Đề án Giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Chủ trương CPH một bộ phận DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong quá trình cải cách và sắp xếp lại các DNNN, nhằm đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định, song công tác CPH vẫn diễn ra rất chậm và chưa hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đặt ra. Trong thời gian học tập ở trường, em đã tập trung nghiên cứu hoạt động CPH – DNNN ở nước ta. Với vốn kiến thức đã được học, kết hợp với việc nghiên cứu tình hình thực tế, em đã trình bày một số vấn đề về thực trạng CPH-DNNN của nước ta. Nhưng vì thời gian và kiến thức có hạn, nên đề tài chưa đi sâu vào các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ tác động trực tiếp lâu dài tới quá trình CPH. Các giải pháp trong đề tài chỉ mang tính chất cơ bản, chưa tạo ra bước ngoặt lớn trong quá trình CPH. Tuy nhiên, em cũng hy vọng rằng, những giải pháp này sẽ đóng góp một phần nào đó nhằm đẩy nhanh tiến độ CPH – DNNN ở nước ta hiện nay.

doc31 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 601 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiến hành bán một phần hay toàn bộ giá trị DNNN cho các cổ đông thuộc mọi thành phần kinh tế dưới hình thức phát hành cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoánhoạc thông qua đấu giá trực tiếp.Về thực chất ,cổ phần hoá DNNN là quá trình đa dạng hoá quyền sở hữu tài sản.Sau khi tiến hành cổ phần hoá thì phương thức kinh doanh và tổ chức quản lý của doanh nghiệp có sự chuyển đổi lớn.Hoạt động của nó bây giờ không chịu sự quản lý của nhà nước nữa mà chịu sự giám sát trực tiếp của các cổ đông.Cổ phần hoá DNNN là quá trình xã hội hoá quyền sở hưũ ở mức cao nhất,trong đó xu hướng chung và mang tính đặc trưng của nó là bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp cổ phần hoá.Việc làm này khiến cho không một cá nhân hay tổ chức tư bản nào có thể nắm giữ và điều hành được doanh nghiệp. Kết quả của cổ phần hoá là sự ra đời của các công ty cổ phần. II. Nội dung của CPH- Các bước tiến hành: 1 Đối tượng áp dụng CPH Đối tượng làm thí điểm CPH là các DNNN có đủ ba điều kiện sau: Thứ nhất: Là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Thứ hai: Các DNNN không thuộc diện nhà nước cần đầu tư 100% vốn (như an ninh, quốc phòng hoặc một số ngành then chốt) Thư ba: Các DNNN đang làm ăn có lãi hoặc tuy trước mắt gặp khó khăn nhưng tương lai hoạt động tốt. 2 Các phương pháp CPH – DNNN Hiện nay có một số phương pháp CPH - DNNN hay được sử dụng trên thế giới là: Bán cổ phần cho công chúng: Là việc nhà nước bán toàn bộ hay một phần sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp cho công chúng. Việc bán này thường được thực hiện thông qua sở giao dịch chứng khoán hay một tổ chức tài chính trung gian. Cũng có khi việc bán một số cổ phần cho công chúng được thực hiện cùng với các biện pháp khác như bán một phần nhất định cho một số nhà đầu tư được định trước. - Bán cổ phần cho tư nhân: Thực hiện phương pháp này có nghĩa là: Nhà nước bán một phần hay một số cổ phần của doanh nghiệp thuộc sở hữu một phần hay hoàn toàn của nhà nước cho một số cá nhân hay một nhóm nhà đầu tư tư nhân thông qua đấu thầu có tính cạnh tranh hay những người mua đã được xác định trước. - Những người quản lý và lao động mua doanh nghiệp. Phương pháp CPH thường được lựa chọn để thực hiện đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Phương pháp này tạo ra sự khuyến khích lớn đối với việc tăng năng suất lao động, đồng thời cũng là cách giải quyết vấn đề lao động trong trường hợp doanh nghiệp sắp bị giải thể. Phương pháp này được áp dụng với kết quả rất hạn chế vì nó đòi hỏi cần phải có nguồn tài chính và tín dụng đảm bảo việc chuyển giao doanh nghiệp cho cán bộ quản lý và người lao động. ở Việt nam hiện nay, CPH-DNNN được tiến hành theo ba phương pháp sau: + giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển. + Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp. + Tách một phận của doanh nghiệp có đủ điều kiện để CPH. 3. Xác định giá trị hiện có của doanh nghiệp Nhà nước trước khi CPH. Giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm CPH là giá trị thực tế của doanh nghiệp mà người bán và người mua cổ phần đều chấp nhận được, xác định bằng số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm CPH đã được kiểm toán hợp pháp xác nhận. 3.1 Nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp. DNNN trước khi chuyển thành công ty cổ phần, cần được tiến hành xác định giá trị theo các nguyên tắc: - Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm CPH mà người mua, người bán đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả. - Lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về địa lý, uy tín, mặt hàng (nếu có). Lợi thế ở tỷ suất lợi nhuận thực hiện tính trên vốn bình quân 3 năm trước khi CPH. Giá trị lợi thế nói trên chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh nghiệp. Khi xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp không nhất thiết phải thuê kiểm toán độc lập. Những doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê thì cơ quan quyết định giá trị doanh nghệp xem xét thuê tổ chức kiểm toán độc lập xác định. Tiền thuê kiểm toán được tính vào chi phí CPH. 3.2 Căn cứ xác định giá trị doanh nghiệp. - Trên sổ sách: + Số liệu giao vốn gần nhất. + Biên bản xét duyệt kế toán 3 năm trước khi CPH. + Toàn bộ chứng từ sổ sách liên quan. - Số liệu kiểm kê thực tế. + Tài liệu kiểm kê và tài sản tiền vốn, vật tư hàng hoá. + Biên bản đối chiếu công nợ các bên đã xác nhận. + Hợp đồng giấy phép liên doanh, liên kết (nếu có) + Các tài liệu khác về đầu tư tài chính. - Hiện trạng và giá trị hiện hành của từng loại tài sản, vật tư, hàng hoá. 3.3 Xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp. a. Đối với tài sản cố định, tài sản lưu động là hiện vật đã được kiểm kê tính theo công thức sau: Giá trị thực tế tài sản = Số lượng thực tế của từng tài sản x Giá thị trường của tài sản tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp x Chất lượng còn lại của tài sản (%) b. Đối với tài sản là vốn bằng tiền thì tính theo số dư vốn bằng tiền đã kiểm quỹ hoặc đã đối chiếu tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Nếu số dư là ngoại tệ thì phải quy đổi ra tiền Việt nam theo tỷ giá liên ngân hàng công bố tại thời điểm gần nhất. c. Đối với nợ phải thu là các khoản nợ đã được đối chiếu xác nhận. d. Đối với các khoản chi phí dở dang (bao gồm chi phí sản xuất, kinh doanh, chi phí sự nghiệp, chi phí đầu tư xây dựng) thì tính theo số dư chi phí thực tế trên sổ sách kế toán. e. Đối với tài sản đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn thì tính vào giá trị doanh nghiệp các khoản mà công ty cổ phần sẽ tiếp tục kế thừa. g. Đối với tài sản ký cược, ký quỹ ngắn hạn và dài hạn thì tính theo số dư thực tế trên sổ sách kế toán đã đối chiếu xác nhận tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. h. Đối với tài sản vô hình (nếu có) thì tính theo giá trị còn lại đang hạch toán trên sổ kế toán. i. Đối với doanh nghiệp có lợi thế kinh doanh thì phải tính thêm giá trị lợi thế vào giá trị thực tế của doanh nghiệp như sau: - Trường hợp giá trị lợi thế (như uy tín mặt hàng, vi trí địa lý) đã được đánh giá thì lấy số dư thực tế trên sổ sách kế toán để tính vào giá trị doang nghiệp. - Trường hợp chưa xác định được giá trị lợi thế kinh doanh thì căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch bình quân của 3 năm liền kề với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp để tính lợi thế theo công thức: Tỷ suất lợi nhuận bình quân 3 năm của doanh nghiệp = Tổng số lợi nhuận thực hiện của 3 năm liền kề. Tổng số vốn Nhà nước theo sổ kế toán 3 năm liền kề. Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch = Tỷ suất lợi nhuận bình quân 3 năm của doanh nghiệp - Tỷ suất lợi nhuận bình quânchung của doanh nghiệp Nhà nước cùng ngành nghề trên cùng địa bàn ( Tỉnh, Thành phố ) Giá trị lợi thế tính vào giá trị doanh nghiệp = Vốn nhà nước theo sổ kế toán bình quân của 3 năm liền kề x Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch x 30% Giá trị thực tế của doanh nghiệp để CPH là tổng các khoản nó trên ( a + b + c + d + e +g +h + i ). k. Những doanh nghiệp không thực hiện đúng qui định của pháp luật về kế toán, thống kê thì cơ quan quyết định giá trị doanh nghiệp xem xét thuê tổ chức kiểm toán độc lập xác định. Tiền thuê kiểm toán được tính vào chi phí CPH. 3.4 Xác định giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là phần còn lại của giá trị thực tế doanh nghiệp trừ đi các khoản nợ thực tế phải trả, kể cả số dư Quĩ phúc lợi, khen thưởng. 4. Ưu thế của CPH – DNNN. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và đầy rẫy những biến động, CPH – DNNN là lối ra phù hợp với khu vực kinh tế Nhà nước, là giải pháp ưu thế trên nhiều mặt sau: Thứ nhất: CPH giải toả được bế tắc khủng hoảng về vốn cho doanh nghiệp CPH để tạo điều kiện cho nó mở rộng sản suất kinh doanh. CPH có chức năng thúc đẩy quá trình xã hội hoá tư bản (vốn ), thu hút và tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện nguyên lý kinh tế “ Tiền đẻ ra tiền” theo công thức: T – H – T’ (T’ > T). CPH có ưu điểm làm giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho nhà nước, Nhà nước có thể thu hồi bớt vốn đầu tư ở doanh nghiệp để chuyển sang đầu tư cho các hoạt động cần ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển toàn bộ xã hội, như đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật, công trình phúc lợi, giáo dục khoa học kỹ thuật. Thứ hai: CPH thông qua đa dạng hoá sở hữu để tạo động lực cho người lao động. CPH đảm bảo sở hữu hoá cho người lao động tại công ty, xí nghiệp bằng cách cho họ tham gia đầu tư mua cổ phiếu, thực hiện quyền làm chủ thực sự, có tính vật chất trên phần vốn đóng góp của họ và thật sự phấn đấu hăng hái cho nâng cao hiệu quả đồng vốn đó. Động lực kinh tế này góp phần khắc phục tư tưởng công chức, tác phong hành chính, bị động, sợ sệt, không dám mạnh dạn trong sản xuất kinh doanh vốn là nhược điểm của một số cán bộ lãnh đạo DNNN. Biến họ từ vị trí công trức nhà nước thành nhà kinh doanh thực sự sống chết vì sự tồn tại và phát triển của công ty. Đồng thời đây còn là điều kiện xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh. Thứ ba, CPH cho phép dứt bỏ được chế độ bao cấp ngân sách của nhà nước, gạt bỏ được sự chỉ đạo nhiều khi phi kinh tế của các cơ quan chủ quản bên trên. đồng thời làm cho doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể kinh doanh, chỉ hoạt động vì mục tiêu của doang nghiệp vì tập thể cổ đông giao phó và hoạt động bình đẳng theo pháp luật, luật công ty, không bị chi phối, ràng buộc phi kinh tế, phi lợi ích, gây tác hại và làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiêp. Từ đó, thực hiện được quyền làm chủ và động lực thực sự cho công ty cổ phần, khắc phục được nhược điểm làm chủ trừu tượng chung chung trong các DNNN, thực hiện thống nhất hài hoà về lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Thứ tư, CPH tạo điều kiện cải tiến, đổi mới công tác lãnh dạo, quản lý doanh nghiệp, tập trung vào đồng bộ thống nhất thực sự vì lợi ích chung và lợi ích riêng trong doanh nghiệp. Thông qua bộ máy điều hành của công ty cổ phần. Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị – Giám đốc điều hành, để kết hợp phân phối theo lao động với phân phối lợi nhuận ròng theo cổ phần, giải quyết thoả đáng cùng một lúc quyền lợi của người cổ đông có vốn với người lao dộng tham gia sức lao động trong quá trình sản suất, kinh doanh. Giám đốc điều hành có thể được lựa chọn và thuê từ các nhân tài có tư duy khoa học và kinh nghiệm xuất sắc trong sản xuất kinh doanh, các doanh nhân chuyên nghiệp. Đây là tiền đề đảm bảo thành công cho đổi mới, quản lý, cải tiến công ty cổ phần. Thứ năm, CPH tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần được tự chủ, tự động trong quan hệ tự nguyện liên doanh liên, kết kinh tế với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, mở ra khả năng tự nguyện hợp tác kinh doanh. III Những yếu tố tác động đến quá trình CPH - DNNN ở nước ta. Công việc CPH các DNNN ở nước ta được tiến hành trong điều kiện đặc thù với những yếu tố thuận lợi và khó khăn nhất định, cụ thể là: 1. Về các yếu tố thuận lợi - Điều kện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp họat động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện CPH các DNNN. - Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề CPH các DNNN và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản pháp luật và dưới luật nhằm thực hiện chương trình CPH DNNN như luật công ty, Quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất trong khu vực kinh tế nhà nước, Nghị định 338- HĐBT về thành lập và giải thể DNNN, đặc biệt là quyết định 202- HĐBT và chỉ thị 84-TTg của thủ tướng Chính phủ về thí điểm CPH một số DNNN Ngoài ra còn có các quyết định, thông tư của các Bộ và liên Bộ cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện. - Tình hình kinh tế của đất nước đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Giá cả thị trường đã được duy trì theo hướng tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã được giá, lãi suất ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các doanh nghiệp Nhà nước được CPH. - Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giẩ ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được CPH. - Hoạt động trong cơ chế thị trường với thời gian chưa lâu nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh lớn; người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho công việc thực hiện CPH các DNNN. - Với luật đầu tư nướcc ngoài và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của nước nngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cổ phiếu vào các DNNN sẽ được tiến hành CPH. - Ngoài ra, với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nướcc trên thế giới trong quá trình CPH - DNNN sẽ là những bài học bổ ích và quý giá để Nhà nước tiến hành hoạch dịnh chính sách và tổ chứcthực hiện công việc CPH các DNNN tại Việt Nam. 2. Về các yếu tố khó khăn và cản trở - Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình CPH ở nước ta là do khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ, lúng túng cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu,do đó làm cho việc tiến hành chương trình CPH ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển hình thái công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng. - Cùng với sự yếu ớt và nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một thị trường tài chính thực sự, trong đó có thị trường chứng khoán. Như chúng ta biết, thị trường chứng là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong một nền kinh tế thị trường: nó vừa là điều kiện, vừa là tấm gương phản chiếu sự ra đời và hoạt động của các công ty cũng như huy động vốn trên thị trường tài chính. Sự thiếu vắng thị trường chứng khoán đi liền với nó là thiếu hệ thống pháp lý và tổ chức vận hành đã gây khó khăn và cản trở cho quá trình CPH. Đó là việc định giá doanh nghiệp để CPH, việc phát hành và lưu thông cổ phiếu, việc mua bán chuyển nhượng cổ phiếu, hệ thống pháp lý và tổ chức để bảo đảm duy trì được hoạt động của thị trường chứng khoán. Đây là hai yếu tố quan trọng gây khó khăn và cản trở đến việc thực hiện CPH các DNNN ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có một số yếu tố đặc thù khác cũng góp phần không nhỏ gây khó khăn và cản trở cho việc CPH đó là: Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của Nhà nước về luật pháp , thuế khoá, tiền tệ, chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho những người muốn đầu tư lâu dài. Nhiều chính sách ra đời chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau và thay đổi đột ngột, lạm phát chưa được kiềm chế một cách chắc chắn và vẫn còn ở mức hai con số; sự đổi mới của hệ thống ngân hàng và cơ chế hoạt động tín dụng quá chậm trễ so với đòi hỏi của cơ chế thị trường là những yếu tố gây bất lợi cho môi trường đầu tư trong nước, và do đó gây bất lợi cho quá trình CPH các DNNN. Các DNNN hầu hết có trang bị máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, biên chế cồng kềnh, khả năng cạnh tranh thấp.. do đó khó có thể tiến hành CPH các doanh nghiệp này; số doanh nghiệp có đủ khả năng hấp dẫn để CPH còn quá ít. Và những doanh nghiệp có lợi nhuận cao thì Nhà nước lại chưa có ý định tiến hành CPH. Điều này gây khó khăn cho việc lựa chọn các doanh nghiệp CPH cũng như thu hút sự hưởng ứng của đông đảo những người có vốn muốn đầu tư bằng cổ phiếu. Về tư tưởng và tâm lý của đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này, thậm chí còn có những phản ứng nhất định ở những người đang sống yên ổn trong khu vực Nhà nước. Về mặt suy nghĩ, nhiều người làm công tác lãnh đạo và quản lý Nhà nước vẫn chưa đoạn tuyệt được quan điểm coi kinh tế Nhà nước là CNXH và vì vậy, thu hẹp khu vực này có nghĩa là rời xa CNXH, là phá vỡ cơ sở của CNXH. Đa số các giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp thì ngần ngại, thậm chí phản đối vì sợ chuyển từ “người chủ” thành người “làm thuê cao cấp”, sẽ chịu sự đánh giá và kiểm soát của Hội đồng quản trị và các cổ đông về trình độ năng lực của mình, còn những người lao động thì lo sợ mất việc làm, mất biên chế Nhà nước Đó là những trở ngại chủ quan không thể không được tính đến trong quá trình tiến hành CPH các DNNN. Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến chương trình CPH như các khoản trợ cấp cho người lao động thất nghiệp, chi phí đào tạo lại nghề mới và thời gian tìm việc, các chi phí cho chính sách xã hội và bảo hiểm, các chi phí để thực hiện công việc tư vấn, quảng cáo, môi giới đầu tư, chi phí phát hành và các dịch vụ về buôn bán cổ phiếuNhững khoản phí tổn này là không thể bỏ qua được và thường rất lớn. Đây là chưa kể đến chính sách bán cổ phiếu giá thấp và tín dụngcho một số đối tượng nhất định để khuyến khích và thực hiện mục tiêu xã hội sẽ làm cho chi phí tăng lên nhiều hơn nữa. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ sẽ lợi dụng cơ hội này để tẩu tán tài sản của Nhà nước nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ. Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất. Điều này gây nhiều trở ngại cho việc định giá giá trị của doanh nghiệp, tình hình và triển vọng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được CPHvà do đó gây khó khăn cho việc cung cấp thông tin trung thực, tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phiếu với những doanh nghiệp này. Phần II Thực trạng vấn đề CPH các DNNN ở nước ta hiện nay Tình hình tiến triển. CPH-DNNN được bắt đầu từ những năm 90, đã trải qua các thời kỳ thí điểm đến thực hiện một cách bình thường đối với các DNNN nằm trong danh mục cần tién hành CPH và đa dạng hoá các hình thức sở hữu, mô hình tổ chức quản lý. 1.1 Thời kỳ thí điểm. Thời kỳ này, thực hiện quyết định số 202/CT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), các bộ, các ngàng đã hướng dẫn DNNN đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang Công ty cổ phần. Trên cơ sở số lượng DNNN đã đăng ký, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng đã ra quyết định số 203/CT ngày 8-6-1992 chọn 7 DNNN do Chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành Công ty cổ phần: Nhà máy xà bông (Thuộc liên hiệp Công ty bột giặt miền Nam, Tổng Công hoá chất II, Bộ công nghiệp nặng). Nhà máy diêm Thống Nhất (thuộc liên hiệp sản xuất – xuất nhập khẩu giấy gỗ diêm, Bộ công nghiệp nhẹ). Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc (thuộc Công ty chăn nuôi và thức ăn gia súc I, Bộ Nông nghiệp và công nghệ thực phẩm). Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình (thuộc Tổng Công ty dịch vụ, sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản 3, Bộ lâm nghiệp). Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (thuộc Tổng Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Hà Nội, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội). Xí nghiệp may mặc (thuộc Công ty dệt – da – may Legamex, UBND TP. Hồ Chí Minh). Tuy nhiên sau thời gian làm thử, 7 doanh nghiệp Nhà nước Chính phủ chọn thí điểm đều xin rút lui hoặc không đủ điều kiện để tiến hành CPH như Nhà máy xà bông miền Nam, Xí nghiệp may mặc (thuộc Công ty dệt – da – may Legamex) Trong số hơn 30 DNNN đăng ký với Bộ Tài chính để thực hiện CPH thì sau hơn bốn năm thực hiện Quyết định số 202/CT có năm DNNN chuyển thành Công ty cổ phần là: Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (Bộ giao thông vận tải). Công ty cổ phần cơ điện lạnh (TP. Hồ Chí Minh) Công ty cổ phần giầy Hiệp An (Bộ công nghiệp). Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh Long An). Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (Bộ Nông nghiệp). 1.2 Thời kỳ mở rộng thí điểm và thực hiện bình thường (1996 -2000) Từ năm 1996 – 2000 là giai đoạn mở rộng thí điểm. Ngày 7/5/1996 chính phủ đã ban hành nghị định số 28/CP “ về việc chuyển một số DNNN thành Công ty cổ phần”, thay thế cho quyết định số 202/CT với những quy định cụ thể rõ ràng hơn. Thực hiện nghị định số: 28/CP, công tác CPH-DNNN đã được quan tâm hơn cụ thể: có 30 tỉnh, thành phố, Bộ , ngành và các tổng công ty 91 đã đăng ký thực hiện CPH hơn 200 DNNN, nhưng đến đầu năm 1998 mới có 18 DNNN thực hiện CPH, chuyển sang hoạt động theo luật Công ty với tổng số vốn là: 121384.000.000đ, trong đó: - Phân theo ngành: Ngành Giao thông vận tải 4 doanh nghiệp Ngành Công nghiệp 7 doanh nghiệp Ngành xây dựng 1 doanh nghiệp Ngành chế biến Nông lâm thuỷ hải sản 3 doanh nghiệp Ngành dịch vụ 3 doanh nghiệp Phân theo lãnh thổ: TP. Hồ Chí Minh 10 doanh nghiệp TP. Hà Nội 1 doanh nghiệp TP. Hải Phòng 1 doanh nghiệp Tỉnh Long An 1 doanh nghiệp Tỉnh Ninh Bình 1 doanh nghiệp Tỉnh Bình Định 1 doanh nghiệp Tỉnh Cà Mau 1 doanh nghiệp Tỉnh An Giang 1 doanh nghiệp TP. Đà Nẵng 1 doanh nghiệp Trong số 18 công ty cổ phần có 1 công ty cổ phần nhà nước không nắm giữ cổ phần, 17 công ty còn lại nhà nước nắm giữ cổ phần ít nhất là 18%, cao nhất là 51%, cổ phần còn lại do cổ đông ngoài xã hội chiếm giữ. So với yêu cầu cải cách doanh DNNN và số lượng doanh nghiệp nhà nước trong diện CPH thì kết quả đạt được trong các năm 1992 – 1998 là quá ít, tốc độ cổ phần hoá rât chậm. Từ năm 1998 đến nay là giai đoạn thực hiện bình thường và phổ biến đối với tất cả các DNNN tthuộc danh sách cần phải CPH. CPH DNNN có chuyển biến rõ rệt và đáng khích lệ từ khi có nghị định số 44/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ “ về việc chuyển DNNN thành Công ty cổ phần”. Riêng 6 tháng cuối năm 1998 đã cổ phần hoá được 90 DNNN. Năm 1999 cổ CPH được 250 DNNN, gấp 7 lần so với 6 năm trước đó (1992 – 1997) cộng lại. Đến đầu năm 2000 cả nước đã CPH được 370 DNNN, và đến cuối năm 2000 cả nước đã có 523 DNNN chuyển thành Côn ty cổ phần chiếm 8,5% tổng số DNNN hiện có. Tính đến tháng 9/2001 thì cả nước đã có khoảng 700 DNNN được CPH. Con số này quả là đáng khích lệ. Tốc độ thực hiện CPH một bộ phận DNNN ở nước ta gần đây đang gia tăng. nhưng so với kế hoạch được duyệt từ 150 – 200 doanh nghiệp được CPH trong năm 1998; 400 – 500 doanh nghiệp trong năm 1999 là 1000 doanh nghiệp cho năm 2000 thì tốc độ CPH hiện nay vẫn còn quá chậm. Kết quả thực hiện Bên cạnh những chuyển biến về mặt số lượng như trên, bước đầu quá trình CPH DNNN đã tạo ra một số kết quả tích cực sau: 2.1. Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đã kế thừa được nhiều nội dung tốt nếu trong các quy định của nghị định 28/CP, đồng thời bổ sung sửa đổi và phát triển được nhiều điểm mới để đáp ứng yêu cầu CPH. Đặc biệt nghị định 44/1998/NĐ-CP đã quy định cụ thể các chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp CPH thể hiện ở nhiều cơ chế ưu đãi đồng thời có phân cấp cụ thể đối với các cấp trong quá trình triển khai thực hiện CPH, do đó tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp và các cấp quản lý triển khai thực hiện quy trình kế hoạch CPH. 2.2. Công tác hướng dẫn phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CPH đã được chú trọng triển khai tích cực hơn. Thông qua các lớp tập huấn cho cán bộ, các văn bản hướng dẫn thì các chủ trương chính sách và chính sách và quy trình CPH được phổ biến sâu rộng làm cho nhiều người, nhiều cấp quan tâm hiểu rõ cách thức CPH. Các phương tiện thông tin đại chúng như các báo, đài ở trung ương và địa phương bằng nhiều hình thức phong phú: mở chuyên mục, diễn đàn, đối thoại, phỏng vấnvề CPH đã đưa tin kịp thời góp phần tích cực tuyên truyền phổ biến, biểu dương các đơn vị điển hình, phản ánh kịp thời những vướng mắc cần thiết phải tháo gỡ để đẩy nhanh tiến trình CPH. 2.3. Về thực hiện mục tiêu CPH-DNNN, tuy số lượng doanh nghiệp CPH mới chiếm 7% tổng số doanh nghiệp hiện có nhưng qua đó bước đầu đã huy động thêm được các nguốn vốn khác ngoài nguồn vốn nhà nước để đầu tư vào doanh nghiệp CPH. Mặt khác, thực tế cho thấy, phần vốn nhà nước tại các doang nghiệp CPH không những không bị giảm đi mà ngược lại đã tăng lên từ 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Thay đổi phương thức quản lý tạo độg lực cho thúc đẩy kinh doanh đạt hiệu quả cao. Vai trò làm chủ thực sự của người lao động với tư cách là cổ đông trong công ty cổ phần bước đầu khơi dậy, phát huy thể hiện ở tinh thần hăng say, tự giác làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật và tiết kiệm trong sản xuất – kinh doanh được nâng lên, nhằm chi tiêu kinh tế tăng lên rõ rệt so với thời kỳ trước khi CPH. 2.4. Về phạm vi và tổ chức chỉ đạo thực hiện CPH thì hiện nay theo tinh thần của Nghị định 44/1998/NĐ-Cp có nhiều Bộ, ngành, địa phương, nhiều Tổng công ty 91 đã chủ trương lựa chọn và xác định diện DNNN cần thực hiện CPH, không chỉ bó hẹp trong một vài doanh nghiệp của TP. Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam như trước đây. Hiện tại đã có 7/13 bộ, 10/17 Tổng công ty 91, 43/61 tỉnh thành đã có DNNN được CPH. Đặc biệt là có một số Bộ, ngành, tỉnh, Tổng Công ty 91 đã tích cực triển khai CPH doanh nghiệp như: Hà nội, TP. HCM, Nam định, Thanh Hoá, Tuyên Quang, Bình Định, Lầm Đồng, Bộ Xây Dựng, Bộ NN và PTNT, Tổng công ty Hàng Hải, Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty cà phê. 2.5. Hiệu quả kinh doanh có tiến bộ đáng kể. Báo cáo hoạt động của 50 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá hơn một năm cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều có chuyển biến tích cực trên nhiều mặt, kể cả các doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá bị thua lỗ, doanh thu hàng năm tăng trên 25%, có một số tăng 50%. Trong 6 tháng đầu năm 1999 có công ty cổ phần đạt doanh thu gấp đôi so với trước khi CPH. điển hình là công ty cơ điện lạnh đạt 353 tỷ đồng so với 78 tỷ đồng, công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển đạt 163 tỷ đồng so với 16 tỷ đồng. Số lao động không bị giảm mà còn tăng bình quân 10%, có công ty tăng trên 20%. Ví dụ công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An từ 900 người lên 1280 người, công ty cổ phần cơ điện lạnh từ 334 người tăng lên 739 người, công ty cổ phần đại lý liên hợp vận chuyển từ 85 người tăng lên 350 người. Thu nhập của người lao động tăng bình quân 20%(chưa kể thu nhập cổ tức), điển hình là công ty liên hiệp vận chuyển, trước khi CPH thu nhập là 1.1 triệu đồng/người/tháng, nay đạt 4.4 triệu đồng/người/tháng. công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc từ 524 ngàn đồng tăng lên 1.3 triệu đồng. Lợi nhuận trước thuế hàng năm tăng lên 26%, có công ty đạt tổng lợi nhuận gấp hai ba lần so với trước khi CPH. Ví dụ: Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển lãi từ 4.1 tăng lên 37 tỷ đồng, công ty cổ phần cơ điện lạnh lãi từ 8.8 tỷ đồng tăng lên 34 tỷ đồng. Nộp ngân sách hàng năm tăng bình quân trên30%, một số công ty đạt gấp đôi so với trước khi CPH. Chẳng hạn năm 1998, công ty CP Cơ điện lạnh nộp ngân sách 68 tỷ đồng so với 3,7 tỷ đồng trước khi CPH; Công ty CP đại lý Liên hiệp vận chuyển nộp ngân sách 40 tỷ đồng so với 5,1 tỷ đồng trước khi CPH. Vốn điều lệ tăng bình quân trên 25%/năm, có một số tăng lên 2 lần. Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi tiết kiệm bình quân đatẹ 12% /tháng, Công t CP sửa chữa và đóng tàu thuyền Bình Định đạt 20% trong năm 98, các Côngty CP sơn Bạch Tuyết , chế biến thức ăn gia súc, chế biến hàng xuất khẩu Long An đều đạt cổ tức 2% /tháng. 3. Tình hình CPH- DNNN ở một số địa phương. 3.1. CPH-DNNN ở thành phố Hà Nội. Hà Nội là một trong số các địa phương có nhiều DNNN được CPH. Trong số 880 DNNN trên địa bàn Hà Nội có 320 DN do địa phương quản lý. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn số doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý có quy mô nhỏ bé, trong đó 87 DN quy mô vốn chỉ dưới 1 tỷ đồng(chiếm 26,5%). Xét về hiệu quả trong số 320 DN có 219 DN làm ăn có lãi, gần 1/3 kinh doanh chỉ hoà hoặc lỗ vốn, trong đó 33 DN thua lỗ kéo dài. Do vậy CPH - DNNN ở Hà Nội là một vấn đề cấp thiết. Trong thời gian 5 năm từ 1992 - 1997, Hà Nội mới chỉ thực hiện CPH được 5 DNNN. Năm 1998, Hà Nội hoàn thành CPH 30 DNNN và đến hết tháng 10/1999 lại tiếp tục CPH thêm 30 DNNN nữa trong chỉ tiêu 40 DNNN cần CPH của năm 1999. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh, tuy các DNNN được thực hiện vào nhiều thời điểm khác nhau, song đều sớm đi vào ổn định và phát triển, cụ thể là: Công ty sứ Bát Tràng 6 tháng đầu năm 1998 chỉ có 5 mẫu hàng mới – bị thua lỗ 13 triệu đồng; sau khi thực hiện CPH, 6 tháng cuối năm cho ra đời 44 mẫu hàng mới, lãi 164 triệu đồng, mức cổ tức đạt 1,438%/tháng;Công ty Phú Gia sau khi CPH, hệ số sử dụng buồng phòng đạt 70%, hàng tháng tiết kiệm được 50% tiền điện so với trước,chi phí hành chính vệ sinh giảm 30%. Đặc biệt là Simex sau khi CPH, doanh thu tăng 18%, lợi nhuận trước thuế tăng 83%, thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 1,9 triệu đồng/tháng., lợi tức cổ phiếu đạt 1,59%/tháng. 3.2. CPH-DNNN ở Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong các địa phương đi đầu trong thí điểm thực hiện CPH-DNNN. Trong thời kỳ thí điểm thành phố có hai DNNN chuyển thành Công ty CP là Công ty CP cơ điện lạnh và Công ty Ong mật, sau đó lại chững lại. Tính đến cuối năm 1997, do thực hiện Nghị định 28/CP, Thành phố CPH thêm được 4 DNNN là: Khách sạn Sài Gòn(tháng2/1997) Trung tâm nghiên cứu và sản xuất hoá mỹ phẩm(tháng6/1997) Xí nghiệp sơn Bạch Tuyết(11/1997) Xí nghiệp bông Bạch Tuyết(12/1997) Mặc dù vậy, tiến triển CPH ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn rất châm. Tính đến tháng 5/1999, toàn thành phố mới chuyển đổi được 10 DNNN sang hoạt động theo luật Công ty CP. Đến quýIII/1999, Thành phố dự kiến xét duyệt chuyển 13 DNNN thành Công ty CP, hỗ trợ 16 DNNN có vướng mắc về tài sản,công nợ, chọn thêm 50 DNNN xin đưa vào kế hoạch CPH năm 2000 3.3. CPH - DNNN ở Hải Phòng. Hải Phòng nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm ở phía Bắc có nhiều lợi thế để thúc đẩy kinh tế phát triển.Tuy nhiên, quá trình CPH-DNNN lại chưa được đẩy lên tương xứng.Trên địa bàn thành phố hiện nay có 140 DNNN, nhưng cho đến nay tổng số DNNN được CPH cũng chỉ dừng lại ở con số 17. Trong năm 2000, Hải Phòng tiến hành chuyển đổi hình thức sở hữu cho khoảng 80 DNNN và áp dụng một số biện pháp mạnh mẽ để đẩy nhanh quá trình CPH-DNNN, tập trung vào các DN làm ăn có hiệu quả. Một số nhận định bước đầu: Các DNNN thực hiện CPH do huy động thêm được vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nên năng lực sản xuất kinh doanh, năng suất, hiệu quả, lợi nhận cao hơn trước. Quyền lợi của người lao động trong công ty đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của công ty. Người lao động một mặt làm việc với tinh thần trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình, mặt khác cũng yêu cầu HĐQT, giám đốc điều hành phải chỉ đạo và lãnh đạo công ty hoạt động có hiệu quả để lợi nhuận cao hơn. Phương pháp quản lý, điều hành doanh nghiệp thay đổi, từ việc Giám đốc doanh nghiệp nhà nước do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầu HĐQT, Ban kiểm soát và Ban giám độc do đó trách nhiệm của hội đồng quản trị và giám đốc điều hành cao hơn, hoạt động của doanh nghiệp có tính đến hiệu quả cụ thể hơn. CPH là chuyển từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, tạo điều kiện cho người lao động thật sự làm chủ doanh nghiệp, làm cho tài sản xã hội tăng lên. Tính khả thi và hiệu quả của các DNNN - CPH nói riêng và các doanh ngiệp cổ phần nói chung đã được thực tế chứng minh. Một không khí sản xuất mới đã dược thiết lập. - Tình trạng lãng phí của cải, tài sản giảm thiểu, vấn đề ăn nhậu xa hoa không còn, tiền phong bao cũng không có. Bởi vì thông thường điều lệ của các công ty quy định rất rõ định mức các khoản chi nhất là chi tiếp khách. Nhà nước đã thu về được một lượng vốn đáng kể, các chỉ tiêu khác như vốn, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều tăng đáng kể. Nhờ sự làm ăn có hiệu quả tốt nên giá cổ phiếu của công ty CPH đã tăng nhanh. Giá trị cổ phiếu bình quân tăng 2 đến 3 lần 4 Một số vấn đề tồn tại và nguyên nhân cơ bản Tính đến ngày 31/12/2000 cả nước đã có 618 doanh nghiệp và bộ phận DNNN được chuyển đổi hình thức sở hữu và 2 doanh nghiệp chuyển đổi phương thức quản lý.Tính riêng năm 2000,số lượng doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp hoàn thành chuyển đổi là 250,trong đó :Cổ phần hoá 211 doanh nghiệp;giao ,bán : 37 doanh nghiệp;Khoán,cho thuê: 2 doanh nghiệp.Tốc độ như vậy là tương đương năm 1999 ,tuy nhiên so với chỉ tiêu kế hoạch của chính phủ giao năm 2000 là 692 doanh nghiệp thì mới đạt 36% kế hoạch năm. Có 5 bộ nghành,8 TCT và 23 tỉnh ,thành phố không hoàn thành chuyển đổi sở hữu được doanh nghiệp nào.Nhiều bộ,nghành,địa phương trước đây quan tâm đến công tác cổ phần hoá,số lượng DNNN thực hiện CPH tương đối nhiều nhưng nay thực hiện rất chậm là: Bộ xây dựng,Tổng cục du lịch,TCT cà phê,thậm chí cả 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ đạt 18%-39%. Việc thực hiện giao,bán khoán và cho thuê DNNN rất chậm.Theo kế hoạch năm 2000,các địa phương có gần 100 doanh nhiệp thực hiện giao,bán ,khoán,cho thuê,nhưng đến nay chỉ có 37 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giao,bán và 2 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục khoán.tuy nhiên,vẫn có một số địa phương đã mạnh dạn áp dụng hình thức giao,bán,khoán doanh nghiệp như: Nam Định có 13 doanh nghiệp bán,2 doanh nghiệp khoán;Bắc giang có 5 doanh nghiệp bán;Phú Thọ giao 5 doanh nghiệp;Hà Nam bán 4 doanh nghiệp..Ngoài số doanh nghiệp đã hoàn thành chuyển đổi sở hữu,hiện có gần 100 doanh nghiệp đã xác định xong giá trị doanh nghiệp đang triển khai các bước tiếp theo.Nhìn chung,tiến độ chuyển đổi DNNN vẫn rất chậm so với mục tiêu đề ra. iViệc thực hiện chuyển đổi sở hữu và phương thức quản lý DNNN chậm là do các nguyên nhân sau: - Việc lựa chọn danh mục và lộ trình để thực hiện chuyển đổi sở hữu,cơ cấu lại doanh nghiệp của các bộ,các TCT 91 và các tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương chưa được quan tâm đúng mức,dẫn đến kế hoạch và danh mục được công bố chậm.Ngoài ra,việc lựa chọn doanh nghiệp nhà nước tiến hành chuyển đổi còn thiếu chính xác (nhiều doanh nghiệp thua lỗ,mất vốn cũng được lựa chọn cổ phần hoá)dẫn tới việc triển khai chậm hoặc không triển khai được. Nhiều bộ ,ngành ,địa phương ,TCT 91 chưa nhận thức đầy đủ mục đích,ý nghĩa của chủ trương CPH,chưa thực sự quan tâm đến công tác sắp xếp lại và cổ phần hoá DNNN,do đó trong chỉ đạo và tổ chức triển khai còn mang tính chất đối phó,do dự ,chần chừ ,thiếu kiên quyết,trông chờ vào sự tự nguyện của doanh nghiệp và đôi chỗ có khoán trắng cho ban đổi mới doanh nghiệp,chưa gắn trách nhiệm của lãnh đạo với các bộ,địa phương,các TCT với việc triển khai và thực hiệnchủ trương sắp xếp lại DNNN của Chính phủ. Các TCT( nhất là TCT 90) không triển khai tích cực vì cho rằng cổ phần hoá quy mô TCT càng thu hẹp(do giảm đơn vị thành viên) Một số lãnh đạo doanh nghiệp có trình độ yếu kém không muốn cổ phần hoá vì sợ rằng khi doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần họ không được tiếp tục giữ cương vị trước đây (chỉ có một số ít muốn cổ phần hoá ngay để được Nhà nước xử lý các vấn đề tồn tại về tài chính do trách nhiệm cá nhân giám đốc gây ra). Nhiều doanh nghiệp được lựa chọn thực hiện cổ phần hoá nhưng kinh doanh hiệu quả thấp, thậm chí không có hiệu quả hoặc bị thua lỗ kéo dài, tình trạng tài chính không lành mạnh, lao động dôi dư nhiều, nợ phải trả lớn, nợ phải thu khó đòi lớn hoặc không đủ hồ sơ, nhiều tài sản vật tư ứ đọng, kém, mất phẩm chất ,lạc hậu về kỹ thuật, do đó không hấp dẫn các nhà đầu tư và bị vướng ngay khi triển khai thực hiện cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu. Đến nay khung pháp lý vẫn chưa đầy đủ để tạo lập một môi trường kinh doanh,cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế,dẫn tới nhiều doanh nghiệp còn do dự,so sánh thiệt hơn khi chuyển từ DNNN sang hình thức công ty cổ phần.Bên cạnh đó một số cơ chế chính sách hiện hành về cổ phần hoá chưa phù hợp với thực tiễn nhưng chưa được sửa đổi kịp thời như: khống chế mức mua cổ phần đối với lãnh đạo doanh nghiệp,cơ chế xử lý các khoản nợ dây dưa và tài sản được loại trừ ở các doanh nghiệp cổ phần hoá,quyết định giá trị doanh nghiệp,chế độ ưu đãi cho người mua...... Về chính sách đối với DNNN và người lao động trong DNNN CPH: Trong vấn đề này theo nghị định 44/1998 NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ tuy đã có sự cởi mở và được nhiều người đánh giá là thích hợp hơn với thực tế nhưng vẫn còn những vướng mắc chưa được thông thoát như:sự giới hạn về mức ưu đãi 20%-30% vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chưa thoả đáng đối với DNNN có vốn tích luỹ nhiều mà không được hưởng thị tương ứng với đóng góp khi CPH,hoặc DN có số lao động đông ,năm công tác cho Nhà nước nhiều,vốn Nhà nước tại doanh nghiệp ít ,nên số cổ phần được ưu đãi thấp. Ngoài các nhóm nguyên nhân nêu trên còn một vấn đề chưa được thực hiện đó là vận hành Quỹ hỗ trợ,sắp xếp và CPH DNNN theo quyết định 177/1999/QĐ-TTg ngày 30/8/1999 chưa được thực thi có hiệu quả.Hiện nay,số vốn Nhà nước thu được do CPH khoảng 2.500 tỷ vẫn nằm ở kho bạc mà chưa được huy động khẩn trương vào trợ giúp cho lao động dôi dư ở doanh nghiệp,cho đào tạo và đào tạo lại người lao động,hoặc bổ xung cho các DN cần ưu tiên củng cố .Đây là một sự lãng phí trong quản lý của các cơ quan Nhà nước được giao nhiệm vụ chỉ đạo thực hiện. Phần III Một số biện pháp nhằm đẩy nhanh quá trình CPH – DNNN. Như chúng ta đã biết tiến độ CPH DNNN ở nước ta trong những năm vừa qua diễn ra hết sức chậm chạp, chưa năm nào hoàn thành được kế hoạch đặt ra. Vì vậy, để tiến độ CPH DNNN được diễn ra nhanh hơn, hoàn thành được chỉ tiêu đã đề ra thì cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây: Cần tạo sự thống nhất về nhận thức, quan điểm về chủ trương CPH một bộ phận DNNN từ Trung Ương đến cơ sở phải có sự quan tâm, lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền mới đẩy nhanh được tiến độ CPH. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải quán triệt, tuyên truyền, giải thích trong nhân dân chủ trương chính sách của Đảng về CPH DNNN, CPH phải xuất phát từ yêu cầu của DNNN nhằm huy động thêm vốn từ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để đầu tư mở rộng ngành nghề, hiện đại hoá công nghệ tạo thêm công ăn việc làm, phân công lại lao động, phát triển sản xuất tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách và thu nhập của người lao động. Tổ chức Đảng, chính quyền tại doanh nghiệp được CPH phải nắm vững về chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước tránh tình trạng không hiểu sâu dẫn đến những lo ngại CPH sẽ làm mất chủ quyền của Nhà nước, làm mất vai trò kinh tế quốc doanh. Việc thực hiện CPH hoá là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nước – nó không phải là một giải pháp tình thế mà là một phương thức đổi mới cơ chế quản lý cho thích nghi với sự vận động của cơ chế thị trường. Do đó chủ trương CPH phải được chủ động giải quyết từ phía Nhà nước, không chỉ dựa vào sự tự nguyện của các doanh nghiệp Phải tuyên truyền chủ trương CPH sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng, giải đáp các thắc mắc dù nhỏ của người lao động tại doanh nghiệp, không phải chỉ tuyên truyền chung chung mà phải xuống tận cơ sở, tiếp xúc với người lao động và cả Giám đốc của họ. Khi quần chúng lao động nhận thức được và lãnh đạo doanh nghiệp có quyết tâm, tiến độ CPH sẽ rất nhanh. 2. Tạo môi trường ồng bộ về CPH – DNNN pháp lý đầy đủ đ CPH – DNNN cũng có nghĩa là bán đi một phần tài sản Nhà nước có giá trị lớn hàng chục ngàn tỉ đồng. Vậy liệu Nghị định 44/1998/NĐ và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính của Ban đổi mới doanh nghiệp Trung Ương có đủ tầm cỡ và sức mạnh pháp lý để điều chỉnh hay phải có văn bản pháp luật cao hơn (Luật kinh tế cổ phần chẳng hạn). Trong khi chưa có luật, Nhà nước giao nhiệm vụ cho Ban chỉ đạo CPH Trung Ương tập trung chỉ đạo các tỉnh , thành phố và các Bộ phải thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình, giúp các doanh nghiệp tiến hành CPH và hoạt động thuận lợi. Tiến hành bổ sung, sửa đổi kịp thời các văn bản có liên quan, hoàn chỉnh dần các chính sách nhằm bảo đảm CPH – DNNN một cách vững chắc, đạt mục tiêu đã đề ra, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát tài sản Nhà nước. Nhà nước nên thành lập ủy Ban Quốc Gia (UBQG) về CPH – DNNN do một phó Thủ tướng làm Chủ tịch, BộTài chính làm phó Chủ tịch thường trực, các Bộ liên ngành làm Uỷ viên. UBQG về CPH được quyền giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến CPH theo Luật kinh tế cổ phần. Từ Ban đổi thành Uỷ Ban đồng nghĩa với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy để tương ứng với hai nhiệm vụ cơ bản là: Tổ chức thực hiện các Nghị định trên cơ sở Luật CPH Nghiên cứu, đề xuất, sửa đổi, bổ sung kịp thời các chế độ chính sách có liên quan đến CPH Uỷ Ban sẽ tự giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của nó. Xác định giá trị doanh nghiệp để thực hiện CPH. Xác định đúng giá trị thực tế của doanh nghiệp để CPH là một vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp, là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho tiến độ CPH chậm. Hiện nay tồn tại nhiều quan điểm về xác định giá trị doanh nghiệp có nội dung khác nhau. ở đây em xin giới thiệu cách xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp dựa vào giá thị trường, giá trị còn lại của tài sản cố định, tài sản lưu động là hiện vật đã được kiểm kê Đối với tài sản là vốn bằng tiền thì tính theo số dư bằng tiền đã kiểm quỹ hoặc đã đối chiếu tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Đối với nợ phải thu là các khoản nợ đã được đối chiếu, xác nhận Đối với các khoản chi phí dở dang thì tính theo số dư chi phí thực tế trên sổ kế toán. Đối với tài sản ký quỹ, ký cược ngắn hạn và dài hạn thì tính theo số dư thực tế trên sổ kế toán đã xác nhận, đối chiếu tại thời điểm xác nhận giá trị doanh nghiệp. Đối với tài sản đầu tư ngắn hạn và dài hạn thì tính vào giá trị doanh nghiệp các khoản mà Công ty cổ phần sẽ kế thừa. Tính giá trị sử dụng đất để CPH – DNNN Hiện nay, nếu tính đủ yếu tố đất sẽ kéo giá trị của doanh nghiệp lên rất cao, khó bán được cổ phiếu. Ví dụ: Doanh nghiệp cơ điện lạnh (REE) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nếu tính theo bản giá đất mới, với diện tích 40.000 m2 sẽ có giá trị 35 tỷ đồng thay vì 3,2 tỷ đồng như hiện nay (trong tổng giá trị doanh nghiệp được đánh giá là 16 tỷ đồng). Do đó cách tốt nhất là doanh nghiệp nên thuê quyền sử dụng đất của Nhà nướcvà khấu hao trả dần. Có thể có 2 cách tính giá trị đất như sau: Giá trị đất được tính vào giá trị doanh nghiệp, coi như vốn góp của Nhà nước vào Công ty Cổ phần. Giá trị này được điều chỉnh theo thời giá, cứ 5 năm 1 lần nhằm đảm bảo 2 điều kiện: một là, giá trị đất phải là một bộ phận của giá trị doanh nghiệp theo thông lệ Quốc tế; hai là: không thay đổi quyền sở hữu đất. Có xác định giá trị đất nhưng không nộp vào giá trị doanh nghiệp để CPH, coi như Nhà nước cho thuê. Giá đất được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tính khấu trả dần hàng năm. Nếu doanh nghiệp chiếm quá nhiều đất thì cả 2 cách tính trên đều đội giá thành sản phẩm. Do đó, Nhà nước sẽ thu hồi dần diện tích dư thừa đó. 5. Mệnh giá cổ phiếu và đối tượng mua cổ phiếu. Mệnh giấ cổ phiếu được đem bán sẽ quyết định khả năng thu hồi phần vốn Nhà nước. Việc xác định mệnh giá và số lượng cổ phần đem bán có quan hệ mật thiết với giá trị doanh nghiệp, đến các yếu tố lợi thế và tình thế, liên quan đến tương lai của doanh nghiệp được CPH. Xác định giá cổ phiếu phải tương đối hấp dẫn với cổ đông và không làm thiệt hại cho doanh nghiệp. Đó là bài toán khá phức tạp và tế nhị, vừa mang tính khoa học lại vừa mang tính nghệ thuật. Mệnh giá cổ phiếu được xác định theo công thức: Giá trị DN đem bán Mệnh giá cổ phiếu = Số cổ phiếu phát hành Việc bán cổ phiếu cho ai cũng là vấn đề có nhiều ý kiến. Vì phải đạt 3 mục tiêu chuyển đổi sở hữu, thu hồi vốn và tạo điều kiện cho người lao động làm chủ thực sự thì việc bán cho ai trở thành vấn đề cần xem xét. Theo em thì việc bán cổ phiếu trước hết nên ưu tiên bán cho các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Mỗi người phải có ít nhất một cổ phiếu của Công ty và cũng nên dành một tỷ lệ nhất định để bán ra ngoài nhằm thu hút những tài năng kinh doanh mới, đổi mới cơ chế quản lý, tạo sức cạnh tranh phát huy các ưu điểm của Công ty cổ phần. Đồng thời luôn khuyến khích CPH – DNNN, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, qua đó đem lại việc làm, thu nhập cho người lao động nhiều hơn so với trước khi CPH. Lợi ích đó mới là cơ bản, lâu dài, chứ không phải ở chỗ người lao động được hưởng ưu đãi nhiều hay ít. Bên cạnh đó phải có chính sách đãi ngộ hợp lý với Ban quản lý, nhất là những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. 6. Về quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp CPH . Nhằm đảm bảo sau CPH các doanh nghiệp thực thi “cơ chế quản lý Nhà nước” theo đúng Luật Công ty, ngoại trừ các DNNN do Nhà nước nắm cổ phiếu chi phối hoặc cổ phần đặc biệt, Nhà nước chỉ giữ 2 cổ đông làm đại diện. Một là, đại diện của Cục quản lý vốn (Công ty tài chính); hai là, đại diện cơ quan chủ quản. Khi tiến hành đại hội cổ đông để bầu Hội đồng quản trị, hoặc Tổng giám đốc (Giám đốc) doanh nghiệp đại diện Nhà nước chỉ bỏ phiếu không tuỳ thuộc vào số vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp nhiều hay ít. Như vậy, loại trừ khả năng Nhà nước dùng quyền khống chế để cử người vào Hội đồng quản trị hay Giám đốc theo ý đồ riêng, bảo đảm quyền dân chủ rộng rãi trong bầu cử. Nhà nước nên nhanh chóng chấm dứt cơ quan chủ quản, để doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp số 13/1999/ QH10. Khi đó đại diện vốn Nhà nước chỉ còn là một của Bộ Tài chính. 7. Về chính sách hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp CPH. Căn cứ NĐ 44/1998/ NĐ-CP thì doanh nghiệp sau khi CPH được hưởng hai nội dung ưu đãi: một là, miễn lệ phí trước bạ khi chuyển sở hữu từ DNNN sang Công ty Cổ phần; hai là, giảm 50% thuế lợi tức hai năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển sang hoạt động theo Luật Công ty. Những nội dung còn lại về thực chất không có gì đáng gọi là ưu đãi. Nhà nước nên có những chính sách thật sự ưu đãi hơn nữa cho các doanh nghiệp cổ phần như: Giảm mức thuế suất thu nhập Công ty cổ phần thấp hơn các loại hình doanh nghiệp khác (như nhiều nước đã làm) Miễn thuế thu nhập cho phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư. Khi xác định giá trị doanh nghiệp để CPH nên theo giá “thuận mua vừa bán”, không nên quá nặng về bên nào. Không nên hạn chế số lượng cổ phần bán ra cho công nhân viên (trừ giới lãnh đạo doanh nghiệp)và cho các nhà đầu tư nước ngoài. Số tiền thu được do bán cổ phần nên ưu tiên đầu tư lại cho doanh nghiệp CPH (để đào tạo lại công nhân viên, đầu tư đổi mới công nghệ ). Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình CPH các DNNN đồng thời thúc đẩy hoạt động của mọi công ty cổ phần phát triển bền vững. KếT LUậN Chủ trương CPH một bộ phận DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong quá trình cải cách và sắp xếp lại các DNNN, nhằm đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định, song công tác CPH vẫn diễn ra rất chậm và chưa hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đặt ra. Trong thời gian học tập ở trường, em đã tập trung nghiên cứu hoạt động CPH – DNNN ở nước ta. Với vốn kiến thức đã được học, kết hợp với việc nghiên cứu tình hình thực tế, em đã trình bày một số vấn đề về thực trạng CPH-DNNN của nước ta. Nhưng vì thời gian và kiến thức có hạn, nên đề tài chưa đi sâu vào các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ tác động trực tiếp lâu dài tới quá trình CPH. Các giải pháp trong đề tài chỉ mang tính chất cơ bản, chưa tạo ra bước ngoặt lớn trong quá trình CPH. Tuy nhiên, em cũng hy vọng rằng, những giải pháp này sẽ đóng góp một phần nào đó nhằm đẩy nhanh tiến độ CPH – DNNN ở nước ta hiện nay. Danh mục tài liệu tham khảo 1. PGS.TS Phạm ngọc côn : CPH –DNNN 2. pts nguyễn ngọc quang: CPH-DNNN 3. Đoàn Kim : Còn ngyên những khó khăn và vưóng mắc(Tạp chí Chứng khoán Việt Nam ,Số 4(30)/2001 4. gs.ts trần văn tránh: Một số biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ CPH- DNNN (Tạp chí phát triển kinh tế, Số 111/2000). Lê hoàNG HảI:Những đổi mới cơ bản về chính sách cổ phần hoá DNNN trong nghị định 64/2002/NĐ-CP.(Tạp chí Tài chính số 7/2002) hồng thuý: Ba nguyên nhân cơ bản làm chậm tiến trình CPH . ts trần trung tín: CPH- DNNN kết quả và giải pháp (Tạp chí kinh tế và dự báo,Số 1/2001). Thạc sĩ nguyễn hoàng sơn: Đẩy mạnh CPH ở Việt Nam- Những khó khăn và giải pháp tháo gỡ (Tạp chí phát triển kinh tế , Số 122/2000). đào ngọc lâm: CPH ,Tại sao chậm? (Tạp chí kinh tế và dự báo, 4/1997). nguyễn sơn: Về một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình CPH –DNNN . Mục lục Lời nói đầu 1 Phần I: Lý luận chung về cổ phần hoá các DNNN 2 I. Lý luận chung 2 1. Doanh nghiệp Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 2 2. Công ty cổ phần và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 2 3. Sự cần thiết phải tiến hành CPH doanh nghiệp nhà nước 3 4. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 5 II. Nội dung của CPH - Các bước tiến hành 5 1. Đối tượng áp dụng CPH 5 2. Các phương pháp CPH DNNN 5 3. Xác định giá trị hiện có của DNNN trước khi CPH 6 4. Ưu thế của CPH - DNNN 9 III. Những yếu tố tác động đến quá trình CPH - DNNN ở nước ta 10 1. Về các yếu tố thuận lợi 10 2. Về các yếu tố khó khăn cản trở 11 Phần II: Thực trạng vấn đề CPH các DNNN ở nước ta hiện nay 14 1. Tình hình tiến triển 14 2. Kết quả thực hiện 16 3. Tình hình CPH - DNNN ở một số địa phương 18 4. Một số vấn đề tồn tại và nguyên nhân cơ bản 21 Phần III: Một số biện pháp nhằm đẩy nhanh quá trình CPH - DNNN 24 1. Cần tạo sự thống nhất về nhận thức, quan điểm 24 2. Tạo môi trường đồng bộ về CPH - DNNN pháp lý đầy đủ 25 3. Xác định giá trị doanh nghiệp để thực hiện CPH 25 4. Tính giá trị sử dụng đất để CPH - DNNN 26 5. Mệnh giá cổ phiếu và đối tượng mua cổ phiếu 26 6. Về quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp CPH 27 7. Về chính sách hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp CPH 28 Kết luận 29 Tài liệu tham khảo 30

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV215.doc
Tài liệu liên quan