dịch vụ tài chính, tiền tệ vì thế tác động phần nào đến các định chế tài chính này. 2. Những bài học kinh nghiệm bước đầu. Một là: Mặc dù việc xây dựng các Công ty tài chính trong các Tổng Công ty Nhà nước là đúng đắn. Chúng rõ ràng sẽ góp phần tích cực cho sự phát triển của hệ thống tài chính và của bản thân các Tổng Công ty. Hai là: Do mới đi vào hoạt động, nên còn rất nhiều vướng mắc để mô hình này hoạt động xuôn sẻ. Đó là những khó khăn, hạn chế từ Nhà nước, Tổng Công ty chủ quản và từ bản thân các Công ty. Chính vì thế các hoạt động ban đầu là nhỏ hẹp, chưa đem lại hiệu quả rõ nét và cần phải được giúp đỡ nhiều về mọi mặt. Ba là: Các Công ty tài chính trong các Tổng Công ty có nhiều lợi thế do khả năng tiếp cận nguồn thông tin, có sự hiểu biết về các đặc thù kinh tế, kỹ thuật của ngành chính vì thế cần hết sức tận dụng lợi thế này để tạo được một mức độ an toàn nhất định trong quá trình hoạt động. Đồng thời bản thân các Công ty phải chủ động hơn nữa trong các hoạt động của mình. Các Công ty tài chính này cũng giúp đa dạng hóa các hoạt động tài chính, từ đó làm gia tăng sự cạnh tranh với các định chế tài chính khác từ đó góp phần tạo sự chuyển biéen tích cực trong các hoạt động tài chính. Đối với các Tổng Công ty, các Công ty tài chính sẽ góp phần tạo sự chuyển biến tích cực trong cơ chế hoạt động và hiệu quả hoạt động của chúng. Trong quá trình tiến đến sự thống nhất trong các Tổng Công ty, một công cụ rất tốt là thông qua các cơ chế tài chính mà các Công ty tài chính là một biểu hiện quan trọng của cơ chế này. Kết luận chương II Thực hiện quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm thành lập các Tổng Công ty Nhà nước theo mô hình tập đoàn kinh tế, đến 31/2/2002 đã có 17 Tổng Công ty được thành lập. Đi đôi với nó là quyết định cho phép thành lập các Công ty tài chính trong mô hình này tại tất cả các Tổng Công ty 91 nếu đủ điều kiện. Như đã nêu ở trên, 5 Công ty tài chính đầu tiên đã được thành lập: Dầu khí, Bưu điện, Công nghiệp tàu thủy, Cao su và Dệt may. Các Công ty tài chính này là các đơn vị hạch toán độc lập, trong mô hình các Tổng Công ty 91. Qua những năm đầu các kết quả đạt được là rất đáng khích lệ thể hiện qua các mặt như: làm ăn có lãi, bước đầu đóng góp cho ngân sách, thu hút được đội ngũ lao động có chuyên môn, đặc biệt là không xuất hiện nợ xấu. Bước đầu góp phần hỗ trợ đầu tư các dự án đổi mới kỹ thuật, công nghệ đồng thời là kênh dẫn vốn và thị trường tiêu thụ lớn nhất, an toàn, hiệu quả từ các Ngân hàng Thương mại quốc doanh đến các Tổng Công ty như: đóng tầu, khai thác và cung ứng dầu khí. Tuy nhiên, quy mô của các Công ty tài chính vẫn còn nhỏ bé, các hoạt động nghiệp vụ còn gặp nhiều khó khăn, cơ chế điều hành quản lý chưa hiệu quả, bản thân các Công ty cũng kém mạnh dạn, kém chủ động làm hạn chế phạm vi hoạt động. Nhiều mục đích vẫn chưa được thực hiện nhất là các mục đích cho vay. Tỷ trọng cho vay so với tỷ trọng tiền gửi của các Công ty tại các Tổ chức tín dụng là khá chênh lệch. Điều đó khẳng định sự hạn chế trong nghiệp vụ của các Công ty này. Khó khăn đã được nhìn nhận, nguyên nhân của nó cũng đã được chỉ ra, điểm cần thiết cần lúc này là phải khắc phục nó như thế nào để quá trình thí điểm này đạt hiệu quả cao hơn để tiến đến mở rộng mô hình. Chương III. Giải pháp hoàn thiện và phát triển mô hình Công ty tài chính trong Tổng Công ty Nhà nước ở nước ta. i. Quan điểm và nội dung các giải pháp. Các giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động của Công ty tài chính trong Tổng Công ty Nhà nước trong thời điểm hiện nay là rất quan trọng bởi lẽ, mô hình này là mới mẻ đối với nước ta, chính vì thế phải thường xuyên theo dõi để có những biện pháp cụ thể để phát triển nó.. * Với tính chất mới mẻ của mình bản thân các Công ty tài chính cần có được sự hỗ trợ nhất định. Bản thân các Công ty sẽ chỉ cần đến sự hỗ trợ đó khi nó mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển. * Đó sẽ là một hệ thống các giải pháp đối với các cơ quan quản lý Nhà nước. Các cơ quan chủ quản nhằm nhìn nhận rõ vai trò, vị trí của Công ty tài chính trong mô hình của các Tổng Công ty. Cần thiết phải có cơ chế quản lý mềm dẻo, linh hoạt cho các Công ty tài chính này. Cuối cùng cần có sự đánh giá rút kinh nghiệm thường xuyên, tham quan học hỏi mô hình này trên thế giới và vận dụng linh hoạt nó vào Việt Nam.Nó rất hữu ích cho tất cả các chủ thể kinh tế, các cơ quan quản lý Nhà nước và qua đó tạo điều kiện phát triển hệ thống tài chính của nước ta. II. Những giải pháp phát triển và hoàn thiện Về huy động vốn Về mật lí thuyết, các công ty tài chính có thể huy động vốn từ tất cả các nguồn có thể theo những cách thức khác nhau: Cung cầu lưu ý là một chức năng quan trọng của các công ty tài chính là đáp ứng vốn cho các tổng công ty, do đó phải căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư của các tổng công ty mà có định hướng đúng. Huy động vốn từ các tổng công ty. Theo cách thức này, các tổng công ty có thể cấp vốn loại phát hành trái phiếu rồi cho chính công ty tài chính vay lại. Bản thân các nguồn vốn của tổng công ty trong những năm tới là rất lớn, ví dụ VNPT từ 2001 đến 2010 là khoản 70.000 tỷ, và nên giao các công ty tài chính quản lý một số nguồn quan trọng như vốn tự tích luỹ, vốn ODA bởi nó sẽ giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các tổng công ty và tận dụng được năng lực của các công ty tài chính. Huy động vốn từ các tổ chức tín dụng Các tổng công ty nên giao cho các công ty tài chính làm đại diện trong việc tìm kiếm các nguồn vốn vay, kí kết các hợp đồng tín dụng và giải ngân các nguồn tín dụng đó. Ngoài ra tăng cường huy động vốn dưới hình thức cho vay hợp vốn và tiếp nhận vốn đầu tư uỷ thác để cho vay các dự án đầu tư phát triển. Cách làm này có lợi cho tất cả các bên như: Tổ chức tín dụng, các tổng công ty, công ty tài chính. Cụ thể: Các tổ chức tín dụng: Đáp ứng các nhu cầu vốn lãi, khắc phục giới hạn cho vay rút ngắn thời gian chi phí đồng thời phân tán rủi ro. Các tổng công ty: Đây là biện pháp nhanh linh hoạt, trong triển khai các dự án đầu tư. - Các công ty tài chính: Ngoài các khoản phí, đây còn là cách nâng cao vị thế và uy tín. 1.3. Huy động vốn các nguồn khác trong nước và nước ngoài. Xuất phát từ nguồn vay từ tổ chức tín dụng trong nước bị hạn chế, việc huy động từ dân cư, tổ chức kinh tế xã hội và nước ngoài thông qua các hình thức như phát hành giấy từ có giá dịch vụ tiết kiệm là rất quan trọng. 2. Về hoạt động cho vay: Cho vay, với tư cách là nghiệp vụ tài sản quan trọng nhất của các Công ty tài chính hiện vẫn còn yếu kém như đã đề cập. Bản thân các Công ty tài chính phải chủ động hơn nữa trong vấn đề này. 2.1. Cho vay các thành viên trong Công ty. Bản thân các Công ty tài chính không ỷ lại quá nhiều vào đơn vị chủ quản mà phải chủ động qua các vấn đề sau đây. * Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. - Cần tiếp tục củng cố quan hệ với các đơn vị truyền thống, mở rộng quan hệ qua các hoạt động giới thiệu các dịch vụ tín dụng, quy trình thủ tục, đa dạng hóa các dịch vụ, kèm theo đó là: tư vấn, hỗ trợ giúp các đơn vị thành viên lập các dự án đồng thời tổ chức giải ngân đúng tiến độ. * Tăng cường cho vay đồng tài trợ: - Trong điều kiện bị hạn chế hiện nay, cần phải sử dụng phương thức này để cho vay, các dự án đầu tư của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên, bởi các dự án đa số đều phải cần đến số vốn lớn. - Ngoài việc hợp tác đối với các đối tác trong nước, cần mở rộng với các đối tác nước ngoài về các dự án rất lớn như về dầu khí, các dự án viễn thông khi được phép của Nhà nước. * Điều hòa vốn tạm thời nhàn rỗi: - Đây là hình thức quan trọng để giải quyết vấn đề thừa vốn và thiếu vốn của các thành viên trong Tổng Công ty. Điều này giúp cho các thành viên thiếu vốn tìm được một nơi tin cậy để vay vốn một cách nhanh nhạy và thuận tiện. Để tạo sự hấp dẫn phải tạo ra được sự phát triển của hình thức này phải có cơ chế phù hợp trong quá trình thu nhận vốn và cho vay vốn nhàn rỗi trong quy mô Tổng Công ty. Trong đó cần hết sức lưu ý là không được gượng ép mà phải cho các thành viên đó thấy rõ lợi ích của mình và của toàn Tổng Công ty trong hoạt động này. 2.2. Cho vay các đối tượng ngoài Tổng Công ty. * Một đối tượng khách hàng quan trọng là các đối tượng của ngành như ngành Bưu chính Viễn thông, Kinh tế - Kỹ thuật. Những đối tượng này so với các Tổng Công ty là những đơn vị non trẻ vì thế nhu cầu đầu tư lớn. Các Công ty tài chính trong Tổng Công ty có ưu thế lớn trong việc cung cấp các dịch vụ, các khoản cho vay với các đối tượng này bởi sự hiểu biết ngành kỹ thuật của mình. Vì thế cần tăng cường giới thiệu các dịch vụ đến với những đối tượng này. * Đối với các tổ chức kinh tế khác, tầng lớp dân cư cần áp dụng các loại hình cho vay khác nhau nhằm giúp khách hàng dễ sử dụng các sản phẩm của Tổng Công ty và Công ty tài chính tăng tính an toàn trong hoạt động. Khi các loại hình tín dụng thuê mua, bán này Cũng thấy một khó khăn với 4/5 Công ty tài chính hiện này là: Các sản phẩm của Tổng Công ty đến với người tiêu dùng mà ở đó người tiêu dùng có thể thanh toán ngay nhất là các tầng lớp dân cư. Khi đó đôi khi phải cần có sự liên kết kinh tế nào đó để giới thiệu dịch vụ của mình, để từ đó quảng bá về uy tín của mình để thu hút khách hàng. Điều này đã thấy được trên thực tế là cho vay tiêu dùng là quá ít. 3. Về đầu tư tài chính. * Quản lý phần vốn góp của các Tổng Công ty tại các liên doanh. - Nhìn chung, những liên doanh của 5 Tổng Công ty này tham gia đều đạt hiệu quả bước đầu. Tuy nhiên, hiệu quả đồng vốn mà các Tổng Công ty tham gia có thể nâng cao hơn nữa nếu các Công ty tài chính được ủy quyền tham gia liên doanh thay vì cơ quan chủ quản cử người tham gia. Bởi vì đa số các Công ty tài chính này đều am hiểu về kỹ thuật và vấn đề tài chính. Do đó cả thể xử lý tốt các tình huống xảy ra. - Thêm một điểm nữa là, xu thế kinh doanh đa ngành đa nghề đang thịnh hành, việc ủy quyền cho các Công ty tài chính có thể tham gia mua cổ phần để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động tài chính ở các doanh nghiệp mới. * Đầu tư chứng khoán: Trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa phát triển như hiện nay, điều cần thiết cho các Công ty tài chính là công dụng cho mình chiến lược về vấn đề này, để có thể tham gia khi điều kiện cho phép. * Hướng tới vươn ra thị trường quốc tế. Hiện nay đây vẫn còn là mục tiêu quá xa, vì để tham gia khi thị trường này đòi hỏi năng lực rất mạnh của các Công ty tài chính doanh nghiệp. .4. Về hoạt động dịch vụ. * Phát triển dịch vụ - Tư vấn phát hành chứng khoán. Nhu cầu này vẫn đang ở dạng tiềm năng và cần phải được khai thác triệt để. Theo đó, đẩy mạnh dịch vụ tư vấn về cổ phần hóa, đại lý phát hành, hỗ trợ nghiệp vụ phát hành Mục đích của nghiệp vụ này là giúp các doanh nghiệp khác có thể nắm bắt tường tận về vấn đề phát hành chứng khoán, hiểu biết hơn về vấn đề này. Ngoài ra, góp phần bảo vệ lợi ích của những người tham gia. * Các dịch vụ khác: - Tăng cường hỗ trợ nhất là đối với các đơn vị thành viên Tổng Công ty, về xây dựng và thẩm định dự án; Tư vấn về cơ chế, tổ chức tài chính - kế toán phù hợp với đặc điểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh. 5. Chuẩn bị cho những nghiệp vụ mới. Những nghiệp vụ này hiện nay chưa thực hiện được nhưng trong thời gian tới sẽ thực hiện vì thế phải nghiên cứu cách thức thực hiện, nhất là 2 nghiệp vụ: chiết khấu thương phiếu và bao thanh toán. Những cơ sở để việc thực hiện cho các nghiệp vụ này đã xuất hiện như: Văn bản pháp luật có tương đối đầy đủ những điều kiện kinh tế cũng đã có. Bản thân các nghiệp vụ này có thể thực hiện trong nội bộ Tổng Công ty sau đó mở rộng ra bên ngoài. 6. Các giải pháp hỗ trợ. 6.1. Cơ cấu lại các Công ty trên cơ sở xác lập vai trò, vị trí của các Công ty tài chính: - Thứ nhất: Thấy được vị trí quan trọng của các Công ty tài chính trong cơ cấu bộ máy tổ chức của các Tổng Công ty, nó là cầu nối giữa Tổng Công ty và các thành viên và Tổng Công ty với các tổ chức kinh tế khác hoàn chỉnh cũng như với thị trường tài chính. - Thứ hai: Địa hình và cơ cấu sở hữu của các Công ty tài chính: Theo xu hướng chung, các Công ty này sẽ đi từ hình thức sở hữu một chủ đến nhiều chủ trong đó các Tổng Công ty sẽ chi phối hoạt động của chúng. Tuy nhiên nếu như vậy không phải sẽ cổ phần hóa ồ ạt mà tuân theo quy trình nhất định. Những ai sẽ tham gia sở hữu Công ty tài chính đôi khi cũng là vấn đề quan trọng. - Thứ ba: Thiết lập một chế độ tài chính kế toán, kiểm định phù hợp. Vấn đề này quan trọng đối với các tổ chức kinh tế nói chung và lại càng quan trọng đối với tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ như các Công ty tài chính. Tất cả phải được xây dựng trên một mô hình hợp lý, làm việc có khoa học, có kế hoạch đặc biệtquan tâm đến những đặt thù trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ như quy trình các nghiệp vụ, vấn đề rủi ro, giám sát tài chính. - Thứ tư: Tổ chức nhân sự: Đây là vấn đề rất quan trọng. Cần phải có chính sách tuyển dụng, chính sách đào tạo và đào tạo lại, chính sách sử dụng lao động đúng đắn để tập hợp được những người có chuyên môn trong một bộ máy thống nhất, phát huy được sức sáng tạo của cá nhân để phát triển trí tuệ, sức mạnh tập thể. Đặc biệt chú ý là: Đội ngũ này phải am hiểu về đặc thù kinh tế kỹ thuật, có năng lực về tài chính, tiền tệ và những yêu cầu khác. 6.2. Phát triển năng lực cho các Công ty tài chính. Phát triển năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh, là điều kiện quyết định sự thanh loại của các Công ty tài chính, theo đó cần thực hiện một số điều sau đây: - Hỗ trợ tài chính ban đầu cho các Công ty tài chính sao cho nó đủ sức hoạt động. Số vốn điều lệ hiện nay còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu của thực tế, điều này đã được chỉ ra ở phần trên. - Xây dựng chính sách tài chính - tín dụng: Một cơ chế lãi suất, phí dịch vụ ở mức hợp lý sẽ tạo được sức hút với khách hàng. - Nâng cao chất lượng dịch vụ: Dịch vụ được thực nhanh, có hiệu quả sẽ là liệu pháp tốt để kéo khách hàng. Các vấn đề về tư cách tài chính đòi hỏi một sự chính xác cao độ do đó đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn từ bản thân các Công ty. Chất lượng dịch vụ trong tương lai sẽ trở thành công cụ cạnh tranh lợi hại, vì thế cần phải biết coi trọng chúng. Nâng cao năng lực làm việc chung: Xuất phát từ một cơ cấu tổ chức cả một cơ chế làm việc hoàn thiện cần phải biết cách phát huy chúng một cách hiệu quả cao nhất để tạo ra những sản phẩm có chất lượng. Điều này đỏi hỏi trước tiên ở năng lực điều hành chung của bộ phận quản lý. 6.3. Tăng cường hợp tác với các tổ chức tín dụng và tổ chức nước ngoài. Việc hợp tác với các tổ chức như trên không những trong việc vay vốn, cho vay hợp vốn là qua đó giúp công ty trao đổi kinh nghiệm và mở rộng các hình thức đào tạo nguồn nhân lực và vươn ra thị trường trong và ngoài nước. III. Những vấn đề với cơ quan quản lý và cơ quan chủ quản. 1. Các cơ quan quản lý Nhà nước. 1.1. Nhà nước: Tạo ra môi trường pháp lý và mối tương quan kinh tế thuận lợi hơn nữa, theo đó: * Xem xét lại hệ thống pháp luật về hoạt động doanh nghiệp Nhà nước, theo đó: - Tiếp tục làm rõ hơn về mô hình Tổng Công ty Nhà nước tiến tới là tập đoàn kinh tế của Việt Nam, thấy rõ các mối quan hệ bên trong đó. - Nâng cao quyền tự chủ kinh tế, đổi mới về cơ chế quản lý vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp Nhà nước. Hoàn thiện quá trình phân cấp, thực hiện quyền sở hữu Nhà nước về vốn tại doanh nghiệp giữa các cơ quan liên quan, nêu ra phạm vi, thẩm quyền, trách nhiệm của từng chủ thể. * Cần xác định rõ về vai trò, vị trí, cơ chế hoạt động, quản lý đối với các Công ty tài chính. Sửa đổi những điểm bất hợp lý tại luật của tổ chức tín dụng, tạo cơ sở pháp lý cho Công ty tài chính về một số vấn đề như: - Cho phép mở rộng phạm vi hoạt động. - Mở rộng hơn về các nghiệp vụ được phép thực hiện đặc biệt là vấn đề được phép sử dụng nghiệp vụ thanh toán (huy động vốn) trong một số giới hạn. * Tiếp tục duy trì sự ổn định nền kinh tế, phát triển các yếu tố cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty tài chính phát triển. - Trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế - thị trường như: thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm 1.2. Ngân hàng Nhà nước: * Với tư cách là một đơn vị quản lý các Công ty tài chính về mặt chuyên môn, kỹ thuật, trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện một số việc sau đây: - Với tư cách là cơ quan tham mưu cho Nhà nước về xây dựng, luật tổ chức tín dụng, trong thời gian tới cần sửa đổi những bất hợp lý, trong luật này để trình Quốc Hội xem xét, sửa đổi. - Phối hợp cùng cán bộ ngành để ban hành quy định cho phép coi mỗi đơn vị hạch toán phụ thuộc của các Tổng Công ty và các Tổng Công ty là một khách hàng như các đơn vị độc lập (hiện nay Tổng Công ty và các đơn vị phụ thuộc được gộp thành một khách hàng duy nhất). - Cho phép các Công ty tài chính đứng ra làm tổ chức đầu mối với các dự án đầu tư mà Tổng Công ty chủ quản là chủ đầu tư. - Cấp giấy cho các Công ty này được thực hiện một số hoạt động ngoại hối như: vay vốn bằng ngoại tệ, cho vay bằng ngoại tệ, bảo hành bằng ngoại tệ. - Hoàn thiện các quy chế và tiến hành giám sát chặt chẽ sự hoạt động của các Công ty tài chính (về quy chế an toàn, dự phòng rủi ro, thanh tra giám sát) Ngân hàng Nhà nước cũng nên tiến hành các biện pháp hỗ trợ nhằm duy trì lòng tin của công chúng với hệ thống các Công ty tài chính. 2. Với các Tổng Công ty chủ quản. Các Tổng Công ty tác động trực tiếp đến cơ chế điều hành, tổ chức, hoạt động của các Công ty tài chính. Thời gian tới cần: Thấy rõ được chức năng nhiệm vụ của các Công ty tài chính trong cơ cấu Tổng Công ty là: Cầu nối giữa Tổng Công ty và các thành viên giữa Tổng Công ty và các tổ chức tài chính, thị trường tài chính. Cần đặc biệt lưu ý phân định rõ chức năng nhiệm vụ của Công ty tài chính với các Phòng Ban Tài chính - Uỷ thác cho Công ty tài chính đại diện trong huy động vốn từ các tổ chức tín dụng uỷ thác cho Công ty tài chính quản lý nguồn vốn tự tích lũy. - Giao cho Công ty tài chính xây dựng các phương án huy động vốn phát hành trái phiếu và các nghiệp vụ liên quan. - Tạo lập cơ chế điều hòa vốn nhàn rỗi giao cho Công ty tài chính xây dựng phương án và tổ chức thực hiện, từng bước giao cho Công ty tài chính quản lý các quỹ, phân tiền tạm thời nhàn rỗi. - Tạo công tác kiểm tra thuận lợi để Công ty tài chính thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trong nội bộ của kinh tế như các hoạt động tư vấn. Thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp thành viên và cho phép Công ty tài chính tham gia. - Tăng vốn cho Điều lệ cho các Công ty tài chính nhằm mở rộng năng lực của các Tổng Công ty tài chính. - Hoàn chỉnh chiến lược phát triển của các Tổng Công ty, tích cực triển khai mô hình tập đoàn kinh tế đã được thủ tướng Chính phủ quyết định trong đó có xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Công ty tài chính. Kết luận chương 3 Như đã nêu việc đưa ra được các giải pháp và thực hiện nó đối với các hoạt động của các Công ty tài chính là rất quan trọng vì nó cho thấy hiệu quả của mô hình được xem là thí điểm. Việc hoàn thiện và phát triển phải dựa trên: định hướng phát triển chung của Đảng - Nhà nước; định hướng phát triển hệ thống tài chính tiền tệ, sự phát triển của Tổng Công ty và tự chủ trong hoạt động của các Tổng Công ty. Với tính chất là thí điểm mô hình, do vậy còn rất nhiều điểm phải chỉnh sửa hoàn thành, cần phải có sự hỗ trợ ban đầu ở một số mặt cho các Công ty tài chính. Các giải pháp chung được đề ra là đa dạng hai hoạt động, nâng cao hiệu quả các nghiệp vụ về huy động vốn, sử dụng vốn, các loại hình dịch vụ thiết lập được vị trí, vai trò và các mối quan hệ hữu ích của các Công ty tài chính. Tất nhiên những giải pháp đó phải thực sự đồng bộ từ cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan chủ quản và bản thân các Công ty tài chính bởi quá trình hoạt động của chúng là tự thân vận động trong một môi trường pháp lý và một môi trường kinh tế nhất định. Trên cơ sở những quan điểm như vậy, các giải pháp và kiến nghị cụ thể đối với tất cả các đối tượng liên quan. Theo đó: - Nhà nước: Hoàn thiện môi trường pháp luật, kinh tế xã hội, duy trì sự phát triển ổn định. - Ngân hàng Nhà nước: Hoàn thiện cơ chế giám sát, quản lý hỗ trợ về mặt chuyên môn, nghiệp vụ cho các Công ty tài chính. - Tổng Công ty Nhà nước: Hoàn thiện cơ chế hoạt động, cơ cấu tổ chức, xác lập được vai trò, vị trí của các Tổng Công ty đồng thời có những biện pháp hỗ trợ ban đầu cho các Tổng Công ty. - Các Công ty tài chính: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, phát huy tốt năng lực, phát triển các hoạt động nghiệp vụ theo hướng đa dạng - hiệu quả - thuận tiện, phục vụ tốt các nhu cầu của khách hàng, không ngừng mở rộng phạm vi, quy mô, thực hiện tốt chức năng của mình. Kết luận chung Quá trình đổi mới kinh tế nói chung và hệ thống tài chính - tiền tệ nói riêng đòi hỏi chúng ta không ngừng học hỏi những cái mới. Những cái mới đó đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết về nó, thử ngiệm nó trong thực tiễn, từ đó mới có thể thực hiện trên diện rộng và mô hình Công ty tài chính nói chung và mô hình Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế nói riêng là một trong những cái mới như thế. Vai trò, vị trí, tác dụng của nó đã được kiểm nghiệm trên thế giới và bước đầu tại Việt Nam với xu thế phát triển một nền kinh tế tiền tệ ở mức cao đòi hỏi chúng ta phải có một hệ thống taì chính tiền tệ đủ sức đáp ứng yêu cầu đề ra mà bước đầu là tài chính hóa các quan hệ kinh tế ở mức thấp. Mô hình Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế là một phần của những điều đó. Vấn đề được đặt ra là chúng ta đã đang phải làm gì để phát triển nó theo hướng đã xác định. Tất cả những điểm đã được đề cập trong đề án này bước đầu đã cho chúng ta nhìn thấy những việc chúng ta đã làm và cần làm. Trên cơ sở phân tích đầy đủ về mặt lý luận cũng như thực tế đạt được vừa qua sẽ cho thấy rõ hơn hươngs đi sắp tới của mô hình này, chính vì thế cần phải phân tích đánh giá một cách chính xác, khoa học những gì đã làm được, chưa làm được. Vấn đề này cần được sự tham gia của tất cả mọi đối tượng liên quan. Ngoài những vấn đề liên quan đến các cơ quan quản lý, ở đây đặc biệt nhấn mạnh đến sự tích tực, chủ động của bản thân các Công ty tài chính về các mặt rất quan trọng như: - Học hỏi kinh nghiệm của các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan. - Không ngừng phát triển hoàn thiện, đa dạng hóa các nghiệp vụ, các loại hình dịch vụ của mình, hướng chúng đến phục vụ tốt nhất khách hàng của mình. - Tiếp thu sự tiến bộ của các hoạt động nghiệp vụ, các hoạt động quản lý và các vấn đề đặc thù khác. Những nội dung cụ thể đã được nêu rõ ở chương III của đề án. Trên cơ sở những điều đó cần có các chính sách tiếp theo để nhân rộng mô hình ra diện rộng, từ phía các cơ quan quản lý. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Học viên Ngân hàng, Giáo trình Lý thuyết tiền tệ Ngân hàng, NXB Thống kê 2001. 2. F.Miskhin: Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học - Kỹ thuật. 3. Tạp chí Ngân hàng các số 2002; số 8/2003. 4. Tạp chí Ngân hàng, số chuyên đề 2002: "Hoàn thiện luật các tổ chức tín dụng trước yêu cầu tiếp tục đổi mới". 5. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 01/2003 6. Tạp chí Tài chính các số 2002 7. Tạp chí Chứng khoán các số 2002 Mục lục Lời nói đầu 1 Mở đầu 2 Chương I. Một số lý luận chung về mô hình công ty tài cính trong tập đoàn kinh tế 4 I. Khái quát về tổ chức tài chính phi ngân hàng 4 1. Khái niệm về tổ chức tài chính phi ngân hàng 4 2. Đặc điểm và vai trò 4 3. Phân loại 5 II. Công ty tài chính và mô hình công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế 5 1. Công ty tài chính 5 2. Về mô hình công ty tài chính trong tổng công ty tập đoàn kinh tế 6 III. Về mô hình công ty tài chính trong tổng công ty ở nước ta 12 Kết luận chương I 14 Chương II. Thực trạng hoạt động của công tài chính trong tổng công ty Nhà nước ở nước ta 15 I. Những thành tựu ban đầu 15 1. Huy động vốn 15 2. Về sử dụng 16 3. Các hoạt động khác 17 II. Những khó khăn, hạn chế 18 1. Khó khăn trong hoạt động nghiệp vụ 18 2. Khó khăn - hạn chế trong các hoạt động nội bộ 19 III. Nguyên nhân và bài học bước đầu 19 1. Nguyên nhân 19 2. Những bài học kinh nghiệm bước đầu 22 Kết luận chương II 23 Chương IIII. Giải pháp hoàn thiện và phát triển mô hình công ty tài chính trong tổng công ty Nhà nước ở nước ta 24 I. Quan điểm và nội dung các giải pháp 24 II. Những giải pháp phát triển và hoàn thiện 24

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV020.doc
Tài liệu liên quan