Đề án Kinh tế Nhà nước và vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta

Trước ta hiện nay trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế tiếp tục đổi mới theo xu hướng : Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta tập trung phát triển kinh tế thị trường không phải đi theo chủ nghĩa tư bản một xã hội đầy dẫy những bất công mà phát triển theo kinh tế thị trường đi theo CNXH – một xã hội không có áp bức, bất công, một xã hội trong đó mọi người dân làm chủ, làm theo năng lực hưởng theo lao động.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kinh tế Nhà nước và vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều thành phàn cũng là một yếu tố khách quan nhằm khai thác tối đa một năng lực sản xuất trong xã hôị để phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, văn hoá do nhân dân. Trước đây do duy ý trí, chủ quan và nóng vội, đã có ý nghĩ rằng đã có thể xây dựng nhanh CNXH thông qua các biện pháp cải ttạo CNXH, xoá bỏ các thành phần kinh tế tư nhân được coi là “phi XHCN”. Sự thực không phải như vậy. Thực tiễn 15 năm đổi mới cho thấy rằng đi lên CNXH từ một nền kinh tế còn nghèo nàn, chậm phát triển, trước hết phải lấy việc phát triển lực lượng sản xuất làm ưu tiên. Còn xây dựng , còn việc xây dựng quan xây dựng quan hệ sản xuất mới, đặc biệt là xây dựng chế độ “công hữuvà tư liệu sản xuất” chủ yếu là quá trình phát triẻn kinh tế xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Theo tinh thần đó, báo cáo chính trị chỉ số “tiêu chuẩn văn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN là thúc đâỷ phát triển lực lượng sản xuất cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”. 1.2. Quan niệm về kinh tế Nhà nước Bất cứ Nhà nước nào cũng có chức năng kinh tế, ở các thời đại khác nhau, mỗi chế độ xã hội khác nhau, do tính chất nhà nước khác nhau, nên vai trò và chức năng của kinh tế Nhà nước cũng khác nhau. ậ Việt Nam, thành phần kinh tế nhà nước là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ hoặc phục vụ sản xuất, kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc về sở hữu của Nhà nước hoặc phần của Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế hoặc chi phối (theo chế độ tham dự) toàn bộ tài sản, đất đai, rừng biển, thềm lục địa vùng trời đang được khai thác, kết cấu hạ tầng kinh tế do Nhà nước xây dựng và quản lý, ngân sách nhà nước, các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước dự trữ quốc gia, hệ thống bảo hiểm nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước… Như vậy các doanh nghiệp Nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế Nhà nước, là bộ phận quan trọng và chủ yếu cầu thành lên kinh tế Nhà nước . Và cũng phải cần phân biệt giữa sở hữu Nhà nước và thành phần kinh tế Nhà nước , phạm trù sở hữu Nhà nước rộng hơn thành phanà kinh tế Nhà nước. Thành phần kinh tế Nhà nước trước hết phải thuộc sở hữu Nhà nước. Nhưng sở hữu Nhà nước có thể do các thành phần kinh tế khkác sử dụng, thí dụ như đất đai, Nhà nước đại biểu do toàn dân sở hữu, nhưng kinh tế hộ, hợp tác xã nông nghiệp do các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác sở hữu. Ngược lại, thuộc sở hữu Nhà nước không phải là kinh tế Nhà nước, chẳng hạn Nhà nước góp vốn cổ phần chiếm tỷ lệ thấp và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, thông qua liene doanh, liên kết gọi là kinh tế tư bản Nhà nước. 2. Vai trò kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. 2.1. Tính tất yếu của việc phát triển nền kinh tế thị trường Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo dịnh hướng XHCN là một tất yéu của lịch sử. Nó nhằm dẫn đến những mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó thay thế đối với hàng loạt vấn đề lý luận thực tiễn, cả về kinh tế và chu trình xã hội, nó đảm bảo việc phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh mới. Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất xã hội gắn với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá tiền tệ với quan hệ cung cầu. Trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá. Mọi mặtc của quan hệ xã hội phải tính đến quan hệ hàng hoá, ít hay nhiều phải sử dụng quan hẹ hàng háo như mắt khâu trung gian. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường ở đó sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? được quyết định thông qua thị trường. Kinh tế thị trường luôn lấy cạnh tranh làm môi trường, lấy lợi nhận làm động lực. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường tuân theo quy luật giá trị . Do đó đòi hỏi kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, nâng cao năng xuất lao động mở rộng quan hẹ sản xuất kinh doanh. Quá trình hình thành theo cơ chế thị trường là quá trình mở rộng, phân công lao động xã hội tạo điều kiện cho các thành phần sản xuất phát triển. 2.2. Ưu điểm, khuyết tật của nền kinh tế thị trường và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường tho định hướng XHCN. * Ưu điểm: Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thẻ kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do dó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế. Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động các biệt đến mức thấp nhất có thẻ bằngcách áp dụng khoa học kỹ thuật vf cong nghệ vào sản xuất mới, nhờ đó thúc đẩy được lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu trên dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước làm sẽ thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiẹn được và đòi hỏi chi phí cao trong việc tạo ra quyết định. So với cơ quan Nhà nước, cơ thế thị trường mềm nhỏ hơn, linh hoạt hơn và có khả năng thích nghi cao hơn trước những thay đổi của điều kiện kinh tế. Nhờ vậy cớ chế thị trường giải quyết định mua hàng hóa này mà không cần mua hàng hoá kia, lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có lợi nhuận cao, do đó đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Sản xuất bằng phương pháp nào, bằng công nghệ nào được quýet định bởi cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá. Cách duy nhất để các doanh nghiệp có thẻ cạnh tranh được về giá cả và thu được lợi nhuận tối đa là giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu bằng áp dụng kỹ thuật và công nhệ vào sản xuất. Sản xuất hàng hoá cho ai hay là sản phẩm sản xuất ra được phân phố như thế nào, một phàn được quyết định bởi quan hệ cung cẩn trên thị trường các yếu tố sản xuất. Như vậy, thị trường đã giải quyết được ba vấn đề kinh tế là sản xuất cái gì? sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào? * Khuyết tật: Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh rằng có chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế đạt hiệu quả cao. Song cơ chế thị trường không pahỉ là hiệu thân của sự hoàn hảo, mà nó còn có những khuyết tật đặc biệt là về mặt xã hội. Có thể chỉ ra một số khuyết tật như sau: Cơ chế thị trường chỉ thực hiẹn đầy đủ lhi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, một nền kinh tế được thúc đẩy khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới phân bố và sử dụng vô hiệu quả nhất đầu vào của sản xuất và đầu ra, tức là nền kinh tế đứng trên giới hạn của đường giới hạn năng lực sản xuất. Như vậy hiệu lực của cơ chế thị trường phụ thuộc vào mức độ không hoàn hảo của cạnh tranh, cạnh tranh càng không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm. Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ dùng những biện pháp để thu được lợi nhuận tối đa, thậm chí còn lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu, do đó hiệu quả kinh tế của xã hội không được bảo đảm. Có những mục tiêu, xã hội mà dù cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng không thể đạt được, sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ. Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đang đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm phát, thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ. Như vậy cơ chế thị trường có một loạt những khuyết tật vốn có của nó. Do đó ngày nay trong thực tế khong có sự can thiệp của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô. * Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Vai trò điều chỉnh: Bằng cách cân đối cung cầu trong toàn xã hội để chỉ đạo các doanh nghiệp làm lệnh cung cầu chung, cái mà từng doanh nghiệp không nắm được. Trong vai trò này phải phát hiện lập thời những mất cân đối, những nguy cơ tiểm ẩn để lo ngăn ngừa đối phó kịp thời khi nó xẩy ra. Đảm bảo ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật phát đẻ tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Nhà nước tạo ra hành lang luật pháp cho sự hoạt động kinh tế và bằng cách đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Tạo ra sân chơi công bằng để các doanh nghiệp tự do cạnh tranh. Đó cũng là tạo ra công bằng xã hội, luật pháp được soạn thảo đúng vốn quy luật của thị trường sẽ giúp thực hiện tốt vai trò này. Điều tiết hài hoà giữa các lĩnh vực, các vùng kinh tế để tạo ra sự phát triển hài hoà, nó phải đòi hỏi tìm hiểu xem thị trường hiện nay như thế nào, tưong lai nó sẽ biến động ra sao để điều tiết từ nơi thừa sang nơi thiếum lúc thừa sang lúc thiếu. Định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô nhưng chống lạm phát, chống khủng hoảng ngăn ngừa những biến động xấu trong nền kinh tế. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế khắc phục hạn chế, tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. 2.3. Kinh tế Nhà nước – Vai trò chủ đoạ trong nền kinh tế nhiều thành phần. Tính chất nhiều thành phần kinh tế là nét đặc trưng có tính quy luật của nền kinh tế quá độ lên CNXH ở nước ta. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ luôn luôn vận động, phát triển trong mối quan hệ, tác động qua lại, đan xen trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, trên cơ sở vừa hợp tác vừa bổ sung cho nhau vừa cạnh tranh với nhau trong nèn kinh tế thị trường và bình đẳng trước pháp luật. Để tiến hành Công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, các thành phần kinh tế phải được cải thiện dựa trên những tiền đề khách quan là: Xuất phát từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và yêu cầu của xã hội hoá sản xuất trên thực tế, xuất phát từ đặc điểm, tính chất của từng ngành nghề mà xác định tỷ trọng, quy mô, cơ cấu các thành phần kinh tế cho phù hợp; xuất phát từ khả năng tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế. Vấn đề là không phải là xoá bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế này hay thành phần kinh tế khác, mà điều quan trọng là phải nắm vứng bản chất của từng thành phần và sử dụng chúng đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Một thành phần kinh tế có bản chất và những quy luật kinh tế hoạt động riêng, dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về lực lượng sản xuất và có khả năng tái sản xuất một cách tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và có khả năng tái sản xuất một cách tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Khả năng tái sản xuất là điều kiện tồn tại và vận động của mỗi thành phần kinh tế. Chính xu hướng mở rộng hay thu hẹp có khả năng sản xuất chỉ rõ vai trò và triển vọng của mỗi thành viên kinh tế trong nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên các thành phần kinh tế không tồn tại một cách biệt lập, mà có mỗi liên hệ và tác động qua lại, đan xen. Để đảm bảo nèn kinh tế phát triển tho định hướng XHCN, trong quá trình vận dộng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế Nhà nước phải tự vươn lên, làm sao để cùng với kinh tế hợp tác dần dần, trở thành nền tảng cho chế độ xã hội mới XHCN. Kinh tế Nhà nước dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Kinh tế Nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng , có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hướng ổn định . Kinh tế Nhà nước là lực lượng đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế, là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, nó có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác, không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua những thiết kế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN. Kinh tế Nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuận hiện đại, tiên tiến do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn cho ngân sách Nhà nước và sự tích tụ để có thể ngừng tái sản xuất mở rộng. Kinh tế Nhà nước còn đóng vai trò là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sống còn, nhưng ít ai dám đầu tư vì đòi hỏi vốn quá lớn mà thời gian thu hồi vốn lại quá chậm. 2.4. Kinh tế Nhà nước dữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế là do: Nhiều thành phần kinh tế là đặc trưng phổ biến của mọi nền kinh tế thị trường khác nhau là ở chỗ trong kinh tế thị trường TBCN, kinh tế tư nhân nói đúng hơn là kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị, còn trong kinh tế thị trường theo định hướng XHCN như ở nước ta thì kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể được xây dựng và phát triển để ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Do có sự nhầm lẫn giữa Nhà nước và kinh tế Nhà nước nên có ý kiến cho rằng chỉ có Nhà nước mới làm chức năng chỉ đạo hay chủ đạo, chứ kinh tế Nhà nước không giữ vai trò chủ đoạ được. Cũng do có sự đồng nhất giữa kinh tế Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước nên ý kiến khác lại cho rằng doanh nghiệp Nhà nước không thể giữ vai trò chủ đạo được bổ nó có hàng loạt những khuyết điểm và nhược điểm trong hoạt động. Thật ra doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận trụ cột nhất của kinh tế Nhà nước chứ không phải là toàn bộ kinh tế Nhà nước. Nói đến kinh tế Nhà nước là phải nói đến tất cả các sở hữu trong tay Nhà nước kể cả tài nguyên, đất đai, ngân sách Nhà nước, dự trữ quốc gia… kinh tế Nhà nước không làm chức năng quản lý của Nhà nước, nhưng chính nó là công cụ quan trtọng là sức mạnh kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh té, doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa kỹ thuật và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp lệnh. II. Thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước ta hienẹh nay. 1. Thực trạng của thành phần kinh tế Nhà nước ta trong giai đoạn cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. 1.1. Cổ phần hoá và giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra Sau chiến tranh thế giới thứ II, khu vực doanh nghiệp Nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới phát triển rất nhanh chóng và chiếm tỷ lệ áp đảo trong nền kinh tế quốc gia. Nhưng đến những năm của thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80, khu vực doanh nghiệp Nhà nước ở hầu hết các quốc gia đã bộ lộ những yếu kém, hạn chế nhất là về hiệu quả kinh tế. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước nắm đại bộ phận tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn và công nghệ của toàn xã hội, song sức sinh lợi của đòng vốn bỏ ra thấp hơn so với khu vực khác. Đối với nước ta trong quá trình thực hiện đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, đa dạng hoá sở hữu thông qua chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước mà trọng tâm là cổ phần hoá và giao bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước cũng được xác định là một chủ chương lớn đã thể hiện trong các nghị quyết của Đảng và quốc hội. Song chúng ta có cách làm riêng, từng bước ổn định và vững chắc, đồng thời giải quyết thoả đáng quyền lợi cho người lao động. Điều này nói lên bản chất yêu việt của chế độ, cổ phần hóa nhưng không làm tăng thêm số người thất nghiệp. Có thể khái quát quá tình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ta như sau: Giai đoạn 1992 – 1995 là thời kỳ thực hiện thí điểm theo quyết định 202 / NĐBT của hội đồng bộ trưởng về thí điểm chuyển một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty Cổ phần: Gia đoạn 1996 – 1998 là thời kỳ thực hiện nghị định 28CP (1996) về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, giai đoạn 1999 đến nay là thời kỳ thực hiện nghị định 44/ 1998 CP vè cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và nghị định 103/ 1999 NĐ - CP về giao bán , khoán cho thuê doanh nghiệp Nhà nước. Hai hội nghị gần đây đã tạo ra khuôn khổ pháp lý theo cổ phần hoá giao bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước. Về tổ chức, các ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp Nhà nước từ trung ương đến các bộ ngành . Tổng Công ty 91 và các địa phương đã được thành lập. Nhưng quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp diễn ra rất chậm. Từ năm 1992 đến năm 1998 cổ phần hoá được 102 doanh nghiệp. Từ chỗ tự nguyện đăng ký số doanh nghiệp tựhc hiện cổ phần hoá đã được thành chỉ trên pháp lệnh. Năm 1999 thủ tướng chính phủ giao chỉ tiêu cổ phần hoá 450 doanh nghiệp cho các bộ, tổng Công ty 91 và các địa phương, nhưng chỉ thực hiện được 220 doanh nghiệp đạt 49% kế hoạch. Mặc dù doanh nghiệp đó cổ phần hoá và giao, bán, khoán, cho thuê còn ít nhưng khả năng cạnh tranh và hiệu quả đã rõ ràng, hầu hết các doanh nghiệp sau khi đã cổ phần hoá thì doanh thu, thu nhập của người lao động, lợi nhuận, vốn, nộp thuế đều tăng hơn so với trước khi cổ phần hoá. Hiện nay trong tổng số 5280 doanh nghiệp chỉ có 20,9% doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng, còn 65,5% doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng, 30% các doanh nghiệp địa phương có vốn dưới 1 tỷ đồng. Doanh nghiệp Nhà nước có sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế thấp chỉ khoảng 40% làm ăn có hiệu quả đủ sức cạnh tranh, 40% hiệu quả thấp hoặc hoà vốn, 20% thua lỗ liên tục. Lộ trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2000 - 2002 là phải sắp xếp lại 2280 doanh nghiệp, trong đó có số vốn trên10 tỷ đồng là 216,1 đến 10 tỷ đồng là 1233, dưới 1 tỷ đồng là 831 ; về hình thức thì 368 doanh nghiệp thuộc diện tiến hành giải thể hoặcphá sản, 1489 doanh nghiệp được cổ phần hoá và giao bán, khoán, cho thuê, 380 doanh nghiệp phải sát nhập vào doanh nghiệp khác và 43 doanh nghiệp trở thành đơn vị sự nghiệp. 1.2. Kết qủa của việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Thực hiện đường lối của Đảng 10 năm qua, từ năm 1991 đến nay Chính phủ đã đẩy mạnh cuộc đổi mới và đã tiến hành 3 đợt sắp xếp lớn các doanh nghiệp Nhà nước. Kết qủa sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước theo chủ trương nghị quyết của Chính phủ, chỉ thị của thủ tướng chính phủ đến cuối năm 1997là một mặt thu hẹp hơn 50% số đầu mối các doanh nghiệp Nhà nước, từ hơn 12000 doanh nghiệp xuống còn 6000 doanh nghiệp trong đó sát nhập 3100 doanh nghiệp, giải thể 3350 doanh nghiệp. Mặt khác doanh nghiệp Nhà nước vẫn phát triển ổn định và đóng góp phần quan trọngcho ngân sách Nhà nước. Nhưng tiến bộ trên đầy về đổi mới, sắp xếpdn1 Nhà nước và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước tuy có ý nghĩa rất quan trọngnhưng chưa tương xứng với yêu cầu và năng lực sẵn có của doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp còn yếu kém, tồn tại cơ bản nhất là : Thứ nhất : Những năm gần đây tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng vốn các doanh nghiệp Nhà nước giảm dần. Năm 1995 đánh giá chung số doanh nghiệp có lấn chiếm khoảng 40% sốdn1 bị lỗ chiếm 20%. Nếu tính đủ khấu hao tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ con số lớn hơn. Số dn1còn lại nằm trong tình trạng không ổn định, khi số vốn lãi và lãi cũng không lớn hơn. Công nợ trong doanh nghiệp Nhà nước hiện nay là quá lớn. Thứ hai : Doanh nghiệp Nhà nước còn thiếu về số lượng nhưng lại nhỏ về quy mô, còn lan trải theo ngành nghề địa phương. Thứ ba : Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp Nhà nước phổ biến và nghiêm trọng. Thứ tư : Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu. Hậu quả là chưa tạo được nhiều sản phẩm quốc gia, sản phẩm mũi nhọn có hàm lượng chất sám và công nghệ cao, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, nội lực của đất nước với sử dụng có hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế, khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước của sản phẩm do doanh nghiệp Nhà nước làm ra thấp. 1.3. Những mặt hạn chế còn tồn tại : Kinh tế Nhà nước (KTNN) ở nước ta có một thực lực to lớn, chiếm 3/4 tài sản quốc gia và đóng góp trên 40% GDP hàng năm, nắm giữa các đài chỉ huyvà các vị trí then chốt trong nền kinh tế, đó là nền tảng, là cơ sở và sức mạnh để định hướng XHCN toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Những đòi hỏi tư nhân hoá khu vực KTNN không gì khác hơn là làm cho nền tảng và sức mạnh kinh tế của CNXH yếu đi, tạo thắng thế cho định hướng TBCN. Tuy nhiên cũng phải khách quan mà nhìn nhận rằng thành phần KTNN ở Việt Nam hiện nayđang hoạt động tương đối kém hiệu quả do chúng ta chưa có cơ chế để thực hiện quyền sở hữu đó có hiệu quả nhất. Sự mỏng manh, chưa vững chắc trong vai trò chủ đạo KTNN hiện nay có những nguyên nhân thuộc về quá khứ của quy hoạch, đầu tư đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ quản lý, ở đào tạo và tuyển dụng lao động, ở sự lại trông chờ vào việc ban phát từ bên trên, ở sự kém năng động và thiếu tính quyết toán trong các quyết định quản lý do có quá nhiều tầng nấc từ bên trên can thiệp… đang là những lực cản gây ra sự yếu kém, trì trệ ít hiệu quả của KTNN. Cùng các dư âm của quá khứ, việc chuyển đổi cơ chế cũng làm bộc lộ hơn những khuyết điểm mà chúng ta xử lý đó là tình trạng vô chủ trên thực tế vẫn còn tồn tại mặc dù về mặt pháp lý chúng tađã phân biệt rõ ràng các quyền năng sở hữu, sử dụng, định đoạt và hưởng lợi. Song việc sử dụng tăng phí công sản Nhà nước, quản lý lỏng lẻo, vô trách nhiệm, phân phối tùy tiện, chiếm dụng vốn lẫn nhau, lại vào sự đầu tư của Nhà nước, đánh quả, chụp giật, móc ngoặc vẫn còn tồn tại. Sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước và tập thể người lao động chưa được triển khai đồng bộ và thực sự có hiệu quả. Nhiều giám đốc sử dụng ngay đồng đều của Nhà nước để làm vô hiệu hoá sự kiểm tra và kiểm soát đó. 2. Nguyên nhân của thực trạng trên. Thứ nhất : Tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung và tài chính của những doanh nghiệp Nhà nước phải cổ phần hoá nói riêng chưa lành mạnh, thiếu tính minh bạch, thiếu rõ ràng. Chính phủ đã có quyết định 104/CT về thanh toán công nợ giai đoạn một và quyết định 95/QĐTTg về xử lý thanh toán giai đoạn II nhằm lành mạnh hoá tài chính của doanh nghiệp, nhưng kết quả giải quyết công nợ chưa khả quan, diễn ra rất chậm. Giai đoạn I chỉ giải quyết được gần 19% và giai đoạn II giải quyết được khoảng 18% tổng số nợ các doanh nghiệp kê khai. Mục đích của biện pháp này là làm cho các doanh nghiệp Nhà nước lành mạnh về tài chính trước khi cổ phần hoá, nhưng việc cơ cấu lại nợ của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều bất cập nên việc xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hoá gặp nhiều khó khăn. Thứ hai : Thể chế quản lý vẫn chưa tạo ra được sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Hiện nay vẫn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Nhà nước với các đối thủ cạnh tranh thuộc thành phần kinh tế khác. Thực tế là giữa chính sách của mọi doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật và thực tiễn còn có khoảng cách, ngay ở khuôn khổ pháp luật vẫn còn có sự phân biệt đói xử giữa các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Bên cạnh đó là sự mặc cảm của xã hội đối với những người làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh và sự kỳ thị của một số công chức đối với khu vực kinh tế dân doanh. Điều đó thể hiện rõ ở tần suất thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp dân doanh lớn nhiều hơn số với doanh nghiệp Nhà nước. Thứ ba : Công tác tuyên triển về đa dạng hoá sở hữu một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều hạn chế. Một số giám đốc doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn nhận thức giám đốc doanh nghiệp là một chức vụ vô cùng với nó là “vị ngọt” của quyền lợi, “hương thơm” của quyền lực, họ vẫn ỉ lại vào Nhà nước, chưa nhận thức được đầy đủ trách nhiệm của một giám đốc đối với doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường đã khúc xạ thời kỳ bao cấp trước đây. Thứ tư :Tiềm lực tự đổi mới công nghệ của Nhà nước ta rất thấp, phần GDP cho nghiên cứu rất ít và lại chủ yếu chi cùng cho những lĩnh vực lý thuyết, ít tính ứng dụng. Chiến dịch chuyển giao công nghệ chưa nhận thức đúng để vạch ra và thực hiện một cách cương quyết. Dẫn đến chiến lược đầu tư thể hiện khá nhiều sai lầm. Nền kinh tế chưa hình thành các ngành mũi nhọn đủ sức nâng cao doanh nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung rời bệ phóng để cất cánh. Ngoài ra, bộ phận quản lý của doanh nghiệp Nhà nước còn rất bỡ ngỡ việc cung cách làm ăn thị trường, cạnh tranh khốc liệt, do vậy nhiều khi còn bị lừa gạt. Ngoài ra tệ nạn tham ô, tham nhũng có xu hướng tăng trưởng nền kinh tế cũng là một trong những căn nguyên làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. III. Giải pháp. 1. Một số phương pháp tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Trong những năm qua phải nhận thấy rằng quá trình cải tổ chủ yếu mang nặng tính chất hành chính, gấy sức ép từ trên xuống thông qua các chủ trương, kế hoạch cải cách lớn của Chính phủ. Do vậy những thành tựu thu được chủ yếu do tháo bỏ những ràng buộc vô lý để cho các quan hệ kinh tế tự nó phát triển theo quy luật nhằm tận dụng hết những nguồn lực dự trữ bề nổi mà xã hội hiện có. Quan hệ thị trường mới khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước khai thác nguồn lực theo chiều rộng, theo bề nổi, còn những yếu tố chiều sâu công nghệ tiên tiến chưa sử dụng được là bao mà những yếu tốt này lại là lực lượng sản xuất quan trọng nhất của nền kinh tế hiện đại, để khơi dậy sức sống cho lao động sáng tạo, tài năng cần tiếp tục đổi mới sâu sắc hơn nữa cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước. + Trước hết là mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước về các mặt tài chính và các lĩnh vực hoạt động. Chúng ta không thể giữ mãi cơ chế coi doanh nghiệp Nhà nước như một hạng mục doanh nghiệp đặc biệt được hưởng cơ chế ưu đãi riêng so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đã là doanh nghiệp, với tư cách là một pháp nhân tài sản độc lập, doanh nghiệp Nhà nước cũng phải hoạt động theo cơ chế thị trường như mọi doanh nghiệp khác. Trong cơ chế thị trường, mục tiêu của bất cứ doanh nghiệp nào cũng bao gồm một nội dung kép : Là lợi nhuận tối đa cho chủ sở hữu và thu nhập cao cho người đóng góp vào hoạt động của Công ty. Khi chủ sở hữu quản lý trực tiếp doanh nghiệp thì xu hướng chủ đạo trong điều hành là giảm đến mức tối đa thu nhập của người làm công với tư cách giảm chi phí để tăng tối đa lợi nhuận thu về. Còn khi người làm thuê trực tiếp quản lý doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp Nhà nước, thì họ lại có xu hướng nâng cao tiền lương, coi đó như phần thưởng hợp pháp của những người lao động nhằm khuyến khích họ làm việc tốt. Mâu thuẫn giữa hai xu hướng này chưa phải đã hết trong sở hữu Nhà nước bởi vì thu nhập qua lương người lao động được quyền chi phối trực tiếp, còn thu thập qua phân phối lại từ ngân sách nhà nước vừa khó kiểm soát vừa không cảm nhận một cách thiết thân. Do vậy khi chuyển sang cơ chế thị trường, sự tách bạch công khai tài chính doanh nghiệp Nhà nước và tài chính công là hết sức cần thiết. Nhưng cơ chế tách bạch đó như thế nào. Hiện tại các doanh nghiệp Nhà nước vẫn hoạt động theo cơ chế giao vốn và nhà nước và nhà nước giao nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Song cơ chế quản lý theo kiểu giao vốn đã ít nhiều bộc lộ khiếm khuyết. Trong nền kinh tế hiện đại có hai cách quản lý vốn có hiệu quả : Đó là cơ chế kinh doanh vốn như công ty tài chính và cơ chế uỷ quyền trực tiếp cho các cá nhân tin cậy. Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể dùng chế độ tham dự – công cụ chủ yếu để đầu tư vốn của các công ty tàu chính hiện đại, để kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp khác. Chế độ tham dự chỉ thích hợp với công ty cổ phần. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng cặp đôi : Công ty tài chính Nhà nước và công ty cổ phần là xu hướng chủ đạo để giải quyết sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp không phải là công ty cổ phần cần chế độ uỷ quyền cá nhân. Những cá nhân thay mặt Nhà nước trong doanh nghiệp phải là những công chức đặc biệt : Vừa trung thành tuyệt đối với lợi ích Nhà nước, vừa phải có tài tổ chức quản lý và kinh doanh. Họ là những vị tướng trên chiến trường có quyền rất rộng rãi vì lợi ích của Nhà nước. Do vậy cơ chế tuyển dụng, đào tạo, đãi ngộ phải được lựa chọn và thực thi nhằm thực hiện mục tiêu đó. Với những doanh nghiệp Nhà nước phải uỷ quyền cho cá nhân thì từng cá nhân này phải được lựa chọn đặc biệt. + Thứ hai là mối quan hệ giữa doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Hiện tại khu vực doanh nghiệp Nhà nước vẫn mang tính biệt lập do các doanh nghiệp Nhà nước còn được hưởng nhiều ưu đãi của nhà nước cũng như chế độ đối đãi của Nhà nước đối với cán bộ quản lý và lao động trong các doanh nghiệp này. Cho đến nay doanh nghiệp Nhà nước vẫn hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước mà thực tế cho thấy chứa đựng nhiều bất hợp lý cần thay đổi. Ví dụ công ty cổ phần 51% sở hữu nhà nước hoạt động theo luật nào trong luật DNNN và luật doanh nghiệp. Quan điểm cho thấy cần phải chuyển các doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo một luật chung với các doanh nghiệp khacs đã được nhiều người nhất trí. Song vấn đề chuyển DNNN sang hoạt động theo luật doanh nghiệp như thế nào ? Với doanh nghiệp đã là công ty cổ phần thì đơn giản. Song còn các loại hình DNNN khác thì sao ? Nghị quyết Hội nghị trung ương 4 ( khoá VIII) và luật doanh nghiệp đã chuẩn bị cho bước chuyển này bằng hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ xong có một vài khía cạnh cần xem . Thứ nhất, dù hoạt động theo luật doanh nghiệp, DNNN vẫn cần có một cơ chế kiểm soát tài chính thống nhất. Riêng về lĩnh vực này thì Nhà nước cũng phải có một khung pháp lý rõ ràng quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp với nhà nước với tư cách chủ sở hữu. Do đó, rất nên xây dựng thành một quy chế chung để tránh sự tuỳ tiện tạo điều kiện cho tham nhũng. Thứ hai, vẫn cần có tổ chức hoặc cá nhân tin tưởng kiểm tra giảm sát hoạt động kinh doanh của DNNN nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước trong quan hệ với lợi ích doanh nghiệp. Tổ chức đó chính là Hội đồng quản trị mà nòng cốt phải là các cá nhân được Nhà nước uỷ quyền và tin tưởng. Chính ở điểm này chúng ta cần thấy vấn đề con người đặc biệt quan trọng để vận hành đúng mục đích đầu tư vốn dưới hình thức sở hữu nhà nước. Nếu chúng ta không bồi dưỡng, đào tạo, sàng lọc để có được những con người đó trong tay thì triển vọng sở hữu Nhà nước trở thành vô chủ sẽ không tránh khỏi. Thứ ba, để DNNN chứng tỏ tính ưu việt của mình nhằm dần dần trở thành nền tảng của chế độ kinh tế mới, ngoài yếu tố cán bộ quản lý, phải khơi dậy được sức mạnh của người lao động không phải theo ý nghĩa chỗ làm việc an toàn mà bằng cách gắn lợi ích của từng người lao động vào doanh nghiệp cũng như khuyến khích các tổ chức xã hội độc lập của họ như hội nghành nghề, tổ chức Đảng, thanh niên, phụ nữ, công đoàn….Đây là lĩnh vực rất phức tạp. Một mặt chúng ta không thể kỳ vọng quá nhiều vào việc người lao động bao giờ cũng là những cổ đông thiểu số, do đó tự thân mỗi người sẽ có ít ảnh hưởng đến kiểm soát các quyết sách của doanh nghiệp. Mặt khác nếu không phát huy được khả năng lao động sáng tạo tự nguyện của người lao động thì tinhs XHCN trong các DNNN bằng không. Để những người lao động làm việc theo tư thế người xã hội chủ nghĩa và đó chính là một trong những tính ưu việt của DNNN, cần phải tổ chức hoạt động của các đoàn thể xã hội. Công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ…cần phải tách khỏi quyền lực của cán bộ quản lý doanh nghiệp để trở thành lực lượng phản biện tích cực cho những quyết sách của cán bộ quản lý. Muốn được như thế một mặt kinh phí cho các đoàn thể này hoạt động phải tách khỏi chế độ lương bổng chung của doanh nghiệp (bằng cách hội viên đóng góp hoặc ngân sách phân bổ theo ngành dọc), mặt khác có thể tận dụng vị thế uỷ thác của các cổ đông, vai trò đại diện trong hội đồng quản trị, ban kiểm soát để vừa giám sát được hoạt động của giới quản lý vừa tạo được bầu không khí nhất trí nỗ lực cho mục tiêu chung của doanh nghiệp. + Thứ ba là những vấn đề khó khăn hiện tại của DNNN cần phải được phân loại và đậy mạnh các giải pháp khắc phục. Một là vấn đề nợ : Tỷ lệ nợ của các doanh nghiệp nhà nước so với thế giới chưa phải là cao thể hiện khả năng sử dụng đòn bẩy tài chính còn ở mức thấp. Song vấn đề thanh toán lại cực kỳ khó khăn. Như trên đã phân tích, chính sách khấu hao, chính sách thuế, các nghĩa vụ xã hội mà nhà nước giao cho DNNN thời gian trước đây đã buộc doanh nghiệp chi dùng cả vốn của mình. Do vậy cũng nên áp dụng cách xử lý của nền kinh tế hiện đại trên hai hướng chính : 1) Cơ quan pháp luật (toà án) cưỡng chế các bên nợ phải trả cho chủ nợ theo đúng cam kết. 2) Nếu không thể trả nợ, rất cần thiết phải tuyên bố vỡ nợ, phá sản để thanh lý doanh nghiệp cho những mục tiêu khác. Nếu không kiên quyết trong vấn đề phá sản những doanh nghiệp hết lý do tồn tại mà thay vào đó lại bơm vốn, bơm trợ cấp vào đó vô hình chung tạo nên tấm gương xấu cho các doanh nghiệp khác có cớ để lẩn trốn sắp xếp lại. Quan điểm thành lập cơ quan mua bán nợ Nhà nước với tư cách giải pháp hỗ trợ làm trong sạch sổ sách đẩy mạnh cổ phần hoá khả dĩ chỉ nên áp dụng như giải pháp tạm thời. Về lâu dài công ty mua bán nợ cũng phải hoạt động theo cơ chế kinh doanh. Về nguyên tắc nếu tiếp tục xử lý nợ theo kiểu bao cấp trước kia thì sẽ không kích thúch nổi doanh nghiệp nhà nước thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính hiện nay mà lại thêm gánh nặng cho nhà nước. Cho nên xử lý nợ cũng phải theo quan điểm cơ cấu lại, loại bỏ các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả không còn lý do để tồn tại. Hai là vấn đề lao động dư thừa : Theo tinh thần của Luật Lao động và các văn bản có liên quan thì bản thân DNNN không có khả năng giải quyết vấn đề lao động dư thừa do lịch sử để lại nếu không có sự hỗ trợ chính sách từ phía Nhà nước, đặc biệt là quỹ hỗ trợ thất nghiệp. Hiện nay chính sách này cũng chưa được hình thành. Mặt khác cần sự đốc thúc của đại diện sở hữu Nhà nước để giám đốc doanh nghiệp giải quyết vấn đề giảm chi phí bằng cách tổ chức khoa học lao động. Hiện tại các giám đốc không mấy tích cực làm việc này vì đối với họ sức ép tìm kiếm thu nhập cho công nhân viên chức ngang bằng sức ép tìm kiếm lợi nhuận cho Nhà nước. Vả lại còn bao mối quan hệ phức tạp với cấp trên, với các cơ quan chức năng của Nhà nước khiến cho việc giảm biên ché không nhằm vào những người càan giảm. Cho nên cần có nguồn tài chính bù đắp thích đáng cho người lao động dư thừa xin thôi việc tự nguyện. Bộ phận dư thừa không tự nguyện có thể hưởng trợ cấp thất nghiệp chờ việc hoặc đào tạo đón đầu những ngành mới. Những người không chấp nhận cả hai hình thức này mà quả thật không thích hợp với nhiệm vụ mới có lẽ cần cưỡng bức sa thải có đền bù, đồng thời sửa đổi luật lao động, tìm hướng cho DNNN trong tương lai có thể tự giải quyết được vấn đề lao động dư thừa do công nghệ. Ba là chuyển giao công nghệ và chiến lược đầu tư : Phải khẳng định rằng chuyển giao công nghệ vẫn là vấn đề sống còn của DNNN nếu muốn tồn tại có hiệu quả. Chúng ta không thể hy vọng doanh nghiệp làm từ A đến Z trong lĩnh vực đổi mới công nghệ. Do vậy con đường cải tiến và sử dụng công nghệ chuyển giao từ các nước khác là con đường hiệu quả và ngắn nhất cho hiện đại hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên từng DNNN sẽ không thể thực hiện thành công chuyển giao công nghệ ở trình độ mong. ở đây Nhà nước, nhất là các bộ ngoại giao và các bộ chuyên ngành phải tạo điều kiện bằng công tác thông tinh chính xác nhanh nhạy kết hợp tình báo kinh tế để thu nhập bằng được, dù phải trả giá cao những công nghệ tiên tiến nhất vào nền kinh tế nhằm tạo ra các ngành mũi nhọn đẩy bật nền kinh tế tiến nhanh về phía trước. Ngoài ra cần kiểm soát nghiêm ngặt quá trình nhập khẩu công nghệ nhằm ngăn chặn xu hướng biến nước ta thành kho phế thải. Từ chiến lược công nghệ đúng đắn sẽ định hướng cho chiến lược đầu tư. Vì thế đầu tư mới ở doanh nghiệp Nhà nước có xu hướng rải mành mành, hiệu quả chưa cao. Đã đến lúc cần có một chiến lược đầu tư đủ sức cải tổ và khơi dậy những yếu tố chiều sâu của nền kinh tế. Chính vì thế công tác sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước cần phải kết thúc thật khẩn trương tạo tiền đề cho tính toán đầu tư lâu dài của DNNN. 2. Những giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. a. Những biểu hiện về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước Qua 15 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trên mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội, đối ngoại và an ninh quốc phòng, đã chuyển từng bước vững chắc từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các doanh nghiệp (DN) đã tích cực thực hiện và đóng góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và những thành tựu về kinh tế. Tuy đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực, song như báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhận định “nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp”. Điều này thể hiện : Một là, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp. Diễn đàn kinh tế thế giới (WAP) đã đưa ra 8 nhân tố chính hình thành nên tính cạnh tranh của nền kinh tế mỗi quốc gia. Đó là : (1) Độ mở cửa : Thuế quan và các hàng rào tiềm ấn cản trở nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu, tỷ giá hối đoái. (2) Chính phủ : Mức độ can thiệp của Nhà nước, năng lực và quy mô chính phủ, chính sách thuế khoá và các mức thuế, gánh nặng về thuế và mức độ trốn lậu thuế. (3) Tài chính : Phạm vi làm trung gian, hiệu và cạnh tranh, tiết kiệm và đầu tư, độ rủi ro tài chính. (4) Kết cấu hạ tầng : Điện thoại giao thông và các chỗ hỗ trợ kết cấu hạ tầng khác. (5) Công nghệ : Năng lực phát triển công nghệ trong nước, công nghệ thông qua FDI hoặc chuyển giao của nước ngoài. (6) Quản trị : Những yếu tố không liên quan đến nhân lực, quản lý nguồn nhân lực. (7) Lao động : Kỹ năng tay nghề và năng suất, tính linh hoạt trong điều kiện hiệu quả của các chương trình xã hội, quan hệ lao động theo ngành. (8) Thể chế : Các chỉ số cạnh tranh, chất lượng thể chế pháp luật, hiệu năng của cảnh sát về phòng chống tội phạm có tổ chức. Dựa vào 8 chỉ tiêu này, WEF đã đánh giá năng lực cạnh tranh của một số nền kinh tế quốc gia trên thế giới, qua đó WEF đưa ra kết luận năm 1997 Việt Nam xếp thứ 49/53, năm 1998 xếp thứ 39/53, năm 1999 xếp thứ 48/53. Sở dĩ năm 1998 chúng ta nhích lên cao vì một số nước trải qua khủng hoảng kinh tế – tài chính nghiêm trọng. Năm 2000, WEF tiến hành khảo sát đánh giá 59 nước thì Việt Nam xếp thứ 49/59. Như vậy trong mấy năm qua năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta chưa được cải thiện theo xếp hạng của WEF. Ngoài ra, chỉ tiêu GDP bình quân đầu người cũng phản ánh sức cạnh tranh của quốc gia trên thị trường thế giới. GDP bình quân đầu người càng cao thì sức cạnh tranh càng lớn. Theo số liệu tính toán và công bố của Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) thì GDP bình quân đầu người năm 1998 như sau : Việt Nam 320 USD, In – do – ne – xi –a 540 USD, Philippin 887 USD , Thái Lan 850 USD, Trung Quốc 780 USD. Như vậy so với một số nước ở ngay trong khu vực thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp. Cũng theo tính toán của ADB, tốc độ tăng GDP bình quân đầu người hàng năm thời kỳ 1991 –2000 của các nước trên là : Việt Nam 4,9%/năm, In – do – ne – xi –a 2,1%/năm, Philippin 0,4%/năm, Thái Lan 2,9%/năm, Trung Quốc 8,8%/năm và nếu cứ giữ tốc độ tăng trưởng như trên thì để Việt Nam đuổi kịp In- do – ne – xi –a, phải mất 18 –19 năm, kịp Philippin 21 –22 năm, kịp Thái Lan 90 –91 năm, còn khoảng cách giữa nước ta với Trung Quốc sẽ ngày càng giãn rộng ra hơn. Vậy không nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm thúc đẩy kinh tế thì việc tụt hậu xa hơn về kinh tế là khó tránh khỏi. Hai là, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế, thể hiện ở : (1) Công nghệ vừa thiếu vừa lạc hậu (2) Trình độ chuyên môn và nghiệp vụ, trình độ quản lý còn yếu. (3) Năng suất lao động thấp; (4) Chất lượng sản phẩm chưa cao và giá thành sản phẩm chưa hợp lý; (5) Thị trường đầu vào chưa ổn định thiếu bền vững Trong xu thế tất yếu của hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế thì muốn tồn tại và phát triển các doanh nghiệp Việt Nam không những phải đủ sức cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước mà phải đủ sức cạnh tranh quốc tế. Muốn vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận luật chơi quốc tế chủ yếu dựa trên các quy luật của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là động lực bên trong thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng, đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng. b. Một số giải pháp chính để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước Như đã phân tích ở trên, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp Nhà nước là công việc vừa bức xúc, vừa lâu dài, là nhiệm vụ trọng tâm chỉ đạo, điều hành của chính phủ và sự phấn đấu, nỗ lực của cán bộ, các ngành và của chính bản thân các doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của doanh nghiệp nhà nước, cần phải thực hiện hệ thống các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Các giải pháp cần tập trung vào cải thiện môi trường vĩ mô theo 8 chỉ tiêu của WEF và giải toả được 5 hạn chế nêu trên của doanh nghiệp. Một số giải pháp chính có thể áp dụng là : Thứ nhất, phải tạo lập môi trường thông thoáng, cạnh tranh bình đẳng. Một số chính sách kinh tế của ta còn thiếu tính rõ ràng và hệ thống pháp luật hay thay đổi, do vậy cần hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế theo hướng minh bạch, ổn định, phù hợp dần với thông lệ khu vực và thế giới, đồng thời chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai thực hiện tránh tình trạng “trên thông, giữa thắt, dưới bóp” nhằm tạo môi trường cho tự do kinh doanh trên một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trước hết, phải kiên quyết chống độc quyền và bán phá giá. Chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái, chính sách giá, chính sách đất đai, chính sách tín dụng, chính sách thuế…phải bình đẳng. Cần tách biệt chính sách kinh tế với chính sách xã hội theo hướng Nhà nước dùng các công cụ kinh tế là chủ yếu để điều tiết kinh tế, thu nhập từ đó phục vụ cho chính sách xã hội của Nhà nước… Thứ hai, phát huy những lợi thế được. Trên thực tế các doanh nghiệp Nhà nước vẫn có nhiều ưu thế hơn hẳn về đất đai và tín dụng… so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thời gian tới, cần xác định rõ doanh nghiệp công ích và các sản phẩm, dịch vụ công ích để có cơ chế hoạt động, quản lý riêng. Tiến tới các doanh nghiệp kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều hoạt động theo một luật chung nhằm phát huy triệt để lợi thế so sánh và nội lực của mỗi thành phần kinh tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam. Xây dựng cơ chế kinh tế hợp lý theo hướng phát huy các lợi thế so sánh của quốc gia, đi đôivới đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Đồng thời tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước bằng các công cụ kinh tế nhằm phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực của cơ chế thị trường để tiến tới hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế nói chung và của doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. 15 năm đổi mới, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý của người lao động đã được nâng lên một bước, song vẫn còn rất hạn chế, chưa ngang tầm với đòi hỏi của phát triển nền kinh tế thị trường theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, Theo bộ tài chính thì ngay các giám đốc các DNNN (năm 2000 có tới 67% không biết đọc báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp. Vậy làm sao để họ có thể quản lý và sử dụng đồng vốn có hiệu quả được, hơn nữa đa số lại được đào tạo từ thời kỳ nền kinh tế ké hoạch hoá tập trung, bao cấp nên không ít giám đốc vẫn còn tư tưởng dựa dẫm vào “bầu sữa” của Nhà nước. Vậy, cần phải cải tiến quy trình và tiêu chuẩn bổ nhiệm giám đốc DNNN, cần xác định rằng giám đốc doanh nghiệp không chỉ là một chức, mà còn là một nghề phải có trình độ chuyên môn sâu và năng lực tổ chức tốt. Nhiều giám đốc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhất là các doanh nghiệp loại hình vừa và nhỏ trình độ văn hoá còn chưa hết phổ thông, đây có lẽ cũng là nguyên nhân dẫn đến đa số các vụ án kinh tế lớn vừa qua đều rơi vào các giám đốc có trình độ thấp này. Cần có tiêu thức để công nhận giám đốc các doanh nghiệp dân doanh. Cùng với việc đổi mới hệ thống giáo dục - đào tạo và với chính sách hỗ trợ tích cực cho đào tạo nguồn nhân lực của Nhà nước, các doanh nghiệp cần phải có chiến lược đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động, làm cho việc học tập, nhất là tự học là công việc suốt đời của mỗi người để có tri thức thực sự mà trước hết phải làm chủ được công việc thuộc lĩnh vực công tác được giao. Các Mác đã chỉ ra rằng con người là nhân tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất và suy cho cùng mọi thành công hay thất bại đều do con người tạo ra. Hiện nay, các nhà kinh tế hàng đầu thế giới cũng đánh giá rất cao nhân tố con người, trên cơ sở nghiên cứu về mọi loại hình doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, giáo sư Cô-pen-man, giảng dạy ở trường quản lý kinh doanh Niu-oóc, đã kết luận sự thành công của mọi loại hình doanh nghiệp dựa trên ba yếu tố chính là : 1. Sự thoả mãn của người ld11 trong doanh nghiệp về vật chất, tinh thần như tiền lương và nhu cầu phát triển nghề nghiệp ; 2. Sự thoả mãn của khách khi mua hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp; 3. Hiệu quả sử dụng vốn và các nguồn lực khác của doanh nghiệp. Mô hình quản lý kinh tế này được đánh giá rất cao ở các nước kinh tế phát triển, nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng vào quản lý và mang lại hiệu quả thiết thực. Theo họ, khi doanh nghiệp đối xử với người lao động như thế nào thì người lao động sẽ đối xử với khách hàng như vậy. Do đó công tác quản trị, nhân sự của doanh nghiệp có tốt thì mới thu hút được nhân tài, người lao động mới trung thành, tận tâm, tận lực với doanh nghiệp của mình. Nó là động lực bên trong, sức mạnh nội lực thúc đẩy nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Thứ tư, doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược sản phẩm -kinh doanh thích hợp như : chiến lược phát triển khoa học công nghệ, chiến lược mặt hàng, chiến lược thị trường… trong điều kiện có sự cạnh tranh của các đối thủ khác trên thương trường. Từ đó có hướng đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ phù hợp để nâng cao chất lượng hàng hoá một cách tối ưu, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm… Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học công nghệ, tại điều 38 Luật khoa học và Công nghệ đã được kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá X thông qua ngày 9/6/2000 đã nêu rõ : “Doanh nghiệp được trích một phần vốn để đầu tư phát triển khoa học và công nghệ nhằm đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Vốn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp được tính vào giá thành sản phẩm ; doanh nghiệp được lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ để chủ động đầu tư phát triển khoa học công nghệ; doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu những vấn đề khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước được xét tài trợ một phần kinh phí nghiên cứu” và được vay vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ. Đây là lần đầu tiên hoạt động khoa học công nghệ của các doanh nghiệp được thể chế hoá cao. Do vậy cần phải triển khai luật khoa học và công nghệ để luật này đi vào cuộc sống, góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp mà trước hết là các doanh nghiệp lớn, mũi nhọn có cơ sở để đổi mới công nghệ rút ngắn dần khoảng cách so với các nước phát triển tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh và năng lực sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Với công nghệ hiện đại cùng với đội ngũ lao động làm chủ được các công nghệ đó và có cơ chế quản lý thích ứng nhất định các doanh nghiệp sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Đồng thời đây cũng là tiền đề để hình thành và hoạt động của thị trường khoa học và công nghệ ở nước ta. Thứ năm, phát huy vai trò tích cực của các hiệp hội doanh nghiệp trong thu nhập và cung cấp thông tin, mở rộng và tìm kiếm thị trường mới cho doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh theo hướng xuyên quốc gia. Tăng cường sự liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp để có tiếng nói chung trên thương trường, hạn chế bị các đối tác nước ngoài ép cấp, ép giá. Khuyến khích các hiệp hội doanh nghiệp thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro theo ngành hàng…. Kết luận Có thể nói phát triển kinh tế được coi là nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia. Quốc gia nào cũng mong muốn có một nền kinh tế giàu mạnh, phát triển tiên tiến, hiện đại để khỏi bị tụt hậu so với bạn bè thế giới. Kinh tế nhà nước và vai trò của nó là yếu tố rất quan trọng cho sự phát triển của đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước ta hiện nay trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế tiếp tục đổi mới theo xu hướng : Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta tập trung phát triển kinh tế thị trường không phải đi theo chủ nghĩa tư bản một xã hội đầy dẫy những bất công mà phát triển theo kinh tế thị trường đi theo CNXH – một xã hội không có áp bức, bất công, một xã hội trong đó mọi người dân làm chủ, làm theo năng lực hưởng theo lao động. Do đó để bảo đảm cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng và phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa – một nền kinh tế gồm có nhiều thành phần kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, tránh đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cuối đề án em xin chân thành cảm ơn thầy Mai Hữu Thực đã hương dẫn nhiệt tình để em hoàn thành đề án này. Em xin cảm ơn Trung tâm thư viện trường ĐHKTQD đã cung cấp những tư liệu để em hoàn thành đề án này. Mục lục 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34600.doc
Tài liệu liên quan