Đề án Kiểm toán nội bộ và sự phối hợp giữa kiểm toán viên nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài

Sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã mang lại cho Việt Nam những biến chuyển lớn trong đời sống kinh tế xã hội. Trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp đã không ngừng vươn lên, tự khẳng định vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế nhiều thành phần. Các doanh nghiệp vững mạnh là một trong những nhân tố góp phần tạo nên sự vững mạnh cho tổng thể nền kinh tế. Các quốc gia trên thế giới có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường đều có một đặc điểm chung nhất là hoạt động kiểm toán trong nền kinh tế được coi là thiết chế để duy trì sự công bằng và tạo ra niềm tin trong các quan hệ kinh tế xã hội trong cạnh tranh. Như Lênin đã chỉ rõ: “Không có kiểm tra, kiểm soát là không có quản lý”. Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam , vấn đề kiểm tra, kiểm soát đang là vấn đề bức xúc và cơ bản lâu dài.

doc42 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kiểm toán nội bộ và sự phối hợp giữa kiểm toán viên nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uả của kiểm toán nội bộ, bao gồm cả phạm vi và chất lượng cả các dịch vụ khác nhau của kiểm toán nội bộ. KTV bên ngoài cũng biết rằng quản lý thường sẽ mong đợi nếu không nói là đòi hỏi - rằng KTV bên ngoài sẽ đưa ra tất cả sự cân nhắc có thể đối với công việc của KTV nội bộ trong khi thực hiện công việc kiểm toán của chính mình. Do đó, tất cả những mối quan tâm thứ yếu này của hai nhóm kiểm toán có ảnh hưởng đến việc tăng cường thêm mối quan tâm đã có trong những nỗ lực phối hợp hiệu quả. 1.2.2.2. Thái độ đúng đắn của mỗi nhóm kiểm toán Mặc dù những mối quan tâm ban đầu và thứ yếu của KTV nội bộ và KTV bên ngoài đã tạo ra cơ sở phong phú cho việc thiết lập một nỗ lực phối hợp hiệu quả nhưng mỗi nhóm kiểm toán vẫn cần có thái độ đúng đắn của mình. Những nhà kiểm toán chuyên nghiệp cũng giống như bất kỳ cá nhân nào khác. Do đó, họ có thể lệ thuộc vào những vấn đề tương tự như lòng tự trọng, sự ghen tỵ, lợi ích cá nhân bị méo mó, sự chậm chạp, thiếu tự tin và những yếu tố phản tác dụng khác. Những khả năng này thường không được xem xét một cách khách quan và vô tình trỏ thành cơ sở cho sự khẳng định những lý do thực tế hơn đối với việc cản trở nỗ lực phối hợp hiệu quả. Những vần đề này cũng thường xuyên cản trỏ nỗ lực phối hợp hiệu quả thực sự. 1.2.2.3. Sự hiểu biết mang tính cộng tác ở bộ máy lãnh đạo Nhân tố nền tảng chủ yếu khác cho sự phối hợp hiệu quả của hai nỗ lực kiểm toán là sự hiểu biết những nhân tố có liên quan tồn tại ở bộ máy lãnh đạo. Trong đó, ba cá nhân có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng là giám đốc tài chính, giám đốc điều hành và chủ tịch uỷ ban kiểm toán của ban giám đốc. Vai trò của giám đốc tài chính. Giám đốc tài chính (CFO) là người có quan hệ trực tiếp nhất với hãng kiểm toán bên ngoài - nơi chịu trách nhiệm về những cam kết kiểm toán đặc biệt bởi Giám đốc tài chính thường phải đảm nhận trách nhiệm về các hoạt động kiểm toán tài chính và kế toán mà cấu thành nên hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ và cũng bao gồm hàng loạt các hoạt động dẫn đến kết quả cuối cùng là các báo cáo tài chính đang được KTV bên ngoài xem xét. Chính Giám đốc tài chính là người làm việc đầu tiên với kiểm toán vien bên ngoài để đi tới sự thoả thuận về bản chất và phạm vi xem xét của KTV bên ngoài. Như vậy, mức độ quan trọng của các dữ liệu kiểm toán nội bộ và những khả năng tận dụng chúng thông qua sự phối hợp hiệu quả, mà Giám đốc tài chính nhấn mạnh, đã trở thành một định tố chính của quan tâm mà KTV bên ngoài dành cho nỗ lực phối hợp này. Đồng thời, Giám đốc tài chính có thể tác động, ở các mức độ khác nhau, bằng niềm tin hay quyền lực của mình, đối với sự cộng tác đó. Vai trò của giám đốc điều hành. Theo truyền thống, giám đốc điều hành (CEO) giao cho giám đốc tài chính trách nhiệm về các hoạt động gắn liền với các hoạt động kiểm soát tài chính và việc thoả thuận với KTV bên ngoài về hoạt động kiểm toán theo thông lệ hàng năm. Tuy nhiên, việc ban hành Luật những hành vi hối lộ nước ngoài vào năm 1977 đã có xu hưởng nhiều hơn đến giám đốc điều hành trong những phần việc này. Đặc biệt kết quả của những quy định do Uỷ ban Chứng khoán và Giao dịch đề xuất đã yêu cầu giám đốc điều hành ký một báo cáo quản lý trong đó bao gồm việc trình bày về tính đầy đủ của hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ. Tất cả những quy định này có xu hướng ảnh hưởng sâu rộng hơn đến giám đốc điều hành trong việc giao dịch với KTV bên ngoài và do đó đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy cách tiếp cận nghiêm túc hơn về tiến trình phối hợp. Vai trò của Uỷ ban kiểm toán. Uỷ ban kiểm toán, dưới sự lãnh đạo của chủ tịch uỷ ban kiểm toán (CAC), ngày càng nhận trách nhiệm nhiều hơn về việc tuyển dụng và thông qua các điều khoản hợp đồng của KTV bên ngoài. Sau đó, Uỷ ban kiểm toán cũng có vai trò tích cực hơn trong việc phối hợp các nỗ lực của kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài. Điều này không có nghĩa rằng vai trò của các bên liên quan khác là không cực kỳ quan trọng. Nhưng sự tham gia của uỷ ban kiểm toán có uy tín lớn - đặc biệt là chủ tịch uỷ ban kiểm toán - và mối quan tâm sâu rộng hơn về sự phối hợp hiệu quả đã làm tăng thêm sức mạnh cho việc đạt được thoả thuận phối hợp một cách tốt nhất có thể. Tầm quan trọng của việc hiểu biết đúng đắn. Trong tất cả các hoạt động phối hợp của các quan chức cấp cao của đơn vị đã được trình bày ở trên, việc hiểu biết đúng đắn của tất cả các cá nhân ngày càng trở nên quan trọng. Đặc biệt cần thiết là sự hiểu biết về những mối quan tâm ban đầu và thứ yếu của mỗi nhóm kiểm toán và sự cần thiết phải hoà trộn các nỗ lực kiểm toán đã được phối hợp theo cách thức cho phép có thể đạt được tất cả các mục tiêu chính. Một điều cũng đặc biệt quan trọng là các bên liên quan nhận ra sự cần thiết về trình độ nghiệp vụ cao của mỗi nhóm kiểm toán và sự cần thiết về quan hệ nghiệp vụ ở mức độ tương tự giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài. Điều này cũng bao gồm việc tiếp tục thừa nhận rằng chức năng của nhóm kiểm toán nội bộ không phải chỉ là trợ giúp cho KTV bên ngoài đạt được các mục tiêu kiểm toán của họ, đồng thời các nguồn lực của nhóm kiểm toán nội bộ phải được bảo vệ để có thể cung cấp một cách hợp lý các dịch vụ cho ban quản lý nhằm đạt được những mục tiêu nghiệp vụ. 1.2.2.4. Những nhân tố thúc đẩy sự phối hợp Việc phối hợp có hiệu quả giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài bị tác động bởi những nhân tố mang tính thúc đẩy. Tuy nhiên, các nhân tố thúc đẩy khác nhau thường có xu hướng chòng chéo lên nhau. Các nhân tố này biến đổi từ các nhân tố ở mức độ tương đối thấp đến những nhân tố có tầm quan trọng ở mức độ cao. Chẳng hạn, việc cản trở những đại diện của hai nhóm kiểm toán này đạt được vị trí nghề nghiệp nhất định một cách đồng thời và sau đó cản trở việc theo đuổi xem xét những sổ sách giống nhau hoặc thẩm vấn người lao động của cùng một công ty. Mặt khác, những nhân tố thúc đẩy có thể là sự hỗ trợ mang tính hợp tác ở mức độ cao hơn. Ví dụ, việc trao đổi tài liệu và thông tin liên quan cùng với việc thảo luận và thảo luận chung về việc triển khai công việc hơn nữa và việc khắc phục những nhược điểm đã được chỉ ra. 1.2.2.5. Những cản trở sự phối hợp Cũng giống như những nhân tố thúc đẩy, những cản trở ảnh hưởng tới nỗ lực phối hợp có hiệu quả có thể biến đổi từ những nhân tố ở mức độ rất thấp đến những vật cản rất lớn. Chúng có thể thay đổi từ những nhược điểm của riêng KTV nội bộ hoặc KTV bên ngoài đến những hoạt động ở mức độ cao hơn hoặc những áp lực cản trở sự phối hợp có hiệu quả có thể phát triển ở mức độ công việc. Tóm lại, chúng tạo thành những vật cản đối với sự phối hợp có hiệu quả. Những kiểu cản trở chính cần được liên tục lưu ý gồm: Tính đầy đủ của những chuẩn mực kiểm toán nội bộ. Những khuyết điểm có thể về mặt tổ chức của KTV bên ngoài. Trách nhiệm pháp lý tiềm tàng của KTV bên ngoài. 1.2.3. Những yếu tố của sự phối hợp hiệu quả Sự phối hợp giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, những hoạt động phối hợp này có thể nhóm thành 11 loại sau: Trao đổi tài liệu kiểm toán. Sự chia sẻ trực tiếp về thông tin. Sử dụng phương pháp luận phổ biến. Hỗ trợ công việc hợp tác. Hợp tác trong đào tạo cán bộ. Triển khai trợ giúp những tài liệu kiểm toán. Lập kế hoạch chung. Phân loại công việc kiểm toán. Tổng hợp các báo cáo kiểm toán. Lập báo cáo chung lên các tổ chức cấp cao hơn. Đánh giá chéo. 1.2.3.1. Trao đổi tài liệu kiểm toán Kiểu phối hợp cơ bản xoay quanh việc trao đổi tài liệu kiểm toán. Hai tài liệu chủ yếu là hồ sơ và báo cáo kiểm toán. Những tài liệu này có thể có do KTV nội bộ và KTV bên ngoài cung cấp cho nhau. Trao đổi hồ sơ kiểm toán. Đối với hồ sơ kiểm toán, tính sẵn sàng cung cấp chúng của KTV nội bộ cho KTV bên ngoài là vấn đề ít gây tranh luận nhất và do đó là phổ biến nhất trong thực tế. Tính logic ở đây là KTV bên ngoài phải kiểm tra những hồ sơ kiểm toán này ở phạm vi có thể dựa vào công việc của KTV nội bộ. Hơn nữa, nó thường được nhìn nhận là điều đúng đắn có thể làm cho thông tin trở nên sẵn có cho KTV bên ngoài mà mặt khác KTV bên ngoài sẽ phải có thêm thời gian để thu thập với những cách khác nhau. Trong một số trường hợp KTV nội bộ có thể do dự trong việc công khai hồ sơ kiểm toán mà chất lượng về mặt chuyên môn của chúng không được như mong muốn, nhưng điều này sẽ là một vấn đề cần có sự sửa chữa cơ bản đối với những sự kiện của chính nó. Chắc chắn rằng, không một lý do thật sự thích đáng nào có thể làm cơ sở cho việc KTV nội bộ từ chối cung cấp cho KTV bên ngoài những hồ sơ kiểm toán này. Trường hợp ngược lại, về mặt nguyên tắc, tính sẵn sàng của những hồ sơ kiểm toán của KTV bên ngoài cho KTV nội bộ không tương hợp với tính độc lập và những trách nhiệm rộng hơn của họ đối với thế giới bên ngoài. Do đó, sự sẵn sàng của những hồ sơ kiểm toán của KTV bên ngoài là vấn đề khó. Tuy nhiên, tính sẵn sàng này được KTV bên ngoài nới rộng ra, ngoại trừ trường hợp có thể về bản chất đặc biệt. Trao đổi những báo cáo. Việc trao đổi những báo cáo giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài cũng là hợp lý và là thực tế mang tính đặc thù chung. Những báo cáo của KTV nội bộ đã có ảnh hưởng đến những nguyên tắc tương tự như hồ sơ kiểm toán. Do đó, những báo cáo của KTV nội bộ thường được cung cấp một cách tự nguyện cho KTV bên ngoài và chúng thiết lập nên một phương tiện quan trọng để tiếp tục thông báo một cách hợp lý cho KTV bên ngoài. Tuy nhiên trong một số trường hợp, những báo cáo đặc biệt của KTV nội bộ có thể được giữ kín hoặc không phải là mối quan tâm của KTV bên ngoài. Đối với KTV bên ngoài cần phải nhận thức rằng những kiểu báo cáo mô tả bổ sung cho ý kiến mang tính nguyên tắc là ít phổ biến hơn và chúng thay đổi theo những điều khoản tuyển dụng kiểm toan riêng. Những báo cáo đặc biệt của KTV bên ngoài có thể cũng được giữ kín và không nên đưa lý do vì sao chúng không được cung cấp cho KTV nội bộ. Do đó trong việc cung cấp này, thông thường nó là thực tế mang tính chuẩn mực. 1.2.3.2. Chia sẻ trực tiếp thông tin KTV nội bộ có thể đi sâu vào những vấn đề trong việc trình bày rộng hơn và chi tiết hơn về những hoạt động điều hành mà sẽ là quan trọng đối với KTV bên ngoài. Đồng thời, KTV bên ngoài phụ thuộc rất nhiều vào dòng thông tin hữu ích. Do đó, sự chia sẻ trực tiếp thông tin giữa hai nhóm kiểm toán là rất cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của cả hai nhóm. 1.2.3.3. Sử dụng những thủ tục kiểm toán phổ biến Trong nhiều trường hợp, người ta tin rằng hai nhóm kiểm toán đều mong muốn rắng nhóm kiểm toán nội bộ sẽ tuân theo những thủ tục kỹ thuật tương tự với những thủ tục được KTV bên ngoài áp dụng. Những ví dụ phổ biến nhất về điều này là những thủ tục kiểm toán được áp dụng trong những phần riêng của toàn bộ nỗ lực kiểm toán và sự sắp xếp những hồ sơ kiểm toán có liên quan. Sự hợp lý ở đây là tất cả những thủ tục này đã làm cho KTV bên ngoài dễ dàng hơn trong việc xem xét và sử dụng công việc của KTV nội bộ. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng những thủ tục phổ biến này chỉ là yếu tố tương đối không quan trọng và dựa nhiều hơn vào năng lực nghề nghiệp cơ bản. Trong bất kỳ tình huống nào, các mục tiêu của KTV nội bộ là rộng hơn so với những mục tiêu của KTV bên ngoài và ở điểm nào đó cấn có sự tiếp cận khác nhau đối với những nhiệm vụ kiểm toán riêng rẽ này. ở một mức độ nào đó các thủ tục phổ biến này có thể là hữu ích đối với những tình huống mang tính tập thể nhưng sự xét đoán cần phải được kiểm nghiệm trong việc áp dụng thực tế. Tóm lại, nhũng thủ tục kiểm toán phổ biến là một công cụ được sử dụng cùng với sự cẩn thận và thận trọng hợp lý. 1.2.3.4. Hỗ trợ công việc hợp tác Trong những năm trước đây khi mà sự nhấn mạnh vào nỗ lực phối hợp là ban đầu nhằm giảm thời gian và giá phí kiểm toán của KTV bên ngoài, nhân viên của phòng kiểm toán nội bộ có thể được bổ sung cho KTV bên ngoài và làm việc trực tiếp dưới sự giám sát của KTV bên ngoài. Ngày nay, theo những điều kiện của việc thực hành hiện tại, bất kỳ sự sắp xếp công việc cộng tác nào phải được cân nhắc cẩn thận. KTV nội bộ phản đối việc chỉ định trực tiếp như là sự ngụ ý về một vị trí công việc hạng hai đã dẫn đến việc anh ta không được tiếp tục năng lực nghề nghiệp của chính mình. Điều này tồn tại đặc biệt khi KTV nội bộ được chỉ định thật sự nhiều tuổi đời và nhiều kinh nghiệm hơn KTV bên ngoài. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách KTV nội bộ có vai trò như một nhà tư vấn được chỉ định hoặc cùng với sự hiểu biết thấu đáo rằng sự sắp xếp này liên quan đến những người ngang hàng làm việc vì một nền tảng tạm thời nhằm đáp ứng nhu cầu đã được thừa nhận một cách rõ ràng. Một giải pháp khác là phân công người có chuyên môn tốt nhất chịu trách nhiệm về nỗ lực công việc chung dù cho người đó là KTV nội bộ hoặc KTV độc lập. 1.2.3.5. Hợp tác trong đào tạo cán bộ Một tình hình đang tồn tại khá phổ biến là khi nào thì hoặc KTV nội bộ hoặc KTV bên ngoài có được năng lực đào tạo hữu ích cho cả hai nhóm. KTV bên ngoài, người cung cấp dịch vụ cho rất nhiều khách hàng, có thể có được các nguồn lực cho việc phát triển các kiểu chương trình đào tạo khác nhau hữu ích cho KTV nội bộ thuộc những công ty đi thuê kiểm toán. Tuy nhiên, trong những ví dụ khác, KTV nội bộ có thể đang chỉ đạo những khoá đào tạo hoặc triển khai những tài liệu đào tạo khác mang tính duy nhất đối với công ty. Về phần KTV bên ngoài, có thể có nhu cầu sử dụng những tài liệu này cho nhân viên của mình, đặc biệt cho những cá nhân thực hiện công việc kiểm toán riêng biệt. Tuy nhiên trong thực tế, việc KTV nội bộ và KTV bên ngoài có những nhiệm vụ ban đầu khác nhau có nghĩa là mỗi nhóm kiểm toán thường có nhiều thuận lợi hơn trong việc triển khai và điều hành các chương trình đào tạo của chính mình. Thông thường, khi những tài liệu đào tạo của một nhóm này được nhóm kia sử dụng thì việc sử dụng này được cung cấp mà không có trách nhiệm kèm theo bởi vì những mối quan tâm chung do đó đã được đáp ứng. Tuy nhiên trong những năm gần đây, các hãng kiểm toán bên ngoài đã phát triển các chương trình đào tạo cho KTV nội bộ như là một công việc kinh doanh mạo hiểm riêng và tạo ra nguồn thu nhập bổ sung mang tính nghề nghiệp. 1.2.3.6. Triển khai trợ giúp những tài liệu kiểm toán Hai nhóm kiểm toán nội bộ và bên ngoài sẽ phát triển những tài liệu tìm they và các khuyến nghị làm ảnh hưởng tới các hoạt động của tổ chức. Mặc dù những nhân viên trong tổ chức sẽ có trách nhiệm chính một cách cá nhân hay tập thể với việc đưa ra cân nhắc cuối cùng cho những khuyến nghị như vậy và hành động sửa chữa có liên quan nhưng cả hai nhóm kiểm toán đều có chung mối quan tâm tới bản chất và phạm vi của tất cả những thiếu sót đã được biết đến và việc sửa chữa sau này của những thiếu sót đó. Do đó, cả hai sẽ rất nhạy cảm với tất cả những phát triển trong lĩnh vực này và sẽ phối hợp nhau trong việc đạt đến mức độ hiệu quả mong muốn trong những thủ tục hoạt động cơ bản. Như chúng ta đã thấy, mối quan tâm ban đầu của KTV bên ngoài chính là tính đúng đắn của báo cáo tài chính và sẽ không phải dính líu quá sâu vào các thủ tục hoạt động ngầm như KTV nội bộ. Do đó, KTV bên ngoài sẽ thường có ít các phát hiện kiểm toán và khuyến cáo liên quan đến những thủ tục hoạt động này hơn. Cũng vì thế mà KTV bên ngoài sẽ ít liên quan đến việc triển khai các kết quả kiểm toán hơn KTV nội bộ. Tuy nhiên, một số phát hiện kiểm toán và khuyến cáo đặc biệt của KTV bên ngoài có tầm quan trọng rất lớn đối với việc quản trị công ty. Kết quả là kế hoạch triển khai kết quả kiểm toán ban đầu và tiếp theo của KTV bên ngoài được các bên liên quan xem xét với độ quan tâm đặc biệt. Điều quan trọng là KTV nội bộ và bên ngoài phối hợp với nhau bằng mọi cách để có thể chia sẻ thông tin liên quan tới những gì thuộc về tính hiệu quả hiện nay và trong tương lai của các quá trình hoạt động trong công ty, đặc biệt trong nhiều lĩnh vực liên quan tới hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ. Bằng cách làm việc cùng nhau, họ đảm bảo một cách tốt nhất hoạt động sửa chữa cần thiết. Đồng thời cả hai cũng sẽ có khả năng tốt hơn để hình thành những nỗ lực kiểm toán đang tiến triển của riêng mình nhằm phục vụ một cách tốt nhất lợi ích chung của họ và sau đó là lợi ích riêng của từng phía. 1.2.3.7. Lập kế hoạch chung Khi KTV nội bộ và KTV bên ngoài làm việc một cách hợp tác nhằm đạt tới một sự phối hợp kiểm toán có hiệu quả họ sẽ ngày càng nhận thấy rằng họ cần phải ngồi lại cùng nhau để vạch ra những chương trình kiểm toán riêng của mỗi bên trước khi bắt tay vào công việc kiểm toán thực tế. Quá trình lên kế hoạch liên quan đến uỷ ban kiểm toán và mỗi nhóm kiểm toán sẽ phụ trách một số năm. Quá trình này cũng đã được trình bày một phần trong chương trình ngân sách được thông qua cho năm tới. Mặc dù KTV bên ngoài sẽ thường tham gia tới một mức độ nào đó vào quá trình lên kế hoạch dài hạn này, nhưng những kế hoạch của KTV bên ngoài sẽ tập trung hơn vào nhu cầu mỗi năm của mình nhằm phát triển đề nghị của mình để đạt được sự chấp nhận của hội đồng quản trị. Đặc biệt, đề nghị đó được đưa ra sau khi kiểm toán hàng năm đã hoàn tất. Thông qua việc lên kế hoạch chung, yêu cầu của mỗi nhóm kiểm toán được hoà hợp với nhau. Một mặt, KTV nội bộ quyết định xem lên làm gì trong công việc kiểm toán của mình, nhưng với độ linh hoạt thích hợp, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các nhu cầu kiểm toán trong năm tới của KTV bên ngoài. Mặt khác KTV bên ngoài lại xác định những việc cần làm nhằm thực hiện trách nhiệm kiểm toán của mình, có cân nhắc tới những gì mà nhóm kiểm toán nội bộ có thể cung cấp, khi làm việc đó thì một trọng số thích hợp được gắn cho quy mô của đội ngũ nhân viên kiểm toán nội bộ, những khả năng được biểu hiện và mức độ sẵn sàng với công việc kiểm toán của đội ngũ này. Những lợi ích thu được từ sự phối hợp này về bản chất cũng giống như những lợi ích thu được từ bất kỳ loại lên kế hoạch trước nào. Các KTV giống như các quản trị gia khác, cần phải xác định trước cái gì họ phải thực hiện và thực hiện như thế nào. Điều này là đúng bất chấp thực tế là những kế hoạch đã được đồng ý như vậy có thể và cần phải được sửa đổi khi có sự thay đổi các điều kiện. Nhờ áp dụng những công cụ quản lý trình độ cao này vào thành quả của toàn bộ những mục tiêu kiểm toán đã cung cấp cơ sở cần thiết nhất cho một cố gắng kiểm toán được phối hợp có hiệu quả và là sự thực hành chuẩn mực trong một tổ chức lớn điển hình được quản lý tốt. 1.2.3.8. Phân đoạn công việc kiểm toán Trong khi việc lên kế hoạch trước giữa KTV bên ngoài và KTV nội bộ cung cấp cơ sở thiết yếu cho một nỗ lực phối hợp có hiệu quả thì những lợi ích của nó cũng sẽ đạt được một cách tốt nhất khi công việc kiểm toán - đã được lên kế hoạch trước - được phân chia theo cách phù hợp nhất với yêu cầu của hai nhóm nhân viên chuyên môn. Yêu cầu này sẽ chia công việc kiểm toán đã được lên kế hoạch sao cho mỗi nhóm có thể xử lý những phân đoạn công việc kiểm toán của mình bằng cách độc lập. Việc phân đoạn này đạt được nhờ sự phân công cho mỗi nhóm kiểm toán những trách nhiệm kiểm toán ban đầu đối với từng thiết bị sản xuất, phòng ban, bộ phận, công ty hay là những thủ tục nhất định. Với trách nhiệm ban đầu của mình, nhóm kiểm toán sẽ tiếp tục lên kế hoạch chi tiết hơn cho những nỗ lực kiểm toán đòi hỏi và triển khai kế hoạch đó với đội ngũ nhân viên của mình và sự giám sát của chính nó. Đồng thời, hồ sơ kiểm toán, báo cáo, tài liệu và các khuyến nghị cũng được chia sẻ theo cách đã được thoả thuận trước. Cũng vào thời gian ấy, công việc của KTV nội bộ sẽ tuỳ thuộc vào mức độ cần xem xét thêm khi cần phải đáp ứng yêu cầu của KTV bên ngoài tương ứng. Đây là một phần của việc hỗ trợ cho đánh giá cuối cùng của KTV bên ngoài đối với tính chính xác của báo cáo cuối năm của công ty. 1.2.3.9. Tổng hợp các báo cáo kiểm toán Sự truy nhập của một nhóm kiểm toán này vào nhóm kia ở các lĩnh vực như các thủ tục kiểm toán, hồ sơ kiểm toán và báo cáo đã được thoả thuận. Mức độ và cách thức mà sự truy nhập này diễn ra đã trở thành những yếu tố chủ yếu của mọi cố gắng phối hợp giữa KTV nội bộ với KTV bên ngoài. Trong trường hợp kiểm toán nội bộ đã thực hiện rất tốt công việc của mình thì hồ sơ kiểm toán trở thành tài liệu chủ yếu cho cả hai nhóm kiểm toán. Trường hợp này KTV bên ngoài vốn có những tài liệu riêng của mình nhưng những tài liệu đó rất hạn chế về phạm vi. Những tài liệu này thường là những nhận xét của KTV bên ngoài với hồ sơ của KTV nội bộ và kết quả kiểm tra hạn chế thêm công việc của KTV nội bộ ở đằng sau những hồ sơ trên. 1.2.3.10. Lập báo cáo chung lên cấp cao hơn Một khía cạnh đặc biệt quan trọng của một nỗ lực phối hợp có hiệu quả là khuynh hướng hướng tới việc báo cáo chung lên các cấp tổ chức ở cấp cao hơn. Những cấp trên này thường là những quản trị viên tập đoàn, uỷ ban tập đoàn hoặc ban giám đốc (gồm cả uỷ ban kiểm toán của nó). Báo cáo chung này bao gồm một phạm vi rộng. Ví dụ nó có thể dưới dạng thảo luận chung ở cấp độ tổ chức cao hơn với những báo cáo riêng của mỗi nhóm kiểm toán. Trường hợp khác nó có thể thông qua nhiệm vụ chung với cả hai nhóm giải quyết một câu hỏi mà cả hai có mối quan tâm chung. Hai nhóm kiểm toán khi đó có thể đưa ra một báo cáo chung duy nhất hoặc báo cáo riêng được phối hợp. Khi đó, nhóm nhận báo cáo - chẳng hạn như uỷ ban kiểm toán – không buộc một nhóm riêng nào giải quyết vấn đề đó mà để cho hai nhóm kiểm toán tự chọn cách phân chia và xử lý công việc kiểm toán. 1.2.3.11. Đánh giá chéo Việc hai nhóm kiểm toán có chung một cơ sở kiến thức chuyên môn, đồng thời việc họ biết rất rõ công việc của nhau đã cung cấp cơ sở đáng kể cho sự đánh giá chéo có hiệu quả. Sự đánh giá của KTV bên ngoài đối với KTV nội bộ thể hiện qua sự tin tưởng với công việc của KTV nội bộ. Hơn nữa, lợi ích riêng của KTV bên ngoài khi kiểm toán nội bộ là tốt, kết hợp với khả năng tiếp cận của mình với cấp tổ chức bên trên đã giúp KTV nội bộ có được vị thế tốt hơn và tiềm lực trong tổ chức. Do đó KTV nội bộ nên khuyến khích việc đánh giá chéo của KTV bên ngoài và lợi dụng triệt để nó. Sự đánh giá của KTV nội bộ với KTV bên ngoài cũng là không tránh khỏi và hữu dụng mặc dù có những sự khác biệt truyền thống. Trong một vài trường hợp KTV bên ngoài có thể quá coi thường khả năng hoặc thái độ đúng đắn của những ý kiến xây dung từ người ngoài và do đó không thật sự tán thành sự đánh giá của KTV nội bộ. Tuy nhiên, việc chấp nhận sự đánh giá chéo có tính xây dung là phù hợp hơn với cách tiếp cận theo kiểu quan hệ đối tác chuyên môn đã được thảo luận. Do vậy, có thể mong đợi rằng sẽ có nhiều hơn sự đánh giá chéo hai chiều. Điều này cũng đã được chấp nhận thực hành trong nhiều tổ chức lớn. Như vậy, mối quan tâm chung của cả kiểm toán nội bộ lẫn kiểm toán bên ngoài đối với sự hoàn chỉnh của hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ tạo ra một động lực đáng kể cho từng nhóm kiểm toán nhằm tiếp thêm nỗ lực hợp lý để đạt được nỗ lực hợp tác hiệu quả. Sự phối hợp hiệu quả là điều có ý nghĩa đối với các bên có liên quan. Đồng thời, sự phối hợp hiệu quả cũng quan trọng trong việc thoản mãn mối quan tâm chung của tổ chức. Thách thức dối với các bên là nhận thức được và ủng hộ các nhân tố đóng góp vào việc đạt được sự phối hợp hiệu quả; hiểu được mục tiêu chủ yếu của mỗi nhóm kiểm toán trong khi tạo dung lên những mối quan tâm chung chắc chắn làm cơ sở cho việc đạt tới những mục tiêu đó. chương II thực trạng ktnb trong các doanh nghiệp nhà nước và sự phối hợp với kiểm toán viên bên ngoài ở việt nam hiện nay 2.1. Sự cần thiết phát triển KTNB trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay Kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm toán được tiến hành trong phạm vi doanh nghiệp, do người của doanh nghiệp thực hiện để phục vụ cho các yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính của bản thân doanh nghiệp. Với mục tiêu như vậy, đặc biệt là trong cơ chế quản ếy tài chính hiện nay - DNNN được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính đến mức cao nhất - thì KTNB càng là một đòi hỏi cấp bách đối với tất cả các DNNN. Theo Nghị định số 59/1996/NĐ-CP ra ngày 3/10/1996 của Chính phủ, từ năm 1997 cơ quan quản lý tài chính các cấp sẽ không tiến hành kiểm tra phê duyệt quyết toán sản xuất kinh doanh hàng năm của các DNNN. Các DNNN phải công khai báo cáo tài chính và chịu trách nhiệm về các số liệu, chỉ tiêu đã công bố. Đây là một quy định nhằm nâng cao tính tự động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các DNNN nhưng đồng thời cũng gây không ít khó khăn, lúng túng cho họ. Từ trước năm 1997, sau khi quyết toán năm được duyệt, lãnh đạo doanh nghiệp hoàn toàn yên tâm về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, về các mặt hoạt động và các giải pháp tài chính trong năm vì đã được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xác nhận. Mọi sai sót, vi phạm của doanh nghiệp cũng đã được giải quyết hoặc xoá bỏ thông qua việc duyệt quyết toán. Chính vì vậy, trong điều kiện không còn kiểm tra phê duyệt quyết toán hàng năm, KTNB với chức năng kiểm tra, xác nhận tính trung thực và hợp lí, hợp pháp của các thông tin trong báo cáo tài chính sẽ giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp bớt lúng túng, yên tâm hơn khi ký các báo cáo tài chính và công khai báo cáo tài chính theo cơ chế mới về quản lý tài chính DNNN. ở Việt Nam hiện nay mô hình Hội đồng quản trị ở các Tổng công ty được thành lập theo nghị định 90/CP và 91/CP có khác so với các nước. Trong mỗi Tổng công ty nhà nước còn có Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản trị. Ngoài các thành viên chuyên trách, Hội đồng quản trị còn có một số thành viên kiêm nhiệm. Trong Ban kiểm soát, ngoài Trưởng ban kiểm soát, phần lớn các uỷ viên và các thành viên kiêm nghiệm, có thành viên không tuộc tổng công ty. Với bộ máy như vậy, ban kiểm soát khó lòng thực hiện các nhiệm vụ và trách nhiệm theo quy định của nhà nước mới được ban hành theo điều lệ mẫu của Tổng công ty nhà nước. Vì vậy ở các DNNN trước hết là các Tổng công ty cần thiết phải tổ chức bộ phận KTNB giúp chủ doanh nghiệp điều hành và quản lí mọi mặt hoạt động, đó là một nhu cầu cần thiết và nên làm vì sự phát triển của doanh nghiệp. 2.2. Thực trạng hoạt động KTNB và sự phối hợp với KTV bên ngoài ở nước ta trong thời gian qua Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng và cần thiết nhưng những hiểu biết của chúng ta về lĩnh vực này còn quá ít so với kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập. Trên thực tế, hầu như có rất ít các công trình hay đề tài nghiên cứu khoa học một cách hệ thống và sâu sắc về KTNB .Trong điều kiện đó, vướng mắc về nhận thức là lẽ đương nhiên, việc triển khai thực hiện hoạt động KTNB ở các doanh nghiệp lại càng lúng túng. Trong thời gian vừa qua, ở Việt Nam đã xuất hiện những nhu cầu và điều kiện cần thiết cho việc thiết lập hệ thống KTNB trong các đơn vị. Tuy nhiên vì là giai đoạn đầu nên việc hình thành mới được rất ít và chậm chạp, chủ yếu tập trung ở các tổng công ty lớn, các doanh nghiệp có qui mô lớn. Hơn thế nữa, KTNB bước đầu còn gặp nhiều khó khăn trong công tác tổ chức và hoạt động, bộ phận KTNB còn quá mỏng manh so với cả một khối lượng công việc khổng lồ. Có thể thấy rằng hiện nay hệ thống KTNB ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển mà vẫn ở giai đoạn hình thành và hoàn thiện. Lực lượng kiểm toán viên còn quá ít, hệ thống chính sách, qui chế về KTNB chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu kiểm toán của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động chưa cao. Mặc dù vậy, hiện nay Nhà nước ta đang khuyến khích các DNNN hình thành bộ phận KTNB trong doanh nghiệp. Theo điều 36, chương 5, nghị định số 59/1996/NĐ-CP ngày 3/10/1996 qui định : “Doanh nghiệp tự tổ chức kiểm toán nội bộ báo caó tài chính của mình hoặc thuê kiểm toán độc lập nếu thấy cần thiết” chính là nhằm tạo cho DNNN cơ hội lựa chọn việc có nên tổ chức bộ phận KTNB trong doanh nghiệp hay không. Mặt khác giữa thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay và nhu cầu đòi hỏi của nhà nước về khía cạnh pháp lý còn có một số mâu thuẫn. Về việc phối hợp giữa KTV nội bộ với KTV bên ngoài, ở nước ta hiện nay, tầm quan trọng cũng như hiệu quả của hoạt động này chưa được đánh giá đúng mức nên việc phối hợp thực hiện không chặt chẽ và không đạt được đúng mục tiều của sự phối hợp; phối hợp mới chỉ dừng lại ở việc KTV nội bộ cung cấp tài liệu cho KTV bên ngoài, giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài chưa có hoạt động lập kế hoạch chung để hoà hợp các hoạt động kiểm toán của hai nhóm với nhau; hoạt động tổng hợp các báo cáo kiểm toán với nhau cũng chưa phát huy được tác dụng của nó… Như vậy, xét về thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam thì chúng ta thấy rõ rằng KTNB vẫn đang ở trong giai đoạn hình thành và phát triển, việc thí điểm mới chỉ dừng lại ở các Tổng công ty, các doanh nghiệp có qui mô lớn. Việc hình thành mô hình KTNB nói chung còn gặp nhiều khó khăn, lúng tong, do đó chưa khai thác hết hiệu quả của sự phối hợp với kiểm toán viên bên ngoài. Tuy nhiên, việc phát triển hệ thống KTNB trong các DNNN ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường là một đòi hỏi cần thiết và tất yếu vì sự tồn tại và hưng thịnh của chính các DNNN trong cơ chế thị trường canh tranh khốc liệt. 2.3. Những khó khăn chính trong việc tổ chức hoạt động KTNB • Về mặt pháp lý Tại Việt Nam, khái niệm KTNB mới chính thức xuất hiện kể từ khi Chính phủ ban hành nghị định số 59/1996/ND-CP ngày 03 tháng 10 năm 1996 về “Quy chế quản lí tài chính và hạch toán kinh doanh đối với các DNNN”. Theo đó các báo cáo tài chính của các DNNN buộc phải được kiểm toán bởi kiểm toán viên độc lập hoặc kiểm toán viên nội bộ. Trên cơ sở nghị định 59/ CP này, Bộ tài chính đã ban hành quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT ngày 28 tháng 10 năm 1997 và thông tư số 52/1998/TT-BTC ngày 16 tháng 04 năm 1998 nhằm đưa ra những quy chế về KTNB và tổ chức thực hiện công việc thiết lập bộ máy KTNB trong các DNNN.Với các quyết định và thông tư này, việc tổ chức bộ máy KTNB là một yêu cầu bắt buộc. Xét về khía cạnh pháp lý thì mọi DNNN phải lập bộ phận KTNB và nó có thể thay thế cho kiểm toán độc lập, tuy nhiên KTNB phụ thuộc rất lớn vào người lãnh đạo cao nhất trong doanh nghiệp nên tính độc lập của KTNB chưa cao và kém hiệu quả. Mặt khác bộ phận KTNB tuy độc lập vơí các bộ phận khác trong doanh nghiệp nhưng vẫn là một bộ phận trong doanh nghiệp nên không thể hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp. Vì vậy báo cáo KTNB được doanh nghiệp rất tin tưởng nhưng ít có giá trị pháp lý. Chính điều này đã làm cho các doanh nghiệp không tích cực trong việc bộ phận KTNB trong doanh nghiệp mình vì phải bỏ ra chi phí thành lập mà hiệu quả lại chưa cao, chưa tạo được niềm tin cho những người sử dụng thông tin về báo cáo tài chính do KTNB thực hiện kiểm toán. Đồng thời trong quá trình thực hiện NĐ 59/CP và QĐ số 832/TC/QĐ/CĐKT (28/10/1997) và thông tư số 52/1998/TT-BTC (16/4/1998) đã nảy sinh vướng mắc rằng có những DN với quy mô hoạt động nhỏ, lĩnh vực hoạt đông đặc thù và đội ngũ kế toán viên đủ mạnh mà không nhất thiết phải thiết lập bộ máy KTNB. Đối với các doanh nghiệp có qui mô nhỏ, lãnh đạo doanh nghiệp có thể kiểm tra chặt chẽ mọi hoạt động thì viêc thành lập một bộ phận KTNB này là quá thừa, hoàn toàn không cần thiết và hạn chế khi thành lập là không có cán bộ làm công tác này. Như đã nói, việc thành lập bộ phận KTNB là nhu cầu tự thân của doanh nghiệp, nhiều trường hợp lợi ích từ việc thiết lập bộ máy KTNB nhỏ hơn so với chi phí bỏ ra nên sự bắt buộc đối với toàn bộ các DNNN phải có bộ phân KTNB là điều không hợp lí. Chính vì thế, Bộ tài chính tiếp tục ra thông tư số 171/1998/TT-BTC (22/12/1998) nhằm thay thế thông tư số 52/1998/TT-BTC. Theo đó, việc tổ chức bộ máy KTNB là không bắt buộc đối với các DNNN mà phải tuỳ theo qui mô sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động, trình độ của đội ngũ cán bộ kế toán... mà tổ chức cho phù hợp hoặc không cần tổ chức bộ máy KTNB. Các DNNN đã tổ chức bộ máy KTNB theo qui định tại thông tư số 52/1998/TT-BTC thì tuỳ theo tình hình cụ thể của doanh nghiệp có thể tiếp tục duy trì và hoạt động hoặc tổ chức lại theo quy định ở thông tư này. Như vậy, một hệ thống chính sách chưa hoàn thiện, triệt để lại hay thay đổi khiến cho các DNNN lúng túng trong việc thành lập bộ phận KTNB, các doanh nghiệp đang thực hiện theo chính sách này thì lại chuyển đổi theo chính sách khác gây lãng phí tiền của, công sức và thời gian. Đồng thời do tính chất chưa ổn định của hệ thống pháp lí làm cho các DNNN chần chừ trong việc thành lập bộ phận KTNB mà vẫn còn đợi tính hoàn thiện của hệ thống này, thấy rõ hơn tính thiệt hơn khi thành lập bộ phận KTNB so với việc thuê kiểm toán nhà nước hay kiểm toán độc lập. Đây cũng là những lí do làm cho tiến trình thành lập KTNB trong các DNNN ở nước ta còn chậm và chưa hiệu quả. Mặt khác, tại điều 6, mục 2, quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT đã nêu rõ: “Bộ phận KTNB được tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp (cả phòng kế toán - tài chính), chịu sự chỉ đạo và lãnh đạo trực tiếp của (Tổng) giám đốc DN”. Đây là một quy định hoàn toàn đúng với nguyên tắc và thông lệ chung về tổ chức bộ máy KTNB. Tuy vậy đến thông tư 171/1998/TT-BTC ở điểm 3 lại có sự “nới lỏng” như sau: “tuỳ thuộc vào qui mô sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động tập trung hay phân tán, điều kiện cụ thể của trình độ năng lực đội ngũ kế toán, doanh nghiệp có thể chọn lựa hình thức tổ chức bộ máy KTNB cho phù hợp và có hiệu quả thiết thực. Việc tổ chức bộ máy KTNB không bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Vậy đối với các doanh nghiệp tổ chức bộ máy KTNB thì tổng giám đốc doanh nghiệp lựa chọn và ra quyết định hình thức tổ chức bộ máy cho phù hợp”. Theo sự nới lỏng này, nhiều đơn vị đã sát nhập trở lại bộ phận KTNB vào bộ máy kế toán, từ đó làm mất đi nguyên tắc tối quan trọng của tổ chức bộ máy KTNB là “độc lập với các bộ phận còn lại và chỉ phụ thuộc vào người lãnh đạo cao nhất của đơn vị”. Chính điều này đã làm mất đi tính hiệu quả trong công việc của KTNB do phụ thuộc vào bộ phận kế toán, tao ra cái nhìn thiếu tin tưởng vào hiệu quả hoạt động của KTNB ở các doanh nghiệp chưa thành lập bộ phận KTNB, làm cho các doanh nghiệp này chưa thực sự muốn hình thành bộ phận KTNB trong doanh nghiệp mình. Đó là những nguyên nhân chủ yếu của hệ thống chính sách pháp lý ảnh hưởng đến sự hình thành bộ phận KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay. • Về mặt cán bộ và quy mô của bộ phận KTNB trong DNNN ở nước ta hiện nay Trước hết, xét về mặt tiêu chuẩn KTV nội bộ: Do KTV nội bộ là người kiểm toán các hoạt động của doanh nghiệp cả về tài chính và kiểm toán hoạt động cho nên đòi hỏi về mạt đạo đức, KTV nội bộ phải là người thẳng thắn, trung thực, công minh, nhiệt tình với công việc, có tác phong làm việc thận trọng, có uy tín trong doanh nghiệp, được lãnh đạo và quần chúng tin tưởng. Về trình độ chuyên môn, KTV nội bộ phải là những chuyên gia có trình độ nghề nghiệp vững vàng. Trước hết, đó là những người có trình độ kế toán thành thạo, có thể là những cán bộ đã tốt nghiệp đại học kế toán hoặc đại học ngành kế toán, ngân hàng, tài chính nhưng đã làm nghiệp vụ kế toán ít nhất 5 năm hoặc đã qua chức vụ kế toán trưởng đơn vị. Nói chung về mặt nghiệp vụ, KTV nội bộ ít nhất phải tương đương kế toán trưởng một đơn vị. Tuy nhiên trên thực tế, cán bộ về kiểm toán ở nước ta chưa có nhiều nên nhu cầu về KTV là rất lớn và vẫn đang khan hiếm. Việc lập bộ phận KTNB lại phải hội đủ các tiêu chuẩn ở trên. Do vậy, hiện nay một số DNNN có quy mô nhỏ rất khó khăn khi thành lập KTNB vì không có nhân sự theo tiêu chuẩn, nhất là chọn trưởng phòng (trưởng ban) KTNB. Điều này dẫn đến hiện tượng điều động, luân chuyển cán bộ không hợp lý. Rất nhiều kế toán viên vừa là người của bộ phận KTNB, vừa kiêm nhiệm cả công tác kế toán. Đây là vấn đề trái với nguyên tắc “bất kiêm nhiệm” trong quy chế KTNB. Hơn thế nữa, khi thành lập bộ phận KTNB thường làm phát sinh tăng biên chế, chi phí, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt đông sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, việc hình thành KTNB ở các doanh nghiệp nhỏ là rất khó và không mấy hiệu quả. Trong điểm 4, thông tư 171/1998/TT-BTC lại bổ sung thêm tiêu chuẩn của KTV: “trường hợp KTV nội bộ chưa có bằng đại học chuyên ngành kế toán, tài chính hoặc quản trị kinh doanh thì tối thiểu phải có trình độ từ trung cấp chuyên ngành kinh tế tài chính hoặc quản trị kinh doanh, đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính kế toán ít nhất 5 năm, đã làm việc tại doanh nghiệp 3 năm trở lên nhưng không thấp hơn trình độ nghiệp vụ chuyên môn của kế toán trưởng doanh nghiệp đó”. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, quy định tiêu chuẩn KTV nội bộ như vậy là chưa thật hợp lý. Bộ máy đào tạo của các doanh nghiệp chưa phát triển nên hệ thống đào tạo ở các trường đại học phải mang tính chuyên sâu mới có thể đồng nhất trình độ nghiệp vụ của các cử nhân quản trị kinh doanh với cử nhân kế toán, kiểm toán. Quy định này đối với KTV nội bộ có phần quá cao, có thể chỉ phù hợp đối với kiểm toán trưởng đơn vị. Hơn nữa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của kế toán và kiểm toán có phần gần gũi nhưng không hoàn toàn “đồng chất” và thuộc các chức danh công tác khác nhau nên rất khó so sánh. Bộ máy KTNB do đơn vị tự quyết định (được nêu ở điểm 3 của thông tư này) và tiêu chuẩn KTV nội bộ là “đã qua huấn luyện về nghiệp vụ kế toán, kiểm tra nội bộ theo nội dung chương trình thống nhất của Bộ tài chính và được cấp chứng chỉ” (điều 12 mục 4 quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT) nên qui định này thiếu sự nhất quán và cũng không hoàn toàn cần thiết. Như vậy ngay trong bản thân các chế định pháp lý đã có những điểm không phù hợp như vậy nên việc thành lập KTNB gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề nhân sự. Một nguyên nhân chính nữa dẫn đến sự khó khăn và chậm chạp trong việc hình thành KTNB ở các DNNN nước ta hiện nay là đại đa số các DNNN có quy mô nhỏ và trung bình. Như đã nói ở trên, việc thành lập bộ phận KTNB trong các doanh nghiệp có quy mô nhỏ là hết sức khó khăn, chỉ có các doanh nghiệp quy mô lớn, các Tổng công ty mới có nhiều điều kiện để thành lập bộ phận KTNB mà số này lại rất ít. Với những khó khăn như vậy, hiện nay bộ phận KTNB trong các DNNN ở Việt Nam còn rất ít, tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp có quy mô lớn, các Tổng công ty. Quá trình hình thành nói chung còn gặp phải rất nhiều trở ngại. • Khó khăn về phương tiện vật chất, kĩ thuật Hiện nay do giới hạn về mặt phương tiện kĩ thuật ở nước ta, do chưa có điều kiện cơ sở, vật chất để áp dụng các thành tựu của khoa học kĩ thuật vào công việc nên với một khối lượng công việc kiểm toán rất lớn. Như vậy, trong một doanh nghiệp đòi hỏi phải có KTV nội bộ, để duy trì bộ phận KTNB phẩi tốn nhiều thời gian, công sức, tiền của mà hiệu quả kiểm toán lại không cao. Hoặc nếu các DNNN nào có đủ các điều kiện để áp dụng các phương tiện thiết bị khoa học kĩ thuật vào công việc thì lại bị giới hạn về trình độ sử dụng, không phát huy được tối đa các tính năng của công cụ hiện đại, gây lãng phí giá trị sử dụng của máy móc. Đây là hai mặt của một vấn đề cần phải giải quyết để phát huy tính hiệu quả, hữu ích của KTNB. Song không phải muốn giải quyết là làm được ngay một sớm một chiều mà cần phải có thời gian, vật chất và một chiến lược phát triển ở tầm vĩ mô. Trên đây là một số khó khăn và nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng chậm chạp, kém hiệu quả của quá trình hình thành KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay. Nhận thức đươc khó khăn là để tìm ra giải pháp khắc phục, đó mới chính là mục tiêu, gốc rễ của mọi vấn đề. CHƯƠNG III MộT Số Đề XUấT CảI THIệN VIệC Tổ CHứC HOạT Động ktnb và Sự PHốI HợP GIữA KTNB Với KTV BÊN NGOàI ở VIệT NAM 3.1. Một số đề xuất cải thiện việc tổ chức hoạt động KTNB • Hoàn thiện về mặt chính sách Hoạt động KTNB trong các đơn vị của nền kinh tế không những tăng cường hiệu quả hoạt động của đơn vị đó mà còn tạo ra một sự ổn định và tính hiệu quả chung cho toàn bộ nền kinh tế. Nhà nước cần định hướng và tạo ra môi trường cần thiết cho loại hình kiểm tra kiểm soát này hoạt động và phát huy hiệu quả trong nền kinh tế. Tính độc lập và tính khách quan của KTNB chỉ có thể được đảm bảo bằng một hành lang pháp lí tương xứng với chức năng và nhiệm vụ của nó. Điều đó còn có ý nghĩa quyết định cả tính hiệu lực và tính hiệu quả của hoạt động KTNB. Nếu KTNB không được quy định chặt chẽ, hợp lí sẽ có tác dụng ngược lại, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hạch toán độc lập là thành viên của các Tổng công ty. Từ thực tiễn trên, vấn đề đặt ra ở đây là phải hoàn thiện chính sách về KTNB như thế nào ở nước ta trong thời gian trước mắt. Về chính sách vĩ mô: Các văn bản Nhà nước, nghị định, thông tư hướng dẫn… của các cơ quan có thẩm quyền, nhất là của Bộ Tài chính cần phải rõ ràng về quy chế KTNB và kiểm toán độc lập, không nên để các doanh nghiệp có thể hiểu KTNB cũng giống như kiểm toán độc lập và thực thi như nhau. Tổ chức các đoàn khảo sát ở nước ngoài về KTNB để nâng vị trí KTNB ngang tầm một phân hệ kiểm toán cho các kiểm toán trưởng của các Tổng công ty có nhu cầu với nguồn kinh phí của các Tổng công ty đóng góp để học tập kinh nghiệm về KTNB ở các nước có diều kiện tương tự. Kết hợp việc sửa đổi và bổ sung những điểm đã nêu ở trên với việc mở rộng phạm vi áp dụng để nâng cấp và hoàn thiện các văn bản đã ra thành Nghị định của Chính phủ và ban hành quy chế mẫu về KTNB theo nghị định này. Để cho báo cáo tài chính của doanh nghiệp mang tính pháp lý cao, Bộ tài chính cần có qui định và hướng dẫn việc thực hiện kiểm toán độc lập. Như thế báo cáo tài chính của doanh nghiệp chỉ được công khai và có tính pháp lý khi đã có xác nhận của kiểm toán độc lập, còn xác nhận của KTNB chủ yếu có giá trị trong nội bộ doanh nghiệp. Vì vậy, các cấp cũng cần xem xét thêm về vấn đề này. Về quản lý vi mô: Doanh nghiệp phải có kế hoạch xây dựng bộ phận KTNB, nhất là các doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu như công ty TNHH, công ty cổ phần nhằm thực hiện tốt mục tiêu của hệ thống kiểm soát doanh nghiệp. Cần thực hiện nghiêm túc qui chế KTNB mà Bộ Tài chính đã ban hành. Có thể các doanh nghiệp có qui mô nhỏ gặp khó khăn khi bố trí nhân sự cho bộ phận KTNB, nhất là trưởng phòng (trưởng ban) KTNB, nhưng nhất thiết không được bố trí nhân viên KTNB kiêm nhiệm công tác kế toán tại doanh nghiệp như thực tế phát sinh ở một số doanh nghiệp hiện nay . Cần xây dựng qui chế hoạt động tại công ty riêng cho bộ phận KTNB, để bộ phận này thực hiện thuận lợi nhiệm vụ của KTNB. • Hỗ trợ về mặt đào tạo và các điều kiện khác để nâng cao và phát triển đội ngũ KTV nội bộ. Vấn đề tổ chức cán bộ là yếu tố quyết định sự thành công trong hoạch định chính sách. Để có một đội ngũ cán bộ, cần có sự quan tâm đặc biệt đến bồi dưỡng, đào tạo tương xứng, nhất là với đội ngũ đầu ngành kết hợp sử dụng chuyên gia nước ngoài ở một số khâu công việc và một số lĩnh vực cần thiết. Theo quyđịnh 237/TC/QĐ/CĐKT ngày 19/03/1994 của Bộ tài chính về quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán độc lập qui định người dự thi phải đạt yêu cầu cả 8 môn thi bắt buộc mới được cấp chứng nhận trúng tuyển KTV. Đối với KTV nội bộ hiện nay chưa có qui định cụ thể. Tuy nhiên, trang bị những kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn cho KTV nội bộ cũng cần đạt được những điều kiện tương đương như thế. Ngoài ra, cũng cần chú ý là cán bộ của doanh nghiệp cử ra nên yêu cầu và bước đi trong công việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ này có thể không nhất thiết phải giống hệt với yêu cầu bồi dưỡng thi tuyển kiểm toán viên độc lập. KTV nội bộ cần được tuyển chọn từ bộ phận kế toán tài vụ và được huấn luyện, đào tạo thêm để quay trở lại làm kiểm toán nội bộ cho doanh nghiệp. Có như vậy mới đảm bảo cho KTV nội bộ nắm chắc tình hình của đơn vị và không làm tăng biên chế, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị trong điều kiện các doanh nghiệp hiện đang gặp khó khăn vì dôi thừa lao động. Trong khi Chính phủ tạo ra các cơ sở pháp lý cho nghề kiểm toán tồn tại và phát triển thì việc tổ chức chuyên môn trong quản lý nghề kiểm toán có một trách nhiệm lớn lao trong việc chăm lo cho các lợi ích của KTV; thiết lập duy trì và theo dõi các yêu cầu đối với việc vào nghề, tổ chức hoặc giám sát các kì thi chuyên môn để cấp giấy phép hành nghề kiểm toán, giám sát việc tuân thủ các yêu cầu về giáo dục chuyên môn thường xuyên; theo dõi đánh giá năng lực, việc chấp hành bộ luật đạo đức và khi cần thiết thì áp dụng biện pháp kỉ luật đối với những người không tuân thủ, đồng thời giúp cho các KTV cập nhật kiến thức, tiếp cận với sự phát triển nghề nghiệp của quốc gia cũng như quốc tế. Có như vậy mới đảm bảo cho hệ thống KTNB hoạt động có hiệu quả và thiết thực hơn đối với doanh nghiệp. • Về vật chất và phương tiện kĩ thuật: Do đòi hỏi đối với KTV là phải trung thực, chính xác nên cần phải có các chính sách đãi ngộ thích hợp đối với các KTV để các KTV có điều kiện làm việc tốt, an tâm hơn trong công việc và tránh được nạn tham nhũng, thiếu trung thực của KTV, giúp cho hoạt động kiểm toán ngày càng có hiệu quả. Bên cạnh đó, để thúc đẩy tiến trình hình thành bộ phận KTNB ở nước ta cần phải có một cơ sở vật chất kĩ thuật vững mạnh, các doanh nghiệp cần đầu tư các máy móc, công cụ, thiết bị hiện đại để giúp cho các KTV nội bộ của mình có thể giải quyết một khối lượng công việc lớn của doanh nghiệp với chất lượng cao. Đây là hoạt động cần thiết vì rằng việc đầu tư thiết bị hiện đại trong kiểm toán sẽ giúp cho hiệu quả kiểm toán cao và có thể sử dụng lâu dài. • Về mô hình tổ chức kiểm toán nội bộ. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách hữu hiệu, bộ phận KTNB phải trực thuộc cấp cao nhất trong DN. ở các đơn vị không có hội đồng quản trị, bộ phận KTNB nên được tổ chức thuộc và báo cáo trực tiếp cho giám đốc . Mô hình : Giám đốc Các phòng ban khác Bộ phận KTNB Bộ phận Kế toán Theo như mô hình này, bộ phận KTNB có nhiệm vụ thực hiện kiểm toán đối với bộ phận kế toán và các phòng ban khác, sau đó sẽ trình báo cáo kiểm toán cho giám đốc. ở các doanh nghiệp có hội đồng quản trị, bộ phận KTNB nên trực thuộc uỷ ban kiểm soát của hội đồng quản trị. Uỷ ban này gồm một số thành viên của hội đồng quản trị nhưng không giữ chức vụ hay đảm trách công việc gì trong đơn vị. Tính chất độc lập giúp cho uỷ ban kiểm soát thực hiện tốt chức năng giám sát của mình đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp. Mô hình như sau: Hội đồng quản trị Ban Kiểm soát (Tổng) Giám đốc Bộ phận KTNB Các Phòng, Ban khác Bộ phận Kế toán Kiểm toán Theo đó, bộ phận KTNB sẽ báo cáo kiểm toán cho uỷ ban kiểm soát sau khi đã thực hiên công việc kiểm toán đối với bộ phận kế toán và các phòng ban khác. 3.2. Một số đề xuất cải thiện sự phối hợp giữa KTNB và KTV bên ngoài ở Việt Nam Trong các doanh nghiệp, để phát huy tối ưu hiệu quả của sự phối hợp giữa KTNB và KTV bên ngoài, các nhà quản lý cần đưa ra chính sách, thủ tục cụ thể về các công việc kiểm toán mà kiểm toán viên nội bộ cần thực hiện cũng như các hoạt động hỗ trợ cho kiểm toán viên bên ngoài mà họ cần tiến hành; nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ cho các kiểm toán viên nội bộ nhằm đáp ứng được các yêu cầu, đề nghị của kiểm toán viên bên ngoài… Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước có thầm quyền cần xây dựng một hành lang pháp lý chung hướng dẫn việc phối hợp này giúp cho kiểm toán viên nội bộ cũng như kiểm toán viên bên ngoài có định hướng công việc cần thực hiện, từ đó làm tăng hiệu quả, hiệu năng công việc của từng nhóm. Trên đây là một số giải pháp để đẩy nhanh quá trình hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận KTNB trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Đây là một yêu cầu tất yếu của nền kinh tế cũng là một nhân tố cần thiết nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp trong cơ chế kinh tế thị trường. kết luận Sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã mang lại cho Việt Nam những biến chuyển lớn trong đời sống kinh tế xã hội. Trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp đã không ngừng vươn lên, tự khẳng định vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế nhiều thành phần. Các doanh nghiệp vững mạnh là một trong những nhân tố góp phần tạo nên sự vững mạnh cho tổng thể nền kinh tế. Các quốc gia trên thế giới có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường đều có một đặc điểm chung nhất là hoạt động kiểm toán trong nền kinh tế được coi là thiết chế để duy trì sự công bằng và tạo ra niềm tin trong các quan hệ kinh tế xã hội trong cạnh tranh. Như Lênin đã chỉ rõ: “Không có kiểm tra, kiểm soát là không có quản lý”. Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam , vấn đề kiểm tra, kiểm soát đang là vấn đề bức xúc và cơ bản lâu dài. Xuất phát từ vai trò của kiểm toán nói chung và KTNB nói riêng trong nền kinh tế thị trường thì việc hình thành KTNB trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay là một vấn đề tất yếu cần thiết để đảm bảo tính trung thực của báo cáo tài chính trong doanh nghiệp cũng như tính tân thủ, tính hoạt động cuả doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị và giải pháp về chế độ kế toán, hình thức quản lý và tính hiệu quả của doanh nghiệp. Đối với Việt Nam, đây là một lĩnh vực mới mẻ nên việc thực thi còn gặp phải vô vàn khó khăn. Chuyên đề này nghiên cứu một số vấn đề về tổ chức KTNB trong các doanh nghiệp ở nước ta và các hoạt động phối hợp giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài trong quá trình kiểm toán với tinh thần giúp ích cho thực tiễn hoạch định chính sách và nâng cao hiệu quả hoạt động của loai hình kiểm tra, kiểm soát này trong nền kinh tế. Dưới góc độ của một sinh viên, với vốn kiến thức còn hạn chế và hiểu biết thực tế không nhiều nên chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn và các thầy cô trong khoa kế toán để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của TS. Nguyễn Phương Hoa và các thầy cô trong khoa kế toán. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Đào Thị Nhung mục lục danh mục tài liệu tham khảo 1. GS.TS. Nguyễn Đình Hương, 2000, Kiểm toán nội bộ hiện đại, NXB Tài chính, Hà Nội. 2. GS.TS. Nguyễn Quang Quynh, 2005, Lý thuyết kiểm toán, NXB Tài chính, Hà Nội. 3. GS.TS. Nguyễn Quang Quynh, 2006, Giáo trinh kiểm toán tài chính, NXB ĐH Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 4. Bộ Tài chính, 2003, Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, quyển 3, NXB Tài chính, Hà Nội 5. Bộ Tài chính, 2003, Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, quyển 4, NXB Tài chính, Hà Nội 6. Bộ Tài chính, 1997, Quy chế kiểm toán nội bộ, NXB Tài chính, Hà Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12597.doc
Tài liệu liên quan