Đề án Hướng đổi mới kế hoạch hoá phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong thời kỳ 2001-2010

Có thể nói , cơ chế kế hoạch tập trung đã có những vảitò lịch sử của nó và có những đóng góp đáng kể là động viên cao độ đất nước ; nhưng ngày nay trước yêu cầu và nhiệm mới cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tỏ ra không phù hợp nữa.Thực tiễn đã cho thấy cơ chế đó không có hiệu quả , trong nhiều trường hợp là bất khả thi .Trước yêu cầu đó với tư duy kinh tế mới ,Đảng ta đã chuyển hướng chỉ đạo phát triển kinh tế ,chuyển từ nền kinh tế tập tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Và đặc biềt công tác kế hoạch hoá đươc đổi mới từ kế hoạch tập trung mang tính pháp lệnh ,cưỡng chế sang kế hoạch thị trường mang tính hướng dẫn điều tiết nền kinh tế quốc dân.Thực tiễn đã chứng minh đường lối của đảng ta là đúng đắn , chúng ta đã xây dựng được chiến lược 1990-2000;các kế hoạch 1990-1995,1996-2000và đã đạt được nhiều thành tựu ,nền kinh tế đã thoát khỏi khủng hoảng ,lạm phát cao . Tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định ,giai đoạn 1990-1995 là 8,2%;1996-2000 là 6,8% (tuy bị ảnh hưởng của khủng hoảng trong khu vực).Đời sống nhân dân cải thiện ,cơ sở hạ tầng được xây dựng

doc35 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 631 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hướng đổi mới kế hoạch hoá phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong thời kỳ 2001-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h hành vi của mình. Kinh tế thị trường có đặc trưng tự nguỵên, tự do lựa chọn, tự do hoá giá cả, phân phối theo quan hệ cung cầu. Cạnh tranh là đặc trưng phổ biến. Nó buộc doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm tốt, giá thành hạ. Đó là sự so tài trong hoạt động kinh tế. Kinh tế thị trường càng phát triển thì trình độ xã hội hoá càng cao. Sản xuất kinh doanh không đóng kín một vùng hay một nước mà triển khai và có mối liên hệ trên quy mô cả nước, khu vực, thế giới. Kinh tế thị trường là nền kinh tế mở quốc tế hoá và toàn cầu hoá. b.Tiêu cực Nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt của các chủ thể dẫn đến xuất hiện độc quyền. Sự lựa chọn của các nhà độc quyền sẽ làm sai lệch so với thị trường cạnh tranh hoàn hảo Sự lựa chọn của thị trường không đồng nhất với sự lựa chọn của xã hội, có những tổn thất so với sự lựa chọn của xã hội. Hàng hoá khuyến dụng, công cộng không có người sản xuất không bảo đảm nhu cầu xã hội. Phân phối không đông đều các nguồn lực, ở các nước đang phát triển các thông tin không chính xác. Kinh tế thị trường vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực. Muốn cho kinh tế thị trường hoạt động một cách bình thường và có ý nghĩa phát triển theo định hướng mong muốn của con người, đặc biệt là định hướng xã hội chủ nghĩa như chúng ta đang xây dựng, nhất thiết phải tăng cường vai trò của Nhà nước với hệ thống luật lệ thể chế phát huy tác dụng, mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó 2. Lý Thuyết Điều Tốt thứ Nhì Do thị trường có khuyết tật khi nảy sinh khuyết tật thì sẽ có hai cách lựa chọn : Thị trường sẽ lựa chọn phương án có khuyết tật. Cách khác, thị trường vẫn lựa chọn phương án có khuyết tật và cứ để cho khuyết tật của thị trường tồn tại, tự thị trường điều tiết hoặc có sự tác động của chính phủ. thị trường có khuyết tật là lý do tác động và can thiệp của chính phủ vào thị trường. Chấp nhận sự can thiệp của chính phủ có thể không khắc phục được khuyết tật của thị trường thậm chí còn làm trầm trọng hơn các các khuyết tật đó. Vì vậy muốn sự can thiệp của chính phủ không nảy sinh các hiệu quả phụ thì cần có sự tổ chức can thiệp của chính phủ. Đó là chức năng của kế hoạch hoá. 3.Tính kế hoạch và kế hoạch hoá thị trường Cũng như mọi nền kinh tế, kinh tế thị trường muốn phát triển đòi hỏi phải hướng tới cân đối, duy trì thường xuyên tính cân đối. Cân đối là sự bảo đảm sự cân bằng theo quan hệ tỷ lệ giữa các phần tử cấu thành hệ thống. Trong một hệ thống, khi đạt tới sự cân đối sẽ làm cho hệ thống phát triển và tồn tại cân đối mới trong hệ thống mới. Như vậy sự cân đối chỉ là tạm thời, một cân đối không ngừng bị phá vỡ và đạt đến một cân đối khác cao hơn. Có như vậy mới có sự phát triển. Vởy là, sự phát triển đòi hỏi phải hướng tới cân đối, đòi hỏi phải duy trì thường xuyên tính cân đối. Đồng thời, một cân đối cụ thể nào đó sẽ luôn thay đổi trong quá trình phát triển. Trong hoạt động thực tiễn việc giải quyết thường xuyên sự mất cân đối là một trong những yêu cầu và dấu hiệu bảo đảm sự phát triển. Tính kế hoạch của nền kinh tế thể hiện ở chỗ nhận thức và duy trì được thường xuyên tính cân đối theo yêu cầu khách quan của quá trình đầu tư, bố trí lao động, phân công ngành nghề giữa hai khu vực chủ yếu :Khu vực một và khu vực hai; cân đối trong từng khu vực, cân đối xuất nhập,cân đối tổng cung tổng cầu, cân đối thu chi ngân sách vv Trong khuôn khổ vi mô, thì tính kế hoạch thể hiện ở việc nắm bắt và duy trì thường xuyên các cân đối phù hợp với yêu cầu khách quan về các yếu tố sản xuất và các qúa trìmh quản lý trong toàn bộ dây truyền sản xuất kinh doanh. Từ những biểu hiện trên đây, có thể thấy, tính kế hoạch của nền kinh tế có thể thực hiện với hai điều kiện :Sự phân công lao động xã hội, phân công sản xuất mạnh mẽ và có khả năng nhận thức tác động, điều tiết một cách thường xuyên, bảo đảm tính cân đối của nền kinh tế Có ý kiến cho rằng, tính kế hoạch là thuộc tính của nền kinh tế có kế hoạch. Thực ra tính kế hoạch hoạch là một phạm trù khách quan tồn tại ngay cả trong nền kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Nêú xét tính kế hoạch của nó theo điều kiện thứ nhất nêu trên thì ở đây thì sự phân công lao động, phân công sản xuất đã diễn ra một cách sâu sắc làm nảy sinh nhu cầu hợp tác. Chính hợp tác đòi hỏi phải thiết lập các cân đối giữa các yếu tố sản xuất, các qúa trìmh lao động. Như vậy, kinh tế thị trường đã có sự hiện diện của hợp tác của các quan hệ tỷ lệ cân đối và sự hiện diện tính kế hoạch. Tính kế hoạch của nền kinh tế xét theo điều kiện thứ hai tức là khả năng nhận thức, duy trì thường xuyên tính cân đối thì không hoàn toàn như nhiều người quan niệm rằng kinh tế thị trường là vô chính phủ, là mù quáng tự phát. điều đó có thể đúng khi nền khi kinh tế ở giai đoạn tự do cạnh tranh hoặc nền kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa. Còn trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại là nền kinh tế thị trường có sự cvan thiệp của nhà nước thì Nhà nước sử dụng luật lệ kế hoạch và các công cụ khác để điều tiết nền kinh tế. Tính kế hoạch là một yêu cầu khách quan của việc phát triển kinh tế. yêu cầu này được nhận thức và phản ánh thành một hệ thống các mục tiêu, biện pháp, các phương tiện và thời gian thực hiện với những bước đi cụ thể, trong khoảng thời gian nhất định đó là kế hoạch hoá. 4.Kế hoạch hoá phát triển, bản chất, chức năng, nguyên tắc 4.1.khái niệm : Kế hoạch hoá phát triển kế hoạch xã hội là phương thức quản lý kinh tế bằng mục tiêu. Nó thể hiện ở việc chính phủ xác định các mục tiêu kinh tế -xã hội cần hướng đến trong một thời kỳ nhất định và cách thức để đạt được mục tiêu đó thông qua chính sách biện pháp định hướng cụ thể. Kế hoạch phát triển có hai vấn đề : Lập kế hoạch đó là quá trình lựa chọn các phương án có thể có đẻ xác định một phương án tối ưu cho quá trình phát triển. Tỏ chức thực hiện: cụ thể hoá các mục tiêu, hệ thống các chính sách thể hiện sự cam kết của chính phủ với các đơn vị kinh tế, thực hiện các phương thức để thực hiện các mục tiêu và chính sách 4.2. Bản chất của kế hoạch hoá và sự thể hiện trong nền kinh tế Việt Nam. Đặc điểm. Nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua tư bản chủ nghĩa. . Các hình thức sở hữu mang tính hỗn hợp kết hợp giữa sở hữu nhà nước và sỏ hữu tư nhân ,trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỷ trọng cao. đối với mỗi hình thức sở hữu ứng với một thành phần kinh tế do đó nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. bản chất: kết hợp giữa kế hoạch hoá trực tiếp và kế hoạch hoá gián tiếp. kế hoạch hoá mang tính trực tiếp được thể hiện trong phần vốn của ngân sách bao gồm vốn viện trợ ODA, vốn vay thương mại. Chúng được Nhà nước phân bổ trực tiếp theo các chương trình và dự án của Nhà nước, phân bổ trực tiếp các nguồn lực khan hiếm như vốn, lao động có tay nghề cao. Kế hoạch hoá mang tính gián tiếp, điều này được thông qua các chính sách để tác động hướng dẫn, khống chế, kiểm soát hoạt động của khu vực tư nhân để bảo đảm sự thống nhất của khu vực tư nhân với các mục tiêu phát triển dài hạn của đất nước. Nói tóm lại : kế hoạch hoá phát triển là công đoạn, công nghệ của sự lựa chọn các hoạt động tối ưu và có hiệu quả. 4.3.Chức năng của kế hoạch hoá. a.Chức năng điều tiết, phối hợp, ổn định kinh tế vĩ mô. vì thị trường không làm được do thị trường không ổn định, mất cân đối. Do vậy kế hoạch phải bù đắp chỗ trống của thị trường với mục tiêu ổn định kinh tế, tăng trưởng nhanh vàbền vững. Nền kinh tế có thể huy động đầy đủ việc làm với sự ổn định giá cả, mở rộng, ổn định cán cân thanh toán. Biểu hiện : Xây dựng các kế hoạch quốc gia. Tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định, ôn hoà. Bảo đảm công bằng xã hội. b. Chức năng định hướng. Phản ánh bản chất kế hoạch hoá phát triển so với kế hoạch thị trường, biểu hiện : Phải xây dựng dược các nội dung mang tính định hướng trong kế hoạch bao gồm :chiến lược, tầm nhìn, kế hoạch, quy hoạch, kế hoạch tác nghiệp. Xây dựng các chỉ tiêu mang tính chất hướng dẫn, khuyến khích, thuyết phục chứ không mang tính pháp lệnh . Kiểm tra giám sát. Biểu hện ở việc theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch, theo dõi việc thực hiện chính sách, đánh giá kết quả của mộy quá trình, quy trình sản xuất kinh doanh 5. Những nội dung chủ yếu của kế hoạch hoá. 5.1. xây dựng các chỉ tiêu chiến lược. Căn cứ vào quan điểm mục tiêu chính trị thì các nhà kế hoạch sẽ xây dựng các mục tiêu chiến lược chủ yếu có liên quan đến việc phát triển kinh tế xã hội trong tương lai của đất nước. Xây dựng cái đích cuối cùng cần phải đạt đến, các mục tiêu chung. Yêu cầu các chỉ tiêu ít, lồng ghép nhau, hình thành các cây mục tiêu. 5.2. Xây dựng các chỉ tiêu phát triển cụ thể. Cụ thể hoá các mục tiêu, giảm dần các chi tiêu pháp lệnh, tăng dần các chỉ tiêu hướng dẫn và dự báo. 5.3. Kế hoạch toàn diện, bao trùm mọi lĩnh vực. Phải có kế hoạch tầm quốc gia, trên cơ sở đó xác định các mục tiêu quốc gia, chính sách quốc gia. Cụ thể hoá ở góc độ ngành vùng, tạo lên một sự đồng bộ, nhịp nhàng 5.4. Xây dựng các chương trình dự án. Yêu cầu số lượng các chương trình khômg nhiều, lồng ghép các chương trnhf. Khi lựa chọn chương trình chọn khâu yếu có liên quan đến sự phát triển trong một thời kỳ. 5.5. Xây dựng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Yêu cầo tạo ra được khung bản để hướng dẫn thực hiện, các chính sách phải rõ ràng, cụ thể, đơn giản, đảm bảo tính thống nhất. Các chính sách không mâu thuẫn, chồng chéo, cái đích là thực hiện mục tiêu. 5.6. Thời gian kế hoạch. Xây dựng kế hoạch dài hạn: 10 năm, 20 năm, chúng tạo nên khung phát triển trong thời gian dài, các mục tiêu mang tính định hướng. Xây dựng kế hoạch 5 năm: Nó là sự cụ thể hoá của chiến lược, tầm nhìn. Các kế hoạch ngắn hạn: Cụ thẻ hoá các kế hoạch 5 năm, mang tính tác nghiệp. Phần II Quá trình đổi mới (1986 đến nay) 1. Đặc điểm kinh tế xã hội. Nước ta đã chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng quan hệ hợp tác, tham gia hội nhập kinh tế và các tổ chức xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. 2. Những thành tựu quan trọng của công tác kế hoạch hoá. Từ sau năm 1986, chúng ta thay đổi hệ thống cơ chế quản lý cũ bằng cơ chế quản lý mới. Đến nay một phần quan trọng đã xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập tung, hình thành bước đầu những đường nét của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch hoá và các chính sách khác. Mặc dù, mô hình kế hoạch hoá mới - kế hoạch hướng dẫn trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết - còn chưa hoàn thiện những đã bắt đầu phát huy tính đúng đắn trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội Nhờ đó đã góp phần quan trọng hoàn thành toàn diện và vượt mức các mục tiêu kế hoạch chủ yếu đã đề ra về tăng trưởng tổng sản phẩm xã hội trong nước, tăng sản xuất lương thực, tăng kim ngạch xuất khẩu, huy động vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị tiền tệ, thu hẹp mất cân đối ngân sách, giảm mức tăng dân số, cải thiện đời sống phần lớn hộ gia đình. 2.1. Đại hội Đảng lầ VII (năm 1991) đã xác định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991 á 2000. Chiến lược này đã được điều chỉnh thông qua Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996) với trọng tâm công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục tiêu: “Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo điều kiện tiền đề vững chắc cho phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau”. So với cương lĩnh chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã có những nội dung linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn, tạo điều kiện cho việc xây dựng các chính sách kinh tế linh hoạt phù hợp với những biến động thường xuyên của thị trường. 2.2. Chuyển dần dang kế hoạch hoá định hướng. Trên cơ sở chiến lược này, kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 và 1996 - 2000 đã được xây dựng. Kế hoạch 5 năm đã từng lượng hoá các mục tiêu chiến lược phát triển ở mức độ cho phép. Trong công tác học tập, điều hành kế hoạch 5 năm đã có sự thay đổi lớn về nội dung và phương pháp như sau: Tăng cường kế hoạch hoá vĩ mô, từng bước xoá bỏ kế hoạch mệnh lệnh và giảm tối đa các chỉ tiêu pháp lệnh, chuyển sang kế hoạch định hướng các lĩnh vực xã hội, khoa học và công nghệ; đã chú ý nhiều hơn đến kế hoạch hoá giá trị; xây dựng và thực hiện các chương trình và dự án quốc gia, chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại. 2.3. Tăng cường công tác quy hoạch. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển các vùng, các ngành kinh tế là xây dựng các khung vĩ mô về tổ chức không gian nhằm cung cấp các căn cứ khoa học cho các cấp để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình dự án đầu tư, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững và có hiệu quả. Từ đầu những năm 1990, Chính phủ đã chỉ đạo việc triển khai lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 của 8 vùng kinh tế. Đồng thời tất cả các tỉnh và thành phố trong cả nước đều triển khai nghiên cứu quy hoạch tổng thẻe đến năm 2020. Các quy hoạch phát triển này được xây dựng dựa trên chiến lược hướng về xuất khẩu, tìm ra và phát huy lợi thế từng vùng và liên kết giữa các vùng nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các giải pháp thực hiện quy hoạch tổng thể không chỉ quan tâm đến nguồn và hướng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất mà còn chú trọng đến nhân tố con người, đến sự phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới quản lý sản xuất. Nhìn chung công tác quy hoạch đã có những cố gắng và chuyển biến bước đầu, đã gắn mục tiêu của chiến lược vào nội dung quy hoạch, xác định được tiềm năng, định hướng phát triển cho từng vùng, từng địa phương. Tài liệu quy hoạch đã giúp cho các cấp lãnh đạo Trung ương, địa phương bước đầu xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tăng cường sự chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội ở từng địa phương và trong cả nước. 2.4. Kế hoạch hàng năm Kế hoạch hàng năm là kế hoạch điều hành, đã chú trọng đến những cân đối lớn, đặc biệt là cân đối tài chính, tiền tệ, cân đối cán cân thanh toán, cân đối vốn đầu tư toàn xã hội. Chính sách tài khoá, chính sách tỷ giá đã được hoạch định và được sử dụng hợp lý đã trở thành nhân tốn quan trọng đối với việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. thực tế nói trên chứng tỏ ý tưởng chuyển đàn việc điều hành kế hoạch từ can thiệp vi mô sang vĩ mô, các cân đối vĩ mô ngày càng thể hiện rõ. 2.5. Xây dựng và thực hiện các chương trình mục tiêu. Việc chú trọng kế hoạch hoá đầu tư phát triển và tăng cường công tác kế hoạch hoá theo dự án và các chương trình mục tiêu đã góp thúc đẩy quá trình hình thành cơ cấu mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặc dù chưa có nhiều kinh nghiệm, nhưng việc kế hoạch hoá theo dự án, theo các chương trình quốc gia đã đạt được một số kết quả tích cực. Trên cơ sở những kết quả đạt được, việc xây dựng các chương trình mục tiêu và các chương trình quốc gia cần được nghiên cứu để trở thành một phương pháp quan trọng trong xây dựng các kế hoạch trong thời gian tới. 2.6. Đổi mới hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch. Hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh đã được rút gọn đáng kể, chỉ còn chỉ tiêu thu, chi ngân sách Nhà nước, phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Xoá bỏ việc giao các chỉ tiêu về lưu thông vật tư, hàng hoá quan trọng nhằm ổn địng cung cầu. Phần lớn các chỉ tiêu kế hoạch hiện nay là chỉ tiêu giá trị; các chỉ tiêu kế hoạch hiện vật nói chung đã được giảm bớt đáng kể, đồng thời duy trì một số cân đối hiện vật chủ yếu. Hệ thống cân đối hiện vật thiết yếu như: xăng dầu, lương thực đã tỏ ra là cần thiết cho ổn định kinh tế - xã hội, các bảng cân đối giá trị ngày càng được mở rộng và nâng cao. Ngoài xu hướng “Giá trị hoá”, trọng tâm của các chỉ tiêu kế hoạch đang chuyển dần sang điều tiết kinh tế vĩ mô và các chỉ tiêu xã hội. 2.7. Đổi mới quy trình lập kế hoạch. Thời gian qua, quy trình lập kế hoạch đã có những thay đổi căn bản. Hình thức giao sổ kiểm tra đã được thay thế bằng việc cung cấp các thông tin cần thiết nhằm hươngs dẫn các ngành, địa phương, đơn vị, cơ sở xây dựng tổng hợp kế hoạch theo hướng mục tiêu chung của Nhà nước. Bên cạnh việc cung cấp những thông tin hướng dẫn, Bộ kế hoạch và đâù tư còn căn cứ các đoàn, các địa phương để hỗ trợ, giúp đỡ và giải quyết vướng mắc mà các địa phương gặp phải trong thời gian xây dựng kế hoạch. Quy trình lập kế hoạch mới đã hạn chế việc áp đặt hành chính chủ quan của cấp trên đối với cấp dưới, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các ngành, các cấp chính quyền địa phương cũng như các doanh nghiệp trong việc lập và thực hiện kế hoạch. Trong khi xây dựng và tổng hợp kế hoạch đã chú trọng nhiều hơn nữa đến các kế hoạch hoá công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hoá, thông tin, y tế, thể dục thể thao, xoá đối giảm nghèo mà trước đây thường bị xem nhẹ và chưa gắn với kế hoạch phát triển kinh tế. Công tác kế hoạch hoá ở các lĩnh vực này sau một thời gian dài xuống cấp, trì trệ thì nay đã có nhiều thay đổi, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Công tác dự báo, thông tin bước đầu được tăng cường, phương pháp tính toán kế hoạch được sửa đổi phù hợp dần với thông lệ quốc tế. 2.8. Đổi mới phương thức điều hành kế hoạch. Đổi mới công tác điều hành kế hoạch trong thời gian qua không chỉ thể hiện ở tính kịp thời mà còn được thể hiện rõ nét trong việc sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô gián tiếp như: lãi suất, tỉ giá, thuế suất và định hướng đầu tư của Nhà nước... Do đó, một mặt sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan Nhà nước vào công việc kinh doanh của các cơ sở kinh tế đã giảm bớt; mặt khác các cơ sở kinh tế đã có nhiều cố gắng trong việc phát huy khả năng tự chủ, xác định những lợi thế cạnh tranh phù hợp với những điều kiện thay đổi của thị trường. Quá trình điều hành kế hoạch đã chú ý nhiều hơn đến việc dự báo ngắn hạn, điều chỉnh kịp thời các mục tiêu cũng như các biện pháp kinh tế, sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô cũng như sử dụng các cơ chế chính sách và lực lượng vật chất để bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, định hướng và thúc đẩy thực hiện kế hoạch. Nếu trước đây kế hoạch chủ yếu tập trung vào kinh tế quốc doanh với kế hoạch hoá trực tiếp là chính, thì nay đã bước đầu mở rộng kế hoạch định hướng phát triển toàn bộ nền kinh tế - xã hội, chủ yếu thông qua kế hoạch hoá gián tiếp. Công tác điều hành kế hoạch đã có những chuyển biến rõ rệt, từng bước đáp ứng những yêu cầu đặt ra; các công cụ pháp lụât và chính sách kinh tế được phối hợp để tạo ra hành lang cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động hoạt động và hoạt động một cách có trật tự, đúng pháp luật góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Việc điều hành của chính phủ trong quá trình thực hiện mục tiêu kế hoạch hàng năm đã có hiệu quả và tác dụng thiết thực, kịp thời xử lý những diễn biến bất thường ở trong nước và quốc tế, góp phần quan trọng cho sự ổn định kinh tế đất nước. Trong quan hệ giữa Nhà nước và các doanh nghiệp, Nhà nước sử dụng kế hoạch vĩ mô để định hướng cho các doanh nghiệp hoạt động bằng cơ chế, chính sách kinh tế và công cụ pháp luật, trên cơ sở đó mở rộng quyền tự chủ kinh doanh, xoá dần bao cấp. 3. Những tồn tại. Mặc dù việc đổi mới kế hoạch hoá trong thời gian qua có nhiều tiến bộ đáng kể nhưng do nhiều lý do, kết quả của đổi mới kế hoạch hoá còn hạn chế, thậm chí ở cả Trung ương và địa phương xy hướng giữ lại hoặc trở lại kế hoạch hoá kiểu cũ vẫn còn khá mạnh, ngay trong mội bộ phận của Nhà nước và một phần của dư luận công chúng không bao cấp còn nặng vấn đề đổi mới kế hoạch hoá gắn bó rất chặt với đổi mới quản lý Nhà nước. Do vậy nếu không giải quyết đồng bộ thì đổi mới kế hoạch không dẽ dàng đi vào cuộc sống. Quá trình đổi mới vừa qua đã giảm bớt sự bao cấp trong nền kinh tế, đặc biệt là bao cấp qua ngân sách, trong một số hình thức bao cấp khác lại xuất hiện ở những lĩnh vực khác như: Khoanh nợ, xoá nợ, cấp đất. .. Những nội dung này được thể hiện trong kế hoạch hoặc hoạt động điều hành kế hoạch. Nhiều văn bản chính sách khẳng đinh chuyển hướng chỉ đạo từ kế hoạch hiện vật sang kế hoạch định hướng sang thực tế nội dung kế hoạch vẫn chưa chú ý đúng mức đến cân đối lớn của toàn nền kinh tế, một số Bộ, địa phương vẫn coi trọng những dự án, những công trình cụ thể. Xu thế “kế hoạch vật chất” và ỷ lại vào cấp trên có chiều hướng gia tăng: Các địa phương, các ngành cố gắng xin thậtnhiều dự án, nhiều chương trình; những phần đóng góp cho ngân sách vào nền kinh tế không tương xứng với đầu tư bổ sung. Mặt khác, kế hoạch không chỉ chịu sự ảnh hưởng của các cơ quan trong hệ thống kế hoạch mà còn chịu sự tác động của nhiều tổ chức khác ngoài hệ thống kế hoạch, đặc biệt là kế hoạch jđầu tư càng bị phân tán hơn. bên cạnh đó, kế hoạch còn phải thông qua nhiều cấp nên thường có xu thế “chưa đều”, tiếp tục tác động làm tăng sự phân tán đồng thời giảm hiệu quả đwuf tư. Các thông tư kinh tế xã hội không chính xác, thiếu ăn khớp và không được phân tích đầy đủ trong quá trình xây dựng kế hoạch đã làm cho kế hoạch nhiều khu không phù hơpj với thực tế nguồn lực được đánh giá cao, nhu cầu thị trường trong nước và nước ngoài không được dự báo chính xác và với sự nóng vội, chủ quan đã làm cho kế hoạch phần nào còn mang tính chủ quan duy ý chí. Hiện nay vẫn còn không ít hạn chế bắt nguồn từ bản chất của nền kinh tế chuyển đổi, từ sự sơ khai của các loại thị trường, năng lực của Nhà nước và những yếu kém của hệ thống kế hoạch. Những yếu kèm này không thể khắc phục trong thời gian ngắn, song đòi hỏi sự kiên trì trong đổi mới kinh tế, kết hợp với cải cách hành chính để nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường lẫn kế hoạch nhằm góp phần phát triển kinh tế, nâng cao mức sống vật chất tinh thần trong xã hội. Những vấn đề đáng lưu ý ở đây là: Chất lượng quy hoạch thấp; chưa nắm bắt được diễn biến tình hình kinh tế xã hội từng vùng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa; các cơ chế chính sách chậm triển khai, chưa theo kịp các mục tiêu kế hoạch, các chính sách còn chưa ổn định và thiếu nhất quán và việc điều hoà , phối hợp giữa các công cụ trong điều hành còn nhiều lúng túng nên hiệu quả chưa cao ... 3.1. Về nội dung phương pháp kế hoạch hoá. Việc xây dựng chiến lược và kế hoạch 5 năm thường được thực hiện nhằm phục vụ mỗi kỳ đại hội Đảng, sau đó việc triển khai thực hiện những mục tiêu chiến lược và kế hoạch 5 năm thường bị phân cấp, phân tán và chia cắt theo từng ngành, địa phương, chưa có sự khâu nối đồng bộ chung. Các cấp các ngành quan tâm nhiều nhất đến chỉ tiêu vốn, các chỉ tiêu khác thường được coi nhẹ. Quá trình hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế đã làm tăng các yếu tố phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào những biến động quốc tế và khu vực. Trong điều kiện đó, tính “tĩnh” tương đối của hệ thống mục tiêu trung và dài hạn chưa được thường xuyên xem xét và điều chỉnh phù hợp với tính “động” của môi trường kinh tế xã hội. Đó là một lý do quan trọng làm cho chiến lược, kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm thời gian quan chưa thật ăn khớp với nhau, hiệu lực thực tế còn chưa cao. Điều đó thể hiện trong phương pháp luận, từ khâu phân cấp, phân ngành dẫn đến sự ôn đồm chung nội dung kế hoạch. Mục tiêu của kế hoạch vừa nhiều, vừa cao hơn khả năng có đảm đương cả về năng lực thực hiện lẫn lực lược vật chất. Nguồn lực của xã hội hạn chế bị dãn mỏng ra quá nhiều, mục tiêu mang nặng dấu ấn bao cấp và do vậy được sử dụng kém hiệu quả. Các dự án, đặc biệt là các dự án sử dụng ngân sách Nhà nước rất phân tán, lại do thiếu vốn nên việc thực hiện thường bị kéo dài. Bên cạnh đó, những chỉ tiêu thể hiện tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế chưa được coi là chỉ tiêu hàng đầu trong việc xem xét phê duyệt dự án đầu tư và đưa vào kế hoạch thực hiện. Nội dung của kế hoạch, đặc biệt là kế hoạch phát triển theo vùng, theo lãnh thổ còn chưa tính đến đầy đủ các yếu tố hội nhập, quốc tế hoá, cũng như chưa phân tích kỹ lưỡng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Thực tế trên đã không thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm đến khả năng cạnh tranh, hiệu quả trên thị trường thế giới và thị trường trong nước, làm giảm hiệu quả chung của nền kinh tế. Do thiếu một động lực mạnh, đồng thời thiếu sức ép của cạnh tranh, phá sản, nhiều doanh nghiệp nhà nước còn chưa quan tâm đến hiệu quả kinh tế và năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhiều biến động ngoài xã hội cũng không được quan tâm một các đầy đủ khi xây dựng kế hoạch đã làm cho việc thực hiện kế hoạch gặp nhiều khó khăn. Trong nội dung kế hoạch, phần nghiên cứu và vận dụng cơ chế chính sách còn chưa thật tương xứng, chưa cụ thể được chiến lược, chưa bao quát được các thành phần kinh tế, chưa chú ý được tính đặc thù các vùng, các địa phương. Nhiều vấn đề trong chính sách vĩ mô còn chưa được xác định rõ và nhất quán, các chính sách đòn bẩy còn nhiều lúng túng. Cách thức thực hiện chính sách vẫn mang nặng tính can thiệp hành chính, áp đặt mà chưa chú trọng vận dụng cơ chế thị trường để thiết kế và thực hiện chính sách. 3.2. Về phối hợp và điều hoà kế hoạch. Hệ thống kế hoạch theo ngành, theo địa phương và theo vùng lãnh thổ vẫn chưa liên kết và phối hợp chặt chẽ với nhau để trở thành một hệ thống kế hoạch tổng thể kinh tế quốc dân. sự phân cấp giữa Trung ương và địa phương, cũng như sự phân công giữa các ngành với nhau còn chưa rõ ràng dẫn đến hậu quả là hầu như mọi diễn biến bất thường đều đưa lên Chính phủ giải quyết, làm cho Chính phủ luôn ở thế bị động trong điều hành, nhiều khi phải chấp nhận những giải pháp không bao quát, chỉ hướng đến lợi ích của một số địa phương, một số ngành, thậm chí một số doanh nghiệp, có thể gây hại cho lợi ích toàn cục. Sự can thiệp trực tiếp thường xuyên của các cơ quan Nhà nước đã làm giảm tính ổn định của chính sách, gây khó khăn cho các nhà kinh doanh. Ngoài ra, chế độ phân cấp chưa rõ ràng còn làm cho các cấp chính quyền địa phương chưa nhận rõ trách nhiệm của mình trong việc động việc sức dân phát triển kinh tế địa phương. Và từ đó, không chủ động đưa ra được chính sách phù hợp, trong chờ vào Trung ương vẫn còn nặng. Việc xây dựng quy hoạch địc phương đạt chất lượng chưa cao, hiệu lực thực tế chưa rõ. Sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong công tác quy hoạch còn kém đã làm cho địa phương phải làm lại công tác quy hoạch mặt bằng của mình. Bên cạnh đó, quá trình cải cách tỉnh, huyện đã làm cho nhiều bản quy hoạch mất hiệu lực tạo ra lãnh phí không nhỏ cho ngân sách Nhà nước. Nhiều chương trình Quốc gia chưa được xây dựng một cách chu đáo, không xác định rõ mục tiêu, đối tượng cụ thể được hưởng lợi; chưa cód cơ chế phù hợp với việc tổ chức thực hiện, giám sát, kiểm tra và đánh giá cụ thể. Số lượng các chương trình quá nhiều, các bộ chuyên ngành can thiệp quá sâu làm ảnh hưởng đến việc “lồng ghép” các chương trình. Trong khi các địa phương thì lại có xu hướng can thiệp theo dạng “chia đều” làm giảm hiệu quả các chương trình. Kế hoạch kinh tế quốc dân là kế hoạch cho mọi thành phần kinh tế trong xã hội, kết quả của việc thực hiện kế hoạch lệ thuộc vào việc huy động nguồn lực toàn xã hội, lệ thuộc vào nỗ lực của các tầng lớp trong xã hội. Chính vì vậy, quá trình xây dựng và điều hành kế hoạch cần có sự tham gia của mọi giới, mọi ngành, đặc biệt là giới khoa khoa học và doanh gia. 3.3. Về cơ chế điều hành kế hoạch. Mặc dù trong thời gian qua công tác kế hoạch hoá đã được đổi mới một cách khá cơ bản, song tính hiện thực và chính xác của kế hoạch vẫn còn bị hạn chế. Việc thực hiện kế hoạch tổng thể chung của cả nước phụ thuộc vào thực tế thực hiện kế hoạch riêng lẻ từng bộ phận, từng địa phương, từng tổng công ty, mọi việc tập trung vào Chính phủ và một số cơ quan tổng hợp. Vì vậy, khả năng điều hành ở đây cần được tăng cường thích đáng, nếu không tính khả thi của nhiều mục tiêu sẽ rất hạn chế cơ chế điều hành cân đối một số sản phẩm chủ yếu, mà thực chất là cân đối hiện vật đã tỏ ra có giới hạn rệt nhất là trong xuất khẩu, kinh tế đối ngoại. Mặt khác, các doanh nghiệp khó lường những thay đổi bất thường trong chính sách để xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh cho mình. Tình hình thế giới và khu vực đang và sẽ diễn biến phức tạp hơn nhiều trong thời gian tới đòi hỏi công tác kế hoạch hoá, đặc biệt là khâu điều hành kế hoạch phải linh hoạt hơn, đưa ra những chính sách kịp thời, phù hợp trên cơ sở những luận cứ khoa học và thực tiễn xác đáng. 3.4. Về công tác thông tin và dự báo. Thực tế công tác kế hoạch hoá trong những năm qua cho thấy, thông tin kịp thời, đầy đủ và chính xác là một yếu tố cơ bản quyết định chất lượng của kế hoạch và điều hành kế hoạch. Tuy vậy, hệ thống thông tin phục vụ cho xây dựng và điều hành kế hoạch hiện nay còn xa mới đạt được yêu cầu. Những nhược điểm của hệ thông tin hiện nay là: - Không thống nhất: Việc thu nhập, xử lý, báo cáo ở các nơi là không rất khác nhau, làm cho việc tổng hợp những thông tin này gặp nhiều khó khăn. - Không đầy đủ: Hệ thống mẫu biểu báo cáo còn chưa thay đổi kịp thời, phù hợp với cơ chế mới của nền kinh tế dẫn đến việc thiếu thông tin cần thiết phục vụ cho kế hoạch hoá và điều hành kinh tế vĩ mô. - Độ chính xác không cao: Luồng thông tin phải thu thập qua nhiều cấp, mỗi cấp lại xử lý theo cách riêng cả mình. Do vậy, khi đến khâu tổng hợp cuối cùng thông tin đó đã có sự khác biệt to lớn với thông tin đầu. Với hệ thống thông tin cục bộ, không phối hợp với nhau thành một chính thể thống nhất. Như vậy rất khó khăn khó khăn nắm bắt kịp thời những diễn biến trong đời sống kinh tế xã hội để đưa ra nhưngx giải pháp phù hợp. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào sản xuất của doanh nghiệp. Vì thế, công tác dự báo phân tích chiếm một vai trò đặc biệt trong kế hoạch hoá. Những năm qua, một số phương pháp tính toán mới đã được ứng dụng cho việc phân tích và dự báo. tuy nhiên, do cơ sở thông tin còn quá yếu, đồng thời chưa tìm được mô hình phù hợp nên kết quả phân tích và dự báo còn chưa cao, mức độ tin cậy còn thấp. 3.5. Về bộ máy tổ chức và cán bộ. Mặc dù đã cố gắng trong công tác bồi dưỡng cán bộ, đổi mới bộ máy ngành kế hoạch, nhưng nhìn chung bộ máy tổ chức và bộ máy tổ chức và trình độ cán bộ chưa cao nên chưa đủ đáp ứng được công tác kế hoạch hoá trong tình hình mới. Kiến thức của các cán bộ về công tác kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường của cán bộ nói chung vẫn chưa đủ để đáp ứng được đòi hỏi mới. Việc chuyển nền kinh tế theo kiểu mệnh lệnh sang điều hành gián tiếp là một sự thay đổi rất lớn. Nó đòi hỏi phải sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật và những kiến thức mới. Do vậy, lực lượng cán bộ cần được nâng cao hơn nhiều cả về số lượng và chất lượng. Bộ máy tổ chức cần được sắp xếp lại để có thể phối hợp hài hoà giữa các ngành, các cấp. Cũng giống như ở nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước khác, bộ máy tổ chức trong ngành kế hoạch chưa đưa ra được một hệ thống đánh giá kết quả công việc của mỗi bộ phận, cũng như từng thành viên phù hợp với cơ chế quản lý mới. Cơ chế thưởng phạt nói chung còn có xu hướng bình quân, do vậy chưa trở thành một động lực khuyến khích các bộ phận, các cá nhân tự nâng cao trình độ để hoàn thiện mình. Chế độ trách nhiệm cũng chưa rõ ràng dẫn đến việc đùn đẩy công việc, làm giảm đáng kể chiến lược công tác. 4. Một số định hướng cơ bản trong đổi mới công tác kế hoạch hoá. Những định hướng cơ bản trình bày dưới đây là xu hướng mà công tác kế hoạch và điều hành kế hoạch Nhà nước sẽ hướng tới. 4.1. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Có thể nói rằng, ngày nay tất cả các nền kinh tế đều có vai trò của Nhà nước tác động rất lớn đến đời sống kinh tế và cách ứng xử của các chủ thể kinh tế. a./ Nhà nước kiến tạo và đảm bảo môi trường kinh doanh an toàn, ổn định, thuận lợi và bình đẳng. Để xây dựng được môi trường kinh doanh an toàn, thuận lợi và bình đẳng trước hết phải tạo được khuôn khổ pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường, trong đó khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền. Từ cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường đòi hỏi có cách nhìn khác về cạnh tranh và độc quyền. Đây là là sự phân biệt rõ nét giữa cơ chế cũ và cơ chế mới. Trong cơ chế cũ cạnh tranh không được thừa nhận, còn trong cơ chế kinh tế thị trường lại chấp nhận cạnh tranh. Khác với cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, kinh tế thị trường đưa ra hai nền tảng chính là cạnh tranh và độc quyền tự do quyết định của các chủ thể tham gia thị trường. Tuy nhiên, cạnh tranh lại có xu hướng tạo ra độc quyền, và như vậy nó làm xói mòn cơ sở tồn tại, phát triển của bản thân nó. Để cho nền kinh tế thị trường phát triển, Nhà nước cần thực hiện chính sách cạnh tranh tích cực. b/ Nhà nước thực thi chính sách kinh tế vĩ mô tích cực, hiệu quả. Chuyển sang cơ chế thị trường, cách thức quản lý và điều tiết nền kinh tế theo kế hoạch pháp lệnh không được áp dụng nữa, đòi hỏi sự nhận thức trên lĩnh vực này nhằm mở đường cho cơ chế quản lý mới và điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Sự đổi mới tư duy về vấn đề này trước hết thể hiện ở chỗ phân biệt giữa chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp và chức năng quản lý hành chính nền kinh tế của các cơ quan Nhà nước, chuyển sang sử dụng các công cụ điều tiết gián tiếp của chính sách kinh tế vĩ mô mà trước hết là chính sách tài chính, tiền tệ, thay thế cho kế hoạch pháp lệnh. c/ Nhà nước can thiệp và bổ sung thị trường. Cách thức thông thường để Nhà nước can thiệp bổ sung thị trường thông thường được áp dụng là bằng các biện pháp kinh tế và các biện pháp hành chính, Nhà nước thực hiện điều tiết thị trường và thông qua các hoạt động thị trường để tác động đến sản xuất. Công cụ thực hiện điều tiết này cũng rất đa rạng. 4.2. Vai trò của kế hoạch trong hệ thống chính sách. Xét về tính chất của công cụ chính sách thì có thể nói kế hoạch là một công cụ chính sách quan trọng trong kinh tế thị trường, trọng tâm của nó nhấn mạnh bảo đảm tính đồng bộ, liên tục và hệ thống của tất cả các công cụ chính sách. Vì vậy, chức năng của cơ quan chịu trách nhiệm hoạch định kế hoạch cũng phải mang tính tổng hợp cao đồng thời có sự phối hợp có hiệu quả đối với các cơ quan khác của Nhà nước. Trên phương diện vĩ mô có 4 mục tiêu được tính đến: ổn địng giá cả, công ăn việc làm, tăng trưởng và cân bằng cán cân thanh toán. Các mục tiêu trên co quan hệ với nhau. Sự thiên lệch hay quá nhấn mạnh vào mục tiêu này sẽ ảnh hưởng xấu đến đạt mục tiêu khác, cuối cùng ảnh hưởng đén tổng thể nền kinh tế. Vì vậy, cơ quan kế hoạch chung tổng thể nền kinh tế phải theo dõi diễn biến kinh tế vĩ mô và được giao đày đủ quyền hạn để đưa ra và thực thi các giải pháp chính sách cần thiết để đảm bảo cân đối kinh tế. Kế hoạch hoá còn phải đóng vai trò quan trọng trong điều tiết nền kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập toàn cầu hoá đang càng tăng với nênf kinh tế Việt Nam. Trong thời gian trước mắt việc hình thành những chính sách kinh tế để đối phó với cuộc khủng hoảng trong khu vực là một nhiệm vụ câps bách của công tác kế hoạch hoá. Tình hình phát triển công nghệ ngày càng cao, số lượng sản phẩm mới, công nghệ ngày càng nhiều đã đặt ra một nhiệm vụ quan trong trong công tác kế hoạch hoá là phải xây dựng những chính sách chuyển giao công nghệ thuận lợi, tìm ra được hướng “đi tắt, đón đầu” giúp cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, rút ngắn khoảng cách với các nước khác. 3. Kế hoạch hoá hướng theo thị trường Kế hoạch hoán được coi là những nỗ lực nhằm nâng cao tính hợp lý của việc ra quyết định: Xác định hợp lý các mục tiêu, cân nhắc một cách có hệ thống tất cả các công cụ chính sách và lựa chọn công nghệ tối ưu nhất để đạt được mục tiêu đó. Trong quá trình lập cũng như thực hiện kế hoạch, cần thiết phải tính đến rất nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố kiểm soát được và các yếu tố không kiểm soát được. Với cách tiếp cận như trên thì kế hoạch hoá được coi như một “Kịch bản” được chọn có tình đến một cách cẩn trọng các điều kiện hiện tại và các điều kiện trong tương lai đã được dự báo có căn cứ. Do các điều kiện và lực lượng thị trường cũng như môi trường kinh tế nói chung thường xuyên thay đổi, một kế hoạch hợp lý và khả thi không thể là một kế hoạch cứng nhắc, xác định một lần và không thay đổi. Các chỉ tiêu kế hoạch do đó cũng chỉ mang tính hướng dẫn và dự báo là chủ yếu. Phần III Hướng đổi mới kế hoạch hoá phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong thời kỳ 2001-2010. I. Phương hướng đổi mới kinh tế của Đảng ta 1. Đường lối kinh tế của Đảng ta Để lãnh đạo và quản lý đất nước, nhiệm vụ quan trọng nhất của các nhà lãnh đạo chính trị là xây dựng đường lối phát triển, xây dựng đường lối là đặt ra một định hướng chung cho cả thời kỳ dài phát triển của một quốc gia. Đường lối kinh tế phát triển kinh tế-xã hội là một bộ phận thể hiện cách đặt hướng đi cho toàn bộ hệ thống kinh tế-xã hội, các mục tiêu tổng quát cho cả một thời kỳ phát triển kinh tế. Sự thay đổi đường lối sẽ có tác dụng hướng nền kinh tế -xã hội theo đặc trưng mới, bản chất mới với các quan hệ sản xuất xã hội mới, thể chế mới nhằm đạt được mục tiêu tổng quát đặt ra. Trong dự thảo văn kiện địa hội IX đã khẳng định đường lối kinh tế của Đảng ta: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá, xây dựng nần kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước ta trở thnàh một nước công nghiệp. Hai là,ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng qyan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN. Ba là, phát huy cao độ nội lực của cả dân tộc gắn với tận dụng nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả vfa bền vững. Bốn là, tăng trưởng kinh tế đi liền vơid từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Năm là, kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng-an ninh. 2. Mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 2.1. Mục tiêu tổng quát Dự thảo văn kiện Đại hội IX khẳng định: mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 là: - Đảy mạnh công nghiệp, hiện đại hoá, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, tập trung sức xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và công nghệ cao sản xuất tư liêụ sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật công nghệ tiên tiến cho các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, đáp ứng nhu cầu quốc phòng, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên một mức đáng kể. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chue nghĩa được định hình về cơ bản. Nguồn lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng-an ninh được tăng cường. Vị thế trong quan hệ hợp tác quốc tế được củng cố và nâng cao. 2.2.Mục tiêu cụ thể Một là, đưa GDP năm 2010 lên gấp đôi năm 2000. Nhịp độ tăng xuất khẩu trên 2 lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm. ổn định kinh tế vĩ mô. Hai là, nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người, giải quyết cơ bản việc làm ở cả thành thị và nông thôn, nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%. Ba là, vai trò chủ đạo của kinh tế được tăng cường. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được định hình về cơ bản và vận hành thông suốt, tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hợp tác, cạnh tranh lành mạnh, cùng phát triển. 2.3. Phương hướng đổi mới kế hoạch hoá. Như ta đã biết kế hoạch hoá là sự thể hiện ý đồ phát triển của chủ thể quản lý đối với một đối tượng quản lý và phương thức tác động để đạt được mục tiêu đặt ra. Như vậy kế hoạch là khâu trung tâm của quá trình quản lý. Phương hướng đổi mới quản lý là tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường , tăng cường vai trò quản lý kinh tế nhà nước. Cụ thể là thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hình thành các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những yếu kém hiện nay, gỡ bỏnhững cản trở sự phát triển. Trên cơ sở đổi mới quản lý kinh tế, công tác kế hoạch đổi mới theo hướng trên. II. Kiến nghị một số biện pháp cải tiến kế hoạch phát triển. Trước những hạn chế của công tác kế hoạch hoá và trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế ,xã hội của đất nước. Em xin đưa ra một vài kiến nghị nhằm đổi mới công tác kế hoạch hoá trong giai đoạn 2001-2010 . Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế -xã hội Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội có nhiệm vụ hoạch định đườnghướngphát triển cơ bản của đất nước trong 10 năm ,là cam kế chính trị của Đảng và Nhà nước được công bố trước toàn dân và cộng đồng quốc tế vè đường lối và cách thức lãnh đạo phát triển kinh tế đất nước .Nôi dung của chiến lược gồm xác định các mục tiêu có tính chất định tính .chiến lược 10 năm ,nhưng theo chu kỳ 5 năm sẽ được xem xét sửa đổi và sửa đổi cho phù hợp .Cụ thể là từ nay bắt đầu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho thời kỳ 2001-2010 ;đến năm 2005 xem xét đánh giá lại ,và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội cho thời kỳ 2006-2015.Cứ tiếp tục như vậy khoảng năm 2008 sẽ xem xét ,đánh giá lại tình hình và xây dựng chiến lược ptkt -xã hội cho thời kỳ tiếp theo . Việc xây dựng chiến lược phát triển cần do hội đồng nghiên cứu chiến lược thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng .Thủ tướng chính phủ làm chủ tịch Hội đồng ,các thành viên khác do Thủ tướng bổ nhiệm.Một năm trước khi thông qua, dự thảo chiến lược phát triển kinh tế -xã hội phải được công bố rộng rãi trên các phương tiện đại chúng để toàn dân tham gia thảo luận .Hội đồng nghiên cứu chiến lược có nhiệm vụ tổ chức các hình thức thích hợp để thu thập và tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân trên mọi vùng đất nước. 2. Đổi mới phương pháp xây dựng và điều hành kế hoạch năm và kế hoạch hàng năm Nghị quyết đại hội 8 yêu cầu :” chuyển dần sang kế hoạch năm năm là chính có phân ra từng năm “ .Như vậy , kế hoạch 5 năm sẽ là trọng tâm trong hệ thống kế hoạch , là công cụ điều hành kế hoạch phát triển trong thời hạn kế hoạch 5 năm .Vì vậy kế hoạch 5 năm không nên cứng nhắc và bao gọn trong từng 5 năm một như hiện nay ,là một kịch bản phát triển liên tục trong 5 năm, và có phân chia cụ thể theo từng năm. kế hoạch phát triển 5 năm sẽ xác định những mục tiêu tổng thể ,bao gồm kế hoạch chính thức một năm ,đó là năm hiện hành và kế hoạch dự tính cho năm tiếp đó cũng như dự báo kế hoạch cho những năm tiếp theo .Mức độ chi tiết , cụ thể và chính xác của nội dung kế hoạch của các năm sau phụ thuộc vào số lượng và độ tin cậy của tin có được .Kế hoạch hàng năm là một phần của kế hoạch định hướng 5 năm .Nói cách khác kế hoạch 5 năm là công cụ chính sách định hướg và kế hoạch hàng năm là công cụ thực hiện .Kế hoạch hàng năm không chỉ tập trung vào các mục tiêu phát triển mà là nhằm vào mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô .Vì vậy kế hoạch hàng năm bao gồm : Kế hoạch định hướng phát triển kinh tế xã hội hàng năm vừa là công cụ để ổn định kinh tế vĩ mô vừa thực hiện mục tiêu phát triển của năm đó trong nội dung của kế hoạch định hướng 5 năm .Một nội dung quan trọng của kế hoạch hoá hàng năm là cân đối vốn đầu tư .Cân đối vốn đầu tư toàn xã hội là cần 3 phần :kế hoạch hoa vốn đầu tư của tỉnh thành phố trực thuộc trung ương; kế hoạch hoá của Nhà nước trung ương ; các biện pháp chính sách huy động thêm vốn Kế hoạch đầu tư của Nhà nước : Quốc hội quyết định tổng mức đầu tư cụ thể hàng năm ,gồm cả tín dụng Nhà nước và các công trình cụ thể khởi công trong năm kế hoạch ; Thủ tướng quyết định dự án đầu tư và phân bố vốn . Hội đồng nhân dân tỉnh có toàn quyền quyết định công trình cụ thể và phân bố vốn cụ thể cho từng công trình ,trong phạm vi thẩm quyền ,có quyền thông qua kế hoạch thút vốn đầu tư của khu vực dân doanh và nước ngoài . Kế hoạch ngân sách Nhà nước bao gồm kế hoạch chi ngân sách và thu ngân sách hàng năm .Nghiên cứu thực hiện phương pháp ‘’cuốn chiếu ‘’ cho việc xây dựng kế hoạch ngân sách trung hạn Kế hoạch cung ứng tiền tệ :là kế hoạch linh hoạt và kế hoạch từng quý là công cụ chủ yếu tiến hành cung ứng tiền tệ của nền kinh tế ,boả đảm mục tiêu kiềm chế lạm phát ổn định ở mức chấp nhận được Kế hoạch xuất nhập khẩu và quản lý cán cân thanh toán quốc tế quản lý vay và trả nợ nước ngoài :Hạn chế số lượng các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch ở mức tối thiểu. 2.Đổi mới hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch theo hướng chú trọng các chỉ tiêu giá trị và chỉ tiêu định hướng . Nguyên tắc quan trọng trong quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường là nhà nước không can thiệp trực tiếp vào công việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp , vì thế những chỉ tiêu mà Nhà nước cần giám sát và quản lý chủ yếu là những chỉ tiêu giá trị ở tầm vĩ mô , đồng thời số lượng những chỉ tiêu hiện vật , kể cả những chỉ tiêu hiện nay đang nằm trong danh sách các chỉ tiêu cân đối lớn cần được giảm đến mức tối thiểu .Không cần quá chú trọng các chỉ tiêu sản lượng tính theo sản phẩm như ximăng ,sắt thép ,giấy ... chỉ nên giữ lại chỉ tiêu một số sản phẩm hiện vật quan trọng nhất trong lĩnh vực công ích như điện năng ,xây dựng , giao thông. Trong môi trường thường xuyên biến động , kế hoạch hoá được thông qua về nguyên tắc , không thể cứng nhắc mang tính áp đặt mà chỉ là dự báo ,tham khảo và định hướng .Vì vậy ngay cả khi kế hoạch được Quốc Hội thảo luận và thông qua , thì kế hoạch đó cũng chỉ nên là định hướng .Chính phủ tuỳ vào điều kiện , có thể điều chỉnh cả về mục tiêu và giải pháp chính sách chophù hợp với điều kiện thuực tế đã thay đổi.Trường hợp Quốc Hội vẫn giữ nguyên thông qua các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế -xã hội thì các chỉ tiêu đó không nên xác định một cách cứng mà nên là một khoảng . Ngoài ra ,trong kế hoạch không nên xác định mục tiêu phát triển theo ngành .Cách làm đó thường khuyến khích khuynh hướng đầu tư vào các dự án lớn ,sử dụng nhiều vốn , vì đó là con đường dễ nhất và nhanh nhất để đạt được mục tiêu.Những cách thức tăng trưởng đó kếm hiệu quả không tận dụng hết và có hiệu quả các nguồn lực khác ,đặc biệt là lao động .Kết quả cuối cùng là mất cân đối trên nhiều mặt của nền kinh tế xã hội như phân hoá giàu nghèo ,tăng sự chênh lệch giữa các vùng lãnh thổ ,mất cân đôí giữa đầu tư và tiết kiệm trong nước ,mất cân đối cán cân thanh toán ,và cuối cùng sẽ là mất ổn định kinh tế vĩ mô . Vì vậy , ở nước ta trong thời gian tới Quốc Hội chỉ nên thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh như: Tốc độ tăng GDP,tổng số thu ngân sách ,tổng số chi ngân sách , tổng số chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước ,mực bội chi ngân sách cao nhất (so GDP) và mức lạm phát cao nhất 3. Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế Cho đến nay công tác dự báo và phân tích kinh tế vẫn là khâu yếu nhất trong toàn bộ quá trình kế hoạch hoá . Vì vậy, để nâng cao trình độ kế hoạch như một công cụ định hướng phát triển , cần phải nâng cao chất lượng công tác dụ báo và phân tích kinh tế .Trước hết ,có thể thành lập các bộ phận hay đơn vị dự báo và phân tích kinh tế tại một số bộ tổng hợp như bộ KHĐT,NH Nhà nước Việt nam , Bộ tài chính . Các đơn vị dự báo cần nghiên cứu xây dựng dự báo một cách độc lập và có quyền đưa ra những nhận định độc lập trên tinh thần tự chịu trách nhiệm .Dự báo trước hết cần tập trung vào các chỉ số và vấn đề kinh tế vĩ mô .Về thời hạn , dự báo trước mắt cần tập trung vào ngắn hạn trong đó dự báo quý có vai trò quan trọng trong điều hành kế hoạch . việc lựa chọn mô hình gdự báo ngắn han chú ý các yêu cầu sau : -Đưa ra những số liệu dự báo phân tích theo quý . -Phải bao gồm những thông tin kịp thời phản ánh được những nét chính tình hình kinh tế trong thời igan ngắn hạn -Không cần phân ngành ở mức độ quá chi tiết -không quá nhiều chương trình -phối hợp các phương pháp dự báo khác nhau. 5.Củng cố bộ máy tổ chức , nâng cao trình độ cán bộ kế hoạch Bộ máy tổ chức kế hoạch phải được thay đổi phù hợp và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ làm kế hoạch để thực hiện những định hướng và những giải pháp mởi trên.Trong thời kỳ chiến lược 2001 - 2010 giải quyết vấn đề sau : -Hoàn thiện bộ máy kế hoạch ở trung ương và địa phương ,theo hướng liên kết phối hợp chặt chẽ với nhau hơn để có thể thường xuyên nắm bắt tình hình và phục vụ kịp thời cho việc điều hành , thực hiện kế hoạch cũng như giúp cho chính phủ và chính quyền địa phương phối hợp và xây dựng chính sách ở cáp mình một cách có hiệu quả . -xây dựng một hệ thống kế hoạch có ‘’chân rết ‘’ gọn nhẹ , có năng lực ở các ngành và các cấp ,các địa phương phục vụ tốt hơn cho công tác kế hoạch hoá và cung cấp thông tin theo chiều dọc và theo chiều ngang - Tổ chức thực hiện một chương trình đào tạo , bồi dưỡng cán bộ kế hoạch một cách cơ bản nhằm nâng cao trình độ của cán bộ Kế hoạch và Đầu tư , Vụ kế hoạch ,Sở kế hoạch và Đầu tư địa phương . Kết luận Có thể nói , cơ chế kế hoạch tập trung đã có những vảitò lịch sử của nó và có những đóng góp đáng kể là động viên cao độ đất nước ; nhưng ngày nay trước yêu cầu và nhiệm mới cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tỏ ra không phù hợp nữa.Thực tiễn đã cho thấy cơ chế đó không có hiệu quả , trong nhiều trường hợp là bất khả thi .Trước yêu cầu đó với tư duy kinh tế mới ,Đảng ta đã chuyển hướng chỉ đạo phát triển kinh tế ,chuyển từ nền kinh tế tập tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Và đặc biềt công tác kế hoạch hoá đươc đổi mới từ kế hoạch tập trung mang tính pháp lệnh ,cưỡng chế sang kế hoạch thị trường mang tính hướng dẫn điều tiết nền kinh tế quốc dân.Thực tiễn đã chứng minh đường lối của đảng ta là đúng đắn , chúng ta đã xây dựng được chiến lược 1990-2000;các kế hoạch 1990-1995,1996-2000và đã đạt được nhiều thành tựu ,nền kinh tế đã thoát khỏi khủng hoảng ,lạm phát cao . Tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định ,giai đoạn 1990-1995 là 8,2%;1996-2000 là 6,8% (tuy bị ảnh hưởng của khủng hoảng trong khu vực).Đời sống nhân dân cải thiện ,cơ sở hạ tầng được xây dựng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV396.doc