Đề án Mô hình tập đoàn kinh tế của Hàn Quốc và bài học về chính sách phát triển tập đoàn kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập

Từ thập niên 70 Chaebol đã trở thành đặc sản của nền kinh tế Hàn Quốc. Với vai trò đầu tàu Chaebol đã kéo cả nền kinh tế thành công, góp công lớn trong sự phát triển kỳ diệu của Hàn Quốc mà người ta gọi là “thần kỳ sông Hàn”. Không thể phủ nhận những ưu điểm của mô hình này cộng với những thuận lợi vào thời điểm mô hình áp dụng đã đưa kinh tế Hàn Quốc bước sang một thời kì mới. Nhưng không có mô hình nào là hoàn hảo, Chaebol cũng vậy. Bản thân nó còn tồn tại nhiều nhược điểm đòi hỏi phải có thời gian và biện pháp phù hợp. Người ta đã từng đặt câu hỏi có nên xóa bỏ hẳn Chaebol trong đời sống kinh tế của Hàn Quốc, câu trả lời là không thể vì vai trò và ảnh hưởng quá quan trọng của nó trong nền kinh tế và trong chính nhận thức của người dân Hàn. Người ta chỉ có thể tìm ra những biện pháp khắc phục những điểm yếu của nó và hạn chế những căn bệnh được coi là cố hữu của mô hình này. Các tập đoàn kinh tế cảu Việt Nam ra đời và phát triển xuất phát từ yêu cầu phát triển nền kinh tế quốc gia và cũng phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Qua nghiên cứu phân tích có thể thấy các tập đoàn kinh tế Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với tập đoàn kinh tế của Hàn Quốc. Bài viết này đã tổng kết những kinh nghiệm thành công, rút ra những hạn chế cần khắc phục của mô hình TĐKT ở Hàn Quốc và đưa ra một vài so sánh giữa mô hình TĐKT giữa hai nước nhằm mục đích giúp Việt Nam có định hướng và biện pháp phát triển các TĐKT trong nền kinh tế hiện đại xứng đáng với tầm vóc và kỳ vọng của nó.

doc83 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2015 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Mô hình tập đoàn kinh tế của Hàn Quốc và bài học về chính sách phát triển tập đoàn kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hệ giữa các Chaebol và Chính phủ là khá chặt chẽ. Ở Việt Nam cũng vậy, mục đích của Chính phủ khi thành lập các Tổng công ty và sau đó phát triển lên tập đoàn kinh tế cũng nhằm mục tiêu là tạo ra một động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế. Các TĐKT ở Việt Nam được xây dựng theo mô hình công ty mẹ- công ty con, mà trong đó các công ty mẹ đều là công ty Nhà nước. Thực tế cũng cho thấy phần vốn Nhà nước trong các tập đoàn hiện nay còn quá lớn và đang nắm phần chi phối. Công ty mẹ, đại diện cho phần vốn của Nhà nước ở tập đoàn, đương nhiên có quyền chi phối mạnh các hoạt động của tập đoàn, dẫn đến việc lặp lại tình trạng của các Tổng công ty trước đây. Một điểm tương đồng khác với các Chaebol Hàn Quốc là các TĐKT ở Việt Nam nhận được rất nhiều sự ưu đãi từ Chính phủ. Số liệu thống kê cho thấy cả nước hiện có khoảng 3.000 DNNN các loại, đang nắm giữ 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư của Nhà nước, 70% tổng vốn vay các ngân hàng nước ngoài và gần 60% tổng lượng vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại Nhà nước... Thế nhưng, hằng năm khối DNNN chỉ đóng góp 40% thu nhập trong GDP của cả nước. Điều đó cho thấy DNNN có tiềm lực lớn, được ưu đãi nhiều, đầu tư lớn từ phía Nhà nước; và chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2008, 76 Tập đoàn và Tổng công ty được giao hơn 403.000 tỷ đồng và được vay thêm hơn 514.000 tỷ đồng và chiếm đến 50% tổng vốn đầu tư nhà nước. Tuy nhiên hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh lại không cao. Hai là: giống như các Chaebol Hàn Quốc thì các TĐKT ở Việt Nam cũng đang thực hiện đa dạng hóa đặc biệt là đa dạng hóa đầu tư Trong nền kinh tế hiện đại, đa dạng hóa đầu tư sẽ tiếp tục trở thành xu hướng phát triển ngày càng đậm nét của các tập đoàn kinh tế ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tại Việt Nam, tập đoàn Bưu chính Viễn thông (VNPT), ngoài các sản phẩm, dịch vụ liên quan tới viễn thông và công nghệ thông tin, còn mở rộng sang các lĩnh vực khác như dịch vụ quảng cáo, kinh doanh bất động sản, cho thuê văn phòng. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) ngoài lĩnh vực hoạt động truyền thống là sản xuất kinh doanh điện năng, viễn thông công cộng và cơ khí điện lực, còn đầu tư mở rộng sang lĩnh vực bất động sản, tài chính - ngân hàng. Tập đoàn Cao su Việt Nam (VRG) cũng không chịu bó khuôn trong lĩnh vực cao su, mà còn nhảy sang ngành cơ khí, quản lý khai thác cảng biển, vận tải, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ khách sạn, du lịch nội địa, quốc tế. Tập đoàn Vinashin ngoài lĩnh vực chính của mình, cũng đã đầu tư dịch vụ vận tải biển, thủy điện, tài chính, chế tạo cơ khí... Thực tiễn cho thấy, việc hoạt động đa ngành nghề, lĩnh vực cũng có tính hai mặt của nó: Một mặt, nếu doanh nghiệp đi đúng hướng và đầu tư thành công sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao vị thế và đạt được những mục tiêu mới; mặt khác, nếu “chệch hướng” hoặc đầu tư không hiệu quả có thể làm suy sụp hình ảnh của doanh nghiệp, thậm chí đánh mất thương hiệu và gây ra những thiệt hại to lớn khó lường cho doanh nghiệp. Mặt trái của đa dạng hóa đầu tư là khi doanh nghiệp đầu tư đa ngành, đa nghề thì ít nhiều sẽ đánh mất lợi thế so sánh của mình trong lĩnh vực chính, rất dễ mắc sai lầm do sự phân tán các nguồn lực và thiếu kinh nghiệm của bộ máy quản lý và cả do thiếu cập nhật thông tin. Thực tế cho thấy rằng khi các tập đoàn đẩu tư đa ngành dẫn tới đầu tư cho các ngành cốt yếu sẽ bị hạn chế. Khi nguồn lực bị hạn chế, nó không chỉ là nguồn lực tài chính, nó còn là đội ngũ, là con người. Nếu nguồn lực quá phân tán, người đóng tàu thì đi làm hàng không, người hàng không lại đi làm khách sạn, người làm dầu khí thì đi làm bất động sản về lâu dài chắc chắn sẽ không ổn định. Bởi lẽ nếu chuyên về dầu khí vì không ai giỏi hơn những người làm về cái đó. Họ có đội ngũ, có thế mạnh kinh nghiệm. Nếu họ đi làm cái khác thì có lợi không? Thay vào đó tập trung chuyên vào lĩnh vực của mình, hoặc tăng quy mô sản xuất lên rồi đi đầu tư ra bên ngoài nhưng chỉ với lĩnh vực đó. Đây là bài toán về lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế. Nếu bài toán này không được tính kỹ thì về dài hạn là không ổn. Thêm vào đó, các TĐKT Nhà nước được giao nắm giữ trọng trách những ngành huyết mạch của nền kinh tế, đòi hỏi họ không được xao nhãng ngành nghề kinh doanh cốt lõi của mình. Đề cập đến vấn đề này, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng phát biểu trên báo chí, sự bành trướng của các TĐKT Nhà nước sang mọi lĩnh vực kinh doanh khác vừa đi ngược chủ trương “Nhà nước và DNNN sẽ tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân”, vừa phân tán lực lượng và sức cạnh tranh của DNNN, vừa không giải phóng được những nguồn lực do các DNNN nắm giữ mà không sử dụng có hiệu quả, vừa thêm khó cho Nhà nước trong việc kiểm soát các TĐ này. Việc kiểm soát vốn đưa vào hoạt động đa lĩnh vực là rất phức tạp, nếu làm không tốt thì sự thất thoát, lãng phí và khả năng đổ vỡ tài chính là những nguy cơ có thực. Đặc biệt, cần thấy rằng, với khả năng tài chính có hạn của mình, việc đầu tư vốn dàn trải sẽ buộc doanh nghiệp phải tìm đến nguồn vay mới với những điều khoản thương mại ngặt nghèo, dễ đưa họ sa vào chiếc bẫy nợ nần. Hơn nữa, sự đa dạng hóa đầu tư của các DNNN còn trực tiếp góp phần làm tăng áp lực lạm phát ở Việt Nam. 4.2.2. Những khác biệt giữa tập đoàn kinh tế của Việt Nam và Chaebol của Hàn Quốc Theo Viện trưởng viện nghiên cứu quản lí kinh tế Trung ương cho biết: thời điểm năm 1994 khi Thủ tướng Chính phủ ký quyết định 91 thành lập 18 Tổng công ty là đã có ý tưởng muốn phát triển mô hình tập đoàn của Việt Nam giống như mô hình tập đoàn kinh tế Chaebol của Hàn Quốc. Nhưng lúc đó xét về quy mô, vốn, tổ chức thì chưa cho phép phát triển lên mô hình tập đoàn. Đến nay có những ý kiến cho rằng Việt Nam không thể áp dụng mô hình Chaebol của Hàn Quốc, nguyên nhân có thể xuất phát từ những sự khác biệt được trình bày dưới đây: Thứ nhất, sự khác biệt trong việc lựa chọn mô hình tập đoàn. Việc lựa chọn mô hình tổ chức cho TĐKT ở Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chí phù hợp với chiến lược sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp của Chính phủ, mà trọng tâm là cổ phần hóa doanh nghiệp, phù hợp với định hướng XHCN và phù hợp với chiến lược phát triển ngành nghề chính của tập đoàn. Trong điều kiện đó việc lựa chọn mô hình tổ chức công ty mẹ - công ty con ở các tập đoàn Việt Nam hiện nay là hợp lý. Sở dĩ như vậy vì công ty mẹ và tập đoàn có thể có bộ máy điều hành quản lý chung nhưng công ty mẹ là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, còn tập đoàn không có tư cách pháp nhân. Công ty mẹ hoạt động theo Luật doanh nghiệp hoặc Luật Đầu tư nước ngoài, còn tập đoàn là một tổ chức doanh nghiệp mà cho tới nay ở Việt Nam vẫn không chịu chi phối bởi khung pháp lý riêng biệt nào. Thứ hai, sự khác biệt về điều kiện lịch sử. Các Chaebol của Hàn Quốc được hình thành từ những năm 1950 sau khi Hàn Quốc thoát khỏi sự chiếm đóng của Nhật Bản. Các doanh nhân Hàn khi đó đã nhanh chóng nắm bắt những cơ sơ vật chất mà quân Nhật Bản để lại và bắt đầu có ý tưởng phát triển mô hình tập đoàn. Đây có thể coi là một nguồn lực không thực sự lớn nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thứ ba, điều khác biệt quan trọng nhất giữa mô hình Tổng công ty của Việt Nam với mô hình Chaebol của Hàn Quốc là, tất cả các Chaebol đều buộc phải trở nên có tính cạnh tranh quốc tế trong vòng một vài năm, rồi sau đó phải xuất khẩu được một tỷ lệ nhất định sản lượng của mình. Mặc dù các Chaebol này được Nhà nước trợ cấp rất nhiều trong thời kỳ đầu, nhưng những khoản trợ cấp này sẽ giảm dần và biến mất hoàn toàn trong những năm sau đó. Ngược lại, các Tổng công ty của Việt Nam được xây dựng để thay thế hàng nhập khẩu, và do vậy luôn nhận được sự bảo hộ và trợ giúp của Chính phủ, ngay cả khi chúng thua lỗ và không thể xuất khẩu. Nói một cách ngắn gọn, có thể coi các Tổng công ty như một hình thức kiểm soát và theo dõi các doanh nghiệp thành viên một cách hành chính. Mô hình Tổng công ty, vì vậy, rất gần gũi với hệ thống kế hoạch hóa tập trung trong đó các doanh nghiệp hầu như không có quyền tự chủ - vốn là một điều kiện tiên quyết để tạo nên một tập đoàn thực thụ. Thứ tư, Hàn Quốc gia nhập WTO vào năm 2005 khi đó các Chaebol đã phát triển mạnh, đã trở thành những trụ cột kinh tế. Rời bỏ sự kiểm soát của Nhà nước với các Chaebol không chỉ là yêu cầu mà nó cũng xuất phát từ mong muốn của chính các Chaebol. Còn trong điều kiện Việt Nam hiện nay đã gia nhập WTO, việc áp dụng mô hình Chaebol lúc đầu đòi hỏi sự can thiệp quá sâu của Chính phủ là hoàn toàn không phù hợp trong bối cảnh hiện nay. 4.2.3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ mô hình Chaebol Hàn Quốc Rõ ràng mô hình Chaebol Hàn Quốc trong bản thân nó còn tồn tại nhiều nhược điểm nhưng đánh giá chung lại mô hình này vẫn có những ưu điểm mà ta có thể học tập để phát triển các TĐKT ở Việt Nam: Một là, lựa chọn mô hình Mô hình tập đoàn kinh tế Chaebol hiện nay đã trở thành đặc trưng của Hàn Quốc. Sở dĩ nó đạt được những thành công đáng ghi nhận bởi thời điểm nó ra đời xuất phát từ yêu cầu thực tế của nền kinh tế. Đưa ra một mô hình với những mục tiêu rõ ràng, chính sách thực hiện sát sao đã đưa nó đến thành công. Cho nên bài học đối với Việt Nam trước hết là phải xác định mô hình tập đoàn rõ ràng và có những biện pháp cụ thể để áp dụng mô hình đó trong thực tiễn. Theo các chuyên gia thì việc lựa chọn mô hình tổ chức công ty mẹ- công ty con ở các tập đoàn hiện nay là hợp lý. Tuy nhiên cơ quan Tổng công ty trước đây với vai trò, nhiệm vụ của mình phải được xây dựng thành nòng cốt của công ty mẹ. Theo các quy định hiện hành của Chính phủ, mô hình tổ chức của các công ty mẹ được lựa chọn theo các hình thức: công ty Nhà nước, công ty TNHH Nhà nước một thành viên, công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ chi phối. Các tập đoàn đã được thành lập đều lựa chọn hình thức công ty mẹ là công ty Nhà nước. Một số lớn các Tổng công ty 91 trước đây là các DNNN hoạt động trên phạm vi cả nước, có nhiều ngành nghề kinh doanh tương đối đa dạng, trong đó, thường có ngành nghề thực hiện một số nhiệm vụ chính trị mà Nhà nước giao như: Điện lực, Than, Dầu khí, Bưu chính- viễn thông… đảm bảo phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, thực hiện các nhiệm vụ công ích trong đầu tư, kinh doanh, đối với cac khu nông thôn, miền núi, hải đảo. Vì vậy trong giai đoạn đầu của các TĐKT, Nhà nước có thể duy trì một vài công ty mẹ loại này theo hình thức công ty Nhà nước. Tuy nhiên nếu TĐKT nào của Việt Nam cũng là do một công ty Nhà nước giữ vai trò công ty mẹ thì hình thức TĐKT sẽ không thể phát huy được hết vai trò của mình trong nền kinh tế, cũng như các hoạt động cạnh tranh sẽ không thực sự bình đẳng so với các thành phần kinh tế khác. Ngoài ra, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hình thức công ty mẹ là công ty Nhà nước sẽ cản trở TĐKT phát triển và đi ngược lại với quan điểm của Nhà nước là đa dạng hóa sở hữu nền kinh tế. Do đó chỉ nên lựa chọn một vài TĐKT có công ty mẹ là công ty Nhà nước khi các tập đoàn đó thực sự nắm giữ các nhiệm vụ liên quan đến quyền lợi chính trị quốc gia, đảm bảo các nền tảng cơ bản để nền kinh tế quốc gia phát triển vững chắc, ít bị tác động mạnh từ bên ngoài. Còn lại các công ty mẹ của các TĐKT khác chỉ nên là các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Hai là, về việc huy động nguồn lực Các Chaebol Hàn Quốc phát triển thành công bên cạnh việc được hưởng những ưu đãi của Chính phủ giành cho họ còn nhờ vào nguồn vốn và công nghệ nước ngoài mà tự bản thân các Chaebol tìm kiếm được. Điều này đã thể hiện được sự năng động của các tập đoàn kinh tế Hàn Quốc trong nỗ lực tìm kiếm nguồn lực phát triển. Đây cũng là mặt mà các tập đoàn của Việt Nam còn kém, còn thụ động quá trông chờ vào Chính phủ. Ba là, về cơ cấu quản lý Cơ cấu quản lý trong các Chaebol hiện nay vẫn là cơ cấu mệnh lệnh thống nhất quyền uy, chính cơ chế này đã dẫn đến tình trạng kém năng động trong hoạt động quản lý và kìm hãm sự phát triển. Ở Việt Nam hiện nay trong các tập đoàn kinh tế quốc doanh vẫn còn tình trạng này do ảnh hưởng của cơ chế quan liêu bao cấp. Nhìn vào những thất bại của mô hình Chaebol trong cách quản lý, Việt Nam nên từng bước xóa bỏ cơ cấu quản lý này. Bốn là, mối quan hệ giữa Chính phủ và các tập đoàn kinh tế Ngay từ khi mới thành lập giữa các Chaebol và Chính phủ đã có sự liên kết vô cùng chặt chẽ. Chính sự liên kết này vô hình chung đã dẫn đến tình trạng tham nhũng của Chủ tịch tập đoàn cũng như của quan chức Chính phủ- vốn là vấn đề đau đầu của Hàn Quốc trong thời gian gần đây. Ở Việt Nam sự lũng đoạn quá mạnh của các tập đoàn kinh tế quốc doanh trên tất cả các lĩnh vực cộng thêm sự can thiệp quá sâu của Chính phủ vào hoạt động của tập đoàn hiện nay sẽ dẫn đến những tiềm ẩn của nguy cơ. Rất nhiều tập đoàn của Việt Nam thì đang giữ vị thế độc quyền, hoặc thống lĩnh thị trường, tức là có thể lũng đoạn thị trường, đặt điều kiện đối với thị trường và áp đảo các đối thủ cạnh tranh khác. Thí dụ như về Hàng không Việt Nam thì rất rõ là các hãng hàng không khác còn rất nhỏ bé. Và ở các lãnh vực khác, thí dụ như dầu khí, than, khoáng sản, thì đấy là những lãnh vực mà Nhà nước đã giao cho các tập đoàn hoàn toàn độc quyền. Trong lãnh vực viễn thông, thì Tập đoàn Bưu chính Viễn thông ( VNPT ) vẫn đang còn có vị thế rất là lớn so với các đơn vị khác như Tổng Công ty Viễn thông Quân đội ( Viettel ), Saigon Postel v.v…Vì vậy các tập đoàn này hoàn toàn có khả năng sử dụng, thậm chí lạm dụng vị thế thống lĩnh của mình để lũng đoạn thị trường; và có rất nhiều ví dụ đã chứng minh điều này. Chẳng hạn như là cuộc tranh chấp giữa VNPT và Viettel là đã phải đưa lên đến Thủ tướng Chính phủ giải quyết. Cho nên vấn đề là các tập đoàn kinh tế Việt Nam hiện nay đang hoạt động không có khung pháp lý nào để giám sát; và các tập đoàn này có tuân thủ luật mà Quốc hội Việt Nam đã ban hành, như Luật Cạnh tranh, Luật Tài nguyên khoáng sản, Luật Môi trường hay không. Bởi vì họ trở nên quá lớn, rất có nguy cơ họ có thể ảnh hưởng đến các quyết định, chính sách, thậm chí gây ảnh hưởng để có thể nhận được rất nhiều đất đai, rất nhiều các ưu đãi khác là hiện thực. Bên cạnh đó, các tập đoàn này được ưu ái. Họ thường xuyên được tháp tùng các vị lãnh đạo của Chính phủ, của Nhà nước đi công tác ở nước ngoài; họ có khả năng tiếp cận các cơ quan lãnh đạo bất kỳ lúc nào, hoặc có tiếng nói có trọng lượng hơn cả ngàn lần so với tiếng nói của các chuyên gia hoặc là những người khác. Do đó khả năng họ có thể chi phối chính sách là hoàn toàn có thực. Năm là, về đào tạo nguồn nhân lực Hầu hết các Chaebol lớn ở Hàn Quốc đều thành lập các trường để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Bên cạnh đó Chaebol còn thực hiện tài trợ cho các trường đại học để thu hút đội ngũ sinh viên giỏi sau khi tốt nghiệp tham gia làm việc ở các tập đoàn. Chính vì cách thức như vậy nên hàng năm các Chaebol không chỉ tự đào tạo được đội ngũ nhân lực cho mình mà còn thu hút được nhân tài từ các trường đại học lớn. Họ không chỉ là những người giỏi tay nghề, tinh thần cầu tiến mà còn được giáo dục cả lòng trung thành. Sáu là, thu hút sự quan tâm và ủng hộ của dư luận Các Chaebol ở Hàn Quốc giành được sự quan tâm từ dân chúng không chỉ bởi tầm ảnh hưởng rộng lớn của nó trong đời sống kinh tế của đất nước mà còn do ảnh hưởng của những kênh thông tin từ phía tập đoàn đưa ra qua báo chí, truyền hình về tình hình hoạt động của tập đoàn, những sự kiện nổi bật. Điều này cũng góp phần nhỏ trong mong muốn minh bạch trong hoạt động của tập đoàn. 4.3. Các TĐKT Việt Nam trước áp lực hội nhập Chính phủ quyết định đôn các Tổng công ty lên trở thành các tập đoàn kinh tế bên cạnh mục tiêu muốn cải cách lại hoạt động của các Tổng công ty vốn rất kém hiệu quả trong một thời gian dài, còn xuất phát từ những lo ngại của Chính phủ là các doanh nghiệp không thể cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là trước sự kiện Việt Nam gia nhập WTO. Đẩy nhanh tiến độ thành lập các tập đoàn kinh tế Nhà nước là việc làm của Chính phủ để các doanh nghiệp Việt Nam có đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên trong bài viết của các giáo sư trường đại học Havard gửi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng có nhiều lý do khiến các tập đoàn Nhà nước này sẽ không thể tự chuyển hóa mình để trở thành những doanh nghiệp cạnh tranh quốc tế. Nguyên nhân quan trọng nhất là cấu trúc của các tập đoàn này rất giống với các Tổng công trước đây, đồng thời những Tổng công ty này đã có 12 năm để chứng minh rằng chúng không thể thành công trong hoạt động xuất khẩu và cải thiện kết quả kinh doanh của mình. Trừ Singapore ra thì hầu như không có nước nào khác trên thế giới đã từng thành công trong việc sử dụng doanh nghiệp Nhà nước như một phương tiện chủ yếu để xây dựng nên các doanh nghiệp cạnh tranh quốc tế. Với Việt Nam, vì nhiều lý do khác nhau, sẽ không thể lặp lại thành tích này của Singapore. Thế nhưng, ngay cả khi gạt sang bên một thực tế là các tập đoàn này đều là những DNNN, thì vẫn có nhiều lý do để nghi ngờ về khả năng các tập đoàn này một ngày nào đó sẽ trở thành những công ty lớn mạnh. Có thể nói những người ủng hộ mô hình tập đoàn Nhà nước đã hiểu nhầm kinh nghiệm của các tập đoàn trên thế giới. Chẳng hạn như, việc dựng lên các tập đoàn lớn một cách duy ý chí không phải là một công thức phổ quát để hình thành nên những doanh nghiệp công nghiệp thành công trên thế giới, nhất là khi quyết định này không do các doanh nghiệp tư nhân thực hiện và được điều chỉnh bởi hệ thống luật pháp và thể chế tốt. Hầu hết các tập đoàn kinh tế Nhà nước không tận dụng cơ hội từ việc Việt Nam gia nhập WTO đem lại để thâm nhập thị trường quốc tế. Trái lại, những tập đoàn này lại cố gắng tạo ra những công ty độc quyền trong nước để ngăn cản cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài. Nghiên cứu của UNDP còn cho thấy một xu hướng đáng lo ngại, đó là nhiều công ty dân doanh và cổ phần hóa ít chú tâm tới việc trở nên cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thay vào đó, những công ty này đang đua nhau tìm kiếm lợi nhuận tức thời trong khu vực bất động sản và tài chính. Ngăn cản cạnh tranh từ thị trường nước ngoài sẽ dẫn đến kết quả tất yếu là giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước và giảm sức cạnh tranh của quốc gia. Theo bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của World Economic Forum (WEF), thứ hạng của Việt Nam bị tụt xuống liên tục và rất nhanh. Bảng 4.2 Xếp hạng sức cạnh tranh tăng trưởng Xếp hạng 2005 (117 nước) Điểm xếp hạng 2005 Xếp hạng 2004 (104 nước) Điểm xếp hạng 2004 Xếp hạng 2003 (101 nước) Việt Nam 81 (-4) 3.37 (-0.10) 77 (-17) 3.47 60 Trung Quốc 49 4.07 46 4.29 44 Thái Lan 36 4.50 34 4.58 29 Ấn Độ 50 4.04 55 4.07 56 Malaysia 24 4.90 31 4.88 29 Bảng 4.3 Xếp hạng sức cạnh tranh doanh nghiệp Xếp hạng cạnh tranh doanh nghiệp Xếp hạng chiến lược và hoạt động Xếp hạng chất lượng môi trường kinh doanh 2005 (116 nước) 2004 (104 nước) 2005 (116 nước) 2004 (104 nước) 2005 (116 nước) 2004 (104 nước) Việt Nam 80 (-1) 79 81 (0) 81 77 (+2) 79 Trung Quốc 57 (-10) 47 53 (-14) 39 58 (-11) 47 Thái Lan 37 (0) 37 35 (+1) 36 37 (-1) 36 Malaysia 23 (0) 23 24 (+4) 28 23 (0) 23 Ấn Độ 31 (-1) 30 30 (0) 30 31 (+1) 32 Nguồn:World Economic Forum (WEF) 2004,2005. The Global Competitiveness Report 2004-2005/2005-2006. Mặc dù trong thời gian vừa qua có một số tập đoàn cũng có đạt được các tiến bộ rất đáng ghi nhận như Tập đoàn Viễn thông, hoặc trên các lãnh vực dầu khí, đóng tàu cũng đang có những nỗ lực đầu tư rất rầm rộ. Tuy vậy phải nói là sức cạnh tranh của các tập đoàn kinh tế Việt Nam rất là khiêm tốn. Như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thì được thành lập cùng thời gian với Tập đoàn Petronas của Malaisia; nhưng hiện nay Malaisia đã có một số vốn, có quy mô đầu tư ra quốc tế và nắm được các công nghệ cao hơn rất nhiều so với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Ở đây có một phần cơ chế chính sách, nhưng chắc hẳn các nỗ lực của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cần phải có hiệu quả hơn. Điều đó cũng có thể nói được đối với các tập đoàn khác; tức là các tập đoàn đó quan trọng, lớn mạnh đối với Việt Nam, nhưng năng lực cạnh tranh quốc tế của họ rất thấp. Đặc biệt hiện nay họ đang còn rất yếu về khoa học công nghệ, về nghiên cứu; hoạt động trong thị trường tài chính quốc tế cũng còn rất yếu, và khó có thể so sánh được với các tập đoàn quốc tế khác. 4.4. Giải pháp phát triển mô hình tập đoàn ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập Hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay đã trở thành đặc trưng và xu hướng chung của thế giới. Mọi quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đều đang tích cực tham gia vào tiến trình chung đó mà Việt Nam không phải là ngoại lệ. Chủ động hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đồng nghĩa với việc Việt Nam phải đối mặt với những thử thách, với nguy cơ cạnh tranh quyết liệt với các nước trên thế giới. Việc mở cửa thị trường trong nước đã dẫn tới sự xâm nhập của hàng loạt các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới. Tăng cường năng lực cạnh tranh để giành lấy thị trường nội địa đồng thời mở rộng hoạt động ra thị trường thế giới quả thực là một thách thức vô cùng to lớn với bản thân các tập đoàn kinh tế cũng như với Chính phủ Việt Nam. Vậy Việt Nam phải có những giải pháp gì để phát triển mô hình tập đoàn kinh tế trong bối cảnh đó? 4.3.1. Giải pháp từ phía Chính phủ Một là: Đánh giá lại hoạt động của các TĐKT Trước hết cần phải khẳng định việc Chính phủ đưa ra quyết định thành lập các TĐKT trong thời gian qua là hết sức cần thiết nhằm thúc đẩy phát triển các TĐKT thuộc các lĩnh vực và các ngành trọng yếu của nền kinh tế. Nhưng cần có một khoảng thời gian nhất định để đánh giá lại về hoạt động của các TĐKT. Ở các nước phát triển các tập đoàn kinh tế quốc doanh khi đi vào hoạt động luôn theo 3 chức năng và 4 tiêu chí do Chính phủ đặt ra rất rõ ràng. Trong khi ở nước ta các TĐKT lại chỉ được xác định một chức năng chung là đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, và nhiệm vụ riêng là quả đấm thép. Việc xác định chức năng chung chung như vậy rất khó cho các TĐKT trong việc đưa ra chính sách phát triển cụ thể. Cho nên trước hết phải xác định cụ thể chức năng của TĐKT trong nền kinh tế từ đó mới có thể đưa ra phương hướng phát triển cụ thể cho TĐKT. Hai là: Bổ sung và hoàn thiện khung pháp lý quy định về hoạt động của TĐKT Xuất phát từ yêu cầu thực tế đang đòi hỏi khung pháp lý đầy đủ, đúng đắn cho sự hình thành và phát triển của TĐKT nói chung và TĐKT quốc doanh nói riêng. Nhà nước nên sớm ban hành các quy định về tính pháp lý, các mô hình và nguyên tắc hình thành các tập đoàn kinh tế. Nếu là tập đoàn kinh tế thì phải đáp ứng được những  yêu cầu và tiêu chí thế nào như: quy mô tổ chức, phương pháp tổ chức, các hệ thống quản lý, đội ngũ số cán bộ, số vốn pháp định, các chỉ tiêu kinh tế tối thiểu... Song song với khung khổ cơ bản nhất về pháp lý, Nhà nước cũng nên có những  quy định rõ ràng hơn trong cơ chế hoạt động và mối quan hệ bên trong mỗi tập đoàn liên quan đến kinh doanh, đầu tư, tài chính, thông tin, nhân sự, tài sản, trách nhiệm... Quan trọng nhất là phải xác định và phân biệt một cách rõ ràng hơn nữa vai trò của quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tăng cường luật pháp và các quy chế kiểm soát sự lấn sân của công ti phi tài chính vào các hoạt động tài chính. Việc cho phép FPT, EVN, .. thành lập ngân hàng là điều không thể chấp nhận được. Thực tế hiện nay là dù có luật, các cơ quan hữu quan lần như lơ là không thực hiện sự kiểm soát theo luật hoặc không đủ khả năng chuyên môn để kiểm soát hầu hết mọi hoạt động của công ty, vì thế Chính phủ cần siết chặt khả năng đầu tư của các công ty phi tài chính vào hoạt động tài chính, và chỉ mở rộng khi điều kiện cho phép; mục đích là giảm thiểu khả năng có thể xảy ra các cuộc khủng hoảng tài chính trong tương lai. Ba là: Giảm sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động tập đoàn Nhà nước chỉ nên đóng vai trò hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi bằng các cơ chế chính sách chứ không nên can thiệp bằng các biện pháp hành chính vào quá trình hình thành các TĐKT như hiện nay. Bốn là: Tăng cường sự phối hợp giữa các TĐKT Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư đan xen với nhau nhằm phát huy thế mạnh, chia sẻ rủi ro và tăng cường khả năng cạnh tranh của các TĐKT trong nước với các TĐKT nước ngoài trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Năm là: Hỗ trợ khu vực kinh tế dân doanh Mặc dù chính phủ Việt Nam luôn tuyên bố cam kết hỗ trợ khu vực dân doanh, nhưng trên thực tế các TĐKT Nhà nước vẫn tiếp tục nhận được rất nhiều ưu ái, bao gồm khả năng tiếp cận đất đai và vốn trong khi khu vực dân doanh vẫn tiếp tục phải chịu sự nhũng nhiễu của quan chức và đối xử bất công của hệ thống chính quyền, đặc biệt là của hải quan và thuế vụ. Chính phủ Việt Nam cần loại bỏ sự bất bình đẳng này bằng cách đảm bảo rằng nguồn lực sẽ được phân bổ cho những ai có khả năng sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất. Tất cả các doanh nghiệp bất kể quy mô, loại hình, sở hữu đều phải công bố kết quả kiểm toán do những công ty kiểm toán độc lập và có uy tín thực hiện. 4.3.2. Giải pháp từ phía tập đoàn Thứ nhất, với những "nhóm công ty"  đang hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế thì cần chú trọng đảm bảo các yếu tố cơ bản như "thống nhất trong đa dạng", tập trung các nỗ lực tạo ra nội hàm của tập đoàn kinh tế (hình ảnh chung, thương hiệu  chung, chiến lược chung...) và chính những yếu tố đó sẽ tạo ra chỗ đứng bền vững thay cho việc công nhận hay đăng ký trở thành các tập đoàn kinh tế. Thứ hai, các TĐKT cần ban hành các quy định nội bộ liên quan đến nâng cao hiệu quả của cơ chế thực thi, bảo đảm quyền của các loại thành viên trong tập đoàn, nhất là loại thành viên chiếm thiểu số (loại thành viên có số vốn Nhà nước ít hơn 50%). Thứ ba, trong TĐKT các công ty con là các doanh nghiệp do tập đoàn đầu tư 100% vốn hoặc giữ cổ phần chi phối, có tu cách pháp nhân, có tài sản, tên gọi, con dấu và là pháp nhân hạch toán độc lập. Tuy nhiên vai trò của các công ty con trong tập đoàn quá mờ nhạt và bị can thiệp quá sâu trong các hoạt động. Do đó cần ban hành các quy định về quyền lợi và trách nhiệm cụ thể của công ty con, không chỉ về vốn mà ngay cả về việc xây dựng và chia sẻ thương hiệu, thị trường, công nghệ của tập đoàn. Các quy định này vừa có tính pháp lý ràng buộc công ty con với tập đoàn, vừa khuyến khích công ty con phát triển theo định hướng chung của tập đoàn. Thứ tư, việc thành lập các TĐKT để nhằm tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực cũng như phát huy các lợi thế của doanh nghiệp chứ không phải là tạo ra một vỏ bọc bên ngoài “hào nhoáng”. Việc quản trị TĐKT đối với các nhà quản trị doanh nghiệp đang là một thách thức đòi hỏi họ cần có sự chuẩn bị đầy đủ về kiến thức cũng như bản lĩnh kinh doanh để đảm đương được vai trò của mình. KẾT LUẬN Từ thập niên 70 Chaebol đã trở thành đặc sản của nền kinh tế Hàn Quốc. Với vai trò đầu tàu Chaebol đã kéo cả nền kinh tế thành công, góp công lớn trong sự phát triển kỳ diệu của Hàn Quốc mà người ta gọi là “thần kỳ sông Hàn”. Không thể phủ nhận những ưu điểm của mô hình này cộng với những thuận lợi vào thời điểm mô hình áp dụng đã đưa kinh tế Hàn Quốc bước sang một thời kì mới. Nhưng không có mô hình nào là hoàn hảo, Chaebol cũng vậy. Bản thân nó còn tồn tại nhiều nhược điểm đòi hỏi phải có thời gian và biện pháp phù hợp. Người ta đã từng đặt câu hỏi có nên xóa bỏ hẳn Chaebol trong đời sống kinh tế của Hàn Quốc, câu trả lời là không thể vì vai trò và ảnh hưởng quá quan trọng của nó trong nền kinh tế và trong chính nhận thức của người dân Hàn. Người ta chỉ có thể tìm ra những biện pháp khắc phục những điểm yếu của nó và hạn chế những căn bệnh được coi là cố hữu của mô hình này. Các tập đoàn kinh tế cảu Việt Nam ra đời và phát triển xuất phát từ yêu cầu phát triển nền kinh tế quốc gia và cũng phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Qua nghiên cứu phân tích có thể thấy các tập đoàn kinh tế Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với tập đoàn kinh tế của Hàn Quốc. Bài viết này đã tổng kết những kinh nghiệm thành công, rút ra những hạn chế cần khắc phục của mô hình TĐKT ở Hàn Quốc và đưa ra một vài so sánh giữa mô hình TĐKT giữa hai nước nhằm mục đích giúp Việt Nam có định hướng và biện pháp phát triển các TĐKT trong nền kinh tế hiện đại xứng đáng với tầm vóc và kỳ vọng của nó. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Anh 1) Directed Research in Economics, University of Northern Iowa ,“Failure of the Miracle: Why South Korea's Managed Economy Is Dying”. 2) Phil Sang Lee- Dean, school of business administration, Korea University, “Economic Crisis and Chaebol Reform in Korea”. 3) Thayer Watkins, Silicon Valey & Tornado Alley USA, “Chaebol of South Korea”. Tài liệu tiếng Việt 1) Báo cáo của một nhóm giáo sư và chuyên gia thuộc đại học Harvard về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội VN 2010-2020, “Lựa chọn thành công”. 2) Nguyễn Kim Anh, “Một số vấn đề về các Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam và các ngân hàng do Tập đoàn kinh tế mới thành lập”, tạp chí Quản lý kinh tế số 19 (3+4/2008). 3) PGS.TS Phan Đăng Tuất, “Lựa chọn mô hình hoạt động cho Tập đoàn kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Công nghiệp 8/2007. 4) Vũ Phương Thảo “Khuynh hướng đa dạng hóa trong các Chaebol của Hàn Quốc”, tạp chí nghiên cứu Châu Á- Thái Bình Dương, số 4 năm 2005. Trang web *) www.atimes.com/atimes/Korea/II08Dg02.html “ Chaebol justice in South Korea”. *) www.country-data.com *) www.experiencefestival.com *)www.haiphongdofa.gov.vn/vn/index.asp?menuid=467&parent_menuid=417&fuseaction=3&articleid=1762, bài “Thành lập Tập đoàn kinh tế tại Việt Nam”. *) www.hyundaicorp.co.kr *) www.lge.co.kr *) www.massogroup.com/cms/content/view/4944/290/lang,en/ bài “Những mô hình tập đoàn kinh tế tiêu biểu ở Châu Á”. *) www.moi.gov.vn/BForum/detail.asp?Cat=15&id=1623, bài “ Đặc thù của các NIEs Châu Á trong quản lý kinh doanh”. *) bài “ Sức bật của Samsung, Hyundai và LG trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế”, tác giả Ngọc Thủy. *) www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=38&sub=128&article=87209, bài “Thời của Tập đoàn”. *) www.samsung.kr *)www.songda.com.vn/forum/getPage.do;jsessionid=7D1036A6383D4DABFC6BD18009AF1537?postId=2677, bài “ Tập đoàn kinh tế - Không có mô hình duy nhất cho tất cả”. *) bài “Tập đoàn kinh tế tư nhân: đi tìm sự thừa nhận” *) www.viet-studies.info, bài “Vài suy nghĩ về tập đoàn kinh tế quốc doanh”, tác giả Nguyễn Trung. PHỤ LỤC 1) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tập đoàn kinh tế THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Số: 91/TTg CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----- o0o ----- Hà Nội , Ngày 07 tháng 03 năm 1994 QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Để tạo điều kiện thúc đẩy tích tụ và tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh đồng thời thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt doanh nghiệp Trung ương, doanh nghiệp địa phương và tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế; Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ IV, khoá IX; Căn cứ kết luận của Chính phủ tại phiên họp ngày 6 tháng 1 năm 1994, QUYẾT ĐỊNH: Điều 1. Thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh (Sau đây gọi là tập đoàn) ở một số Bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật và thành phố Hồ Chí Minh. Việc chọn đơn vị làm thí điểm phải dựa vào một số Tổng công ty, công ty lớn có mối quan hệ theo ngành và vùng lãnh thổ, không phân biệt doanh nghiệp do Trung ương hay địa phương quản lý, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo những yêu cầu cần thiết cho thị trường trong nước và có triển vọng mở rộng quan hệ kinh doanh ra ngoài nước. Mỗi tập đoàn có tên giao dịch riêng, nên giữ những tên giao dịch có uy tín đã quen thuộc trên thị trường trong nước và thế giới. Điều 2. Nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của tập đoàn: 1. Tập đoàn là pháp nhân kinh tế do Nhà nước thành lập gồm nhiều doanh nghiệp thành viên có quan hệ với nhau về tài chính và các dịch vụ liên quan và có qui mô tương đối lớn; 2. Việc thành lập tập đoàn phải đảm bảo vừa hạn chế độc quyền vừa hạn chế cạnh tranh bừa bãi. Có thể tổ chức theo 3 loại: Tập đoàn toàn quốc; Tập đoàn khu vực; Tập đoàn vùng (ở những thành phố lớn). 3. Tập đoàn phải có 7 doanh nghiệp thành viên trở lên và có vốn pháp định ít nhất là 1.000 tỷ đồng; 4. Về nguyên tắc, tập đoàn có thể hoạt động kinh doanh đa ngành song nhất thiết phải có định hướng ngành chủ đạo, mỗi tập đoàn được tổ chức công ty tài chính để huy động vốn, điều hoà vốn phục vụ cho yêu cầu phát triển của nội bộ tập đoàn hoặc liên doanh với các đơn vị kinh tế khác; 5. Hội đồng quản lý của tập đoàn gồm 7-9 thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, có trách nhiệm: Thực hiện quyền sử dụng và quản lý của các nguồn vốn của Nhà nước, phân giao và điều hoà vốn chung trong nội bộ tập đoàn; Quyết định chiến lược phát triển và các phương án kinh doanh của tập đoàn; Quyết định phương án tổ chức bộ máy điều hành tập đoàn và đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc và kế toán trưởng của tập đoàn; 6. Tổng Giám đốc: Đại diện pháp nhân của tập đoàn trong quan hệ kinh doanh trước bạn hàng và trước pháp luật; Tổ chức xây dựng kế hoạch và điều hành toàn bộ hoạt động của tập đoàn theo quyết định của Hội đồng quản lý; 7. Ban kiểm soát được thành lập theo qui chế tổ chức của hệ thống kiểm tra, kiểm soát Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ kiểm soát hoạt động của Hội đồng quản lý, bộ máy điều hành tập đoàn và các doanh nghiệp thành viên; 8. Nhiệm vụ và quyền hạn các doanh nghiệp thành viên: Thực hiện quyền hạn và trách nhiệm theo điều lệ của tập đoàn; Chấp hành luật pháp, chính sách theo qui định của Nhà nước và chịu sự kiểm tra của các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Điều 3. Tập đoàn hoạt động theo luật pháp và chịu sự kiểm tra và thanh tra của Nhà nước. Các Bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật và các cơ quan quản lý Nhà nước khác, chính quyền Nhà nước ở địa phương chịu trách nhiệm quản lý tập đoàn theo chức năng được pháp luật quy định. Điều 4. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước có nhiệm vụ hướng dẫn thí điểm tập đoàn theo quyết định này; xây dựng quy chế hoạt động của Hội đồng quản lý, bộ máy điều hành và Ban kiểm soát tập đoàn; Bộ Tài chính có nhiệm vụ hướng dẫn việc sử dụng, quản lý, huy động, điều hoà vốn và chế độ hạch toán của tập đoàn; Điều 5. Tiến độ thực hiện: Quý I-1994: Mỗi Bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật và Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh mỗi nơi chọn một Tổng công ty nòng cốt đề nghị được làm thí điểm, gửi danh sách đến Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định; Quý II-1994: Đến giữa quý II-1994, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính ban hành xong những văn bản hướng dẫn cần thiết nói tại Điều 4, Quyết định này; Cuối quý II-1994, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước thẩm định xong một số đề án thí điểm tập đoàn trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Quý III-1994 trở đi đến hết năm 1995: Triển khai thực hiện thí điểm các tập đoàn có đề án được phê duyệt. Cuối năm 1995 tiến hành tổng kết việc làm thí điểm. Điều 6. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành quyết định này. Điều 7. Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký./. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ   (Đã ký) Võ Văn Kiệt   Bản quyền thuộc Bộ Tư Pháp Ðịa chỉ: 60 Trần Phú- Ba Đình - Hà Nội - Việt Nam Tel: 04-7336091 - Fax: 04-7336090 Email: ttth@moj.gov.vn - Website: www.moj.gov.vn 2) Một số vấn đề về TĐKT ( Trích Nghị quyết TW 3 khóa IX) Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX nêu rõ: - Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. DNNN (gồm DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế. - Kiên quyết điều chỉnh để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỉ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận các DNNN phải có qui mô vừa và lớn; Chuyển DNNN sang hoạt động theo chế độ công ty; đẩy mạnh cổ phần hóa những DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn. - Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để DNNN kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Thực hiện độc quyền nhà nước trong lĩnh vực cần thiết, nhưng không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Phân biệt rõ chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu của Nhà nước với chức năng điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Giao quyền quyết định nhiều hơn đi đôi với đòi hỏi trách nhiệm cao hơn đối với đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại doanh nghiệp. Một trong những giải pháp lớn để thực hiện sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là phải đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước, bằng cách hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, đó là: - Tổng công ty nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn, có thể huy động vốn từ nhiều nguồn, trong đó vốn Nhà nước là chủ yếu; thực hiện kinh doanh đa ngành, có ngành chính chuyên sâu; có liên kết giữa các đơn vị thành viên về sản xuất, tài chính, thị trường...; có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến, có năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. - Thí điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng việc thực hiện chuyển tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con, trong đó tổng công ty đầu tư vốn vào các doanh nghiệp thành viên là những công ty TNHH một thành viên (tổng công ty) hoặc là công ty cổ phần mà tổng công ty giữ cổ phần chi phối. - Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân... Thí điểm hình thành tập đoàn kinh doanh trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng... Bên cạnh các tập đoàn kinh tế dựa vào nòng cốt là các tổng công ty nhà nước, cần khuyến khích việc hình thành, phát triển các tập đoàn kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong nước, thông qua việc tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, thúc đẩy việc cạnh tranh lành mạnh, hoạt động đúng pháp luật, nhằm cùng tạo ra các đầu tàu kinh tế mới, các động lực mới để thúc đẩy sự tăng trưởng nền kinh tế. Với Việt Nam, lựa chọn phương thức vừa làm vừa rút kinh nghiệm là phù hợp, không thể tách ra hoàn thiện lý luận rồi mới áp dụng vào thực tiễn, như vậy sẽ là quá muộn khi Việt Nam đã bắt đầu tiến trình hội nhập. Ngành Công nghiệp hiện có 4 tổng công ty đang trong giai đoạn lập dự án thí điểm hoạt động theo mô hình tập đoàn là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Dệt May Việt Nam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam và Tổng công ty Than Việt Nam. Thực tế cho thấy, đây là những tổng công ty có tiềm lực tài chính mạnh và có bộ máy quản lý hoạt động rất qui củ từ nhiều năm nay. Nhưng đây vẫn chỉ là giai đoạn sơ khởi, để thực sự phát triển thành tập đoàn kinh tế mạnh vẫn cần có thêm thời gian, có khung pháp lý phù hợp kèm theo là cơ chế chính sách cụ thể, đồng thời phải có sự chỉ đạo đúng hướng, kịp thời của các ngành, các cấp cùng sự nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp trong tập đoàn tương lai. 3) Quy định số 196-QĐ/TW, ngày 24-11-2008 của Ban Bí thư về tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước - Căn cứ Điều lệ Đảng; - Căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư (khoá X); - Căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư và Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X), Ban Bí thư quy định về tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty nhà nước, ngân hàng thương mại nhà nước (sau đây gọi chung là tổ chức đảng tập đoàn kinh tế, tổng công ty) như sau: I. QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1. Về tổ chức đảng 1- Tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương; trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc đảng uỷ khối doanh nghiệp tỉnh uỷ, thành uỷ được tổ chức theo 2 mô hình: - Đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty. - Đảng bộ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty. 2- Đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chưa hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con thì tổ chức đảng bộ cơ quan tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Sau khi doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con thì tổ chức lại theo mô hình đảng bộ công ty mẹ. II. ĐẢNG BỘ TOÀN TẬP ĐOÀN KINH TẾ, TỔNG CÔNG TY Điều 2. Điều kiện thành lập đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty Tổ chức đảng toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty được thành lập ở những doanh nghiệp có đủ các điều kiện sau: - Là tập đoàn kinh tế, tổng công ty hạng đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc phê duyệt đồng ý cho thành lập; có vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng; hoạt động của doanh nghiệp gắn kết chặt chẽ với nhau, phần lớn tài chính, sản phẩm, dịch vụ chính, kỹ thuật, công nghệ của các đơn vị thành viên do tập đoàn kinh tế, tổng công ty chi phối. - Các đơn vị thành viên của tập đoàn kinh tế, tổng công ty đóng trên nhiều địa bàn khác nhau nhưng chi phối không lớn đến nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Đối với đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc khối doanh nghiệp tỉnh phải có đa số tổ chức đảng trực thuộc đóng trên cùng một địa bàn tỉnh, thành phố. - Đã lập đảng bộ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty là đảng bộ mà đảng uỷ là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng (hoặc đảng bộ cơ sở mà đảng uỷ được giao quyền cấp trên cơ sở); đa số tổ chức đảng thuộc đảng bộ là tổ chức đảng trong các đơn vị thành viên chịu sự chi phối hoạt động của tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Điều 3. Thẩm quyền quyết định thành lập đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng cộng ty - Đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương có đề án được Ban Tổ chức Trung ương thẩm định, Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương ra quyết định thành lập. - Đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ có đề án được ban tổ chức tỉnh uỷ, thành uỷ thẩm định, ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ ra quyết định thành lập. - Đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty trực thuộc đảng uỷ khối doanh nghiệp tỉnh uỷ, thành uỷ có đề án được ban tổ chức tỉnh uỷ, thành uỷ thẩm định, đảng uỷ khối doanh nghiệp tỉnh uỷ, thành uỷ ra quyết định thành lập. III. ĐẢNG BỘ CÔNG TY MẸ CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ, TỔNG CÔNG TY Điều 4. Thành lập đảng bộ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty Tổ chức đảng tập đoàn kinh tế, tổng công ty mà doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con (nơi không thành lập đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty) thì thành lập đảng bộ công ty mẹ. 1- Đảng bộ công ty mẹ bao gồm: Tổ chức đảng các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp là thành viên của công ty mẹ theo quyết định của cấp có thẩm quyền; tổ chức đảng cơ quan, văn phòng đại diện tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố khác. 2- Các đảng bộ, chi bộ doanh nghiệp thành viên còn lại đặt trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh uỷ, thành uỷ, hoặc huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ... do cấp uỷ có thẩm quyền ở địa phương quyết định. Điều 5. Thẩm quyền quyết định thành lập đảng bộ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty - Đảng bộ công ty mẹ trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương do Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương quyết định sau khi có ý kiến thống nhất bằng văn bản của Ban Tổ chức Trung ương. - Đảng bộ công ty mẹ trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ do ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ quyết định. Đảng bộ công ty mẹ trực thuộc đảng uỷ khối doanh nghiệp tỉnh uỷ, thành uỷ, do đảng uỷ khối doanh nghiệp tỉnh uỷ, thành uỷ quyết định sau khi có ý kiến thống nhất bằng văn bản của ban tổ chức tỉnh uỷ, thành uỷ. IV. MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG TẬP ĐOÀN KINH TẾ, TỔNG CÔNG TY Điều 6. Thí điểm giao một số quyền cấp trên cơ sở cho đảng uỷ cơ sở có vị trí quan trọng, có nhiều tổ chức đảng trực thuộc, đông đảng viên 1- Các đảng bộ cơ sở trực thuộc đảng uỷ tập đoàn kinh tế, tổng công ty mà cấp uỷ cấp trên trực tiếp của đảng uỷ tập đoàn kinh tế, tổng công ty là cấp uỷ trực thuộc Trung ương (tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc đảng uỷ trực thuộc Trung ương) có các điều kiện sau đây thì được thí điểm giao một số quyền cấp trên cơ sở: - Có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng. - Có quy mô lớn: Có nhiều đơn vị thành viên là tổ chức cơ sở trong một đơn vị chính quyền; đảng bộ có đông đảng viên, hoạt động trên phạm vi rộng (nhiều tỉnh, thành phố). - Là đảng bộ trong sạch, vững mạnh. 2- Tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương xét, quyết định giao cho cấp uỷ một số quyền như sau: - Được lập các cơ quan tham mưu chuyên trách giúp việc (ban tổ chức, ban tuyên giáo, cơ quan uỷ ban kiểm tra, văn phòng đảng uỷ). - Đảng uỷ được quyết định thành lập tổ chức cơ sở đảng theo quy định của Bộ Chính trị, sau khi được ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương đồng ý bằng văn bản. - Ban thường vụ đảng uỷ được quyết định kết nạp đảng viên, kỷ luật khai trừ đảng viên, khen thưởng tổ chức đảng và đảng viên; chuyển sinh hoạt cho tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp đến các đảng bộ cấp trên cơ sở. - Ban thường vụ mỗi tháng sinh hoạt một lần, đảng uỷ họp thường lệ 3 tháng một lần, họp bất thường khi cần. 3. Việc giao một số quyền cấp trên cơ sở cho đảng uỷ cơ sở do tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc đảng uỷ trực thuộc Trung ương quyết định sau khi có ý kiến thống nhất bằng văn bản của Ban Tổ chức Trung ương. Điều 7. Chuyển các tổ chức đảng doanh nghiệp về trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương và cấp uỷ địa phương 1- Các tổ chức đảng doanh nghiệp nhà nước (hiện đang sinh hoạt trong đảng bộ cơ quan bộ, ngành hoặc địa phương) chuyển về trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương khi có đủ các điều kiện sau: - Doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc phê duyệt đồng ý cho thành lập, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. - Có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, hoạt động rộng trên địa bàn toàn quốc. - Là đảng bộ mà đảng uỷ là cấp trên trực tiếp của tổ chưc cơ sở đảng (hoặc đảng bộ cơ sở mà đảng uỷ được giao quyền cấp trên cơ sở). 2- Các tổ chức đảng doanh nghiệp còn lại (ngoài số chuyển về trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương) có trụ sở chính đóng ở địa phương nào thì chuyển về trực thuộc cấp uỷ địa phương đó (trừ các tổ chức đảng của các doanh nghiệp công ích, đơn vị sự nghiệp nhỏ có nhiệm vụ phục vụ trực tiếp cho chức năng quản lý hành chính nhà nước của bộ, ngành). Điều 8. Doanh nghiệp chưa (hoặc không) hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con Thành lập đảng bộ cơ quan hoặc đảng bộ cơ quan mở rộng; các đảng bộ, chi bộ của các đơn vị thành viên đóng ở địa phương nào thì trực thuộc cấp uỷ địa phương đó. Điều 9. Trách nhiệm, quyền hạn của đảng uỷ các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước với cấp uỷ địa phương trong việc phối hợp công tác  Các đảng uỷ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty, đảng uỷ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ theo quy định chung, có nhiệm vụ phối hợp với cấp uỷ địa phương (nơi các đơn vị thành viên đóng trên địa bàn) lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, công tác xây dựng đảng, công tác cán bộ, lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội theo Quy chế phối hợp công tác giữa đảng uỷ tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước với cấp uỷ địa phương do Ban Bí thư ban hành. V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN Điều 10. Giao Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương, các tỉnh uỷ, thành uỷ và các cơ quan có liên quan: 1- Hướng dẫn triển khai thực hiện Quy định này đối với các tổ chức đảng của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phù hợp với đặc điểm, vị trí của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. 2- Xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa đảng uỷ tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước với cấp uỷ địa phương, trình Ban Bí thư xem xét, quyết định. Điều 11. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương theo thẩm quyền quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, trách nhiệm, quyền hạn của các đảng bộ tập đoàn kinh tế, tổng công ty theo quy định của Điều lệ Đảng và Quy định này, phù hợp với đặc điểm của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương phối hợp với cấp uỷ địa phương chỉ đạo hướng dẫn các đảng uỷ cơ quan bộ, ngành Trung ương trực thuộc thực hiện việc chuyển giao tổ chức đảng doanh nghiệp về trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương (nếu có) và cấp uỷ địa phương liên quan. Điều 12. Quy định này có hiệu lực từ ngày ký. Trong quá trình thực hiện, nếu cần bổ sung, sửa đổi, Ban Tổ chức Trung ương báo cáo Ban Bí thư xem xét, quyết định.                                                                                                                      T/M BAN BÍ THƯ                                                                                                                             (đã ký)                                                                                                                           Trương Tấn Sang MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21364.doc
Tài liệu liên quan