Đề án Hoàn thiện quy trình thẩm định dự án đầu tư ở Việt Nam

Năm 2001 tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam là 7%, tương đối cao so với trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, đóng góp của đầu tư vào kinh tế và xã hội Việt Nam ngày càng tăng. Có được những thành tựu như vậy một phần không nhỏ là do sự đóng góp của công tác thẩm định dự án đầu tư. Có thể nói, với vai trò của mình, công tác thẩm định dự án đã và sẽ quyết định sự thành công của một nền kinh tế nói chung. Thấy được những hạn chế còn tồn tại, từ đó đề ra những biện pháp giải quyết để công tác thẩm định ngày càng hoàn thiện, phục vụ tốt nhất cho hoạt động đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung.

doc38 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2010 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoàn thiện quy trình thẩm định dự án đầu tư ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, Nhà nước phải đảm bảo tối ưu hoá các hoạt động chung của xã hội. Công tác thẩm định dự án đầu tư giúp loại bỏ những dự án không hợp lý trước khi nó có tác động xấu đến sự phát triển chung của toàn xã hội. Bên cạnh đó, cần thấy rằng đối với một đất nước mà cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn, nguồn vốn chưa đáp ứng đủ nhu cầu thì việc ra quyết định đầu tư cho dự án nào là rất khó khăn. Việc ra quyết định không đúng sẽ gây những hậu qủa lâu dài, lãng phí thời gian và nguồn lực, làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung. Chính vì vậy, các cơ quan Nhà nước tiến hành thẩm định dự án đầu tư, so sánh các dự án với nhau và đem lại dự án hiệu quả nhất, tối ưu nhất tuỳ thuộc và từng dự án cụ thể. Như vậy có thể nói rằng công tác thẩm định đóng vai trò quan trọng ở tầm vĩ mô và vi mô. 4. Phương pháp thẩm định DAĐT. Để đạt được hiệu quả cao trong công tác thẩm định DAĐT, các dự án phải được nghiên cứu, phân tích và kiểm tra theo phương pháp khoa học, các kinh nghiệm quản lý thực tế và theo một trình tự nhất định.Thông thường có ba phương pháp được sử dụng trong quá trình thẩm định DAĐT. 3.1. Phương pháp so sánh các chỉ tiêu. Đây là phương pháp phổ biến và tương đối đơn giản. Những nội dung có thể định lượng được trong dự án thường được tính toán và thể hiện bằng các chỉ tiêu này. Có thể sử dụng phương pháp so sánh các chỉ tiêu của dự án với các chỉ tiêu chuẩn, các hạn mức, định mức được sử dụng để đánh giá tính hợp lý của dự án. 3.2. Phương pháp phân tích độ nhạy của dự án. Các chỉ tiêu hiệu quả của một dự án đều được tính toán dựa vào các dữ liệu đã thu thập được và các số liệu dự báo. Do đó có thể bị sai lệch nhất là trong một tương lai xa khi tình hình khách quan mà chủ yểu là các yếu tố thị trường có những diễn biến không phù hợp với những điều mà ta đã dự đoán. Vì vậy khi cần xem xét tính chất ổn định của các chỉ tiêu đó trước tình hình thay đổi của thị trường, chúng ta phải phân tích độ nhạy của các chỉ tiêu đối với sự thay đổi đó và mỗi một dự án có độ nhạy cảm khác nhau đối với từng yếu tố tác động tới nó . 3.3. Phương pháp triệt tiêu rủi ro. DAĐT biểu hiện một tập hợp những kế hoạch, những dự kiến trong tương lại và thời gian từ khi dự án còn bắt đầu hoạt động đến khi hến hạn thường không phải là ngắn. Do đó có nhiều phát sinh ngoài ý muốn và khó tránh khỏi những rủi ro không dự đoán trước được. Để đảm bảo tính vững chắc, hiệu quả của dự án người ta thường xác định một số loại rủi ro có thể xảy ra. Từ đó sẽ đưa ra được biện pháp về kinh tế hoặc hành chính thích hợp để hạn chế thấp nhất tác động của rủi ro hay phân tán bớt rủi ro cho các đối tượng có liên quan đến dự án. 3.4. Phương pháp thẩm định theo trình tự Thẩm định dự án được tiến hành theo một trình tự biện chứng từ tổng quát đến chi tiết, lấy kết trước làm tiền đề cho kết luận sau. 4.4. Phương pháp dự báo Phương pháp này sử dụng số liệu dự báo, điều tra thống kê để kiểm tra cung cầu của sản phẩm dự án trên thị trường, giá cả, chất lượng của công nghệ, thiết bị, nguyên liệu,… ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, tính khả thi của dự án 4. Nội dung của thẩm định DAĐT. 4.1. Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật. Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật là việc kiểm tra, phân tích các yếu tố kỹ thuật và công nghệ chủ yếu của dự án. Để đảm bảo tính khả thi về mặt thi công và xây dựng dự án cũng như việc vận hành dự án theo đúng các mục tiêu đã dự kiến. Việc thẩm định này được dựa trên các nội dung chính như quy mô của dự án, công nghệ và trang thiết bị, thẩm định việc cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào; thẩm định các điều kiện về nhân lực, cơ sở hạ tầng, môi trường; thẩm định về kế hoạch triển khai của dự án. 4.2. Thẩm định về nội dung thị trường của dự án. Đây là một nội dung quan trọng và có ý nghĩa sống còn của dự án. Bởi lẽ thị trường là nhân tố cuối cùng quyết định sự thành bại của dự án đối với chủ đầu tư. 4.3. Thẩm định về phương diện tổ chức sản xuất và quản lý. Trong nhiều trường hợp, mức độ thành công hay thất bại của dự án không phải do yếu tố thị trường hay kỹ thuật mà lại do chính năng lực tổ chức quản lý, tổ chức thực hiện của các cơ quan có liên quan đến việc thực hiện và vận hành dự án. Vì vậy, đối với các dự án có yêu cầu đầu tư lớn và yêu cầu kỹ thuật cao cần phải xem xét năng lực thực tế của các cơ quan cũng như quan hệ phối hợp giữa chủ của dự án, các tổ chức thiết kế thi công cung ứng thiết bị, nguyên vật liệu và đội ngũ công nhân kỹ thuật chịu trách nhiệm vận hành dự án. 4.4. Thẩm định các chỉ tiêu kinh tế- xã hội của dự án. Trên giác độ nhà đầu tư, mục đích cụ thể có nhiều nhưng quy tụ lại là yếu tố lợi nhuận. Tuy nhiên, không phải mọi dự án có khả năng sinh lợi đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đối với nền kinh tế và xã hội. Do đó, trên góc độ quản lý vĩ mô phải xem xét đánh giá việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, có nghĩa là phải xem xét khía cạnh kinh tế - xã hội của dự án. Các chỉ tiêu thẩm định: Giá trị gia tăng thuần tuý NVA Giá trị sản phẩm thuần tuý gia tăng quốc gia Số lao động tăng thêm và số lao động có việc làm tính trên một đơn vị vốn đầu tư Tác động đến phân phối thu nhập và công bằng xã hội Tiết kiệm và tăgng nguồn ngoại tệ Khả năng cạnh tranh quốc tế của sản phẩm Một số tác động khác 4.5. Thẩm định các chỉ tiêu tài chính dự án đầu tư. Thẩm định tài chính nhằm đánh giá tính khả thi của dự án về mặt tài chính. Kết quả của quá trình thẩm định này là căn cứ để quyết định dự án có được thực hiện hay không, nhất là đối với dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước. Bởi một dự án hoạt động không thể không đem lại lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá thấp không đủ bù các chi phí cơ hội khác bị mất đi. Trong giai đoạn hiện nay, hàng năm thu ngân sách từ các doanh nghiệp Nhà nước chiếm khoảng 45% tổng thu từ thuế. Vì vậy, đối với các dự án đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước thì quá trình thẩm định tài chính là đặc biệt quan trọng. Vì vậy nghiên cứu công tác thẩm định tài chính các dự án sử dụng vốn trong nước nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng, từ đó đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả thẩm định là cần thiết. Các chỉ tiêu thẩm định tài chính: Tỷ suất sinh lời vốn đầu tư Tỷ số lợi ích – chi phí (B/C) Lợi nhuận thuần, thu nhập thuần (NPV,NFV) Thời gian thu hồi vốn đầu tư (T) Hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR) Điểm hoà vốn 5. Phân cấp thẩm định dự án 5.1. Phân cấp thẩm định dự án vốn trong nước(theo luật đầu tư trong nước) Thủ tướng chính phủ Bộ KHĐT Dự án đầu tư nhóm A Dự án đầu tư nhóm B Sở KHĐT Các bộ, ngành, Tổng công ty Dự án đầu tư nhóm C UBND cấp tỉnh Ghi chú: Có thẩm quyền xem xét 5.2. Phân cấp thẩm định các dự án đầu tư vốn nước ngoài (theo luật đầu tư nước ngoài) 5.2.1. Thủ tướng Chính phủ Có thẩm quyền quyết định đối với dự án nhóm A 5.2.2. Bộ Kế hoạch và đầu tư Đối với các dự án nhóm A, lấy ý kiến của các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh liên quan đến Chính phủ xem xét, trường hợp có những ý kiến khác nhau về những vấn đề quan trọng của dự án thì lập hội động xem xét trước khi trình chính phủ. Đối với các dự án nhóm B, bộ Kế hoạch Đầu tư lấy ý kiến của các bộ ngành có liên quan trước khi xem xét quyết định. 5.2.3. UBND cấp tỉnh. Tổ chức tiếp nhận hồ sơ dự án, thẩm định và cấp giấy phép đầu tư cho các dự án đầu tư nước ngoài trong phạm vi được phân cấp. 5.2.4. Ban quản lý khu công nghiệp. Được uỷ quyền cấp giấy phép cho các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, với điều kiện được quy định cụ thể trong các quyết định uỷ quyền của bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư cho các ban quản lý khu công nghiệp trên cơ sở đề nghị củâ UBND cấp tỉnh. 5.2.5. Chủ đầu tư. Thẩm định những dự án tư nhân, nếu là công trình xây dựng phải xin giấy phép của chính quyền địa phương. Phần II Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư ở Việt Nam Các cơ quan có chức năng thẩm định bao gồm: Thủ tướng chính phủ, Bộ và Sở Kế hoạch - Đầu tư, UBND cấp tỉnh và các bộ ngành có liên quan. I. Về tổ chức thực hiện Việc tổ chức các hoạt động thẩm định dự án tại các văn phòng thẩm định tương đối linh hoạt phù hợp với các đặc điểm riêng của từng dự án để đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, tiết kiệm thời gian và tiền bạc. Đã có sự phối hợp tốt giưã Văn phòng Thẩm định và các cơ quan hữu quan (Bộ quản lý ngành, UBND, Ban quản lý KCN, KCX, chủ dự án, tổ chức cho vay vốn, các đối tác,…) trong việc thẩm định, hoàn thiện, rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng thẩm định. 2. Về chất lượng công tác thẩm định Nhìn chung công tác thẩm định đánh giá các dự án nhóm A và các dự án đầu tư nước ngoài là những dự án tương đối phức táp, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân, đã được thựuc hiện một chách nghiêm túc chặt chẽ, đảm bảo yêu cầu về thủ tục pháp lý và chuyên môn đồng thời thựuc hiện tương đối kịp thời đảm bảo thời gian theo quy định hiện hành và yêu cầu cảu lãnh đạo Bộ và cập có thẩm quyền phê duyệt. Nhiều dự án đã được đánh giá một cách nghiêm túc, đua vào thực hiện thể hiện được tính khả thi, phát huy tốt hiệu quả đối với nền kinh tế, điều này thể hiện tính hiệu quả của công tác thẩm định, trình độ chuyên môn của các cán bộ chuyên viên thẩm định. Sau nhiều năm thực hiện quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, cán bộ thẩm định cũng có thêm nhiều kinh nghiệm và thông tin để đánh giá dự án. Việc thẩm định, đánh giá dự án không chỉ dựa vào các quy định, chính sách hiện hành của Nhà nước mà còn dựa vào kinh nghiệm của bản thân về các dự án tương tự đã được thực hiện trước đó và khả năng nắm bắt, tìm hiểu thông tin thực tế trong nước và quốc tế. Nhờ đó mà đánh giá được một cách tương đối chính xác các thông tin nêu ra trong dự án làm căn cứ cho việc ra quyết định. Cán bộ thẩm định cũng tập trung hơn vào các khâu cơ bản, không đi sâu vào các tình tiết dự án để rút ngắn thời giam thẩm định. Một số nội dung được chú ý đi sâu xem xét là ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, vốn đầu tư, hiệu quả tài chính, kinh tế xã hội của dự án tương đối hợp lý và đem lại hiệu quả cao trong đánh giá, lựa chọn dự án. Cụ thể là nhờ đó mà các dự án được đưa vào hoạt động ngày càng cao sau đợt giảm đầu tư vào những năm 1998-1999, đưa lại lợi ích kinh tế xã hội ở nhiều lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, khoa học giáo dục, thông qua đó mà GDP tăng ổn định, đời sống kinh tế xã hội của nhân dân được nâng cao. Bảng 1: Số dự án đã qua thẩm định tại Bộ Kế hoạch và đầu tư Năm 1998 1999 2000 2001 Số dự án nhóm A 82 90 97 145 Số dự án ĐTNN 45 51 54 82 Tổng cộng 127 141 151 227 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bảng 2: Số dự án đã trình TTCP STT Ngành Năm 2000 Năm 2001 Số dự án Tổng mức ĐT Số dự án Tổng mức ĐT 1 Công nghiệp 39 51439.2 38 72109 2 Nông nghiệp 17 13288.5 14 15501 3 Giao thông vận tải 19 28630.9 24 59027 4 Y tế giáo dục 16 22149.8 18 24514 5 Môi trường đô thị 9 2013.3 14 10416 6 Các lĩnh vực khác 22 42359.1 67 123975 Tổng cộng 121 160010.8 169 305542 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư 3. Về nội dung thẩm định Những nội dung thẩm định tại các văn phòng thẩm định tương đối đầy đủ và phản ánh được những nội dung cần thiết trong đánh giá dự án. Thông qua các nội dung trên thì các văn phòng Thẩm định có thể đánh giá một cách toàn diện, khách quan các mặt cảu dự án. Việc xác định mục tiêu dự án phần nhiều là phù hợp và không có nhiều sai sót đáng kể, đặc biệt là xác định hiệu quả kinh tế xã hội về mặt định tính khá đầy đủ là cơ sở vững chắc cho đánh giá dự án. 1.4. Về mặt chuyên môn Công tác thẩm định dự án đã huy động được sự đóng góp tham gia ý kiến của các Vụ, viện trong Bộ Kế hoạch và Đầu tư, những bộ ngành có liên quan, các tổ chức tài trợ, cho vay vốn, các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu và quản lý Nhà nước, các tổ chức tư vấn độc lập, các chuyên gia trong nước và ngoài nước tham gia đóng góp ý kiến về các vấn đề chuyên môn có liên quan. Các ý kiến của các chuyên gia phản biện, các nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực được mời tham gia thẩm định hoặc đóng góp ý kiến có chất lượng chuyên môn cao là những đóng góp có giá trị và là căn cứ quan trọng để có quyết định cuối cùng về tính khả thi của dự án. Nhiều dự án được xét duyệt và quyết định đầu tư đã phát huy tốt hiệu quả và giữ vai trò quan trọng trong việc đạt được những mục tiêu chung của nền kinh tế do Nhà nước đặt ra. Kết quả thẩm định các dự án nhìn chung là mang tính khách quan, khoa học, các nội dung kinh tế kỹ thuật và những đề xuất có tính khả thi tốt. Các kết luận và ý kiến đề xuất của cán bộ thẩm định về cơ bản là trùng khớp với ý kiến của tổ chức cho vay hoặc tài trợ vốn. Nhìn chung, công tác thẩm định dự án trong những năm qua đã thực hiện được tương đối tốt, phần nào đáp ứng được những yêu cầu đặt ra, đạt được những mục tiêu quan trọng và là một trong những công cụ hữu hiệu để quản lý tốt hoạt động đầu tư trong và ngoài nước. II. Những hạn chế và nguyên nhân 1. Hạn chế. 1.1. Về quy trình thẩm định. Quy trình thẩm định hiện nay tuy chặt chẽ nhưng còn phức tạp, phải qua nhiều khâu và tốn thời gian. Hơn nữa nó quá rắc rối nên có xu hướng làm cho các cơ quan có trách nhiệm chính trong việc thẩm định trở nên thụ động; việc thẩm định phải qua nhiều khâu trung gian làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định và kéo dài thêm thời gian của quá trình gây chậm trễ cho việc thực hiện dự án. 1.2. Về tổ chức thẩm định. Công tác thẩm định chưa thức sự khẩn trương, thời gian thẩm định nhiều khi còn kéo dài hơn so với quy định, nhất là các dự án có độ phức tạp cao. 1.3. Về nội dung thẩm định. Một số nội dung thẩm định chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu. Trong việc thẩm định mục tiêu dự án, các cơ quan thẩm định vẫn còn có những quyết định thiếu chính xác trong việc lựa chọn các lĩnh vực đầu tư của dự án phù hợp với mục tiêu phát triển. Việc thẩm định thường chỉ thiên về các chỉ tiêu mang tính định tính của dự án, ít chú ý đến các chỉ tiêu định lượng trong phân tích tài chính cũng như kinh tế xã hội của dự án, các chỉ tiêu này thường thiếu chính xác hoặc chưa đầy đủ, chủ yếu dựa vào các thông số được nêu trông dự án mà chưa có điều kiện kiểm tra tính chính xác của các thông số này. Việc sử dụng phương pháp tỷ suất chiết khấu xã hội tuy có nhiều ưu điểm song không phản ánh được giá trị thực thu, thực chi của dự án trong trường hợp có rủi ro và không sử dụng được để lựa chọn các dự án có nội dung kinh tế xã hội giống nhau. Thêm vào đó việc xác định các giá trị kinh tế thiếu nhất quán và phụ thuộc nhiều vào kỹ năng của người phân tích do hiện tại Việt Nam chưa quy định mức giá kinh tế để tính chuyển trong phân tích kinh tế dự án. Chưa có biện pháp xác định tính khả thi trong phương thức tổ chức thực hiện dự án như các phương án đền bù, giải phóng mặt bằng, tổ chức đấu thầu nên nhiều dự án sau khi được phê duyệt gặp nhiều khó khăn trong những khâu đầu tiên này. Mặc dù phương thức tổ chức thực hiện dự án là một nội dung bắt buộc trong hồ sơ đề nghị thẩm định dự án song đã không được chú ý trong khâu thẩm định do đó không đảm bảo tính khả thi. Việc thẩm định hiện nay chú ý nhiều đến thời gian thẩm định mà chưa coi trọng đến chất lượng và nội dung thẩm định. 2. Nguyên nhân của những hạn chế. 2.1. Công tác lập dự án chưa đảm bảo tính khả thi. Chất lượng và hiệu quả của công tác thẩm định dự án phụ thuộc khá nhiều vào nội dung, chất lượng của dự án trình duyệt. Dự án được lập với đầy đủ nội dung và chất lưọng tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định dự án. Các ý kiến đánh giá, nhận xét và kết luận về dự án sẽ đầy đủ và khoa học. Ngược lại nếu chất lượng dự án không cao, không đầy đủ những nội dung cần thiết sẽ gây khó khăn cho công tác thẩm định. Hiện nay, công tác lập dự án đôi khi còn chưa đạt được những yêu cầu cơ bản, hồ sơ dự án thiếu một số yêu cầu tối thiểu khiến cho công tác thẩm định không tiến hành suôn sẻ được. Trong hồ sơ dự án nhiều khi có những nội dung không đáp ứng được những yêu cầu như năng lực tài chính, các chỉ tiêu cơ bản tính toán không chính xác. Một số dự án nêu về phương án thực hiện và giải phóng mặt bằng không hợp lý. Rất nhiều dự án phải bổ sung hồ sơ dự án theo yêu cầu của các bộ, ngành. Việc lập dự án, chỉ căn cứ vào các điều 23, 24 của nghị định 52/1999/NĐ chính phủ, các điều này chỉ quy định những nội dung chủ yếu cần quan tâm của báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi. Do quy định này quá vắn tắt nên khi lập dự án, mức độ cụ thể và nội dung dự án được các chủ dự án và các Bộ, ngành, địa phưong vận dụng tuỳ tiện. Về nội dung dự án, các điều 23, 24 của nghị định 52 chỉ quy định những nội dung chủ yếu cà quy định chung cho tất cả các loại dự án. Trong thực tếcó rất nhiều ngành kinh tế kỹ thuật và rất những lĩnh vực khác nhau, có những đặc thù riêng, đòi hỏi phải có nội dung và phương pháp lập dự án cụ thể, phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực. Các Bộ quản lý ngành và cơ quan liên quan không có những hướng dẫn cụ thể về nội dung và phương pháp lập dự án phù hợp, do đó nhiều dự án trình duyệt có chất lượng thấp gây khó khăn cho công tác thẩm định. Về tư cách pháp nhân của chủ đầu tư: đối với các nhà đầu tư nước ngoài,các tài liệu xác nhận tư cách pháp nhân của họ chủ yếu là các bản chụp vì các cơ quan công chứng trong nước không nhận công chứng cho tài liệu của người nước ngoài nên không đảm bảo độ tin cậy. Về năng lực tài chính của chủ đầu tư: trong rất nhiều trường hợp chủ đầu tư có đầy đủ tài liệu chứng tỏ năng lực tài chính song vẫn không huy động được vốn để triển khai dự án. Ngược lại cõn nhà đầu tư chỉ có số tiền không nhiều song vẫn triển khai đầu tư thành công dự án trị giá hàng chục USD. Đối với đầu tư trong nước, nhiều trương hợp khi lập và trình duyệt dự án chưa có chủ đầu tư, vốn đầu tư đi vay toàn bộ. Nếu chỉ căn cứ vào năng lực tài chính, tại thời điểm trình duyệt dự án của chủ đầu tư để xem xét dự án, ta sẽ bỏ lỡ những cơ hội phát triển nền kinh tế. 2.2. Các văn bản pháp lý còn thiếu chặt chẽ. 2.2.1. Về phạm vi thẩm định dự án. Theo tài liệu về lập và đánh giá dự án đầu tư mà các tổ chức quốc tế WB, ADB, UNIDO, UNDP khuyến nghị và đã được 100 nước trên thế giới áp dụng cho thấy, thẩm định dự án là việc xem xét một cách toàn diện các nội dung ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án. Tuy nhiên trên thực tế Nghị định 52 quy định 14 nội dung chủ yếu của báo cáo nghiên cứu khả thi và quy định 9 nội dung phải thẩm định. Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng Nhà nước, vốn do Nhà nước bảo lãnh còn phải thẩm định các điều kiện tài chính, giá cả, hiệu quả đầu tư và phương án hoàn trả vốn đầu tư của dự án.Như vậy, nội dung chủ yếu của dự án, nội dung thẩm định và nội dung quyết định đầu tư theo quy định của nghị định 52 không hoàn toàn phù hợp và thống nhất với nhau. Trong cơ chế hiện hành, các văn bản sử dụng khái niệm không thống nhất, nhiều khi lẫn lộn khái niệm dự án với báo cáo nghiên cứu khả thi và khái niệm Giải trình kinh tế kỹ thuật. Trong khi điều 23 và 24 của Nghị định 52 quy định nội dung chủ yếu của báo cáo nghiên cứu khả thi và báo cáo nghiên cứu tiền khả thi thì điều 27 lại quy định nội dung thẩm định dự án đầu tư. Nếu áp dụng theo nội dung thẩm định dự án có nhiều nội dung không phù hợp và không thực hiện được. Tất cả những vấn đề trên đã đưa đến những cách hiểu và vận dụng khác nhau trong quá trình lập, thẩm định dự án đầu tư và quyết định đầu tư. Nhiều vấn đề đã trở nên phức tạp, nhất là khi dự án có những vấn đề mà các cơ quan bảo vệ luật pháp phải can thiệp. Các quy định hiện hành cho phép một dự án có thể sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau, song không quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong khâu thẩm định và phê duyệt đối với các dự án thuộc loại này, nhất là dự án có sử dụng một phần bằng vốn Nhà nước. Do đó hiện nay các Bộ, ngành, địa phương và cơ sở gặp nhiều khó khăn, Bộ Kế hoạch và đầu tư cũng bị lúng túng trông việc giải thích và hướng dẵn thực hiện. 2.2.2. Về chủ đầu tư. Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi không quy định phải xác định chủ đầu tư nhưng theo điều 26 về thẩm định dự án đầu tư quy định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi do chủ đầu tư trình; thông tư hướng dẫn số 06/1999/TT – Bộ Kế hoạch và đầu tư quy định hồ sơ thẩm định phải có tờ trình của chủ đầu tư, có văn bản xác nhận tư cách pháp nhân, năng lực tài chính của chủ đầu tư. Như vậy có sự không thống nhất trong các văn bản nói trên làm cho các cơ quan lập và trình dự án và cơ quan thẩm định khó thực hiện. 2.2.3. Đánh giá tổng thể tính khả thi của dự án. Để thực hiện yêu cầu này, khi thẩm định phải thẩm định toàn bộ nội dung của dự án. Nhưng theo điều 27 Nghị định 52 chỉ quy định thẩm định 8 vấn đề. Thực tế hiện nay người thẩm định vẫn phải thẩm định toàn nội dung đã nêu trong báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án. 2.3. Quy hoạch không đồng bộ giữa các ngành, vùng và quy hoạch chung, nhiều ngành chưa xây dựng được quy hoạch riêng cho mình. Về các quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, không có quy định về nội dung thẩm định, nếu áp dụng theo nội dung thẩm định dự án đầu tư có nhiều nội dung không phù hợp. Sự phù hợp với quy hoạch ngành và lãnh thổ: hiện nay có rất nhiều ngành, nhiều lĩnh vực chưa xây được quy hoạch, hoặc quy hoạch đã lạc hậu mà chưa được điều chỉnh, nếu phải chờ quy hoạch được phê duyệt mới xem xét dự án thì sẽ bỏ lỡ cơ hội đầu tư; hoặc một số dự án nếu cứ xem xét và quyết định đầu tư sẽ không có căn cứ pháp lý và rất có thể sẽ không phù hợp khi quy hoạch được duyệt sau này. Vậy khi xem xét thẩm định dự án sẽ phải căn cứ vào quy hoạch nào, nhất là khi quy hoạch của ngành và địa phương không thống nhất. 2.4. Thiếu thông tin về công nghệ và thiết bị, nhất là đối với những công nghệ thiết bị mới. Trong giai đoạn thẩm định dự án, cơ quan thẩm định( kể cả các chuyên gia và cơ quan tư vấn thẩm định dự án) thường không đủ thông tin và không đủ cơ sở để khẳng định phương án chọn lựa thiết bị được đề xuất có tối ưu hay không, khi mà chưa có thiết kế kỹ thuật và chưa thông qua đấu thầu để để lựa chọn. Phương án thiết bị này chỉ chính thức được chấp nhận sau khi đã có kết quả đấu thầu, ký kết hợp đồng cung cấp thiết bị, giữa chủ đầu tư với các nhà cung cấp thiết bị đấu thầu. Một số dự án sử dụng các loại thiết bị và công nghệ hoàn toàn chưa có ở nước ta, việc thẩm tra là hết sức khó khăn, bởi không chỉ cơ quan tổ chức thẩm định mà cả các chuyên gia và đơn vị tư vấn trong nước cũng không nắm vững, trong trường hợp này việc thuê chuyên gia và đơn vị tư vấn thẩm định dự án là không thực hiện được. 2.5. Việc áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn chưa đầy đủ hoặc rất khó xác định được các định mức. Hiện nay các quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng của một số ngành không phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội hiện nay. Một số ngành, các quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng chưa được ban hành một cách chính thức. Vì vậy cơ quan lập dự án và cơ quan thẩm định dự án đều dựa vào thực tế là chính để xem xét, đánh giá dự án, nên thiếu chính xác và thiếu thống nhất. Đây là một trong những vấn đề khá nổi cộm, gây ra rất nhiều khó khăn cho cán bộ thực hiện thẩm định. Nhiều khi việc xác định các định mức khó khăn nên dẫn đến việc thẩm định có khi mang tính cảm quan, không chính xác. 2.6. Một số nội dung thẩm định chưa hợp lý. 2.6.1. Về bảo vệ môi trường sinh thái, kế hoạch tái định cư. Đối với dự án đầu tư vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái là rất cần thiết, là một trong ba tiêu chuẩn để đánh giá tính bền vững củadự án đầu tư. Tuy nhiên vấn đề bảo vệ môi trưòng sinh thái đồng nghĩa với tăng thêm chi phí đầu tư cho dự án. Hiện nay cơ quan thẩm định dự án chỉ mới chú trọng đến việc xử lý chất thải, phòng chống cháy nổ, chống gây ô nhiễm , được nêu vắn tắt trong hồ sơ dự án, chưa chú ý đến củng cố và phát triển môi trường sinh thái. 2.6.2. Về kế hoạch tái định cư. Theo thông lệ các nước, để phản ánh đúng hiệu quả kinh tế, xã hội của dự án đầu tư, phần chi phí đền bù, di dân và tái định cư phải tính vào tổng mức vốn đầu tư của dự án. Theo quy định hiện hành của nước ta, chỉ có phần kinh phí đền bù thiệt hại mới tính vào tổng mức đầu tư của dự án, kế hoạch thực hiện và kinh phí để di dân và tái định cư không được tính vào tổng mức đầu tư của dự án, chi phí này được thực hiện riêng. Như vậy gây khó khăn cho công tác thẩm định dự án, nhất là tính toán hiệu quả của dự án. 2.6.3. Về tổng mức vốn đầu tư Tổng mức vốn đầu tư khi lập và trình duyệt dự án được tổng hợp từ nhiều chi phí khác nhau, không thể tiên liệu được mọi vấn đề xảy ra liên quan đến dự án và làm thay đổi tổng mức vốn đầu tư. Các thay đổi liên quan đến lãi suất, tỷ giá cũng khó có thể dự đoán một cách chính xác được. 2.6.4. Về nguồn vốn đầu tư Trong giai đoạn lập và thẩm định Báo cáo nghiên cứu khả thi, nguồn vốn để triển khai thực hiện dự án phần lớn chỉ là dự kiến, chưa có cơ sở để khẳng định (kể cả nguồn vốn Ngân Sách, vốn vay, vốn tự có hay huy động từ các nguồn khác…) do đó khi thẩm định dự án, xem xét tính khả thi của các nguồn vốn ở mức độ nào là các công việc hết sức khó khăn. 2.6.5. Về phân tích hiệu quả đầu tư Các văn bản pháp quy ở nứoc ta không quy định cụ thể các chỉ tiêu tài chính cần được tính toán trong báo cáo nghiên cứu khả thi, không quy định cụ thể những chỉ tiêu tài chính nào phải được thẩn định, nên khâu lập dự án và khâu thẩm định nhiều khi không thống nhất với nhau về các chỉ tiêu đánh giá dự án. Do những yếu tố nhiều khi tác động trong suốt thời gian hoạt động của dự án, việc đánh giá hiệu quả đầu tư khi thẩm định dự án chỉ có ý nghĩa tham khảo ở mức nhất định không thể coi là kết quả hoạt động trong suốt thời kỳ dự án. 2.7. Chưa có sự phân cấp trách nhiệm đối với cơ quan hứu quan cũng như đối với cán bộ thẩm định Chính điều này dẫn tới tình trạng cơ quan thẩm định kéo dài thời gian thẩm định, những kết luận đưa ra còn chung chung, không có trách nhiệm làm ảnh hưởng xấu đến vai trò của hoạt động thẩm định dự án. Ngoài ra việc các cơ quan khi tham gia nhận xét, đánh giá về lĩnh vực mình quản lý không có ý kiến đánh giá gây khó khăn cho việc thẩm định. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thẩm định dự án đầu tư và nhận thấy quá trình thẩm định dự án ở Việt Nam còn một số tồn tại như trên nên việc đề ra các biện pháp hoàn thiện là cần thiết. Phần III Một số giải pháp hoàn thiện quy trình thẩm định dự án đầu tư. I. Về phía Nhà nước và các cơ quan hữu quan. 1. Nâng cao chất lượng lập dự án. Một dự án nếu không làm tốt từ khâu lập dự án thì quy trình và nội dung thẩm định dù có hợp lý và chặt chẽ đến đâu cũng không mang lại hiệu quả. Do đó cần có những biện pháp để nâng cao chất lượng của công tác lập dự án từ đó nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định. Một số biện pháp: Xem xét, bổ sung quy chế đấu thầu và tuyển chọn cơ quan tư vấn lập dự án, trong đó phải đề cao trách nhiệm của cơ quan tư vấn, chủ đầu tư. Đối với các cơ quan tư vấn có nhiều dự án chất lượng thấp thì phải có văn bản thông báo trong toàn thành phố, nếu tiếp diễn thì phải thu hồi giấy phép kinh doanh. Chủ đầu tư phải tăng cường ràng buộc trách nhiệm đối với các tổ chức tư vấn bằng các hợp đồng cụ thể và xử lý nghiêm các vi phạm hợp đồng. Các số liệu, định mức sử dụng trong hồ sơ dự án phải có nguồn cung cấp điều tra rõ ràng, chính xác, đầy đủ. Các số liệu này luôn luôn phải đảm bảo tính thực tiễn, tính khoa học thì mới có thể có những kết luận chính xác về hiệu quả của dự án. Mục tiêu huy động của dự án phải rõ ràng, hợp lý với quy hoạch phát triển cũng như định hướng phát triển của đất nước. Việc huy động vốn phải rõ ràng, minh bạch và mang tính khả thi. 2. Cung cấp nguồn thông tin cần thiết, đầy đủ, chính xác và kịp thời cho công tác thẩm định dự án Để tạo điều kiện cho công tác thẩm định đạt hiệu quả cao nhất, tránh lãng phí thời gian cũng như tiền bạc thì việc cung cấp thông tin đầy đủ, nhanh chóng, chính xác là một trong những yếu tố quyết định đến thầnh công của hoạt động thẩn định dự dự án. Điều này chỉ có thể thực hiện nếu chúng ta biết cách đa dạng hoá nguồn cung cấp thông tin cần thiết sau: Nguồn thông tin từ phía chủ đầu tư cung cấp bao gồm: các tài liệu về tư cách pháp lý, tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, phương án sản xuất kinh doanh sắp tới, kế hoạch vay vốn, trả nợ ngân hàng… để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định dự án về mặt thời gian cũng như chất lượng thì chủ đầu tư cần phải cung cấp một nguồn thông tin đầy đủ chính xác, tin cậy thỉ cán bộ thẩm định mới có thể dựa vào đó xem xét phân tích và đánh giá dự án một cách có hiệu quả. Nguồn thông tin được cung cấp từ phía Nhà nước và các cơ quan hữu quan bao gồm: các văn bản pháp lý, quy chế nghị định chính phủ các tài liệu, văn bản hướng dẫn của các cơ quan hữu quan…Nhà nước và các cơ quan hưu quan cần phải năng cao trách nhiệm trong việc cung cấp các tài liệu, vưn bản một cách rõ ràng, đầy đủ minh bạch và kịp thời tránh sự chồng chéo, thiếu chính xác thì mới tạo điều kiện dễ dàng hơn cho công tác thẩm định nhằm định hướng tới mục tiêu chung là hoạt động kinh tế xã hội cũng như mục tiêu đúng đắn trong định hướng phát triển chiến lược kinh tế xã hội đất nước. Các nguồn thông tin nêu trên đều có những khiếm khuyết, vì vậy cần phải kết hợp chúng lại phân tích, đối chiếu để tìm ra nguồn thông tin để làm cơ sở cho hoạt động thẩm định dự án. 3. Tăng cường sự phối hợp với các cơ quan hữu quan Một dự án đầu tư bao giờ cũng liên quan đến rất nhiều các cơ quan hữu quan tuỳ theo quy mô cũng như đặc điểm riêng của từng dự án. Vì vậy, quá trình thẩm định dự án để xem xét có nên hay không nên đầu tư vào dự án cần rất nhiều ý kiến góp ý, phân tích cũng như đánh giá dự án. Do việc tăng cường sự phối hợp với các bên liên quan sẽ làm tăng chất lượng và hiệu quả của dự án. Đối với những dự án cần lập hội đồng thẩm định thì đề nghị các cơ quan hữu quan cần bố trí cán bộ có mặt đầy đủ, nắm vững chuyên môn cần thiết, có đầy đủ tư chất yêu cầu cho quá trình thẩm định. Những cán bộ này phải có trách nhiệm góp ý kiến đánh giá phân tích dự án một cách khách quan nhằm đưa ra những kết luận chính xác về dự án cần xem xét. 4. Đảm bảo tính chặt chẽ, đầy đủ và hợp lý trong các văn bản pháp lý để làm cơ sở cho công tác thẩm định Cơ sở cần thiết trong quá trình thẩm định là các văn bản pháp lý, quy chế, thông tư, Nghị định của chính phủ như luật thuế, luật đầu tư nước ngoài, luật đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp, Nghị định 52/1999/NĐ-chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý đầu tư và xây dựng,…Các văn bản này cần có độ chính xác cao, gắn liền với thực tiễn, đảm bảo nội dung đầy đủ nhưng tránh chồng chéo, gây khó khăn trong quá trình vận dụng vào thẩm định dự án. Các văn bản pháp lý này cũng cần đảm bảo tính chặt chẽ, tránh những khẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng làm thiệt hại đến nền kinh tế của đất nước cũng như trốn tránh pháp luật. Trong những văn bản cần thiết nên sửa đổi một số nội dung cho phù hợp. 4.1. Về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Nghị định 52/1999 – chính phủ cần thống nhất về nội dung chủ yếu của báo cáo nghiên cứu khả thi và nội dung thẩm định. Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sử dụng vốn ngân sách, vốn tín dụng Nhà nước, vốn do Nhà nước bảo lãnh còn phải thẩm định cả điều kiện tài chính, giá cả, hiệu quả đầu tư và phương án hoàn trả vốn. Về báo cáo nghiên cứu khả thi cần có hướng dãn cụ thể để thống nhất các cách hiểu và vận dụng, thống nhất các khái niệm, tránh lẫn lộn các khái niệm dự án, báo cáo nghiên cứu khả thi. Quy định cụ thể hơn những nội dung chủ yếu cần quan tâm của báo cáo nghiênước ngoài cứu khả thi và báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, tránh việc các chủ dự án và các bộ, ngành, địa phương vận dụng tuỳ tiện. Quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn trong khâu thẩm định và phê duyệt đối với các dự án sử dụng nhiều loại nguồn vốn khác nhau, nhất là những dự án có sử dụng một phần vốn Nhà nước. Xác định rõ ràng chủ đầu tư với các dự án xây dựng, cơ sở hạ tầng nông thôn do ngân sách địa phương đầu tư. 4.2. Về công tác quy hoạch. Vấn đề quy hoạch hiện nay gây không ít khó khăn cho các cơ quan thẩm định, quản lý cũng như cho các nhà đầu tư. Chức năng định hướng của Nhà nước trong quản lý kinh tế là cải cách đồng bộ các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của các vùng, lãnh thổ, các ngành kinh tế, đặc biệt là các ngành kinh tế trọng điểm, các đô thị, các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở. Vai trò định hướng của Nhà nước càng mạnh thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. quy hoạch ngành và lãnh thổ là căn cứ cho công tác thẩm định. Công tác quy hoạch phải có sự chỉ đạo chặt chẽ từ trung ương đến địa phương và các ngành để thống nhất về phương pháp luận và nội dung. Chính phủ sẽ triển khai việc rà soát, điều chỉnh, xây dựng mới các dự án quy hoạch phát triển của ngành, vùng, địa phương, đồng thời kiểm tra việc thực hiện các quy hoạch. Gắn quá trình xây dựng quy hoạch với quá trình xây dựng chiến lược phát triển. Việc quy hoạch phải đi từ tổng thể đến chi tiết, từ quy hoạch cả nước đến từng ngành, từng địa phương. Khi có quy hoạch phải chú trọng đến việc quản lý liên ngành, liên vùng sao cho chính xác, kịp thời, khắc phục tình trạng mâu thuẫn giữa các dự án với quy hoặch, giữa quy hoạch với thực tiễn, nhất là tình trạng đặt ra các mục tiêu quá cao như hiện nay. Việc phân cấp thẩm định và xét duyệt các dự án quy hoạch chưa nêu rõ quy trình triển khai, còn có những dự án quy hoạch đã xong nhưng chưa được phê duyệt. Cần bổ sung văn bản trong lĩnh vực này. Thống nhất giữa quy hoạch ngành và lãnh thổ, quy hoạch ngành và lãnh thổ phải đi trước một bước làm cơ sở xem xét các dự án đầu tư. 4.3. Về công tác kế hoạch hoá đầu tư. Việc ra quyết định chủ trương đầu tư của cấp có thẩm quyền, ngoài việc căn cứ quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội của tỉnh, thành phố nơi dự án đầu tư, cần xem xét khả năng cân đối nguồn vốn ngân sách để thực hiện. Việc giao kế hoạch chuẩn bị đầu tư xác định trên cơ sở quy mô dự kiến và cân đối khả nảng đảm bảo nguồn vốn để thực hiện dự án. Tránh tình trạng phê duyệt nhưng không bố trí được vốn. 4.4. Các văn bản pháp lý khác. Đề nghị thẩm định đối với các dự án nhóm A, chỉ tập trung vào một số lĩnh vực như: sự phù hợp với quy hoạch, đảm bảo môi trường, công nghệ thuộc loại không cấm. Các vấn đề như lỗ, lãi, thị trường thuộc phạm vi quyền tự chủ của doang nghiệp thì không nên can thiệp sâu. Hướng dẫn cụ thể các tiêu chí trong danh mục dự án khuyến khích đầu tư như: sử dụng nhiều lao động và sử dụng có hiệu quả tài nguyên sẵn có ở Việt Nam, sản xuất nguyên liệu cao cấp để săn xuất giày dép, quần áo xuất khẩu. Đổi mới việc thẩm định dự án có vốn đầu tư nước ngoài kèm theo hướng thông thoáng như luật Doanh nghiệp, tiến tới việc thực hiện đăng ký cấp phép cụ thể là: Chỉ thẩm định các dự án nhóm A và các dự án có quy trình xử lý môi trường phức tạp, các dự án chuyển giao công nghệ. Các dự án phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, nằm trong danh mục gọi vốn đầu tư, cps tiền lệ cấp phép trước đó, cơ quan cấp phép chỉ cần trao đổi với cơ quan quản lý chuyên ngành để tiến hành cấp phép. Việc thẩm định dự án nên đơn giản hơn, không nên quá quan tâm đến câu chữ, cách tính toán trong quá trình giải trình kinh tế kỹ thuật. Cụ thể hoá các tiêu chí cho danh mục dự án đặcbiệt khuyến khích đầu tư như: đầu tư vào nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ thông tin, sử dụng nhiều lao động và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam, dự án sản xuất sợi các loại, sản xuất bao bì xuất khẩu, sản xuất nguyên liệu cao cấp để sản xuất giày dép, quần áo xuất khẩu,… Về nội dung thẩm định: đối với nhà đầu tư là doanh nghiệp hoạt động nên xem xét báo cáo tài chính đã được kiểm toán trong 1 năm tài chính liền kề với thời điểm xin cấp giấy phép đầu tư thay vì 2 năm. 5. Tăng cường quản lý của Nhà nước sau thẩm định . Dự án đầu tư luôn bao gồm tính mô phỏng và tính rủi ro, từ hồ sơ dự án cho đến thực tế triển khai dự án là một khoảng cách khá xa. Bởi thế cơ quan thẩm định chỉ có thể đảm bảo ý tưởng thực hiện dự án là tốt chứ không đảm bảo nó sẽ được thực hiện đúng như ý tưởng đã được trình bày. Tuy nhiên khi dự án đầu tư không đạt được kết quả như mong muốn thì ý kiến phần nhiều lại cho rằng do nhà thẩm định đã không đánh giá đúng dự án. Do vậy trách nhiệm đặt ra cho các cơ quan thẩm định là rất nặng nề, nhiều vấn đề đòi hỏi phải kết luận chính xác trước khi quyết định đầu tư khi mà các dự án mới chỉ trên văn bản, giấy tờ. Trong việc thẩm định nguồn vốn đầu tư, các cơ quan thẩm định phải xác định khả năng đảm bảo nguồn vốn đối ứng của chủ dự án, nhất là những dự án do cơ quan thực hiện tự lo liệu vốn đối ứng trong các dự án có sử dụng vốn ODA. Các cơ quan thẩm định khó có thể xác định được khả năng thực sự của chủ dự án bởi lẽ hiện nay chúng ta chưa có một cơ chế quản lý tài chính chặt chẽ, rõ ràng để có thể kiểm soát tình hình tài chính của các doanh nghiệp hoặc các tổ chức cung cấp nguồn vốn đối ứng. Việc xác định nguồn vốn nước ngoài càng khó khăn hơn. Nếu chỉ dựa vào những cam kết vốn hoặc những chứg nhận năng lực tài chính trên giấy tờ không có công chứng thì chúng ta không thể xác định chính xác nhà tài trợ có cung cấp đủ vốn, khả năng cung cấp vốn là bao nhiêu, khi nào có thể giải ngân, giải ngân theo hình thức nào. Những vấn đề nêu trên không thể giải quyết chỉ bằng thẩm định mà điều quan trọng là Nhà nước phải tăng cường kiểm soát sau khi thẩm định xét duyệt và quyết định đầu tư. Quyết định đầu tư chỉ nên ghi những vấn đề có tính nguyên tắc, những vấn đề chỉ kiểm tra về kỹ thuật công nghệ theo tiêu chuẩn: năm sản xuất, giá trị công nghệ,…còn những vấn đề chi tiết khác phải theo dõi chặt chẽ khi lắp đặt công nghệ, Nên xây dựng những căn cứ pháp lý để thiết lập hệ thống tổ chức theo dõi thực hiện dự án, phân cấp thực hiện dự án; tránh quản lý lỏng lẻo hoặc quá chồng chéo, nhằm giải quyết kịp thời những vướng mắc nảy sinh. Đồng thời thiết lập hệ thống chỉ tiêu báo cáo ở các cấp tuỳ theo mức độ tổng hợp khác nhau từ địa phương tới Chính phủ, thuận tiện cho người thực hiện nhưng vẫn đảm bảo được yêu cầu của báo cáo. Việc đánh giá dự án là công việc thường xuyên, được thể hiện vào kế hoạch hàng năm. Công việc đánh giá phải được tổ chức khoa học và có chi phí cần thiết. Đưa vào hệ thống thống kê các chỉ tiêu theo dõi và đánh giá dự án. Những vấn đề trên sẽ khắc phục được tình trạng yếu kém trong thẩm định về kỹ thuật, công nghệ, tác động môi trương, thiết kế kỹ thuật, vốn đầu tư,…và như vậy thời gian thẩm định sẽ được rút ngắn đi rất nhiều. 6. Cải cách hành chính trong công tác lập và thẩm định dự án đầu tư. Nhìn chung thủ tục hành chính ở nước ta còn quá cồng kềnh, quan liêu và hoạt động kém hiệu quả là một trong những trở ngại đối với nhà đầu tư. Đôi khi chỉ vì những thủ tục phiền hà như vậu mà nhà đầu tư rút vốn về hoặc tạm ngừng dự án. Vì vậy, công cuộc cải tiến thủ tục hành chính trong hoạt động lập dự án đầu tư và thẩm định dự án là rất cần thiết. Để công tác lập và thẩm định dự án có kết quả cao nhất kể cỏ về mặt thời gian cũng như chất lượng thì cần có những sửa đổi sau: Các cơ quan quản lý Nhà nước cấp tỉnh cần có những hướng dẫ cụ thể và thực hiện đúng quy định đối với các phần việc liê quan đến dự án, tránh gây khó khăn cho chủ đầu tư. Các cơ quan cần thực hiện đúng thời gian quy định trong các quy định của Chính phủ về công việc được phân công. Cần có cải tiến về các quy trình cấp phép, thoả thuận quy hoạch và các thoả thuận khác, xem xét việc giảm bớt các thoả thuận nguyên tắc không cần thiết. Các cơ quan chức năng cần sớm ban hành suất đầu tư các công trìng thuộc ngành quản lý làm cơ sở cho việc khái toán nhu cầu vốn chính xác. Các phương án tính toán đền bù giải phóng mặt bằng trình trong giai đoạn báo có nghiên cứu khả thii chưa sát với thực tế dẫn đến thay đổi kinh phí lớn, để nâng cao chất lượng báo cáo nghiên cứu khả thi cầm chú trọng công tác khảo sát điều tra hiện trạng, thu thập số liệu thực tế. Theo kinh nghiêm của nhiều nước, phương án công nghệ và thiết bị được tiến hành trong quá trình thiết kế kỹ thuật , nghĩa là trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư và triển khai thực hiện dự án. Mỗi loại công nghệ đòi hỏi những trang thiết bị phù hợp. Vì vậy trong giai đoạn lập và thẩm định dự án cơ quan thẩm định chỉ nên xem xét và thống nhất về giải pháp công nghệ dự kiến sử dụng cho dự án, do các nhà chuyên môn sau thiết kế và do cơ quan chuyên ngành có thẩm quyền xem xét quyết định. Ban hành các quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng phù hợp với trình độ phát triển thực tế. 7. Cải tiến quy trình thẩm định sao cho gọn nhẹ và hiệu quả hơn Về việc xin ý kiến cấp Bộ, ngành làm cho quy trình thẩm định kéo dài hơn raats nhiều, do đó làm chậm tiến độ cấp giấy phép đầu tư gây ảnh hưởng cho tiến độ của dự án. Vì vậy có một số đề nghị cải cách quy trình thẩm định cho phù hợp và gọn nhẹ hơn như sau: Quy định thời hạn thẩm định dự án do Bộ KHĐT cấp GPĐT là còn dài, nên để thời hạn quy định tại ý b mục 3 Nghị định 52/1999/chính phủ để 10 ngày làm việc, quy định tại ý Đ mục 3 nên để 25 ngày làm việc. Rút ngắn hơn thời gian thẩm định cấp GPĐT đối với các dự án đầu tư nước ngoài cụ thể: 40 ngày làm việc ch dự án nhóm A, 20 ngày đối với dự án nhóm B. Quy trình cụ thể về trình tự, thủ tục, thời hạn xem xét phê duyệt địa điểm cho các dự án. Những địa điểm phù hợp với quy hoạch chi tiết đã được phê duyết không cần có ý kiến của cấp huyện, Sở xây dựng trích lục bản đồ báo cáo UBND tỉnh ra quyết định đồng thời gửi địa phương biết. Thủ tục điều chỉnh GP phải xin ý kiến của các BÔJ, ngành còn kéo dài, đề nghị các Bộ ngành nên sớm trả lời. 8. Xác định ró trách nhiệm của các cá nhân và cơ quan tham gia thẩm định dự án Các tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới cho rằng việc thẩm định dự án là nhằm giúp cho người có thẩm quyền quyết định đầu tư giảm thiểu (chứ không phải là loại bỏ hoàn toàn) những sai sót có thể xảy ra, khi quyết định đầu tư công trình cụ thể. Người thẩm định dự án căn cứ vào các dữ liệu trong hồ sơ dự án và những thông tin có thể có được để đánh giá một cách toàn diện dự án, nêu ra những ưu nhược điểm của dự án. Trên cơ sở đánh giá này mà cơ quan cấp giâý phép quyết định có nên đầu tư hay không. Qua đó có thể thấy rằng người thẩm định chỉ làm nhiệm vụ tư vấn cho người có thẩm quyền quyết định đầu tư lựa chọn và đưa ra quyết định cuối cùng và phải chịu trách nhiệm trước quyết định của mình. Trách nhiệm của cơ quan thẩm định là tổng hợp báo cáo đúng theo hồ sơ và ý kiến thẩm định của cơ quan chuyên ngành. Người thẩm định phải chịu những ràng buộc nhất định đối với những thông tin do mình đưa ra, đảm bảo cho báo cáo thẩm định của mình là chính xác. Do đó Nhà nước nên ban hành những quy chế phân định rõ trách nhiệm giữa cơ quan tư vấn và cấp có thẩm quyền ra quyết định đầu tư. II. Giải pháp về thông tin: thiết lập hệ thống thông tin cần thiết liên quan đến dự án Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì yêu cầu bảo đảm về thông tin ngày càng cao. Đồng thời, công tác phân tích tài chính ngày càng đòi hỏi tính chính xác và đầy đủ. Do đó, ngoài việc trực tiếp bổ xung những thông tin mới phong phú hơn, chi tiết hơn và đảm bảo tính chính xác cao hơn. Xuất phát từ đặc trưng của hoạt động phân tích tài chính dự án đầu tư, để thiết lập được hệ thốn thông tin đầy đủ và cần thiết, trước hết cán bộ thẩm định cần phải xác định được những loại thông tin cần bổ sung. Đó là những thông tin phản ánh đầy đủ các khía cạnh khác nhau của nền kinh tế thị trường như: Thông tin cấp vĩ mô, gồm: chính sách thuế, chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, chính sách liên quan đến đất đai,… Thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm, gồm: qui mô dân số, cơ cấu độ tuổi, giới tính… để tính toán công suất của dự án cũng như các nhân tố quan trọng khác để đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường. Thông tin về đặc điểm, tính năng, giá cả và công suất tối đa của máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất … từ đó xác định công tối đa và tối thiểu của dự án, cũng như tìm ra cá giải pháp để tối thiểu hoá chi phí. Thông tin về sự biến động giá cả đầu vào của dự án, thông tin về sự biến động của tỷ giá hối đoái (nếu dự án có yếu tố xuất nhập khẩu), sự thay đổi lãi suất cho vay của Ngân hàng… từ đó hình thành cơ sở để đánh giá hiệu quả của dự án. Khi đã xác định được các loại thông tin cần thu thập, công việc tiếp theo của cán bộ thẩm định là làm thế nào để thu thập, tổng hợp và phân tích các thông tin thu được một cách khoa học và có hệ thống. Có thể tiến hành thu thập thông tin thông qua một hệ thống các kênh thông tin, mỗi kênh thông tin phải có trách nhiệm tổng hợp đầy đủ và chính xác thông tin liên quan tới lĩnh vực mình phụ trách. Theo tính chất của nguồn thông tin, có thể phân thành các kênh như sau: Kênh thu thập thông tin của các cơ quan quản lý Nhà nước như: Tổng cục Thống kê, Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và Đầu tư… Kênh này chuyên thu thập thông tin về chính sách đầu tư và ưu đãi đầu tư, thuế các loại, phí thuê đất quốc dân… Kênh thu thập thông tin từ các phương tiện truyền thông như: báo chí, truyền hình, đài phát thanh, mạng Internet… Kênh này thu thập những ý kiến bình luận của dư luận về các chính sách vĩ mô, ý kiến của các chuyên gia về các biến động trong đời sống kinh tế xã hội, biến động thực tế trên thị trường,… Kênh thu thập thông tin mang tính chất vĩ mô, có thể ảnh hưởng đến dự án như: thông tin về chính sách tiền tệ, thị trường tiền tệ, thông tin về sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường trong khu vực và thế giới… Kênh thu thập các thông tin tổng hợp khác,… Việc phân chia thành các kênh thông tin như trên chỉ mang tính tương đối, bởi vì trong quá trình thu thập và tổng hợp thông tin không có sự tách bạch rõ ràng giữa các chủng loại thông tin. Do đó, việc kết hợp hoạt động của các kênh thông tin này sẽ là nhân tố quan trọng quyết định mức độ hoàn thiện của hoạt động thu thập thông tin. Thông qua những tiến bộ của công nghệ mạng, thực hiện cung cấp thông tin cũng như thu thập thông tin đảm bảo tính kịp thời và khoa học. III. Giải pháp về con người Trong mọi hoạt động con người luôn là trung tâm điều hành và quyết định đến hiệu quả của hoạt động. Công tác thẩm định cũng không nằm ngoài quy luật này. Các dự án có chất lượng thẩm định như thế nào là tuỳ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp của người thẩm định. Vì vậy, phát triển và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm định là một giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Cán bộ thẩm định cần có kiến thức cơ bản về môi trường kinh tế vĩ mô, vi mô, có khả năng tập hợp, đánh giá thông tin nhạy bén, có khả năng sử dụng thành thạo vi tính, ứng dụng được tối đa trong phần mềm hỗ trợ cho công tác thẩm định, có trình độ ngoại ngữ tốt để thuận tiện cho việc tham khảo tài liệu, dự án của nươc ngoài cũng như trao đổi thông tin với đối tác nước ngoài. Ngoài ra, cán bộ thẩm định còn phải có kinh nghiệm thực tế, chuyên sâu về một số ngành, lĩnh vực cụ thể mà mình phụ trách. Một yếu tố không thể thiếu được đối với mỗi cán bộ thẩm định là có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt, trung thực, có tinh thần trách nhiệm, kỷ luật nghề nghiệp cao, có dự cảm nhạy bén với những thay đổi trong môi trường kinh tế vĩ mô. IV. Nhóm các giải pháp khác 1. Giải pháp về máy móc, kỹ thuật phục vụ cho việc thẩm định Hiện nay, ngành công nghệ phần mềm đang ngày càng phát triển, xuất hiện nhiều sản phẩm phục vụ cho công tác thẩm định dự án. Tuy vậy, giữa ta và các nước trong khu vực và trên thế giới có một khoảng cách đáng kể. Do đó, muốn nắm được thị phần, hội nhập với các nước nói chung, đồng thời nâng cao chất lượng và từng bước hoàn thiện hoạt động thẩm định dự án phù hợp với những yêu cầu hiện nay thì công nghệ, trang bị kỹ thuật của cán bộ thẩm định luôn luôn phải đổi mới. áp dụng công nghệ phần mềm vi tính hiện đại vào thẩm định dự án sẽ tăng khả năng đánh giá, từ đó ra các quyết định phù hợp. 2. Thận trọng trong việc đánh giá ngành nghề lĩnh vực đầu tư Khi xem xét các ưu đãi, danh mục khuyến khích đầu tư, cơ quan thẩm định cần xem xét kỹ lưỡng các ngành nghề, lĩnh vực đầu tư. Cán bộ thẩm định không chỉ dựa vào các quy hoạch của Nhà nước, của ngành, địa phương mà còn phải căn cứ vào tình hình thực tế phát triển của ngành, lĩnh vực được lựa chọn và nhu cầu của người dân để xem xét. Bởi vì có những lĩnh vực tuy nằm trong quy hoạch nhưng đã ở giai đoạn phát triển bão hoà nên không cần thiết phải đầu tư thêm nữa nhưng do công tác lập quy hoạch của nước ta còn chậm nưên chưa kịp thời điều chỉnh. Rút kinh nghiệm từ thực tiễn, cán bộ thẩm định cần đi sâu tìm hiểu phân tích và đánh giá tình hình phát triển của ngành và địa phương thông qua việc phối hợp trao đổi thông tin với các Bộ, ngành và địa phương hoặc thông qua khảo sát xem xét để thấy rõ nên đầu tư vào lĩnh vực nào thì cần thiết và đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Từ đó đề xuất với chính phủ hoặc các cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư vào những lĩnh vực hợp lý và chủ động hướng các nhà đầu tư vào những lĩnh vực mang lại nhiều lợi ích quốc gia và phúc lợi cho người dân, phục vụ mục đích phát triển và tăng trưởng.Việc này đòi hỏi cán bộ thẩm định không chỉ nắm chắc đường lối, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước mà phải có sự hiểu biết sâu sắc về các lĩnh vực của hoạt động kinh tế Kết luận Năm 2001 tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam là 7%, tương đối cao so với trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, đóng góp của đầu tư vào kinh tế và xã hội Việt Nam ngày càng tăng. Có được những thành tựu như vậy một phần không nhỏ là do sự đóng góp của công tác thẩm định dự án đầu tư. Có thể nói, với vai trò của mình, công tác thẩm định dự án đã và sẽ quyết định sự thành công của một nền kinh tế nói chung. Thấy được những hạn chế còn tồn tại, từ đó đề ra những biện pháp giải quyết để công tác thẩm định ngày càng hoàn thiện, phục vụ tốt nhất cho hoạt động đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung. Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế đầu tư - PGS. PTS Nguyễn Ngọc Mai. Nhà xuất bản Giáo dục – 1998. Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư - TS. Nguyễn Bạch Nguyệt. Nhà xuất bản thống kê - 2000. Nghị định 52/1999/ NĐCP cuả chính phủ Tài liệu của ngân hàng thương mại, của Bộ Kế hoạch và đầu tư về công tác thẩm định. Các trang Web: 6. Một số bài trong các báo, tạp chí: kinh tế và phát triển, diễn đàn doang nghệp, tạp chí thương mại, thông tin tài chính, Việt Nam Economic News. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35323.doc
Tài liệu liên quan