Đề án Hình thức huy động vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường

Như vậy, Vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường chính là “tấm nệm” cuối cùng để chống lại rủi ro phá sản của ngân hàng và giúp ngân hàng hạn chế các loại rủi ro đa dạng khác. Vốn cung cấp những nguồn tiền dài hạn, tạo lập nền tảng cho sự tăng trường và phát triển của ngân hàng trong tương lai. Vốn cũng chính là cơ sở tạo niềm tin cho công chúng, là sự đảm bảo đối với chủ nợ (gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cần phải đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng các nhu cầu tín dụng ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn .Chính bởi vậy, hiện nay, các ngân hàng đặc biệt lưu tâm đến vai trò của vốn, đến các biện pháp và khả năng huy động vốn, bởi đó chính là “đòn bẩy” quyết định sự tồn tại và phát triển vững mạnh của các ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Khi nhìn nhận vai trò quan trọng hàng đầu của yếu tố nguồn vốn đối với các NHTM hiện nay, chúng ta they nó đòi hỏi những luồng vốn dài hạn ổn định, vững chắc. Trong khi đó hệ thống NHTM vẫn là bộ phận chiếm thị phần tín dụng lớn nhất trong hoạt động ngân hàng. Tại Việt Nam, tính đến 6 tháng đầu năm 2002, bốn NHTM quốc doanh chiếm tới 70% thị phần tín dụng. Tuy nhiên theo mức kế hoạch đề ra cả năm thì hiệu quả sử dụng vốn vẫn chưa cao. Ở ngân hàng Đầu tư và phát triển mức tăng tổng dư nợ tín dụng trong 6 tháng đầu năm 2002 là 11%, so với mức đề ra cả năm là 30%. Tương tự các chỉ số lần lượt của ngân hàng Ngoại thương là 7,4% so với kế hoạch là 16 - 18%. Ngân hàng công thương là 9% so với kế hoạch là 18 - 20% và ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn là 6% so với kế hoạch là 32 - 37%. Để có thể nâng cao hiệu quả tạo lập và phục vụ hoạt động kinh doanh các NHTM cần sắp xếp lại cơ cấu nguồn vốn, đa dạng hơn nữa các hình thức huy động vốn, kiên quyết loại bỏ những dự án không có tính khả thi, tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm mà Chính phủ quan tâm, đồng thời phải tăng cường đội ngũ cán bộ nhân viên, có năng lực, có trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cao, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ kinh doanh ngân hàng. Ở nước ta, với sự lãnh đạo đúng đắn và có hiệu quả của Đảng và Nhà nước ta, chắc chắn hệ thống NHTM ở Việt Nam sẽ hoạt động có hiệu quả hơn trong tạo lập và sử dụng nguồn vốn kinh doanh, phục vụ sự nghiệp phát triển toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội của đất nước.

doc45 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1628 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hình thức huy động vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho đống giấy bạc cồng kềnh mà chỉ riêng việc đếm thôi cũng đã mất nhiều thời gian. 2.2.2 - Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: Tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi mà khách hàng gửi vào và rút ra theo định kỳ, là loại tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng về thời gian rút tiền. Đối với loại tiền gửi này, người gửi sẽ không được rút ra trước hạn định, hoặc nếu vì lý do đặc biệt phải rút ra trước hạn định thì ngân hàng sẽ có một trong 3 cách xử lý sau: 1 Từ chối. Họ đã từng làm trước đây để tránh gây thiệt hại cho mình. Tuy nhiên hiện nay NHTM thường áp dụng hai cách mềm dẻo hơn là: 2. Yêu cầu người rút tiền phải báo trước ít nhất một khoảng thời gian nào đó về ý định rút tiền; 3. Với những yêu cầu rút tiền đột xuất như vậy, khoản lãi mà ngân hàng trả cho tiền gửi của khách hàng sẽ giảm xuống do người rút tiền phải chịu lãi suất phạt vì đã làm ảnh hưởng đến kế hoạch của ngân hàng. Về cơ bản các khoản tiền gửi có kỳ hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai bởi lẽ đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích lũy và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi. Do khoản tiền gửi có kỳ hạn có thời gian xác định nên ngây hàng có thể yên tâm cho vay theo kế hoạch vạch ra mà không phải lo bị khó khăn trong thanh toán như tiền gửi không kỳ hạn. Do đó lãi suất của loại tiền gửi này cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn. 2.2.3 Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Tiền gửi tiết kiện là các khoản tiền gửi của khách hàng mà có thể gửi vào và rút ra bất cứ lúc nào theo sự thỏa thuận trên phiếu gửi trên TK và ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu đó. Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân chưa sử dụng cho tiêu dùng (tiền nhàn rỗi). Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Nó phân biệt với số tiền gửi không kỳ hạn ở chỗ mục đích của tiền gửi không kỳ hạn là làm phương tiện thanh toán bằng cách phát hành các tờ séc và khác với loại tiền gửi có kỳ hạn ở chỗ là nó có thể gửi vào và rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu đó. Trên thực tế trong nền kinh tế thị trường, tiền gửi tiết kiệm được phát triển dưới hai loại hình sau: - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. Loại tiền gửi này còn gọi là tiền gửi tiết kiệm được thông báo hàng tháng, nhưng người gửi tiền mặt vào tài khoản này sẽ nhận được một báo cáo chi tiết về tình hình phát sinh của giá trị tài sản trong tài khoản của mình: những số tiền đã rút, hay gửi thêm vào (nếu có), lãi suất phát sinh trong tháng, tồn khoản nào cuối kỳ người gửi có thể rút tiền hoặc gửi thêm vào bằng bưu điện. - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là các khoản tiền gửi tài khoản có sự thỏa thuận về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. 2.2.3 - Các nguồn vốn huy động khác. Bên cạnh việc nhận tiền gửi, NHTM còn huy động vốn bằng cách phát hành các chứng từ có giá đó là chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. Trong đó chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định; Trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên được NHTM phát hành từng đợt, tùy theo mục đích phát hành và phải có sự chấp thuận của Ngân hàng Trung ương hoặc Hội đồng chứng khoán Quốc gia. Thường thì đối với nghiệp vụ này, NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động do đó NHTM chỉ tiến hành nghiệp vụ này khi thiếu vốn mà vốn tự có và vốn tiền gửi huy động không đủ. Sau một thời gian nhất định, khi đã huy động đủ vốn theo dự kiến, NHTM sẽ ngừng hoạt động của nghiệp vụ này. Ngoài ra, nhằm mục đích nhờ thanh táon hộ và một số mục đích khác, ngân hàng thương mại có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, qui mô nguồn này thường không lớn. Kết luận: Nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM và giữ vị trí vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên việc huy động loại vốn này đòi hỏi các ngân hàng phải tuân thủ những quy định về mức huy động vốn của mỗi nước. ở nước ta theo luật định thì vốn huy động tối đa chỉ bằng 20 lần vốn tự có và bắt buộc NHTM phải dự trữ tại Ngân hàng Trung ương một tỷ lệ nhất định để đảm bảo an toàn tiền gửi cho khách hàng. Sử dụng tốt vốn huy động cũng chính là tạo ra uy tín ngày càng cao cho Ngân hàng và mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 2.3 – Nguồn vốn đi vay. Nguồn vốn đi vay bao gồm vay của Ngân hàng Nhà nước, vay ngân hàng nước ngoài vay các tổ chức tín dụng, vay trên thị trường qua phát hành chứng thư tiền gửi, hoặc vay trên thị trường liên ngân hàng, vay nước ngoài. Thường thì NHTM đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn thiếu vốn. đối với loại vốn này, NHTM phải có trách nhiệm sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả kinh tế, đem lại lợi nhuận và hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi. 2.3.1. Vay NHNN (Vay Ngân hàng Trung ương): Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần thiết ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của ngân hàng thương mại giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gưỉ tại ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ; ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thới gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Trong điều kiệnc chưa có thương phiếu, ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. 2.3.2.Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản.. Như vậy, nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước. Quá trình vay mượn này rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (hoặc ngân hàng Nhà nước). Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chững khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. 2.3.3.Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn, dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung, dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu đầu tư và cho vay trung, dài hạn. Thông thường đây là khoản cho vay không có bảo đảm. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này; họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lỹ hoặc được bảo lãnh của Ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vẫn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ…cũng được các ngân hàng quan tâm. 2.4 - Vốn tiếp nhận: Bao gồm vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển vốn ủy thác đầu tư, để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước hoặc trợ giúp cho đầu tư phát triển những chương trình dự án có mục tiêu riêng. Tuy nhiên để có thể nhận được nguồn vốn này đòi hỏi NHTM phải có những điều kiện nhất định, đảm bảo cho hiệu quả quá trình tiếp nhận và sử dụng nó. 2.5 - Các loại vốn khác. Được hình thành trong quá trình hoạt động nghiệp vụ của NHTM. NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng. Ví dụ, Ngân hàng Nộng nghiệp và phát triển nông thôn cho vay uỷ thác hộ cho Nhà nước đối với một số dự án trồng rừng với nguồn ngân sách hoặc nguồn ODA. Theo hợp đồng giữa các bên, các nguồn vốn trên được chuyển về ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, để từ đó chuyển tải đến địa điểm đã được xác định trước. Cùng với sự phát triển của các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn uỷ thác, làm gia tăng nguồn vốn của Ngân hàng. Bên cạnh đó, trong quá trình làm trung gian thanh toán NHTM tạo ra vốn trong thanh toán gồm vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản séc thanh toán và các khoản tài sản phong tỏa khi chấp nhận các hối phiếu thương mại. Còn thông qua nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng tạo ra một lượng vốn đáng kể, và sử dụng tạm thời các khoản đó để hoạt động kinh doanh. Cuối cùng, đó là các khoản như thuế chưa nộp, lương chưa trả… Kết luận: Như vậy vốn chính là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh, là nhân tố quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng. Bên cạnh đó, vốn còn quyết định năng lực thanh toán, năng lực cạnh tranh và đảm bảo uy tín của NHTM. phần ii các giải pháp tạo lập nguồn vốn kinh doanh của NHTM ở Việt Nam Người ta nói rằng Ngân hàng là ngành kinh doanh vốn, huy động nguồn vốn để cho vay. Thế nhưng trong thời gian qua do nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho đầu ra chưa thông suốt, ngân hàng sử dụng không hết nguồn vốn trong khi các nhà sản xuất kinh doanh lại thiếu vốn, cục bộ ở thành thị thừa vốn trong khi khu vực nông thôn lại thiếu vốn. Việc sử dụng vốn cung ứng tín dụng đang là vấn đề thời sự được dư luận quan tâm, Ngân hàng Nhà nước đã liên tục hạ trần lãi suất cho vay và sửa đổi bổ sung thể lệ tín dụng để giải quyết đầu ra, kịp thời cung ứng cho sản xuất kinh doanh. Nhưng vấn đề là ở chỗ phải huy động được vốn mới có vốn để cho vay, đầu ra thông suốt thì phải lo đến nguồn vốn đầu vào. Thiết nghĩ cần quan tâm đến vấn đề tạo lập nguồn vốn của ngân hàng. I-/ Tạo lập vốn tự có. Chúng ta có thể thấy rằng không chỉ riêng đối với các NHTM mà ở tất cả các tổ chức tín dụng hoạt động trong nền kinh tế, vốn tự có là yếu tố không thể thiếu được khi khởi đầu thành lập, nó được coi như tài sản bảo đảm lòng tin của khách hàng đối với Ngân hàng, nó duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp thua lỗ. Tuy nhiên một điều lo ngại hiện nay ở nước ta là các NHTM có mức vốn tự có thấp hơn rất nhiều so với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường đang trong thời kỳ phát triển. Vốn Nhà nước cấp ban đầu thấp, do đó khống chế tỷ lệ huy động vốn, tỷ lệ đầu tư của các ngân hàng do đó xu hướng hiện nay ở các NHTM là phải chủ động tìm nguồn vốn trong dân cư chứ không chờ dựa vào vốn cấp của Nhà nước. Bên cạnh đó, các Ngân hàng tư nhân, Ngân hàng cổ phần cũng cần tạo lập nhiều hơn vốn tự có của mình để mở rộng khả năng huy động vốn trong điều kiện và khả năng có thể. Thiết nghĩ NHTM cần áp dụng tốt những giải pháp như: + Huy động vốn cổ phần từ cán bộ công nhân viên của ngân hàng mình, làm cho họ trở thành những cổ đông của ngân hàng và gắn chặt quyền lợi với quyền lợi chung của Ngân hàng. Đối với hình thức này nên có những biện pháp khuyến khích đưa ra những khen thưởng vật chất. Đây là hình thức tạo lập mang tính lâu dài, ổn định và cần được chú trọng. + Bổ sung từ các qũy dự phòng tài chính, qũy trợ cấp, qũy khen thưởng và các loại qũy khác. + Tăng cường liên doanh, liên kết với các tổ chức, các NHTM nước ngoài để tranh thủ các nguồn vốn góp bằng ngoại tệ. Phát hành kỳ phiếu dài hạn, trái phiếu chuyển đổi. + Thực hiện tiết kiệm trong hoạt động quản lý, tổ chức của nội bộ ngân hàng để tránh những khâu lãng phí, thất thoát nguồn vốn, giành những khoản lãng phí không cần thiết đó bổ sung thêm vốn tự có. + Đối với NHTM quốc doanh, nên tiến hành cổ phần hóa một số để tạo khả năng huy động tối đa vào vốn của ngân hàng. Ngày nay trên bước đường mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại, vai trò của vốn tự có đối với các NHTM càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết, bởi tỷ lệ vốn tự có và coi như tự có trên tổng tài sản. Có sinh lời chính là một tiêu thức quan trọng trong việc nhận xét, đánh giá về khả năng của mỗi NHTM để hội tụ đầy đủ những điều kiện khi tham gia vào lĩnh vực kinh doanh đối ngoại của ngành ngân hàng. II-/ Tạo lập vốn qua huy động tiền gửi. 1-/ Tiền gửi không kỳ hạn. Nhìn chung, trước thập niên 70 của thế kỷ XX, tiền gửi không kỳ hạn của nhân dân là bộ phận lớn nhất trong tài sản nợ của các NHTM ở các nước. Tuy nhiên cho đến những năm 80 và 90 của thế kỷ XX, mặc dù với việc cải tiến hệ thống quản lý bằng vi tính, các ngân hàng dễ dàng, vào bất cứ lúc nào chuyển các khoản gởi từ tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản có kỳ hạn sang tài khoản không kỳ hạn cho nhân dân sử dụng séc một cách tự động nhưng các khoản gửi không kỳ hạn vẫn chiếm một phần lớn trong tài sản của các ngân hàng. Có rất nhiều nguyên do giải thích về hiện tượng đó. Trước đây một người có tiền gửi không kỳ hạn để sử dụng séc chi tiêu cho một việc nào đó, anh ta phải đến ngân hàng làm thủ tục. Nếu tiền gửi của anh ta đến hạn, chuyện này sẽ không làm anh ta tốn kém mà chỉ mất công đến ngân hàng. Nhưng trong trường hợp tiền gửi của anh ta chưa đến hạn, tình hình sẽ khác đi, anh ta vừa mất công, vừa phải chịu mất ít lãi suất phạt và bị khấu trừ vào lãi suất được hưởng vì đã chuyển tiền trước thời hạn quy định. Sự phức tạp của vấn đề đã làm cho nhiều người nghĩ rằng nên lưu giữ một ít tiền thường xuyên mong tài khoản séc cho tiện. Điều đó góp phần làm cho các khoản gửi không kỳ hạn trở nên nhiều hơn. Nhưng sau đó nó lại bị phần nào sút giảm về số lượng bởi nguyên nhân là cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, một ngân hàng tiết kiệm ở Hoa Kỳ đã có một sáng kiến. Ngân hàng này đã đưa ra một loại tài khoản gửi mới, tài khoản Now (Negotiated order of withdraw) - một loại tài khoản tiết kiệm đặc biệt. Nó cho phép người gửi tiền được rút ra hoặc chuyển tiền bất cứ lúc nào mà không bị phạt lãi suất và tài khoản này đã nhanh chóng được phổ biến ở Châu Âu. Và gần hơn (trong thập niên 80 của thế kỷ XX ở nhiều nước công nghiệp trên thế giới. Sự hiện đại hóa hoạt động quản lý tài sản với các loại hệ thống thanh toán tự động như ATM, EBT đã cho ra đời hàng loạt các tiền hiện đại như card ATM, VISA, Master, Traveler’s check. Bản thân các loại tiền này là loại hình của séc nhưng với đặc tính đa dạng là có khả năng tự động chuyển những khoản tiền gửi từ tài khoản tiết kiệm ra thành tiền séc hoặc tiền mặt bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, theo đánh giá của các nhà kinh tế Châu Âu, tài khoản Now chỉ thích hợp với những giao dịch nhỏ dành cho các cá nhân, hộ gia đình, công nhân viên chức và các đơn vị kinh doanh nhỏ... Nhưng với những giao dịch lớn thanh toán cho nhau với khoản tiền lớn thì việc chuyển tiền tiết kiệm ra một cách tự động sẽ gây ảnh hưởng lớn đối với khả năng dự trữ và chi trả của Ngân hàng. Mặt khác do hiệu lực thanh toán của séc không kém gì tiền mặt (ở các nước phát triển), cùng với nhu cầu sử dụng tiền làm phương tiện thanh toán ngày càng phát triển trong khi ở nhiều nước các loại tiền hiện đại như card vẫn chưa ra đời, và đòi hỏi đầu tư lớn thì nguồn tiền gửi không kỳ hạn vẫn tỏ ra vô cùng cần thiết, đặc biệt là các giao dịch lớn trong nền kinh tế. Đó là lý do vì sao cho đến những năm cuối của thế kỷ XX, thanh toán séc qua tài khoản tiền gửi không kỳ hạn ở Hoa Kỳ vẫn đạt 15 đến 20% tổng tài sản nợ của các ngân hàng trung gian. Hiện nay ở Việt Nam, các khoản tiền gửi loại này huy động chủ yếu từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân, tuy nhiên số lượng vẫn còn thấp. Bởi lẽ tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn quá thấp, lãi suất trả không đáng kể. Do đó, để tạo lập tốt nguồn tiền gửi này trong thời gian tới các NHTM ở Việt Nam cần tăng cường hơn nữa những hình thức huy động mới có hiệu quả. + Việc trước mắt là cần cho phép các cá nhân mở tài khoản thanh toán bằng séc tại ngân hàng nhằm thu hút các giao dịch qua hệ thống ngân hàng thay cho các giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tế. Đối với ngân hàng, một khi dân cư được phép sử dụng rộng rãi tài khoản tiền gửi không kỳ hạn dùng séc thì một đồng tiền gửi không kỳ hạn tại một NHTM gia tăng sẽ làm tổng số tiền gửi không kỳ hạn trong toàn bộ hệ thống NHTM sẽ tăng thêm gấp bội, có thể từ bốn, năm đến mười lần số tiền gửi ban đầu, tùy theo dự trữ bắt buộc do ngân hàng Nhà nước ấn định và ngược lại. Chính vì vậy đây là giải pháp tốt để tăng cường nguồn tài nguyên của ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và của dân cư. Để làm tốt điều này đòi hỏi các NHTM phải mở rộng mạng lưới hoạt động, tạo điều kiện cho séc được thanh toán ở mọi nơi, mọi lúc thuận tiện, giúp cho khách hàng thấy được sự hạn chế yếu tố cồng kềnh và thủ tục đếm tốn kém thời gian của việc thanh toán bằng tiền mặt. + Việc tăng lãi suất đối với loại tiền gửi này là cần thiết song rất dễ dẫn đến cạnh tranh lại suất giữa các ngân hàng nên cần xem xét thận trong và tuân theo quy định của ngân hàng Nhà nước. + Khuyến khích các đơn vị thực hiện các hình thức chi trả lương thưởng cho công nhân viên qua các tài khoản cá nhân mở tại ngân hàng. + Phát triển công nghệ thanh toán bằng thẻ tín dụng, thẻ thanh toán đầu tư hơn nữa vào mạng máy rút tiền tự động ATM đặt tại những nơi đông dân cư và các trung tâm thương mại. + Đối với các NHTM có quy mô lớn và tạo được uy tín trên thị trường thì cần đặc biệt coi trọng các hình thức hỗ trợ (như quảng cáo, mở rộng các dịch vụ cung ứng, các mối liên hệ hợp tác trong nước, nước ngoài, tăng thêm những tiện ích cho sản phẩm của mình). Làm tốt điều này, ngân hàng cũng có thể huy động được vốn mà thậm chí không phải trả lãi cho nó. Bởi lẽ mục đích chính của loại tiền gửi này là để thanh toán chứ không phải là để lấy lãi nên người gửi thường có xu hướng tìm đến ngân hàng lớn, có uy tín để an toàn tiền gửi của mình. Về phía ngân hàng, thực chất chỉ phải bỏ ra những chi phí về mặt quản lý tài khoản hoặc trả lãi (nếu có). 2-/ Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là hai loại tiền gửi ổn định và có vai trò chính trong hoạt động cho vay của các NHTM. Ngay cả ở Mỹ, khi mà tiền gửi không kỳ hạn rất phát triển nhưng hai loại tiền gửi này vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng phương tiện thanh toán. Ví dụ như năm 1996 ở Mỹ chỉ có 317 tỷ USD là tiền mặt trong tay nhân dân được sử dụng để thanh toán, trong khi có tới 811 tỷ là séc và 2559,8 tỷ là tiền dưới dạng tiền gửi có kỳ hạn. Lãi suất mà NHTM trả cho tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn, lý do ở đây là với khoản vay ổn định này, ngân hàng sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận hơn do đó ngân hàng cũng sẽ trả lãi cao hơn để kích thích khách hàng đến gửi. Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cố định nhưng các loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau sẽ được trả theo những lãi suất khác nhau. Theo những đánh giá của các nhà kinh tế tại Hoa Kỳ và năm gần đây thì lãi suất tiền gửi có kỳ hạn chỉ ổn định với những loại dài hạn, và không ổn định đối với những loại ngắn hạn, bởi tiền gửi ngắn hạn quá không khác nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn, do đó khả năng thanh tiêu của nó cũng rất cao. ở Việt Nam, các khoản tiền gửi này vẫn chủ yếu là các loại ngắn hạn (với thời gian 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 1 năm) thường tập trung cho vay đối với các nhà đầu tư vừa và nhỏ. Hình thức huy động tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (kỳ phiếu ngân hàng có mục đích) với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng - được sử dụng trong vài năm gần đây đã và đang phát huy vai trò trong việc tạo vốn của NHTM. Song cùng với việc đó, trong thời gian tới NHTM có những giải pháp để tăng cường các nghiệp vụ huy động có trước đây đồng thời đưa ra những giải pháp tạo kịp những nguồn tiền gửi có kỳ hạn như: + Huy động từ các qũy dự phòng, dự trữ, qũy khen thưởng, phúc lợi của các đơn vị, tổ chức, từ các tổ chức bảo hiểm trong xã hội. + Điều chỉnh lại lãi suất cho phù hợp, không nên để tình trạng mâu thuẫn giữa một bên là lãi suất thấp thuận lợi cho người đi vay để sản xuất kinh doanh và một bên là người có tiền sẽ không muốn gửi tiền vào ngân hàng với lãi suất thấp nhất là trong tình trạng đồng tiền gửi bị mất giá. Điều đó có nghĩa là mức lãi suất đối với các chứng chỉ tiền gửi có thể cố định hoặc linh hoạt tùy theo sự lựa chọn của khách hàng. + Đa dạng thêm các chứng chỉ tiền gửi nhằm đáp ứng sự cạnh tranh trong huy động vốn của các NHTM. Như vậy ngân hàng có thể thu hút vốn từ các nhà đầu tư lớn, mà lẽ ra các nhà đầu tư này đã có thể dùng vốn đầu tư vào các trái phiếu kho bạc hay vào thị trường tiền tệ. Các chứng chỉ này thường được các công ty, các qũy hưu trí và các tổ chức chính quyền đầu tư với khối lượng lớn, được giao dịch trên thị trường chứng khoán thứ cấp trước hạn định thanh toán. Do đó, theo như trong thời gian tới đối với các NHTM ở Việt Nam thì đây sẽ là một giải pháp có hiệu quả trong việc tạo lập nguồn vốn. + Tạo điều kiện cho khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn. Tuy nhiên cần tránh tình trạng gửi “vạn vật” sẽ gây tốn kém trong quá trình quản lý vốn, ảnh hưởng đến kế hoạch của ngân hàng. 3-/ Tiền gửi tiết kiệm: Cùng với tiền gửi có kỳ hạn thì các khoản gửi tiết kiệm cũng là hình thức huy động kinh điển của các NHTM ở Việt Nam nhưng đa phần là loại tiết kiệm có kỳ hạn. Thế nhưng, tiền gửi tiết kiệm, có thể coi là nguồn vốn chủ lực của các ngân hàng đã huy động được so với sự phát triển kinh tế và tăng trưởng thu nhập quốc dân còn rất hạn chế. Thời gian qua lại bị ảnh hưởng bởi tín dụng biến động không thuận lợi nên có giảm sút. Nguồn tiết kiệm vẫn huy động từ các thành phần chủ yếu sống bằng lợi tức sinh ra từ tiền vốn. Tuy nhiên đây là loại vốn có sự cạnh tranh về lãi suất cao, đòi hỏi phí tổn cao trong huy động, nên chỉ có các tổ chức tín dụng chuyên doanh và kho bạc Nhà nước có nhu cầu vốn, tính toán đầu ra thông suốt, có hiệu quả kinh tế mới huy động. Còn các tổ chức tín dụng chính sách thì không thể sử dụng nguồn vốn này mà không được Ngân sách cấp bù lỗ. Bên cạnh đó các dịch vụ tiết kiệm qua Bưu điện được triển khai từ năm 1998, cùng với mạng lưới rộng khắp với hơn 3000 bưu cục hoạt động trải khắp thành thị, nông thôn, miền núi hải đảo sẵn có bộ máy, nhân sự đầy đủ và thời gian làm việc gấp 2 lần so với các ngân hàng. Lợi thế của bưu điện là dịch vụ huy động đơn thuần không sử dụng vốn, không để dự trữ bắt buộc, không cho vay trực tiếp mà chuyển thẳng cho Bộ Tài chính xem xét đầu tư. Do đó việc tạo lập các khoản gửi tiết kiệm của các NHTM ở Việt Nam càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết, nhất là khi mà những ảnh hưởng của cơn khủng hoảng tài chính ở Châu á vẫn còn đang gây ra sự mất giá của đồng tiền Việt Nam. Chính vì vậy, theo em một trong những giải pháp hiệu quả nhất của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới là: cần phải mở rộng mạng lưới hoạt động của các qũy tín dụng từ thành thị đến nông thôn, tranh thủ những khoản tiền gửi nhỏ của người nghèo, tiền nhỏ thành lớn, cùng đi đôi với việc nâng cấp kỹ thuật ngân hàng đảm bảo nghiệp vụ gửi tiền một nơi rút tiền nhiều nơi. + Nên mở các tài khoản tương tự như tài khoản Now cho phép khách hàng được rút tiền trước thời hạn, tuy nhiên khách hàng sẽ phải chịu khấu trừ một phần lãi suất. + Tranh thủ các nguồn tiết kiệm, dài hạn bởi đây sẽ là nguồn vốn ổn định cho các chương trình cấp tín dụng dài hạn của ngân hàng. + Phải huy động các nguồn gửi tiết kiệm từ các qũy của các cơ quan của công ty, các tổ chức cá nhân khác trong xã hội một cách chủ động hơn. Các NHTM không nên chỉ ngồi chờ khách hàng đến gửi mà phải chủ động đến tận nơi, vận động tại chỗ: có thể tranh thủ giữa giờ giải lao, hoặc tốt nhất là ngay trong giờ hành chính của đơn vị để vận động và tìm kiếm sự hợp tác từ phía đơn vị; có thể liên lạc với khách hàng qua điện thoại và nhận tiền gửi cũng như nhận trả lãi tại nhà cho khách hàng, tạo ra ngày càng nhiều những tiện ích cho sản phẩm của mình. + Đi đôi với hình thức huy động, để cạnh tranh với ngành bưu điện, các NHTM cần phải ưu tiên sử dụng vốn (kể cả nguồn hỗ trợ nếu có) cho vay xóa đói giảm nghèo và đối tượng chính sách trên địa bàn huy động vốn để nhân dân thấy rõ được lợi ích thiết thực của cả hai mặt của nguồn gửi tiết kiệm vào ngân hàng. + Liên hệ với các đoàn thể tại các phường, xã, khu phố nơi địa bàn huy động để tìm kiếm, thu hút thêm các khoản gửi tiết kiệm. Ví dụ như Hội trồng vườn, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội người cao tuổi, đoàn thanh niên, hội chăm sóc bà mẹ, trẻ em v.v... Tóm lại, tình hình huy động tiền gửi ở nước ta trong năm vừa qua vẫn ở mức thấp, trong khi các nguồn vốn nhàn rỗi tích lũy trong dân vẫn còn nhiều. Việc huy động được là một bài toán khó bởi lẽ gần đây tỷ giá giữa USD với đồng tiền Việt Nam ngày một tăng, đồng tiền trong nước bị mất giá (mà cũng một phần do chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung wong nhằm khuyến khích xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài). Do đó trong dân cư có không ít người có nguồn tiền nhàn rỗ nhưng không gửi vào ngân hàng mà lại mua vàng hoặc ngoại tệ mạnh để giành. Một số lớn mua ngoại tệ và gửi vào ngân hàng làm cho mức huy động vốn tiền gửi ngoại tệ của ngân hàng khá cao, tuy nhiên do sự mất giá của đồng tiền nội địa nên khách hàng không muốn vay bằng ngoại tệ vì sợ phải chịu lãi suất cao. Gần đây nữa, do đầu ra chưa thông suốt nên một số ngân hàng chỉ huy động vốn theo nhu cầu sử dụng vốn, chữa cháy, ngắn ngày, có lúc không nhận tiền gửi tiết kiệm trên 6 tháng. Các NHTM chỉ sử dụng một phần vốn ngắn hạn cùng với vốn tự có để cho vay trung và dài hạn: do đó thị trường vốn dài hạn hầu như chưa được khai thác. Lãi suất tín phiếu, trái phiếu kho bạc thường ổn định và cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng và thậm chí cao hơn cả lãi suất cho vay của các NHTM cũng là nguyên nhân cho các ngân hàng khó huy động được nguồn vốn. Vậy thì để có vốn đầu tư phát triển trong giai đoạn hiện đại hóa công nghiệp hóa của đất nước, bên cạnh những giải pháp cụ thể trên thì đối với các loại tiền gửi nói chung, các NHTM cần có những giải pháp nhằm huy động được vốn có hiệu quả hơn, đó là: tổ chức trong ngân hàng phải thực sự lành mạnh, hoạt động bình ổn và chữ “tín” của ngân hàng rất quan trọng, tạo được lòng tin của nhân dân là điều kiện bảo hiểm vốn tiền gửi hữu hiệu. Thực hiện và triển khai tốt hai luật Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng và các luật khác có quan hệ hữu cơ chính là tạo cơ sở pháp lý, bảo toàn cho hoạt động của ngân hàng, bảo đảm được nguồn vốn tiền gửi của dân. + Công tác huy động vốn phải tiến hành thường xuyên, không để xảy ra tình trạng có lúc thì từ chối nhận tiền gửi do thừa vốn tạm thời, nhưng đến lúc muốn vay thì lại không có, đặc biệt là tiền gửi dài hạn. + Khái niệm về tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, không nên quá cứng nhắc, mà phải vận dụng linh hoạt để vừa an toàn cho nguồn vốn của ngân hàng vừa thuận lợi cho người gửi tiền. + Cần cải cách mạnh mẽ và đồng bộ các thủ tục hiện hành, tạo hành lang thông thoáng cho dòng tiền gửi chảy vào ngân hàng, nhất là tiền gửi không kỳ hạn. + Cuối cùng là biện pháp an toàn vốn và bảo đảm giá trị đồng tiền cho người gửi. Bảo hiểm vốn tiền gửi là đúng nhưng nếu bảo hiểm trực tiếp trên vốn tiền gửi thì ngân hàng bị phải hạ lãi suất để có khoản chi cho phí bảo hiểm. Do đó ngân hàng cần tổ chức bảo hiểm các tài sản thế chấp nợ vay, bảo đảm giá trị tiền gửi trung và dài hạn bằng cách lập qũy bình ổn để bù đắp khi đồng tiền mất giá. III-/ Tạo lập vốn qua đi vay. 1-/ Vay của Ngân hàng Trung ương. Các NHTM đều được hưởng quyền vay tiền tại ngân hàng Trung ương trong những tình huống thiếu hụt dự trữ, hoặc quá kẹt tiền mặt thông qua cửa ngõ chiết khấu. Ngân hàng Trung ương sẽ cấp tín dụng cho NHTM qua hình thức chiếu khấu các thương phiếu của NHTM (hoặc tái chiết khấu nếu NHTM đã chiết khấu thương phiếu trước đó). Một điều cho thấy, đặc biệt là ở những nước có nền kinh tế phát triển, cho dù Ngân hàng Trung ương áp dụng mức lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất phạt cao hay thấp thế nào đi nữa nó vẫn phải cho các NHTM vay khi họ kẹt thanh toán để tránh những cơn khủng hoảng tài chính không đáng xảy ra và thực hiện tốt chức năng là “Người cho vay cuối cùng” đối với các NHTM. Đừng về phía NHTM, vay tại Ngân hàng Trung ương là một dịch vụ hết sức tiện lợi vào những khi ngân hàng Trung ương hạ lãi suất chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền nới lỏng để kích thích cho vay đầu tư. Trường hợp không may diễn ra là khi NHTM đến vay giữa lúc NHTM không muốn khuyến khích sự bành trướng tín dụng, hoặc thậm chí nó đang thắt chặt cung ứng để chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đưa lên cao với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của Ngân hàng Trung ương, các NHTM chỉ miễn cưỡng vay trong tình huống thắt chặt ngặt nghèo, và tìm mọi cách trả nợ rất nhanh. Khi đó các khoản vay này chỉ chiếm một phần rất ít trong tài sản nợ. Tùy vào yêu cầu điều tiết của nền kinh tế mà Ngân hàng Trung ương có thể hạ hoặc nâng lãi suất chiết khấu. Song dù sao đây cũng là sân sau đối với hoạt động huy động vốn của các NHTM. 2-/ Vay trên thị trường qua phát hành các chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. ở Hoa Kỳ, các khoản vay ngắn hạn của các ngân hàng trung gian chiếm 10,12% tổng tài sản nợ và là khoản vốn thứ 3 trong các khoản vốn vay của ngân hàng. Điều đó cho thấy, nguồn vốn trên thị trường rất dồi dào. Hiện nay trên thế giới, đặc biệt là ở Hoa Kỳ hình thức vay ngắn trên thị trường chủ yếu qua việc phát hành các chứng thư tiền gửi loại lớn, các hợp đồng mua lại RPS, hoặc vay bằng giấy nợ phụ... Thực chất các chứng thư tiền gửi đó giống như tín phiếu do các ngân hàng trung gian ở Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh đã phát hành trong năm 1995. Nó là một loại phiếu nợ, phiếu vay tiền do ngân hàng phát ra, giống như séc chẳng hạn. Chỉ có điều nó có giá trị bề mặt được ghi đúng bằng số tiền mà khách hàng “cho vay” đối với ngân hàng, khách hàng sở hữu tín phiếu đó, được quyền thanh toán, chi tiêu (do ngân hàng chịu trách nhiệm) với số tiền đến mức tối đa như giá trị bề mặt của chứng thư, lãi suất của nó cũng rất hấp dẫn đối với khách hàng, bởi so với việc cất giữ tiền mặt hoặc tiền séc không sinh ra được đồng lãi nào, thì đối với loại chứng từ này nó vừa có khả năng mua bán nhất định vừa sinh lãi ra mỗi ngày. RPS thực ra nó là hợp đồng mua bán chứng khoán giữa NHTM và các đối tượng kinh doanh chứng khoán. Các công ty tài chính, các tổ chức tín dụng, qũy tiết kiệm hưu trí, các công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán để NHTM có thể vay của thị trường trong vài ngày, vài tuần nhằm bù đắp cho những thiếu hụt tạm thời, bất ngờ trong những thương vụ đầu tư đã ký kết hoặc do hụt dự trữ tại ngân hàng Trung ương. Tổ chức mua chứng khoán là người cho vay, NHTM phát hành chứng khoán là chủ thể đi vay. Ngân hàng không áp dụng hình thức này ra cho nhân dân bởi nếu bán cho nhân dân dưới hình thức phát hành không sau này mua lại rất khó và hiệu quả chậm, không giải quyết được những nhu cầu tiền mặt gấp trong ngắn hạn... Với giấy nợ phụ, NHTM có thể vay nóng với lãi suất khá cao, thời gian ngắn mỗi khi kẹt tiềnmặt thông qua thỏa thuận với các tư nhân, các thân chủ giàu có có quan hệ thường xuyên với nó như các công ty, tổ chức tài chính, tập đoàn kinh doanh... Đây là khoản vay khá phổ biến ở Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản. ở Việt Nam hiện nay cũng đã huy động vốn qua các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn. Mức lãi suất các chứng chỉ này được thỏa thuận trực tiếp giữa Ngân hàng và người gửi tiền cũng giống như các nước, loại chứng chỉ này chỉ được đổi thành tiền mặt khi đến hạn, để phân biệt nó với các loại tiền gửi có kỳ hạn. Đối với hai hình thức sau thì ở nước ta hầu như là chưa có bởi các công ty tổ chức tài chính mới đang trong giai đoạn hình thành, quy mô các doanh nghiệp còn nhỏ chưa có các tập đoàn kinh doanh. Thị trường chứng khoán vẫn còn sơ khai, việc mua bán các chứng khoán trên thị trường là hầu như chưa có. Tuy nhiên trong những năm tới khi mà thị trường chứng khoán khởi động ở nước ta thì đây sẽ là những hình thức huy động vốn cần được chú trọng. ở Việt Nam, các khoản vay trên thị trường hiện nay chủ yếu thông qua hình thức phát hành trái phiếu. Đây là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức ghi nhận giấy nợ do các tổ chức tín dụng (bao gồm các NHTM) phát hành. Hình thức tạo vốn này đã giúp cho các NHTM chủ động trong việc huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư dài hạn và vốn này có tính ổn định cao về thời gian sử dụng và lãi suất. Do trái phiếu là hàng hóa của thị trường chứng khoán cho nên theo kinh nghiệm của các nước Châu Âu thì để huy động được nhiều nguồn vốn vay này đòi hỏi các trái phiếu phải được giao dịch chính thức hoặc giao dịch tự do trên một hay nhiều sở giao dịch chứng khoán. Đó chính là nơi tạo điều kiện cho người đầu tư vào trái phiếu có thể thu hồi vốn bất cứ lúc nào bằng việc bán chúng trên thị trường chứng khoán. Chính vì vậy mà ở Việt Nam đang đưa vào thử nghiệm 2 sở giao dịch chứng khoán một ở Hà Nội và một ở TP HCM. Thiết nghĩ trong tương lai đây sẽ là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất cho việc huy động nguồn vốn của NHTM nước ta. 3-/ Vay từ các tổ chức tín dụng khác. Đó là các khoản vay thông thường mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Đây là hình thức cho vay, nhưng thực ra nó là hình thức tương trợ giữa các ngân hàng để có được sự thỏa thuận và sự hợp tác đôi bên cùng có lợi. Tuy nhiên sự thỏa thuận trên cơ sở bình đẳng chỉ có khi hai ngân hàng cùng khó khăn và cùng tìm đến nhau qua thị trường liên ngân hàng. Còn trong thực tế những ngân hàng gặp khó khăn, chủ động tìm kiếm người giúp đỡ thì bao giờ ngân hàng đó cũng phải chịu thiệt thòi hơn, có thể phải chịu lãi suất cao. Ngoài mục đích vay để đảm bảo khả năng thanh toán, NHTM còn sử dụng vốn vay này để kinh doanh và đảm bảo tiền dự trữ bắt buộc tại ngân hàng Trung ương. Đối với nguồn vốn này cần phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để tranh thủ các khoản vay bằng ngoại tệ mạnh, tạo sự ổn định của đồng tiền trong lúc giá trị đồng tiền trong nước vẫn còn biến động theo chiều hướng giảm sút. Đồng thời để phòng ngừa rủi ro về tỷ giá, tạo điều kiện cho ngân hàng Trung ương tham gia ổn định tỷ giá, cũng như giá trị đồng tiền Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. 4-/ Vay nước ngoài. Hiện nay các NHTM ở Việt Nam được phép vay vốn của các tổ chức nước ngoài qua các hình thức: + Vay bằng tiền (vay tài chính) + Nhập khẩu hàng hóa dịch vụ trả chậm theo phương thức mở thư tín dụng. + Thuê tài chính nước ngoài. + Phát hành trái phiếu ra nước ngoài. + Các loại hình vay nước ngoài khác... Đòi hỏi các NHTM phải có những điều kiện theo quy định của ngân hàng Nhà nước ban hành theo thông tư số 03/1999/TT - NHNN ngày 12 tháng 08 năm 1999 chỉ được sử dụng vốn vay nước ngoài để bổ sung vốn tín dụng và phải sử dụng đúng mục đích vốn vay. Để huy động được nguồn vốn này, các NHTM cần có những giải pháp sử dụng nguồn vốn tín dụng có hiệu quả và đặc biệt nên sử dụng vào việc triển khai các chương trình quốc gia, tham gia vào các kế hạch cụ thể do thủ tướng Chính phủ ra quyết định để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ phía Nhà nước. Ví dụ như nên vay vốn để phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn như quyết định số 67/1999/QĐ TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ. Hoặc ưu tiên vốn cho vay đối với các thành phần kinh tế trong các lĩnh vực nuôi tôm xuất khẩu, trồng cây công nghiệp (cây ăn quả, chế biến nông lâm thủy sản, hải sản... những lĩnh vực mà hiện nay Chính phủ rất quan tâm. IV-/ Các hình thức tạo lập vốn kinh doanh khác. 1-/ Nâng cao hiệu quả nghiệp vụ bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Bảo lãnh là cam kết của ngân hàng bảo lãnh, chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh, được quy định cụ thể trong thư bảo lãnh của ngân hàng. ở nước ta việc bảo lãnh chủ yếu dưới hình thức mở L/C trả chậm phát hành thư bảo lãnh. Đây là nghiệp vụ mang lại rất nhiều lợi nhuận trong các NHTM ở Việt Nam mấy năm trước đây (chiếm 37,5% lãi trong tổng thu nhập năm 1997) và giải quyết được vấn đề thiếu vốn của nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên điều đáng lo ngại hiện nay là nợ quá hạn bảo lãnh còn tồn đọng và kéo dài, quản lý vay nợ còn thiếu trách nhiệm, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn không đúng quy trình nghiệp vụ. Đặc biệt là tình trạng đảo nợ giữa các chi nhánh, đảo nợ nội tệ với ngoại tệ khiến cho nợ xấu chạy vòng quanh, nguy cơ mất vốn ngày càng cao. Chính vì vậy NHTM cần kiểm soát chặt chẽ quy trình bảo lãnh, chỉ bảo lãnh cho những dự án khả thi và thu hồi nợ nhanh. Cần có chính sách chế độ về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ có nghiệp vụ giỏi, am hiểu Luật quốc tế trực tiếp là UCP 500 nhạy bén với những phát sinh của thị trường. Bảo toàn nguồn vốn và tìm kiếm lợi nhuận chính từ giải pháp tạo lập vốn hữu hiệu của các ngân hàng. 2-/ Khai thác nguồn vốn từ những người Việt Nam đang làm ăn sinh số ở nước ngoài. Với hơn 2 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, hàng năm một lượng tiền không nhỏ được gửi về qua các ngân hàng tạo ra sự chu chuyển “Tư bản” có lợi đối với nền kinh tế trong nước. Để thu hút tốt hơn loại vốn này đòi hỏi các NHTM cần thiết phải điều chỉnh lại các quy định mong việc chuyển tiền kiều hối theo hướng đơn giản về thủ tục gửi và nhận tiền miễn thuế chuyển tiền kiều hối thuế thu nhập. Hiện nay trong lĩnh vực này với những chính sách hiện tại của Nhà nước thời gian qua trên thực tế đã không khuyến khích nười Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước, cần phải sớm khắc phục vì đây là nguồn vốn không nhỏ có thể huy động vào NHTM nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung. 3-/ Huy động vàng trong dân cư. Mặc dù tiền mặt vẫn chiếm số lượng lớn trong lưu thông nhưng lượng vàng cất giữ trong dân cư ở Việt Nam còn rất lớn. ở thành thị hầu như gia đình nào cũng cất giữ vàng dưới hình thức đồ trang trí, trang sức (vòng, nhẫn, khuyên tai...). Mặt khác do những năm vừa qua, chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á, đồng tiền Việt Nam bị mất giá và biến động liên tục, người dân có xu hướng dùng tiền mặt để mua ngoại tệ hoặc vàng để cất giữ... Chính vì vậy việc huy động tiền vàng đã được chú ý và được triển khai ở một số ngân hàng ngay từ khi có chủ trưởng của Chính phủ và ngân hàng Trung ương năm 1991. Tuy nhiên, hình thức này có độ rủi ro rất cao do sự biến động giá vàng gần đây và do việc khó khăn trong khâu bảo quản, đảm bảo an toàn của vàng tại các ngân hàng. Mặt khác, các NHTM đang trong thời kỳ củng cố, sắp xếp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động nên cuối năm 1999 vừa qua ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các NHTM ngừng huy động vàng. Có thể chỉ là sự ngừng tạm thời, song trước mắt để huy động được nguồn vốn này đòi hỏi các NHTM phải nhanh chóng củng cố sắp xếp lại khâu tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động, nâng cấp khâu bảo quản và bảo đảm an toàn tiền gửi nói chung. Qua đó tranh thủ sự đồng tình và hỗ trợ từ phía ngân hàng Nhà nước nhanh chóng quay trở lại hoạt động trên lĩnh vực này. 4-/ Từ các hoạt động uỷ thác: NHTM còn có thể tạo vốn qua việc thu hút tiền nhàn rỗi từ các hoạt động uỷ thác về các dịch vụ xã hội như dịch vụ: Câu lạc bộ giáng sinh, nghỉ hè, các kế hoạch khác. Các kế hoạch này được tạo ra để khuyến khích những người tiết kiệm ký thác mỗi tuần một số tiền nhất định tại ngân hàng. Số tiền này sau một thời gian nhất định sẽ là một số tiền đủ lớn để khách hàng sử dụng chi trả có các kế hoạch (dịch vụ) trên. Như vậy nguồn vốn kinh doanh của NHTM rất đa dạng, việc tạo lập các loại hình của nó còn tuỳ thuộc vào lĩnh vực hoạt động và quy mô của mỗi ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, khi mà quy mô hoạt động của nó ngày càng mở rộng, các NHTM kinh doanh trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn) thì ngân hàng nào trường vốn, ngân hàng đó sẽ có nhiều thế mạnh hơn. Do đó ngân hàng cần phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình. Phần III Quản lý việc tạo lập và sử dụng nguồn vốn kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường I-/ Cân đối việc tạo lập và sử dụng ntguồn vốn kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường: Chúng ta biết rằng huy động và sử dụng vốn cho vay là chức năng cơ bản của một NHTM. Nếu thiếu một trong hai hoạt động này thì ngân hàng sẽ không thể thực hiện được hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy đi đôi với việc tạo lập nguồn vốn kinh doanh thì việc mà các NHTM cần phải quan tâm là sẽ sử dụng nguồn vốn đó để làm gì ? Và làm như thế nào ? Để đem lại nguồn lợi cho ngân hàng. Cụ thể là NHTM phải tổ chức quản lý và điều hành vốn trong hoạt động kinh doanh của mình để một mặt bảo đảm an toàn hoạt động kinh doanh của ngân hàng và bảo đảm tính thống nhất trong ngân hàng. Mặt khác để đảm bảo chính sách quản lý ở tầm vĩ mô được thực thi một cách tốt nhất. Để cân đối với việc tạo lập vốn, công tác quản lý và điều hành vốn của các NHTM cần đề cập đến những nội dung: - Phải quản lý và điều hành trên cơ sở đã có mục tiêu xác định và chính sách huy động sử dụng vốn. - Phải quản lý và điều hành vốn trên cơ sở cân đối hài hoà giữa vốn đi vay và vốn cho vay, tránh tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn trong kinh doanh. - Phải quản lý và điều hành vốn trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Nhà nước về các chỉ tiêu an toàn vốn như: + Giới hạn cho vay đối với một khách hàng: Hiện nay luật tổ chức tín dụng quy định tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 19% vốn tự có, trừ các khoản cho vay vì nguồn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng là tổ chức tín dụng khác. + Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn: ngân hàng Nhà nước quy định đối với từng loại hình. + Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: được xác định bằng tỷ lệ giữa vốn tự có so với tài sản “Có” kể cả các cam kết ngoại bảng được điều chỉnh theo mức độ rủi ro. + Tỷ lệ tối đa dư nợ cho vay so với số dư tiền gửi. + Tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% đến 35% tổng số tiền gửi tại ngân hàng. + Tỷ lệ hùn vốn góp vốn. + Tỷ lệ về khả năng chi trả: kết thúc ngày làm việc, NHTM phải duy trì cho ngày làm việc tiếp theo tỷ lệ tối thiểu bằng một giữa tài sản “Có” có thể thanh toán ngay so với các loại tài sản “Nợ” phải thanh toán ngay. + Tỷ lệ trích lập quỹ dự phòng rủi ro. II-/ Kế hoạch đáp ứng yêu cầu về vốn của NHTM : Hiện nay, trước áp lực ngày càng lớn đối với việc duy trì và nâng cao mức vốn hợp lý, NHTM đã dần nhận they sự cần thiết phải lập các kế hoạch dài hạn cho việc quản lỹ và phát triển vốn. Đã có rất nhiều kế hoạch khác nhau được sử dụng và nhìn chung phần lớn các kế hoạch đều gồm 4 bước chính sau đây: Bước 1: Thiết lập kế hoạch tài chính tổng thể cho Ngân hàng. Hội đồng quản trị và ban giám đốc trước hết phải xác định rõ vấn đề: Họ muốn phát triển một Ngân hàng loại nào? Những nội dung cần được trả lời liên quan đến vấn đề này bao gồm: Ngân hàng nên được phát triển với quy mô nào? Ngân hàng nên được cung cấp những dịch vụ nào? Mức độ lợi nhuận nào là thích hợp với Ngân hàng trong daì hạn? Càng ngày các Ngân hàng càng phải gắn những kế hoạch về vốn với danh mục dịch vụ ngân hàng sẽ cung cấp trong tương lai. Sự nới lỏng quản lý đối với hệ thống Ngân hàng tại nhiều quốc gia đã mở ra khả năng cung ứng dịch vụ trong nhiều lĩnh vực mới như kinh doanh chứng khoán, cung cấp dịch vụ bảo hiểm…Hội đồng quản trị phải xác định được ảnh hưởng của việc cung cấp các dịch vụ mới đối với vấn đề rủi ro trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là rủi ro biến động thu nhập và rủi ro phá sản. Một số dịch vụ mới sẽ góp phần làm giảm rủi ro, và như vậy làm giảm yêu cầu về vốn, trong khi đó một số khác lại làm tăng độ rủi ro dẫn đến nâng cao mức vốn yêu cầu. Tất nhiên chất lượng công tác quản lý ngân hàng là yếu tố hàng đầu trong việc quyết định liệu ngaan hàng có thể thực sự hạn chế được rủi ro thông qua việc cung ứng các dịch vụ mới hay không? Bước 2: Căn cứ vào mục tiêu hoạt động, các dịch vụ dự định cung ứng, mức rủi ro có thể chấp nhận và các quy định của Nhà nước, Ngân hàng phải xác định quy mô vốn hợp lý. Hội đồng quản trị cần they rằng Ngân hàng phải đối mặt với hai đòi hỏi về vốn, một được đưa ra do yêu cầu của các nhà chức trách và hai là yêu cầu của các nhà đầu tư trên thị trường nhờ mức độ an toàn của Ngân hàng. Vốn chủ sở hữu quá lớn làm giảm hiệu quả của đòn bẩy tài chính, làm giảm quy mô của việc sử dụng các khoản vốn vay và do đó làm giảm thu nhập tiềm năng. Trong điều kiện bình thường, điều này sẽ làm giảm giá cổ phiếu của Ngân hàng. Vốn chủ sở hữu quá nhỏ so với rủi ro của Ngân hàng có thể khiến các nhà đầu tư trên thị trường vốn có ấn tượng rằng thu nhập của ngân hàng sẽ biến động mạnh trong tương lai và những người gửi tiền quy mô lớn (những người ít được hưởng lợi ích từ Bảo hiểm tiền gửi) sẽ trở nên lo ngại hơn về khả năng mất vốn. Giá cổ phiếu của ngân hàng do vậy cũng sẽ có xu hướng giảm và người gửi tiền cũng như các chủ nợ khác sẽ yêu cầu mức lãi cao hơn cho những khoản vốn của họ. Bước 3: Xác đinh lượng vốn có thể được tạo ra từ việc không chia lợi nhuận. Hội đồng quản trị phải xác đinh một tỷ lệ lợi nhuận sẽ được dùng để chi trả cổ tức cho cổ đông và phần lợi nhuận không chia để phục vụ cho việc tăng trưởng trong tương lai và đáp ứng yêu cầu về vốn. Ngân hàng phải dự đoán sự tăng trưởng trong thu nhập để có thể they được khả năng đáp ứng nhu câù vốn từ nguồn nội bộ. Bước 4: Đánh giá và lựa chọn nguồn vốn phù hợp nhất với những yêu cầu và mục tiêu của ngân hàng Để có thể lựa chọn được nguồn tốt nhất, ngân hàng cần phải giải quyết một số vấn đề sau: Điều gì sẽ xảy ra trên thị trường nếu ngân hàng phát hành thêm cổ phiếu hay các chứng khoán nợ. Quyền lợi và lợi ích của cổ đông sẽ thay đổi như thế nào và mức độ chắc chắn của Hội đồng quản trị trong việc dự đoán luồng thu nhập trong tương lai. Các ngân hàng ngày nay có một số cách thức để nâng cao mức vốn dài hạn, chẳng hạn như bán cổ phiếu, phát hành tín phiếu vốn, bán tài sản, cho thuê trụ sở hoặc đẩy nhanh mức tăng trưởng của thu nhập. Chúng ta có thể phân chia các nguồn vốn khả dụng này thành hai nhóm: Nguồn vốn bên trong (nội bộ). Nguồn vốn bên ngoài. Lời kết luận Như vậy, Vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường chính là “tấm nệm” cuối cùng để chống lại rủi ro phá sản của ngân hàng và giúp ngân hàng hạn chế các loại rủi ro đa dạng khác. Vốn cung cấp những nguồn tiền dài hạn, tạo lập nền tảng cho sự tăng trường và phát triển của ngân hàng trong tương lai. Vốn cũng chính là cơ sở tạo niềm tin cho công chúng, là sự đảm bảo đối với chủ nợ (gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cần phải đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng các nhu cầu tín dụng ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn….Chính bởi vậy, hiện nay, các ngân hàng đặc biệt lưu tâm đến vai trò của vốn, đến các biện pháp và khả năng huy động vốn, bởi đó chính là “đòn bẩy” quyết định sự tồn tại và phát triển vững mạnh của các ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Khi nhìn nhận vai trò quan trọng hàng đầu của yếu tố nguồn vốn đối với các NHTM hiện nay, chúng ta they nó đòi hỏi những luồng vốn dài hạn ổn định, vững chắc. Trong khi đó hệ thống NHTM vẫn là bộ phận chiếm thị phần tín dụng lớn nhất trong hoạt động ngân hàng. Tại Việt Nam, tính đến 6 tháng đầu năm 2002, bốn NHTM quốc doanh chiếm tới 70% thị phần tín dụng. Tuy nhiên theo mức kế hoạch đề ra cả năm thì hiệu quả sử dụng vốn vẫn chưa cao. ở ngân hàng Đầu tư và phát triển mức tăng tổng dư nợ tín dụng trong 6 tháng đầu năm 2002 là 11%, so với mức đề ra cả năm là 30%. Tương tự các chỉ số lần lượt của ngân hàng Ngoại thương là 7,4% so với kế hoạch là 16 - 18%. Ngân hàng công thương là 9% so với kế hoạch là 18 - 20% và ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn là 6% so với kế hoạch là 32 - 37%. Để có thể nâng cao hiệu quả tạo lập và phục vụ hoạt động kinh doanh các NHTM cần sắp xếp lại cơ cấu nguồn vốn, đa dạng hơn nữa các hình thức huy động vốn, kiên quyết loại bỏ những dự án không có tính khả thi, tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm mà Chính phủ quan tâm, đồng thời phải tăng cường đội ngũ cán bộ nhân viên, có năng lực, có trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cao, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ kinh doanh ngân hàng. ở nước ta, với sự lãnh đạo đúng đắn và có hiệu quả của Đảng và Nhà nước ta, chắc chắn hệ thống NHTM ở Việt Nam sẽ hoạt động có hiệu quả hơn trong tạo lập và sử dụng nguồn vốn kinh doanh, phục vụ sự nghiệp phát triển toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội của đất nước. tài liệu tham khảo 1-/ Sách “Tiền và hoạt động ngân hàng” Lê Vinh Danh NXB Chính trị quốc gia. 2-/ Sách “Ngân hàng thương mại” TS. Tô Ngọc Hưng - Nguyễn Kim Anh Học viện ngân hàng. 3-/ Luật các tổ chức tín dụng 4-/ Sách “Các nghiệp vụ của NHTM” Chủ biên GS. TS. Lê Văn Tự NXB Thống kê 5-/ Tạp chí Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1999 - 2002 6-/ Sách quản trị Ngân hàng thương mại Peter S.Rose. Nhà xuất bản tài chính 7-/ Ngân hàng Thương mại – Quản trị và nghiệp vụ TS Phan Thị Thu Hà - TS Nguyễn Thị Thu Thảo Nhà xuất bản Thống Kê - 2002 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29581.doc
Tài liệu liên quan