Đề án Giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam

Thứ nhất, cần thiết đổi mới về chính sách và chế độ của nhà nước ta, về cơ chế, chính sách như ban hành luật khuyến khích đầu tư và ngày càng hoàn thiện hơn nữa về luật đầu tư. Nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp này trong việc thu hút các dự án đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, đồng thời huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Hoàn thiện chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, để đối tác nước ngoài không phân biệt họ khi lựa chọn đối tác đầu tư. Cụ thể như quy định về thuế, nguồn vốn vay của các ngân hàng và sử dụng công bằng trong việc giao quyền sử dụng đất, để tạo cơ hội cho doanh nghiệp có thể liên doanh liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài.Quỹ hỗ trợ đầu tư nước ta, cần có những chính sách hợp lý trong hỗ trợ vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là chính sách lãi suất cho vay. Hơn thế nữa, các thủ tục vay vốn cần phải thông thoáng gọn nhẹ và nhanh chóng để thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn. Các cơ quan quản lý và xúc tiến thương mại nên có những đổi mới về nhận thức. Đặc biệt, cơ quan xúc tiến thương mại nên giới thiệu sản phẩm, tiềm lực thực sự của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với các nhà đầu tư nước ngoài, để họ chủ động tự quyết định đối tác đầu tư phù hợp. Nhìn chung, nhà nước cần thiết phải đổi mới cơ chế chính sách nhanh chóng và kịp thời để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển hơn nữa.

doc40 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u tư mở rộng sản xuất kinh doanh. 2. Vai trò nguồn vốn trong việc đầu tư phát triển ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 2.1. Vai trò của vốn và các nhân tố ảnh hưởng tới doanh nghiệp 2.1.1. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp Bất cứ một doanh nghiệp nào để tiến hành sản xuất kinh doanh và làm sao kinh doanh đạt hiệu quả cao? Muốn làm được điều đó, ngoài những yếu tố cần thiết như: Cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lao động… và kinh nghiệm trong quản lý của nhà doanh nghiệp. Còn một yếu tố đóng vai trò quyết định đó là doanh nghiệp phải có vốn, vì vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời vốn giữ vai trò quan trọng đối với quá trình kinh doanh.Căn cứ vào tính chất sử dụng và hình thái của vốn, vốn của doanh nghiệp gồm vốn đầu tư ban đầu và vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Khi chủ doanh nghiệp xác định được vai trò của vốn như vậy thì họ cần có nhận thức đúng đắn trong hành động quản lý nguồn vốn sao cho vốn được sử dụng đúng mục đích và sử dụng có hiệu quả nhất. Theo thống kê mới nhất của Bộ kế hoạch và đầu tư, tính đến cuối tháng 6 năm 2005, cả nước đã có trên 125.000 doanh nghiệp thành lập mới theo Luật Doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký là 243.387 tỷ đồng trong tổng số 189.000 ngàn doanh nghiệp với 398.000 tỷ đồng vốn đăng ký kinh doanh trên cả nước. Và cho thấy đa số doanh được thành lập là ở khu vực ngoài quốc doanh. Tính đến tháng 9 năm 2005, cả nước đã có khoảng 175.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, so với năm 2002 tăng thêm 75.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Như vậy là rất cần thiết vốn cho việc đầu tư phát triển và ngày càng gia tăng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Giữa các doanh nghiệp này và nguồn vốn có mối quan hệ qua lại lẫn nhau, hay là quan hệ thuận với nhau. Vốn nhiều thì đầu tư nhiều, vốn ít thì đầu tư ít, và sự gia tăng phát triển của doanh nghiệp bị chậm lại. Ta có sơ đồ mối quan hệ sau Biểu đồ 1: mối quan hệ giữa số lượng doanh nghiệp với số vốn đăng ký Nguồn: Thời báo Kinh tế 2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới huy động vốn cho đầu tư phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh Trong quá trình huy động vốn cho đầu tư phát triển thì các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng đang còn gặp rất nhiều khó khăn hay tác động của các nhân tố trong việc huy động vốn. Sau đây là một số nhân tố ảnh hưởng tới huy động vốn cho đầu tư phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thứ nhất, tâm lý của các nhà đầu tư: Cụ thể là các nhà đầu tư lớn, nhất là các ngân hàng thương mại họ chỉ thích đầu tư cho khu vực kinh tế nhà nước mà không thích đầu tư cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Bởi vì: Bất cứ một nhà đầu tư nào khi muốn bỏ tiền ra đầu tư, bên cạnh việc thu lợi nhuận thì việc đảm bảo an toàn số tiền họ bỏ ra cũng rất quan trọng, nhất là các ngân hàng thương mại. Mặt khác, khu vực kinh tế nhà nước thì độ an toàn là cao hơn ( trình độ công nghệ hiện đại, quy mô hoạt động của khu vực này là lớn) còn với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì độ rủi ro là cao hơn ( công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém, quy mô nhỏ lẻ). Thứ hai, chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói chung là còn kém. Do đó việc đầu tư vốn còn nhiều vướng mắc và suy tính kỹ của nhà đầu tư. Thứ ba, khả năng điều hành quản lý doanh nghiệp của các nhà quản trị còn nhiều yếu kém và hạn chế về chuyên môn. Bởi vì với khu vực này thì các doanh nghiệp chủ yếu là hoạt động nhỏ lẻ, quy mô sản xuất không lớn, thị trường kinh doanh hạn hẹp, do đó hạn chế trong sự nắm bắt của nhà quản trị và khó điều hành trong quá trình sản xuất. Thứ tư, tay nghề của người lao động còn yếu kém và chưa cao, đây cũng là một lý do rất quan trọng, khó khăn trong việc huy động vốn, nó làm cho các chủ đầu tư không muốn bỏ vốn của mình vào một doanh nghiệp mà công nghệ lạc hậu, tay nghề của người lao động chưa cao. Mặt khác, nó cũng là hạn chế cho chủ doanh nghiệp khi họ muốn đổi mới máy móc thiết bị, thì liệu những người công nhân này có vận hành tốt máy móc thiết bị đó hay không? tại vì máy móc thiết bị là do con người vận hành và sử dụng nó để tạo ra hiệu quả cao trong quá trình sản xuất. Do dó, con người và máy móc luôn phải tương xứng. Ngoài ra hệ thống văn bản hành chính còn nặng nề và phức tạp không tạo ra sự thông thoáng cho người đầu tư. Do đó nó hạn chế các chủ đầu tư khi muốn đầu tư. Hoặc khi các chủ doanh nghiệp muốn vay tiền ngân hàng để mở rộng sản xuất kinh doanh cũng gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần phải chấn chỉnh hơn nữa để hạn chế những ảnh hưởng xấu trong quá trình huy động vốn cho đầu tư phát triển cho doanh nghiệp mình. 2.2. Sự cần thiết cho việc đầu tư phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Thông qua việc nhìn nhận nguồn vốn có vai trò hết sức quan trọng như ở trên, thì nguồn vốn cho đầu tư phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại càng quan trọng hơn. Bởi vì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không những tạo ra thu nhập cho xã hội, mà còn tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Theo đánh giá của Tổng cục thuế, số thu ngân sách 8 tháng đầu năm 2005 đạt 133.610 tỷ đồng, bằng 72,7% dự toán năm. Theo phân tích của Tổng cục thuế thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tốc độ phát triển nhanh nhất và năng động nhất trong nền kinh tế, nhất là khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh. Số thu ngân sách từ khu vực này có mức tăng trưởng nhanh, năm 2003 đạt 115% dự toán pháp luật, tăng 32% so với năm 2002; năm 2004 đạt 112% dự toán và tăng 26% so với năm 2003; 8 tháng năm 2005 đạt 69% và tăng 24% so với cùng kỳ năm trước ( nguồn: báo Hà Nội mới, thứ 4 ngày 28 tháng 9 năm 2005). Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh tạo lập sự phát triển cân đối và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ. Mặt khác, nó còn góp phần quan trọng thu hút vốn đầu tư nhàn rỗi của xã hội, và sử dụng tối ưu các nguồn lực khác. Do bản chất của các doanh nghiệp này khi thành lập không đòi hỏi phải quá nhiều vốn, từ đó tạo cơ hội đông đảo cho mọi tầng lớp tham gia đầu tư. Được coi là phương án có hiệu quả trong việc huy động tối đa tiềm lực của đất đai, lao động và kinh nghiệm. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cung cấp khối lượng sản phẩm truyền thống quan trọng phục vụ cho xuất khẩu nhằm tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Các doanh nghiệp này còn tạo ra động lực cạnh tranh để phát triển khu vực kinh tế khác, thúc đẩy quá trình phát triển đất nước. Nó còn là nơi rèn luyện các nhà kinh doanh thành các chủ doanh nghiệp lớn. Từ những tác dụng to lớn và vị trí vô cùng quan trọng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc phát triển nền kinh tế nước nhà. Do vậy cần phải đầu tư mở rộng và phát triển hơn nữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ các nguồn vốn huy động. 2.3. Các nguồn vốn cơ bản cho đầu tư phát triển và phương thức huy động vốn ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Tuỳ từng loại hình doanh nghiệp và đặc điểm cụ thể của mỗi doanh nghiệp thì có thể chọn các phương thức huy động vốn có hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, các phương thức huy động vốn rất đa dạng nhằm khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế. Ta tìm hiểu một số nguồn vốn chủ yếu sau: 2.3.1. Nguồn vốn chủ sở hữu Mỗi giai đoạn phát triển kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi một cách tiếp cận nguồn tài chính khác nhau sao cho phù hợp với doanh nghiệp mình, với điều kiện xã hội cụ thể. Do vậy, bằng một cách nào đó doanh nghiệp cần thiết tạo một lượng vốn để bắt đầu hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm: Vốn góp ban đầu; lợi nhuận không chia; tăng vốn từ phát hành cổ phiếu. Vốn góp ban đầu: Đây được coi là giai đoạn hình thành, là giai đoạn cần để đầu tư ban đầu cho việc thuê nhà xưởng, máy móc thiết bị… nó cũng là một giai đoạn rất hấp dẫn và chứa đựng nhiều rủi ro bất chắc nhất mà chủ doanh nghiệp phải xem xét thật kỹ càng và cân nhắc, phân tích và tạo cho mình một niềm tin tưởng lạc quan lớn. Một trong những phương thức có hiệu quả và mang tính tích cực đó là nguồn vốn từ cá nhân. Khi vốn góp của người sáng lập không đủ cho hoạt động khởi sự kinh doanh thì vốn được huy động thêm từ các nguồn khác. Một nguyên tắc chung chỉ ra rằng khi muốn khởi sự tạo lập ra một doanh nghiệp thì người sáng lập phải có ít nhất 50% vốn đầu tư ban đầu. Doanh nghiệp cũng phải có số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông, chủ sở hữu góp vốn. Cụ thể đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Công ty TNHH, công ty cổ phần… theo luật nhà nước thì nhà doanh nghiệp này cần phải có một số vốn để xin đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, chủ sở hữu là những cổ đông. Hình thức huy động từ việc góp mua một phần giá trị doanh nghiệp để cùng sở hữu và điều hành cũng đang trở nên rất phổ biến và chiếm ưu thế, đó là sự lựa chọn đúng đắn để làm tăng thêm tiền trong túi của bạn. Tất nhiên với việc cùng điều hành quản trị thì vấn đề phân chia lợi nhuận và chịu trách nhiệm cũng hết sức quan trọng, điều này thông qua về giá trị góp vốn của các thành viên. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: Điều kiện để huy động nguồn vốn này là các doanh nghiệp này phải làm ăn có lãi. Từ đó mới thu được lợi nhuận để tăng quy mô nguồn vốn ban đầu phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh được phát triển mạnh hơn. Huy động nguồn vốn từ lợi nhuận không chia bằng cách để lại một phần lợi nhuận sử dụng vào mục đích tái đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh. Đây là phương thức huy động vốn có hiệu quả và tối ưu nhất đối với mọi nhà kinh doanh. Đặc biệt đối với các công ty cổ phần trong việc thu hút cổ đông. Tăng nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu: Một trong những phương thức huy động nguồn tài chính để hình thành vốn ban đầu tăng lên là nhờ phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là chứng khoán có, là giấy chứng nhận quyền sở hữu vốn đã góp của cổ đông vào công ty cổ phần, các cổ đông được hưởng mọi quyền của doanh nghiệp. 2.3.2. Nguồn vốn vay Để bổ xung nguồn vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể sử dụng huy động vốn từ các nguồn: Tín dụng ngân hàn, vay qua phát hành trái phiếu, vay nước ngoài và các tổ chức tín dụng khác, vay từ bạn bè người thân của chủ doanh nghiệp…Phần lớn các chủ doanh nghiệp mới ( nhất là doanh nghiêp vừa và nhỏ) sẽ cần nhiều tiền hơn mà số tiền bản thân họ có. Vì vậy, họ phải tìm nguồn tài chính từ những người anh em, họ hàng có thể là động viên để bạn bè anh em cho vay, hoặc thực hiện hợp đồng với những mức lãi của những số tiền đó. Hình thức này dựa trên mối quan hệ tình cảm, do vậy khi giải quyết vấn đề về vốn có nhiều thuận lợi hơn. Tuy nhiên khi huy động vốn từ nguồn này chúng ta cũng khó có thể tách bạch được mối quan hệ giađình và xã hội trong công việc kinh doanh. Có một số nó ảnh hưởng xấu đến truyện làm ăn của bạn. Mặc dù vậy, việc huy động vốn từ nguồn này thực tế cho thấy là rất lớn, lượng vốn tương đối nhiều, độ an toàn của vốn là cao. Do đó đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải xem xét đến các vấn đề sau: Thứ nhất, hãy xem khoản vay này càng giống khoản vay ngân hàng càng tốt, thậm chí còn có cả tài sản thế chấp để hai bên cùng an tâm. Thứ hai, mọi chi tiết vay sẽ nên ghi thành văn bản, hợp đồng vay tiền rõ ràng. Thứ ba, tình cảm, lòng tin tưởng và sự trung thành là vô giá, khi chúng ta vay tiền từ bạn bè người thân, do đó cần phải biết quý trọng. Hoạt động sản xuất kinh doanh không những tạo ra cho chủ doanh nghiệp sự quyết đoán, chín chắn mà còn phải biết sáng tạo tìm ra những nguồn vốn vay khác. Doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn từ tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ mà đối với doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tín dụng ngân hàng là quá trình các doanh nghiệp vay từ ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác. Ngân hàng thương mại với nhiệm vụ cung cấp về vốn cho các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế, thì việc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn là điều tất yếu. Các ngân hàng thương mại luôn đảm bảo một mức lãi suất cho vay phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo đúng nguyên tắc hoạt động. Ngân hàng thường không là đối tác kinh doanh hay là cổ đông của công ty mà họ cho vay vốn lưu động bằng tiền khi công ty có tình hình tài chính tốt nhất, các ngân hàng hoạt động cho vay thì đòi hỏi có vật đảm bảo đối với các doanh nghiệp đi vay như thế chấp, bảo lãnh… Theo nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 hướng dẫn tìm tài trợ có kỳ hạn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gồm các ngân hàng sau: Ngân hàng thương mại quốc doanh. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV). Ngân hàng công thương Việt Nam (ICBV). Ngân hàng nông nghiệp và phát triên nông thôn Việt Nam (VBARD). Ngân hàng ngoại thương Việt Nam ( Việt Com bank) Ngân hàng liên doanh: Undovina Ltd (IVB) Vi nasivimbank (VSB) Ngân hàng thương mại cổ phần: Ngân hàng thương mại á châu (ACB) Ngân hàng thương mại Đông á (EAB) Các dự án phát triển kinh tế có mục đích hỗ trợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Quỹ phát triển nông thôn RDF Công ty tài chính quốc tế SFI Như vậy các ngân hàng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. 2.3.3. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) Để tạo ra máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ thì chúng ta cũng rất cần nhiều từ nguồn vốn FDI. Trong xu thế hội nhập và mở cửa của nền kinh tế thị trường, thúc đẩy quan hệ giao lưu hợp tác giữa các vùng, các khu vực trên toàn thế giới. Trong quá trình đầu tư, các nhà đối tác rất thận trọng khi bỏ tiền kinh doanh vào các đối tác khác nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam. Trong quá trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước, vốn đầu tư FDI đóng góp một vai trò hết sức quan trọng, nó là một bộ phận cấu thành của hoạt động đầu tư. Tuy rằng nguồn vốn FDI không thể thay thế được các nguồn vốn khác, nhưng trong điều kiện kinh tế hiện nay nó là một trong những nguồn chủ yếu để đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước. Nguồn vốn FDI đóng góp đáng kể vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng, tăng nguồn thu ngân sách, giảm thất nghiệp. Như vậy, nguồn vốn FDI bổ xung cho sự thiếu hụt về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của cả nước, cho các doanh nghiệp ở Việt Nam. Phần 2: thực trạng huy động vốn cho việc đầu tư phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam 1. Thực trạng của việc huy động vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.1. Xu hướng gia tăng số lượng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam Với một nước đang trong giai đoạn phát triển, tốc độ phát triển còn chậm, do đó hệ thống các doanh nghiệp cũng đa dạng và phức tạp và mang những đặc điểm phù hợp với đặc điểm chung của cả nước. Và trong những năm gần đây, sự phát triển ngày càng lớn mạnh và đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được trong nền kinh tế là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng gia tăng, với sự phát triển và mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh. Trong những năm 1990 nhà nước ban hành luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân có hiệu lực năm 1991, cũng vào năm 1991 theo thống kê thì cả nước có 494 doanh nghiệp tư nhân; công ty TNHH; công ty cổ phần. Năm 1995 có 15.276 doanh nghiệp, năm 1999 số doanh nghiệp được thành lập là 30.500 doanh nghiệp tăng 74 lần so với năm 1991. Như vậy bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1991 đến 1999 tăng thêm 3.388 doanh nghiệp. Khi luật doanh nghiệp mới được áp dụng ( ngay 01/01/2000) thì tổng số doanh nghiệp đăng ký hoạt động là 14.443 doanh nghiệp với tổng số vốn đầu tư là 24.000 tỷ đồng, chiếm 16% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội ( nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam). Từ khi có luật doanh nghiệp năm 2002 thì lượng doanh nghiệp đã tăng nhanh chóng, theo điều tra số lượng doanh nghiệp đăng ký năm 2003 nhiều gấp 2 lần số lượng doanh nghiệp trong năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam lên con số 128.000 doanh nghiệp. Theo thống kê mới nhất của Bộ kế hoạch và đầu tư, tính đến cuối tháng 6 năm 2005, cả nước đã có 125.000 doanh nghiệp thành lập mới theo Luật doanh nghiệp, với tổng số vốn đăng ký 243.387 tỷ đồng trong tổng số 189.000 doanh nghiệp với 398.000 tỷ đồng vốn đăng ký khoảng 25,2 tỷ USD trên cả nước. Từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã phát triển rất nhanh, nhất là ở các đô thị, các thành phố lớn. Trên địa bàn thành phố Hà Nội, nếu như năm 2001 mới có 2.818 doanh nghiệp thì đến tháng 5 năm 2005 đã có 25.479 doanh nghiệp. Như vậy sau hơn ba năm đã có hơn 22.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời. Bình quân mỗi năm có trên 7.000 doanh nghiệp được thành lập. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế của đất nước và đang trở thành lực lượng kinh tế quan trọng. ở Hà Nội, doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng góp cho ngân sách ngày càng tăng, năm 2001 số thu từ khu vực ngoài quốc doanh có tỷ trọng là 2,6%, tổng số thu 5 tháng đầu năm 2005 là 8,17%. Trong khu vực ngoài quốc doanh số thu các doanh nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng cao, năm 2001 là 36,6%, năm 2004 là 63,8%. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực công- thương nghiệp và dịch vụ phát triển góp phần quan trọng giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Hà Nội đến nay có hơn 25.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bình quân mỗi doanh nghiệp giải quyết công ăn việc làm cho 30 lao động. Như vậy đã giải quyết công ăn việc làm cho 750.000 lao động (Nguồn: Tổng cục thống kê ngày 23/09/2005). Ngoài ra, theo đánh giá của Tổng cục thuế thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng mang lại những khoản ngân sách lớn cho nhà nước. Cụ thể như 8 tháng đầu năm 2005 ngân sách đạt là 133.610 tỷ đồng bằng 72,7% dự toán năm. Trong đó có sự đóng góp đáng kể từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh. Theo phân tích của Tổng cục thuế thì khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh có tốc độ phát triển nhanh nhất và năng động nhất trong nền kinh tế, có đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước. Số thu ngân sách từ khu vực này tăng trưởng nhanh: năm 2003 đạt 115% dự toán pháp luật, tăng 32% so với năm 2002; năm 2004 đạt 112% dự toán và tăng 26% so với năm 2003; 8 tháng năm 2005 đạt 69% và tăng 24% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến tháng 9 năm 2005 cả nước đã có 175.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, so với năm 2002 tăng 75.000 doanh nghiệp ( Nguồn: báo Hà Nội mới, thứ 4, ngày 28 tháng 9 năm 2005). Qua tình trạng chung cho ta thấy được doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng gia tăng về chất lượng và số lượng, đóng góp ngày càng nhiều ngân sách cho nhà nước, và tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Do việc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng gia tăng về số lượng như vậy cho nên việc đòi hỏi vốn là rất quan trọng và cần thiết. Ngoài ra theo điều tra ta có được doanh thu của doanh nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp sau: Bảng 1: Doanh thu thuần của doanh nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp Đơn vị: tỷ đồng Loại hình doanh nghiệp Năm 2000 2001 2002 2003 DN nhà nước 444.673 460.029 611.209 666.022 DN ngoài quốc doanh 203.156 260.565 362.615 482.181 DN có vốn đầu tư nước ngoài 161.957 177.262 221.078 287.948 Tổng số 809.786 897.856 1.194.902 1.436.151 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004 Bảng 2: Cơ cấu % doanh thu Đơn vị: % Loại hình doanh nghiệp Năm 2000 2001 2002 2003 DN nhà nước 54,91 51,24 51,14 46,37 DN ngoài quốc doanh 25,09 29,02 30,35 33,58 DN có vốn đầu tư nước ngoài 20,00 19,74 18,51 20,05 Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004 Thông qua hai bảng số liệu trên ta thấy được doanh thu thuần của khu vực nhà nước luôn ở mức cao, nhưng tốc độ tăng trưởng của nó thì rất chậm chạp và có xu hướng dang giảm dần như năm 2002 là 51,14% thì đến năm 2003 chỉ còn 46,37% và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì doanh thu chiếm tỉ lệ không cao và không ổn định. Trong khi đó khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm một tỉ lệ doanh thu tương đối và với xu hướng tốc độ tăng trưởng doanh thu ngày càng gia tăng như năm 2002 là 30,35% thì năm 2003 tăng lên 33,58%. Như vậy thông qua số liệu trên thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm ăn ngày càng có lãi, và tăng cao lượng doanh thu của doanh nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động rất đa dạng trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Nhưng đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong khu vực công nghiệp đóng góp đáng kể vào thu nhập cho xã hội và cho ngân sách nhà nước. Theo điều tra mới nhất về đóng góp của khu vực ngoài quốc doanh đến giá trị sản xuất công nghiệp ( giá so sánh 1994) tính chung 9 tháng năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước tính đạt 308,6 tỷ đồng tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng 9,6%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 29,8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,2%. Tháng 8 năm 2005, giá trị công nghiệp ước tính tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2004, doanh nghiệp nhà nước tăng 9,6%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 23,5%. Tháng 7 năm 2005, giá trị công nghiệp ước tính tăng 16% so với cùng kỳ năm trước, doanh nghiệp nhà nước tăng 10%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 23,4%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,9%. Tháng 6 năm 2005, giá trị công nghiệp ước tính đạt 39,11 nghìn tỷ đồng tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng 9,6%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng cao 24,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,4%. Tháng 5 năm 2005 giá trị công nghiệp ước tính đạt 38,41 nghìn tỷ đồng, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm trước, doanh nghiệp nhà nước tăng 10,2%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 25%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,6%. Tháng 4 năm 2005 ước tính đạt 37,35 nghìn tỷ đồng tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước, doanh nghiệp nhà nước tăng 12,5%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 23,3%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,7%. Tháng 3 năm 2005 ước tính đạt 36,77 nghìn tỷ đồng, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 2 năm 2005 ước tính đạt 29,26 nghìn tỷ đồng, chỉ bằng 80,9% tháng trước và tăng 2,1 % so với tháng 2 năm 2002. Nguyên nhân tăng chậm đi là do yếu tố mùa vụ, giá trị sản xuất của tất cả các khu vực kinh tế đều chậm và đạt ở mức trên dưới 80% giá trị sản xuất tháng một; so với tháng 2 năm trước doanh nghiệp nhà nước chỉ đạt 95,9%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 9,1%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,8%. Tháng 1 năm 2005, ước tính đạt 35,2 nghìn tỷ đồng, tăng 32,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng 25,9%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 44,8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 29,8%. Năm 2004 sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng với mức cao hơn kế hoạch đề ra và tăng cao so với năm 2003. Giá trị công nghiệp năm 2004 (tính theo giá cố định năm 1994) ước tính đạt 354 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước, doanh nghiệp nhà nước tăng 136,1 nghìn tỷ đồng tăng 11,8%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 96,2 nghìn tỷ đồng tăng 22,8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 126,3 nghìn tỷ đồng tăng 15,7%. Sáu tháng đầu năm 2004 ước tính tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước, doanh nghiệp nhà nước tăng 11,9%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 21,8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,7% ( nguồn: Sự kiện bình luận của trang web: WWW.Smenet.com.vn ngày 28 tháng 10 năm 2005). Như vậy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không những tạo ra thu nhập cho xã hội mà còn góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động. Qua số liệu điều tra về tổng số lao động trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại thời điểm 31/12 hàng năm sau: Bảng 3: Tổng số lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 hàng năm theo loại hình doanh nghiệp Đơn vị: người Loại hình doanh nghiệp Năm 2000 2001 2002 2003 DN nhà nước 2.088.531 2.114.324 2.260.306 2.264.942 DN ngoài quốc doanh 1.040.902 1.329.615 1.706.409 2.049.891 DN có vốn đầu tư nước ngoài 407.565 489.287 691.088 860.259 Tổng số 3.536.998 3.933.226 4.657.803 5.175.092 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004 Thông qua bảng số liệu trên ta thấy số lượng lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất lớn, và có quy mô ngày càng tăng cao hơn. Bảng 4: Cơ cấu % số lao động Đơn vị: % Loại hình doanh nghiệp Năm 2000 2001 2002 2003 DN nhà nước 59,05 53,76 48,53 43,77 DN ngoài quốc doanh 29,42 33,80 36,64 39,61 DN có vốn đầu tư nước ngoài 11,53 12,44 14,83 16,62 Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004 Như vậy, ta thấy số lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước đang có quy mô giảm dần theo các năm, năm 2002 là 48,53% ; đến năm 2003 chỉ còn 43,77%. Mặt khác, số lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại có xu hướng gia tăng, năm 2002 là 36,64%; năm 2003 tăng lên là 39,61%. Thông qua những số liệu thống kê trên ta thấy sự gia tăng không ngừng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hiệu quả kinh doanh mang lại ngày càng lớn. So với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có mức tăng trưởng rất cao, với % tăng doanh thu ngày càng lớn. Do đó chúng ta không thể phủ nhận được vai trò ngày càng quan trọng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nó là phần tất yếu cho thu nhập nền kinh tế, bởi thế cần có sự quan tâm thích đáng hơn cho các doanh nghiệp khu vực này. Như vậy, thông qua việc phân tích, nhìn nhận, cũng như đánh giá về đặc điểm cũng như xu hướng phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì chúng ta càng thấy được vai trò quan trọng của nó như thế nào đối với toàn bộ nền kinh tế. Do vậy cần có những giải pháp tốt nhất để thúc đẩy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển. Nhất là trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển các doanh nghiệp này. 1.2. Thực trạng của việc huy động vốn cho đầu tư phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam 1.2.1. Nguồn vốn trong nước Trong những năm qua khi nhận thức được vai trò quan trọng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì vốn đầu tư cho phát triển có xu hướng tăng lên nhưng vẫn ở mức thấp và chưa ổn định. Theo điều tra của Tổng cục thống kê thì chúng ta có cơ cấu vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế như sau: Bảng 5: Tổng số vốn đầu tư cho các khu vực kinh tế Giá thực tế (năm 1994) Tổng số Kinh tế nhà nước (tỷ đồng) Kinh tế ngoài nhà nước (tỷ đồng) Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (tỷ đồng) 1995 72447,0 30447,0 20000,0 22000,0 1996 87394,0 42894,0 21800,0 22700,0 1997 108370,0 53570,0 24500,0 30300,0 1998 117134,0 65034,0 27800,0 24300,0 1999 131170,9 76958,1 31542,0 22670,8 2000 151183,0 89417,5 34593,7 27171,8 2001 170496,0 101973,0 38512,0 30011,0 2002 199104,5 112237,6 52111,8 34755,1 2003 231616,2 125127,6 68688,6 37800,0 Sơ bộ 2004 275000,0 147500,0 84900,0 42600,0 Nguồn: tổng cục thống kê năm 2005. Thông qua số liệu bảng trên, ta thấy vốn đầu tư cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước còn ít. Mặc dù số lượng vốn đầu tư cho khu vực này có xu hướng gia tăng nhưng còn rất chậm. Trong khi đó vốn đầu tư cho khu vực kinh tế nhà nước là rất lớn. Điều đó chứng tỏ nguồn vốn huy động chủ yếu cho các khu vực kinh tế nhà nước. Nguyên nhân: vốn đầu tư cho khu vực kinh tế nhà nước thì mức độ rủi ro thấp, độ an toàn cao, còn khu vực kinh tế ngoài nhà nước mức độ rủi ro rất lớn, độ an toàn thấp, chưa tạo lập được uy tín khi vay vốn, nhất là đối với các ngân hàng thương mại. Bảng 6: Cơ cấu theo % Đơn vị: % Giá thực tế (năm 1994) Cơ cấu(%) Kinh tế nhà nước (%) Kinh tế ngoài nhà nước (%) Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (%) 1995 100 42,0 27,6 30,4 1996 100 49,1 24,9 26,0 1997 100 49,4 22,6 28,0 1998 100 55,5 23,7 20,8 1999 100 58,7 24,0 17,3 2000 100 59,1 22,9 18,0 2001 100 59,8 22,6 17,6 2002 100 56,3 26,2 17,5 2003 100 54,0 29,7 16,3 Sơ bộ 2004 100 53,6 30,9 15,5 Nguồn: Số liệu năm 2000, 2001, 2002 được điều chỉnh theo số liệu mới của ngành khai thác mỏ- Tổng cục thống kê năm 2005. Thông qua bảng số liệu trên, cơ cấu % vốn đầu tư cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước rất thấp. Trong khi đó khu vực kinh tế nhà nước thì chiếm tỷ lệ cao. Như vậy, trong khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng có sự phân chia về lượng vốn đầu tư theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, giá trị sản lượng công nghiệp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có xu hướng giảm: Năm 1997 đạt 27,3% tổng giá trị sản lượng công nghiệp cả nước; đến năm 2000 giảm xuống còn 22,44%. Như vậy có nghĩa là vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh lại giảm, phần lớn vốn đầu tư được huy động dùng để đầu tư thương mại bởi vì đầu tư trong lĩnh vực thương mại thì độ rủi ro thấp hơn trong lĩnh vực sản xuất . Ta có bảng số liệu sau: Bảng 7: % vốn đầu tư theo ngành trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Thương mại Sản xuất Số DN % Số DN % DN tư nhân 31 31,3 9 17,6 công ty TNHH 65 65,7 40 78,4 công ty cổ phần 3 3 2 3,9 Nguồn: Tạp chí Kinh tế phát triển tháng 07/2001 Qua bảng số liệu trên ta thấy hình thức công ty TNHH đều giữ vị trí cao nhất trong hai ngành sản xuất là 65,7% và 78,4%; công ty cổ phẩn là thấp nhất. Bảng 8: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Đơn vị: tỷ đồng Năm Số vốn bq hàng năm % trong tổng số vốn của các loại hình doanh nghiệp 2000 98.348 9,86 2001 142.202 11,99 2002 202.341 14,97 2003 289.625 18,47 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004 Thông qua bảng số liệu trên ta thấy được vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng gia tăng về số lượng và quy mô, năm 2002 là 14,97%; năm 2003 là 18,47%. Để tăng cường cho nguồn vốn đầu tư thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường dùng phương thức liên doanh liên kết. Qúa trình liên doanh liên kết sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp này bởi vì: Nó có thể tăng thêm nguồn vốn, mở rộng thị trường, tăng cường tính cạnh tranh, trang bị thêm kinh nghiệm quản lý cho nhà doanh nghiệp. Nhất là trong quá trình nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển và hội nhập thế giới thì hình thức liên doanh liên kết là rất cần thiết và quan trọng. Từ nguồn vốn tự có do vậy phải tạo lên tính liên kết cộng đồng doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp đã phát triển hoặc là các doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh cao trên thị trường. Khi tham gia vào quá trình liên doanh liên kết nó sẽ tạo ra lượng vốn lớn đồng thời nó sẽ cung cấp về mặt kinh nghiệm cho các doanh nghiệp để có thể cạnh tranh tốt với các doanh nghiệp khác. Nhưng trong quá trình liên doanh liên kết cũng gặp rất nhiều khó khăn như quy định lượng vốn góp, trình độ công nghệ không đồng đều, trình độ quản lý của các doanh nghiệp cũng khác nhau , do đó cơ cấu của các doanh nghiệp cũng khác nhau. Việc phân chia lợi nhuận rất khó, nhất là việc liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài. Theo ông SachioKagay Ama ( tổng giám đốc công ty Canon Việt Nam) cho rằng: chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật để các doanh nghiệp trong nước xây dựng phát triển thành nhà cung cấp linh kiện, phụ tùng và những dịch vụ hỗ trợ khác. Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu chúng tôi thấy rằng các doanh nghiệp mà phần lớn là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì khả năng đáp ứng nhu cầu về chất lượng là kém ( chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ)… Như vậy, để việc liên kết liên doanh mở rộng hơn nhất là với thế giới thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phải hoàn thiện nhiều mặt hơn nữa để tạo cơ sở vững chắc và niềm tin cho sự liên kết. Theo số liệu thống kê của MPDF cho đến nay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là đối tượng chính của nghiệp vụ tài chính ( nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) cụ thể là các doanh nghiệp này chiếm 76% tổng số hợp đồng thuê tài chính đã ký, và 66% tổng số tiền của hợp đồng thuê tài chính Bảng 9: Hợp đồng thuê tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Đơn vị : USD Đối tượng thụ hưởng Số lượng hợp đồng Số tiền trong hợp đồng DN ngoài quốc doanh 54 7.880.000 DN nhà nước 12 1.960.000 DN liên kết có vốn đầu tư nước ngoài 5 1.950.000 Tổng 71 11.490.000 Nguồn: nghiên cứu chuyên đề số 8 của MPDF Đối với nghiệp vụ này thì phạm vi của hợp đồng thuê khá rộng từ 7000 USD đến 1,5 triệu USD; mức trung bình hầu hết là 180.000 USD. Mặt khác, thời hạn trung bình thuê là 38 tháng, lâu hơn so với các khoản vay ngân hàng hiện nay. Đối với những nghiệp vụ trên, thì việc vay tiền phải có những mặt đảm bảo cho việc thế chấp bảo lãnh… 1.2.2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài FDI Trong xu hướng hội nhập ngày càng sâu, rộng vào kinh tế khu vực và thế giới, nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài chính thức có hiệu lực (năm 1998) đến nay, dòng vốn nước ngoài không ngừng gia tăng, trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế đất nước, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới, tăng kim ngạch xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập nhanh với khu vực và thế giới. Hiện nay, Việt Nam còn 5.774 dự án đầu tư nước ngoài đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký đạt 49 tỷ USD, vốn thực hiện (tính cả các dự án đã chấm dứt hoạt động) đạt 34 tỷ USD, trong đó lĩnh vực công nghiệp chiếm 67% số dự án, 60% vốn đăng ký, 69% vốn thực hiện. Lĩnh vực dịch vụ chiếm 20% số dự án, 33% vốn đăng ký, 24% vốn thực hiện; còn lại là lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Dự án đầu tư nước ngoài được phân bổ tại 64 tỉnh, thành phố trên cả nước nhưng chủ yếu tập trung vào các địa phương có điều kiện hạ tầng tương đối thuận lợi. Vốn đăng ký của khu vực đầu tư nước ngoài liên tục tăng. Nếu năm 2002 đạt 2,8 tỷ USD; năm 2004 đạt 4,2 tỷ USD thì năm 2005 dự kiến đạt trên 5 tỷ USD. Như vậy, tổng số vốn đăng ký mới trong giai đoạn 2001-2005 có thể đạt 18,5 tỷ USD tăng 68% kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tính cả xuất khẩu dầu thô tăng từ 6,8 tỷ USD năm 2000 lên 14,5 tỷ USD năm 2004, chiếm hơn 55% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; năm 2005 ước tính đạt 17,8 tỷ USD tăng 23% so với năm 2004 ( nguồn: Báo Hà Nội mới thứ sáu , ngày 04/11/2005). Nhận thức được những tác động của nguồn vốn FDI đối với phát triển sản xuất kinh doanh. Nhà nước ta ban hành luật khuyến khích đầu tư và luật đầu tư trực tiếp nước ngoài, bởi vì nguồn vốn FDI là nguồn lực quan trọng giúp cho tất cả các doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, có cơ hội tiếp cận với những công nghệ hiện đại qua chuyển giao công nghệ đầu tư, có thêm kinh nghiệm trong quản lý, nâng cao tay nghề… và tác phong công nghiệp trong sản xuất kinh doanh mà không thể mua bằng tiền được. Nắm bắt được vai trò của nguồn vốn FDI, khu vực các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có những phương hướng để thu hút vốn đầu tư từ nguồn vốn này nhưng còn thấp. Cụ thể, tính đến năm 2002 thì chỉ có 262 dự án FDI, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia với tổng số vốn đăng ký đạt 900 triệu USD. Trong khi đó tổng số dự án được cấp là 3711 và với tổng số vốn đầu tư là 38126 triệu USD. Như vậy, số dự án FDI có các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia chỉ chiếm 7% so với tổng các dự án FDI đầu tư vào Việt Nam, chiếm 2,4 % so với tổng số vốn đầu tư trong cả nước. Đây là con số khá khiêm tốn so với tiềm năng của các doanh nghiệp này. Nhưng đến năm 2005, Việt Nam đã nằm trong top 10 nước châu á về thu hút nguồn vốn FDI và có xu hướng ngày càng tăng mạnh. Thông qua một sô nhà đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam như sau: Chính phủ Thuỵ Sĩ sẽ hỗ trợ khoảng 20 doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong hoạt động sản xuất đồ da. Trong những năm qua vốn FDI từ Đài Loan ngày càng tăng, và dự kiến vượt 11 tỷ USD. Tính đến tháng 7 năm 2005 tổng số vốn đăng ký của các dự án do Đài Loan làm chủ đầu tư tại Việt Nam đạt trên 7,3 tỷ USD, đứng đầu trong các nước và vùng lãnh thổ có số vốn đầu tư tại Việt Nam. Như vậy chúng ta đã có những chính sách rất ưu ái để mời gọi đầu tư từ các vùng, khu vực trên toàn thế giới. Điều này nó thể hiện qua việc đầu tư vào các ngành, vùng, miền khác nhau. Ta có bảng số liệu về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo các ngành ( tính từ ngày 01/01/2005 đến 20/07/2005) Bảng 10: Đầu tư FDI vào Việt Nam theo các ngành TT Ngành Số dự án Tổng vốn đầu tư (nghìn USD) Vốn pháp định (nghìn USD) 1 Công nghiệp dầu khí 1 20.000 20.000 2 Công nghiệp nhẹ 137 426.052,7 186.064 3 Công nghiệp nặng 133 531.825,8 243.935 4 Công nghiệp 18 36.737 23.112 5 Xây dựng 11 17.400 10.070 6 Nông nghiệp, lâm nghiệp 34 52.555 27.359,6 7 Thuỷ sản 4 11.200 3.830 8 Giao thông vận tải và bưu chính 14 675.270 664.950 9 Khách sạn, du lịch 4 5.000 2.700 10 Văn hoá, y tế, giáo dục 13 24.274,2 13.459,6 11 Xây dựng, văn phòng, căn hộ 1 85000 25.500 12 Xây dựng khu đô thị mới 5 193.881 72.071,2 13 Dịch vụ 44 20.705,3 10.035,1 Tổng 419 2.099.901 1.298.086 Nguồn: tổng cục thống kê năm 2005. Như vậy thì số vốn FDI vào Việt Nam đa dạng theo ngành, số lượng cũng tăng. Để thu hút vốn FDI đòi hỏi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần phải nỗ lực rất nhiều, trước tiên phải tạo cho các nhà đầu tư an tâm về nguồn vốn của họ, đồng thời các doanh nghiệp này cũng phải biết phát huy nguồn vốn đó để thực hiện kinh doanh tạo ra lợi nhuận cho các chủ đầu tư, cho bản thân chủ doanh nghiệp, và tạo công ăn việc làm cho xã hội, tăng thu nhập cho nền kinh tế. 1.2.3. Nguồn vốn từ ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại như là một chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường, nó đưa doanh nghiệp vào thị trường để cạnh tranh. Doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển phải có chỗ dựa vững chắc về ngân hàng, đây cũng là hình thức tốt nhất để doanh nghiệp đảm bảo phương thức trao đổi, bảo lãnh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và vay vốn. Ngoài ra, ngân hàng cũng là nguồn cung cấp vốn chủ yếu và quan trọng cho các doanh nghiệp. Do đó, các ngân hàng cũng có các quy tắc khi cho vay vốn như việc các ngân hàng đưa ra các mức lãi suất huy động như: Lãi suất = huy động Tỷ lệ lạm phát + bình quân Tỷ lệ thu nhập kỳ vọng của người gửi tiền Mặt khác các ngân hàng cũng xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất gốc Lãi suất = nguồn vốn (nhóm nguồn) Lãi suất gốc (lãi suất tái + chiết khấu hoặc lãi suất liên ngân hàng)lãi suất trái phiếu ngắn hạn của chính phủ Tỷ lệ thu nhập kỳ vọng của người gửi tiền Hiện nay, với diễn biến huy động vốn của các ngân hàng tại Hà Nội có thể khẳng định đây là thị trường có tính cạnh tranh cao và công cụ chủ yếu và thường xuyên vẫn là lãi suất. Ngân hàng cổ phần Đông Nam á luân dẫn đầu về lãi suất huy động vốn cao, với kỳ hạn 36 tháng tiền gửi VNĐ lên tới 0,81%/tháng, tương đương 9,72%. Kể từ ngày 25/08/2005 thì lãi suất huy động vốn nội tệ kỳ hạn 36 tháng trả lãi sau cho số tiền gửi trên 500 triệu đồng lãi suất là 0,83%/tháng tức 9,84%/năm và gửi dưới 100 triệu đồng mức lãi suất là 0,81%/tháng. Từ ngày 01/09/2005 lãi suất kỳ hạn tương tự của hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn Hà Nội đều vượt ra ngoài giới hạn thoả thuận về lãi suất. Tính chung so với tháng 07/2005 lãi suất huy động vốn cuối tháng 8 và đầu tháng 9 năm 2005 của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội tăng 0,2-0,36%/năm đối với nội tệ và 0,25 – 0,3%/năm đối với ngoại tệ. Nhìn chung toàn cảnh thị trường huy động vốn ở Hà Nội, tính đến hết tháng 8 năm 2005 tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội đạt 177226 tỷ đồng. Trong cơ cấu vốn huy động thì tiền gửi tiết kiệm của dân cư tăng 14,58%, tiền gửi của các tổ chức kinh tế chỉ tăng 6,8%; tiền gửi ngoại tệ tăng 8,03% trong khi đó tiền gửi nội tệ tăng 11,19%. Điều đó chứng tỏ trong dân cũng đang tồn tại một lượng vốn rất lớn, cần phải huy động nguồn vốn này cho việc đầu tư phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Như vậy, việc huy động vốn từ các ngân hàng thương mại là rất lớn cho việc đầu tư phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vì vậy, các doanh nghiệp này cần phát huy tốt hơn nữa trong việc huy động các nguồn vốn này để phục vụ cho việc đầu tư phát triển và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn làm được điều này một cách tốt nhất thì các doanh nghiệp này nghiên cứu thật kỹ lưỡng mức lãi suất mà ngân hàng đưa ra có phù hợp với việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không? lượng vốn vay như thế nào là hợp lý. Tránh việc vay thừa vốn để chịu thêm khoản lãi suất không đáng có đảm bảo lượng vốn kinh doanh tốt nhất cho doanh nghiệp mình. 2. Thuận lợi và khó khăn trong việc huy động vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh 2.1. Thuận lợi Trong quá trình huy động vốn để đầu tư phát triển, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt được những kết quả đáng kể, nguồn vốn cho khu vực này càng tăng, đồng thời tăng cả về số lượng các doanh nghiệp. Điều đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tạo sự cân bằng trong nền kinh tế đất nước. Việc tiếp cận với các nguồn vốn vay của các doanh nghiệp này cũng có nhiều thuận lợi đáng kể như: nguồn vốn vay rất phong phú về số lượng và chất lượng. Trong quá trình hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn làm ăn có hiệu quả, do vậy tạo được niềm tin cho nhà cung ứng vốn. Do vậy, tăng thêm nguồn vốn đầu tư để phát triển mở rộng thị trường kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra khu vực các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động rất đa dạng về các ngành nghề kinh doanh do vậy tiếp cận được với nhiều vốn hơn. Thu hút đáng kể được nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, trong quá trình huy động vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã được rất nhiều thuận lợi như số lượng doanh nghiệp ngày càng tăng, quy mô vốn của các doanh nghiệp cũng tăng. Do đó tạo thuận lợi cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho xã hội, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển, tăng thu nhập cho xã hội và đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Song song với những thuận lợi trên là những khó khăn mà doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang gặp phải trong quá trình huy động vốn cho đầu tư phát triển. 2.2. Những khó khăn Trong quá trình huy động vốn thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp không ít những khó khăn như chậm triển khai chính sách hỗ trợ doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình huy động vốn, thủ tục vay vốn còn phức tạp, không thông thoáng, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong khi vay vốn. Đa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khả năng cạnh tranh còn yếu: công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém… Do vậy việc tiếp cận các nguồn vốn vay còn nhiều hạn chế. Lượng vốn vay còn ít, chưa đáp ứng được việc sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong nền kinh tế do còn tồn tại nhiều vấn đề của có cơ chế cũ để lại như o ép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc làm thủ tục thành lập, thủ tục vay vốn… khiến cho các nhà đầu tư chưa thực sự yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh, làm cho năng lực nội sinh của nền kinh tế chưa được phát huy tối đa để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế. Các nhà đầu tư nước ngoài chưa tin tưởng vào môi trường kinh doanh ở Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, do đó việc huy động nguồn vốn FDI của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất khó. Còn tồn tại một lượng vốn lớn nhàn rỗi trong dân mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa huy động được. Như trên là những khó khăn cơ bản của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển. Để tìm hiểu những khó khăn trên chúng ta đi tìm nguyên nhân của những khó khăn đó. 2.3. Nguyên nhân Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới những khó khăn trên như : Thứ nhất, chính sách luật pháp của nhà nước chưa thực sự đi vào đời sống của doanh nghiệp. ở đây, chúng ta xem xét luật khuyến khích đầu tư trong nước. Nhằm phát huy tối đa nguồn nội lực trong nước để đầu tư phát triển, nhà nước đã tiến hành xây dựng Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Cho đến nay luật đã đi vào thực hiện 9- 10 năm ( từ 01/01/1995), nhưng hiệu quả của luật vẫn chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Trong luật vẫn còn có những điểm chưa rõ ràng về đối tượng và lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư, dẫn đến sự ái ngại của chủ đầu tư khi muốn bỏ vốn vào đầu tư . Do đó lượng vốn cho phát triển giảm đáng kể. Thứ hai, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hầu hết là các doanh nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, vốn kinh doanh là ít. Do vậy hạn chế khả năng liên doanh liên kết với các nhà đầu tư từ nước ngoài. Vốn của các doanh nghiệp này chủ yếu được huy động từ bạn bè và người thân, còn vay ngân hàng thương mại, các quỹ hỗ trợ là rất khó khăn vì tâm lý của các cán bộ ngân hàng đều chỉ muốn cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước vay. Thứ ba, các mối quan hệ của các doanh nghiệp còn ít, uy tín chưa cao. Do vậy hạn chế việc tiếp cận các nguồn vốn đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. 3. Giải pháp để huy động vốn cho đầu tư phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam Thứ nhất, cần thiết đổi mới về chính sách và chế độ của nhà nước ta, về cơ chế, chính sách như ban hành luật khuyến khích đầu tư và ngày càng hoàn thiện hơn nữa về luật đầu tư. Nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp này trong việc thu hút các dự án đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, đồng thời huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Hoàn thiện chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, để đối tác nước ngoài không phân biệt họ khi lựa chọn đối tác đầu tư. Cụ thể như quy định về thuế, nguồn vốn vay của các ngân hàng và sử dụng công bằng trong việc giao quyền sử dụng đất, để tạo cơ hội cho doanh nghiệp có thể liên doanh liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài.Quỹ hỗ trợ đầu tư nước ta, cần có những chính sách hợp lý trong hỗ trợ vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là chính sách lãi suất cho vay. Hơn thế nữa, các thủ tục vay vốn cần phải thông thoáng gọn nhẹ và nhanh chóng để thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn. Các cơ quan quản lý và xúc tiến thương mại nên có những đổi mới về nhận thức. Đặc biệt, cơ quan xúc tiến thương mại nên giới thiệu sản phẩm, tiềm lực thực sự của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với các nhà đầu tư nước ngoài, để họ chủ động tự quyết định đối tác đầu tư phù hợp. Nhìn chung, nhà nước cần thiết phải đổi mới cơ chế chính sách nhanh chóng và kịp thời để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển hơn nữa. Thứ hai, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần thiết phải đổi mới. Về phía mình, các doanh nghiệp cần chủ động tìm đến các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, phải tìm cách huy động vốn bằng liên kết, liên doanh, với các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp này phải tìm hiểu kỹ lưỡng và có những thông tin đầy đủ về các chủ đầu tư có tiềm năng, đồng thời chủ động lựa chọn đối tác cho mình để đi đến đàm phán ký kết hợp đồng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần cung cấp mọi thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh cùng với nhu cầu về vốn liên doanh với đối tác nước ngoài bằng các phương tiện truyền thông như Internet, qua hiệp hội, qua cơ quan xúc tiến thương mại… chủ động trong việc tạo uy tín và thương hiệu của mình để tạo sự an tâm cho các chủ đầu tư. Có như vậy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới huy động được vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Cuối cùng, các doanh nghiệp cần tạo thêm niềm tin cho mình thông qua các dự án đầu tư có tính khả thi và sinh lời cao mà họ đầu tư thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó giúp các nhà đầu tư tin tưởng và góp vốn lâu dài. Mặt khác, các doanh nghiệp cần phải khai thác tối đa hoá tác động tích cực của ngồn vốn FDI nhằm củng cố khả năng hợp tác phát triển lâu dài trên cơ sở đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của quốc gia. Kết luận Trong quá trình hình thành và phát triển, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng đang ngày càng phát triển và khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế nước nhà. Như chúng ta thấy số lượng doanh nghiệp ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Quy mô hoạt động của khu vực doanh nghiệp này ngày càng rộng hơn, với nguồn vốn ngày càng nhiều và phong phú, và cũng thu hút được đáng kể các nguồn vốn cho việc đầu tư, mở rộng doanh nghiệp. Nổi bật là nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại, và dần từng bước tiếp cận với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Ngoài ra, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng đang ngày càng nhận được sự quan tâm của nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi cho việc các doanh nghiệp này tiếp cận với nhiều nguồn vốn hơn. Song song đó thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng còn gặp không ít khó khăn như: Nguồn vốn đầu tư của nhà nước cho khu vực này còn ít, việc giao dịch với các ngân hàng còn nhiều khó khăn, thủ tục phức tạp, quy mô hoạt động nhỏ lẻ, không đồng đều; do đó trình độ công nghệ kỹ thuật, máy móc thiết bị còn lạc hậu, trình độ quản lý chưa cao, chưa tạo được niềm tin lớn khi tiếp cận với các nguồn vốn nhất là các nguồn vốn nước ngoài. Tài liệu tham khảo Báo Hà Nội mới, thứ tư này 28/09/2005. Chuyên đề nghiên cứu kinh tế của MPDF Chuyên đề nghiên cứu kinh tế số 2, 10/2000 Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư, Trường đại học kinh tế quốc dân. Giáo trình kinh tế đầu tư, Trường đại học kinh tế quốc dân. Giáo trình quản trị dự án, Trường đại học kinh tế quốc dân. 6. Niên giám thống kê 2004, Nxb Thống kê- Hà Nội, năm 2005. 7. Niên giám thống kê 2004, Cục thống kê TP Hà Nội. 8. Ngân hàn thương mại Trường đại học kinh tế quốc dân. 9. Thời báo kinh tế Việt Nam. 10. Thời báo ngân hàng số 80 (1069) thứ sáu ngày 07/10/2005. 11. www. Gso.gov.vn ( tổng cục thống kê) 12. wwww.vcci.com.vn (phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam) 13. www.smenet.com.vn. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28133.doc
Tài liệu liên quan