Đề án Môi trường kinh tế, chính trị với sự phát triển của du lịch Việt Nam

Theo nghiên cứu gần đây Việt Nam có mức tăng trưởng kinh tế rất cao (>5%/nă) song mức chi tiêu vào giáo dục cơ bản và sau cơ bản không cao (chiếm từ 2,2% GNP đến 3,8% GNP). đầu tư vào con người là hình thức đầu tư đặc biệt thông qua hình thức giáo dục nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ . đây là hình thức đầu tư đúng đắn và chỉ mới con người mới qui định sự phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững. Tài nguyên bất kỳ nước nào cũng có hạn nhưng tài nguyên trí thức thì không bao giờ cạn. Do đó tăng trưởng trong tương lai phụ thuộc vào tri thức con người.

doc18 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Môi trường kinh tế, chính trị với sự phát triển của du lịch Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: "Môi trường kinh tế, chính trị với sự phát triển của du lịch Việt Nam" Lập dàn ý: Chương I- Cơ sở lý luận của đề tài. I- Hoạt động kinh doanh du lịch - Khái niệm - Đặc điểm - ý nghĩa II- Sự tác động của môi trường kinh tế, chính trị tới sự phát triển du lịch Việt Nam. Chương II- Sự tác động của môi trường kinh tế, chính trị tới sự phát triển của du lịch Việt Nam. I- Thực trạng kinh doanh du lịch Việt Nam 1. Nguồn khách 2. Một vài đánh giá về phát triển lao động Việt Nam II- Thực trạng và sự tác động của môi trường kinh tế với sự phát triển du lịch Việt Nam. 1. Tình hình phát triển kinh tế nước ta 2. Sự tác động của môi trường kinh tế dẫn đến sự phát triển du lịch Việt Nam III- Thực trạng và sự tác động môi trường chính trị dẫn đến sự phát triển du lịch Việt Nam. Chương III- ý kiến bản thân Chương I- Cơ sở lý luận đề tài I- Hoạt động kinh doanh du lịch Ngày nay, trên thế giới khái niệm đi du lịch không còn quá xa vời, quá cao sang, xa lạ với người dân nữa mà nó đã trở thành một nhu cầu gần gũi thân thiết với con người. Du lịch không chỉ phát triển ở những nước có nền công nghiệp tiên tiến hiện đại mà ngay cả ở những nước thuộc thế giới thứ ba. Có những nước du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và quốc sách để kinh doanh khu ngoại tệ cho đất nước dưới hình thức "xuất khẩu tại chỗ" (Thái Lan, Indonesi…) Thái Lan thu nhập từ du lịch còn cao hơn xuất khẩu gạo và hàng dệt. Du lịch thế giới đang trên đà phát triển và ngày càng mở rộng. Đối với nước ta - một nước chậm phát triển hoạt động kinh doanh du lịch cũng đang ngày một khởi sắc rõ nét. Trước đây vì "miếng cơm, manh áo" mà ít ai có điều kiện nghĩ đến du lịch. Ngày nay nhu cầu đi du lịch của con người không chỉ ở những tầng lớp có thu nhập cao mà ngay cả những người dân có thu nhập thấp. Vì theo qui luật của tự nhiên con người luôn có mong muốn tìm hiểu khám phá những điều mới lạ, những vùng đất mới. Trước sự gia tăng nhanh chóng "cầu" là yếu tố quan trọng để đánh giá sự phát triển của du lịch - thì khả năng "cung" cũng phải gia tăng để đáp ứng nhu cầu đó. Bởi vì đi du lịch du khách không chỉ tham quan, chiêm ngưỡng vẻ đẹp tự nhiên, thụ hưởng những giá trị văn hoá tinh thần, truyền thống phong tục tập quán mà còn có một nhu cầu sinh hoạt thiết yếu. Ăn, ở, ngủ, đi lại, mua sắm…. Do đó để phục vụ cho khách du lịch các hoạt động kinh doanh du lịch cũng trở nên phong phú, đa dạng như: kinh doanh khách sạn, kinh doanh lưu trú, kinh doanh lữ hành và kinh doanh các loại hình dịch vụ du lịch khác. Cùng với sự phát triển của hoạt động kinh doanh du lịch, khái niệm du lịch cũng được nhìn nhận sâu sắc hơn đi từ hiện tượng đến bản chất, ngoại diện được mở rộng, nội hàm được hiểu sâu thêm. Ngày nay, tổ chức du lịch thế giới (WTO) đã thống nhất khái niệm du lịch phản ánh các mối quan hệ có tính bản chất bên trong làm cơ sở cho việc nghiên cứu các xu hướng, qui luật phát triển của nó… Theo đó "du lịch là tổng thể những hoạt động và những mối quan hệ phát sinh do sự tác động qua lại giữa khách du lịch, nhà kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du lịch" các chủ thể này tác động qua lại lẫn nhau trong mối quan hệ với hoạt động du lịch mà khách du lịch là trung tâm. Phát triển du lịch là phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu thực tại của du khách và người dân bản địa. Theo quan điểm của Đảng ta "phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Muốn phát triển du lịch phải đa dạng hoá loại hình kinh doanh du lịch, đa dạng hoá sản phẩm do đó phải nghiên cứu khái niệm hoạt động kinh doanh du lịch "hoạt động kinh doanh du lịch là hoạt động kinh doanh tổng hợp (vận chuyển, lưu trú…) nhằm làm thoả mãn nhu cầu đặc biệt của con người". Hoạt động kinh doanh du lịch phải đồng thời đạt hiệu quả trên nhiều mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, an toàn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy truyền thống bản sắc dân tộc và nhân phẩm con người Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá thế giới, góp phần phát triển những chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. * Đặc điểm của hoạt động kinh doanh du lịch. - Hoạt động kinh doanh du lịch ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều sâu và rộng dưới nhiều hình thức có khả năng thu hút khách lớn: đó là mạng lưới công ty lữ hành, đại lý du lịch, đại lý bán buôn, bán lẻ… chào đón và giới thiệu sản phẩm cho du khác, cung cấp những thông tin, chi tiết đầy đủ về các dịch vụ cảu chuyến đi. Vì họ ở xa không thể đến đó được, mặt khác sản phẩm du lịch mang tính vô hình do đó tiết kiệm được thời gian, chi phí. Không chỉ bó hẹp trong việc thu hút khách nội địa, các công ty du lịch đã mở rộng hoạt động kinh doanh sang thị trường Đông Âu…, tập trung vào thị trường trọng điểm: Nhật, Trung Quốc, Pháp… - Hoạt động kinh doanh du lịch phụ thuộc vào tài nguyên: Có thể nói, trên đất nước ta có nghìn lẻ một điểm du lịch bao gồm tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn do con người xây dựng nên. Có nhiều di sản thiên nhiên và di sản văn hoá do Unesco công nhận: Vịnh Hạ Long, Thánh địa Mỹ Sơn, Huế…. Ngoài ra trên khắc đất nước ta mỗi vùng có một nét văn hoá rất riêng biệt, rất đậm đà phong cách miền quê…. Tất cả tạo nên sức cuốn hút hơn, thôi thúc chuyến hành trình của khách. Hoạt động kinh doanh du lịch mang tính chu kỳ, thời vụ. Bởi vì đất nước ta có 4 mùa rõ rệt: Loại hình du lịch biển chỉ kinh doanh được vào mùa hè, đầu thu. Mùa này khách đến du lịch biển nhiều ngược lại thì rất ít. - Đòi hỏi vốn đầu tư phù hợp: Vốn đầu tư cải tạo, xây dựng, nâng cấp những khu, tuyến điểm du lịch. Đối với những khách sạn lớn thì việc đầu tư từ ban đầu là tương đối cao vì các trang thiết bị đòi hỏi phải hoàn hảo ngay từ đầu, không thể đầu tư manh mún lẻ tẻ không có qui hoạch, phải thể hiện tính độ bền nếu không khách sẽ cảm thấy chất lượng không tốt dẫn đến đầu tư không có hiệu quả. Đối với những khách sạn qui mô vừa và nhỏ nói chung tổng lượng vốn đầu tư không cao so với các ngành khác. - Dung lượng lao động trực tiếp trong ngành cao, chịu sức ép tâm lý lớn. Lực lượng lao động trong ngành du lịch ở nước ta là lực lượng trẻ trung bình từ 35-40 tuổi kinh doanh du lịch phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người. Không thể tự động hoá bằng máy móc thay thế con người được. Do đó với mỗi bộ phận phải cách mạng hoá (nhân viên tiếp tân, hướng dẫn viên….). Mỗi người nên làm tốt phần việc của mình vì "trăm hay không bằng tay quen" làm nhiều biến thành kỹ năng, kỹ xảo khả năng mắc lỗi sẽ giảm đi. - Chịu ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên: Khí hậu, thói quen con người, tâm lý (lấy las tâm lý, theo mốt), sự phân bố ngày nghỉ. * ý nghĩa: - Hoạt động kinh doanh du lịch sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch nước ta, đem lại lợi ích to lớn cho đất nước. Kinh doanh du lịch là ngành kinh tế có hiệu quả cao, tỷ lệ lãi trên tổngvốn đầu tư so với ngành kinh tế khác cao hơn nhiều lần, thời gian thu hồi vốn nhanh. - Góp phần khai thác bảo tồn và giới thiệu các di sản văn hoá dân tộc. - Góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế và các vùng xa xôi phát triển, đẩy mạnh việc hoàn thiện hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của nền kinh tế xã hội (giao thông, bưu điện, điện nước, cung cấp vật chất và văn hoá…) - Làm tăng nguồn ngoại tệ của đất nước. - Góp phần giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động xã hội - Là một hình thức giáo dục truyền thống hiện đại nâng cao dân trí các tầng lớn xã hội góp phần tích cực thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc. - Góp phần phát triển và bảo vệ môi trường thiên nhiên và xã hội, khôi phục và phát triển những ngành nghề truyền thống, duy trì tôn tạo những di tích lịch sử văn hoá. - Là ngành quan hệ của đối ngoại, về kinh tế là hình thức xuất khẩu tại chỗ (đối với khách nước ngoài) thu hút đầu tư về chính trị: Tăng cường tình hữu nghị giữa các dân tộc, hiểu biết lẫn nhau về văn hoá là hình thức trao đổi văn hoá "Trăm nghe không bằng một thấy" II- Sự tác động của môi trường kinh tế, chính trị đến sự phát triển của du lịch nước ta. Kinh tế và chính trị là hai yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự phát triển du lịch của một quốc gia. Thực tế đã chứng minh những nước nào có nền kinh tế càng phát triển, chính trị ổn định thì hoạt động du lịch càng phát triển. Kinh tế và chính trị có mối quan hệ xoắn xuýt, bó bện lẫn nhau không thể tách rời nhau được. Có người cho rằng nên tách yếu tố kinh tế ra khỏi chính trị là một sai lầm vô cùng lớn. Trải qua những cam go, thách thức của một dân tộc lúc nào cũng bị đe doạ xâm lược của kẻ thù, giờ đây nền kinh tế nước ta đang đi lên để hoà nhịp cùng thế giới. Nền kinh tế thị trường đã tạo cho các cá nhân doanh nghiệp, tự chủ năng động trong cách thức làm ăn, kinh tế thị trường đã len lỏi đến từng ngõ ngách từ thành thị đến nông thôn miền núi kích thích con người tăng năng suất lao động. Chính sách mở cửa tạo ra thị trường thông thoáng, rộng mở tự do kinh doanh sang cả thị trường nước khác. Nhờ quá trình hội nhập đó nước ta đã tranh thủ được vốn đầu tư nước ngoài, khoa học - công nghệ, trang thiết bị tiên tiến, kinh nghiệm quản lý…. làm phát triển ngân sách xã hội. Tốc độ phát triển kinh tế năm sau cao hơn năm trước làm cải thiện đời sống nhân dân, có điều kiện để chăm lo y tế, giáo dục, quốc phòng của đất nước. Nhờ đó "cầu" du lịch tăng lên đòi hỏi chất lượng ngày một cao hơn làm cho "cung" du lịch tăng lên dẫn đến hoạt động kinh doanh du lịch ngày càng phát triển. Kinh tế là nền tảng quan trọng để phát triển du lịch nhưng không thể bỏ qua được yếu tố chính trị. Không có môi trường kinh doanh nào thoát li quan điểm chính trị mà hoàn toàn lệ thuộc vào chính trị. Việt Nam là một đất nước có nền chính trị ổn định không còn chiến tranh xảy ra, có hệ thống pháp luật vững mạnh, chặt chẽ, quyền lực, có hệ thống cơ chế chính sách thông thoáng, đảm bảo an toàn cho du khách. Đảng IX xác định đưa "du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn" do đó tập trung phát triển ngành công nghiệp không khói này không chỉ đơn thuần một ngành du lịch mà là sự tổng hợp của nhiều ngành GTVT, bưu chính viễn thông, hải quan, xây dựng… Đảng ta luôn luôn điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật cho phù hợp với hiện tại để thu hút nhà đầu tư và tạo điều kiện thu hút khách. Vì mục đích cuối cùng là xây dựng đất nước ngày một giàu đẹp, vững mạnh hoà bình ổn định văn minh. có điều kiện để xây dựng những công trình mới, đầu tư vào những điểm du lịch mới, tôn tạo, tu sửa, đầu tư vào giáo dục, nâng cao nhận thức của cư dân địa phương, nâng cao chất lượng phục vụ, quá trình phục vụ, tuyên truyền, quảng bá…. tìm đến khơi dậy nhu cầu du khách 4 phương. Trên đây là cơ sở lý luậnđề tài của em. Riêng đối với bản thân em nghiên cứu đề tài này là cơ sở để nâng cao nhận thức về tình hình kinh tế, chính trị và tình hình phát triển du lịch nước ta. Qua đây em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Chương II- Sự tác động của môi trường kinh tế, chính trị đến sự phát triển của du lịch nước ta. I- Thực trạng kinh doanh du lịch Việt Nam Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được và nó đã trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia. Có nước coi du lịch như nguồn thu chủ yếu, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, có nước coi du lịch như một nền kinh tế mũi nhọn có sức hút đối với nhiều ngành. ở nước ta từ năm 1960 ngành du lịch ra đời đã đánh dấu nhận thức của Đảng và Nhà nước về triển vọng loại hình kinh tế này. Song mãi sau ngày 30/4/1975 du lịch mới có cơ may phát triển trên bình diện cả nước. Cùng với công cuộc đổi mới đầu thế kỷ 90, du lịch bắt đầu khởi sắc phục vụ cho đường lối mở cửa "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới". Cùng với môi trường pháp lý dòng khách du lịch, khách thương nhân vào nước ta không ngừng tăng. Với sự gia tăng của lượng khách đó. Phát triển du lịch bắt buộc phải cải thiện, nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch bằng việc xây dựng và phát triển những sản phẩm dịch vụ du lịch độc đáo, đặc sắc. Bắt đầu là việc đổi mới, hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển khách du lịch, thiết bị, hệ thống cơ sở vật chất cho khách sạn, phát triển các dịch vụ viễn thông, trong điều hành quản lý và định hướng Mar du lịch. Sau nữa ứng dụng những thành tựu khoa học hiện đại giúp cho tạo ra sản phẩm du lịch mới hay xây dựng chiến lược phát triển du lịch mới nhanh chóng và chính xác hơn. Vì vậy các TNDL được khai thác đã đáp ứng được những nhu cầu mong muốn đa dạng của khách không chỉ dừng lại ở hiện tại mà hướng tới tương lai lâu dài. Đại hội Đảng VII (1991) chú ý tới hoạt động du lịch như một lĩnh vực kinh tế - dịch vụ có vị trí nhất định. Phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu từ 5 năm (1991 - 1995) báo cáo chính trị nhấn mạnh "phát triển du lịch, vận tải, hàng không, thông tin, bưu điện quốc tế và hàng loạt các dịch vụ ngoại tệ khác". Tốc độ phát triển du lịch trên thế giới đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động du lịch Việt Nam. Việc khai thác TNDL vốn khá phong phú và đa dạng ngày càng trở nên cấp thiết hơn nhằm đáp ứng sự phát triển kinh tế xã hội đất nước. Tính quốc tế hoá hoạt động du lịch đòi hỏi mở rộng các quan hệ quốc tế. Vì vậy sau Đại hội VII ngành du lịch đã có những thay đổi nhanh chóng. Các công ty du lịch lớn được thành lập cùng với sự ra đời của các Sở Du lịch hoặc Sở Du lịch - Thương mại tại các địa phương. Ngành du lịch dần dần có vị thế trong đất nước. Du lịch đã được đặt đúng vị trí trong nền kinh tế thị trường. Đảng chú trọng tới hoạt động đầu tư du lịch, bảo đảm an ninh du lịch, khai thác nguồn lực du lịch và đổi mới công tác nghiên cứu khoa học - công nghệ du lịch và đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Đó thực sự là đòn bẩy cho du lịch Việt Nam phát triển những năm sau này mà sức bật qui tụ tự nhiên là từ năm 1995. Đại hội Đảng lần VIII (1996) đã định hướng phát triển du lịch một cách toàn diện "Triển khai thực hiện qui hoạch tổng thể du lịch Việt Nam tương xứng với tiềm năng du lịch của đất nước theo hướng du lịch văn hoá, du lịch sinh thái, môi trường. Xây dựng các công trình và điểm du lịch hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và khu danh lam thắng cảnh huy động nguồn lực nhân dân tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng ở những khu du lịch tập trung lớn ở các trọng tâm lớn, nâng cao trình độ văn hoá và chất lượng dịch vụ đối với các loại khách khác. Đẩy mạnh việc huy động vốn nước ngoài vào đầu tư, cải tạo, nâng cao liên doanh với nước ngoài, xây dựng các khu du lịch và khách sạn chất lượng cao, đòi hỏi nhiều vốn chuyển các nhà nghỉ, nhà khách từ cơ chế bao cấp sang kinh doanh khách sạn và du lịch. Nếu như những giai đoạn trước đó du lịch chưa được nhìn nhận tương xứng với tiềm năng của nó thì trong thời kỳ đổi mới đã mở ra cho du lịch Việt Nam sự phát triển mới, vị thế mới, vóc dáng mới. Đến nay 14 Sở Du lịch được thành lập tại các địa phương có hoạt động du lịch mạnh dẫn đến và Sở Du lịch Thương mại. Kể từ đó các công ty du lịch, Tổng Công ty, các trung tâm du lịch dần được ra đời làm cho hoạt động nở rộ với nhiều thành phần kinh tế. Du lịch Việt Nam có hơn 1.000 doanh nghiệp du lịch tham gia kinh doanh dịch vụ du lịch, riêng về kinh doanh lữ hành quốc tế có 107 Công ty trong đó có 8 Công ty liên doanh với nước ngoài. Du lịch Việt Nam có quan hệ bạn hàng với trên 50 quốc gia trên thế giới, du lịch Việt Nam mở ra các hoạt động quốc tế, là thành viên của tổ chức du lịch quốc tế WTO, hiệp hội du lịch Châu á Thái Bình Dương (PATA), hiệp hội du lịch Đông Nam á… 1. Tình hình hoạt động kinh doanh và nguồn khách. a. Hoạt động kinh doanh vận chuyển: Hoạt động vận chuyển và du lịch có sự hợp tác toàn diện thiếu sự hợp tác này sản phẩm vận chuyển và du lịch không có sức cạnh tranh lớn. Hoạt động vận chuyển có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển du lịch là phương tiện không thể thiếu được trong hành trình. Nó là những phương tiện vận chuyển đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không, đường sắt đưa khách du lịch đến điểm du lịch và ngược lại. - Phương tiện vận chuyển là đường bộ (ô tô) là phương tiện được sử dụng phổ biến nhất trong các chuyến du lịch và cũng là phương tiện thuận lợi nhất. Lượng khách đến với phương tiện vận chuyển này tăng rất nhanh từ 53.652 người năm 1993 lên 571.749 người năm 1999. Tăng trung bình 48,35%/năm. Với khách du lịch quốc tế phương tiện vận chuyển xe lớn đạt công suất phục vụ 50% khách đi xa. - Phương tiện vận chuyển đường không. Tuy ra đời sau các ngành khác nhưng hàng không đã sớm khẳng định vai trò của mình. Số khách đi trên máy bay chiếm phần lớn là khách du lịch. Lượng khách từ 440.000 người năm 1992 tăng lên 1.002.673 khách năm 1999. Mỗi năm tăng 14,35%. Hàng không nước ta luôn tìm hướng mở thêm các đường bay mới tới thị trường quốc tế. Mạng bay nội địa cũng được tăng cường đầu tư mua sắm may bay của cả nước để thuận tiện cho phục vụ khách cải tạo, nâng cấp sân bay quốc tế… Chỉ trong 5 tháng đầu năm 2001 hàng không Việt Nam đạt mức tăng trưởng 30%/2000 trong đó vận chuyển quốc tế đạt mức tăng trưởng 33%. Hàng không đã thực hiện chính sách "hoà đồng giá cả". Thực tế trong thời gian qua tình trạng hoãn chuyến, hủy chuyến, chậm chuyến đã ảnh hưởng đến uy tín chất lượng dịch vụ hàng không. Đến nay tình trạng này đã được cải thiện đáng kể chỉ còn khoảng 8-9% với tổng số chuyến bay so với mức 15-20% của thế giới. Hàng không đóng góp lớn trong ngân sách Nhà nước. - Phương tiện vận chuyển bằng đường biển" Là ngành công nghiệp non trẻ. Mặc dù đã có sự cố gắng nhưng chưa kích thích được nhu cầu của người Việt Nam đi du lịch bằng tàu biển. Việt Nam có lợi thế đường bờ biển dài do đó qui hoạch xây dựng các cảng biển đến 2010 có khoảng 92 cảng thuận lợi cho tàu cập bến. Thu hút khách du lịch bằng tàu biển bằng cách nâng cao chất lượng phục vụ, thiết bị với phục vụ trên tàu thuận lợi kết hợp với trên đất liền. Tham quan tài nguyên du lịch, di tích lịch sử văn hoá…. tổng lượng khách tăng nhanh từ 18.414 khách năm 1993 đến 187.932 người năm 1999, tăng 47,25%năm. - Phương tiện vận chuyển đường sắt: ở nước ta ít sử dụng do các ga chỉ dừng lại ở các thành phố, thị xã. Việc đi tiếp đến điểm du lịch là khó khăn. b. Hoạt động kinh doanh lữ hành. Hiện nay trên cả nước có hơn 100 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, hàng trăm doanh nghiệp lữ hành nội địa do đó rất chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, tăng cường mở các tour, tuyến, loại hình du lịch mới: du lịch sinh thái, du lịch xuyên Việt…Công tác tiếp thị, quảng cáo du lịch ở nước ngoài được tăng cường 180 doanh nghiệp tích cực tham gia hội chợ quốc tế. Các hãng doanh nghiệp kinh doanh lữ hành: nhận, gửi khách quốc tế, nhận, gửi khách nội địa. Năm 2000 chỉ riêng trên địa bàn Hà Nội 5.000 nghìn lượt khách chiếm 23% trong tổng lượt khách đến Việt Nam và từ 42 nghìn lượt khách nội địa lên 2 triệu lượt khách năm 2000 chiếm 21% trong tổng số khách nội địa cả nước. Hạn chế: Chiến tranh giữa các doanh nghiệp lữ hành ngày càng gay gắt, thiếu lành mạnh, môi trường kinh doanh lộn xộn điều đó đã tạo cho doanh nghiệp lữ hành nước ngoài lợi dụng ép giá cũng như can thiêpj sâu hơn vào hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp còn thụ động ngồi chờ khách không chủ động tìm kiếm đối tác và nguồn khách vì vậy hưởng kinh doanh còn thấp. c. Kinh doanh khách sạn. Cả nước có 3.000 khách sạn với 66.000 phòng trong đó có 461 khách sạn 1 - 5 sao. Công suất sử dụng chưa cao vẫn còn để lãng phí. Theo một số nhận xét thì cung>cầu chỉ là tạm thời. Hiện nay trên địa bàn cả nước có 125 dự án đầu tư đang hoạt động trong lĩnh vực khách sạn - du lịch. Trong 6 tháng đầu năm 2001 công suất sử dụng buồng, phòng khách sạn tại các thành phố lớn như sau: Tại Hà Nội: Công suất phòng khách sạn bình quân >60% Tại TP Hồ Chí Minh: Công suất phòng khách sạn bình quân >47% Tại Hải Phòng: Công suất phòng khách sạn bình quân >54,5% Tại TP Huế: Công suất phòng khách sạn bình quân >62% d. Kinh doanh các dịch vụ khác liên quan đến du lịch Nhằm làm cho sản phẩm, dịch vụ du lịch được chất lượng, đầy đủ và có tiếng nói trên thị trường thì các hoạt động kinh doanh thông tin du lịch, tư vấn du lịch, bảo hiểm du lịch, đầu tư du lịch… cũng phát triển mạnh mẽ. Tóm lại: + Năm 2000 đã đón được trên 2 triệu khách quốc tế đến Việt Nam. Hoạt động du lịch cả nước mang lại doanh thu cho xã hội ước tính >1,2 tỷ USD tăng 19% so với năm 1999. + Trong 6 tháng đầu năm 2001 kết quả sản xuất kinh doanh ước tính như sau: Sản lượng khách quốc tế đến Việt Nam là 1.182.000 lượt người bằng 53,7% kế hoạch năm tăng 8,5% so với cùng kỳ. Trong đó khách đi bằng đường hàng không tăng 20%, đường biển tăng 7% so với cùng kỳ. Sản lượng khách nội địa khoảng 5,7 triệu lượt người, doanh thu toàn ngành đạt 5.650 tỷ đồng đạt 57,3% kế hoạch năm. Tăng 85,8% so với cùng kỳ 2000. + Các thị trường then chốt du lịch Việt Nam gồm: Trung Quốc , Đài Loan, Nhật Bản, ASEAS, Tây Âu, Bắc Mỹ (chủ yếu là Mỹ). Dưới đây là sản lượng khách của một số thị trường. Khách Trung Quốc: Sản lượng từ 2.738 khách (1992) lên 484.102 khách 1999. Khách Đài Loan: 70.143 khách (1992) lên 224.127 khách 1995, năm 1996 - 1999 giảm nhanh chỉ còn 173.920 khách năm 1999. Khách Nhật Bản: 19.119 (1992) đến 113.514 khách (1999). 2. Một vài đánh giá về phát triển du lịch Việt Nam. - Khách quốc tế vào Việt Nam bằng tàu biển có xu hướng tăng do đó cần đầu tư thích hợp để thu hút khách khai thác thế mạnh về bờ biển nước ta. - Ngoài các loại hình du lịch có tính chất truyền thống mà các đơn vị kinh doanh tập trung khai thác, các loại hình du lịch sinh thái, du lịch cuối tuần, du lịch tham quan và vui chơi, giải trí… đặc biệt mở ra loại hình du lịch đêm tại các chợ cho khách nước ngoài… - Năng suất lao động, chất lượng dịch vụ, hiệu quả kinh tế - xã hội và niềm tin của du khách đối với các doanh nghiệp du lịch, khách sạn, và cơ sở phục vụ thuộc khối liên doanh luôn có uy tín ưu thế hơn, công suất sử dụng buồng, phòng cao hơn hẳn những cơ sở quốc doanh và thành phần kinh tế khác. - Sự phối hợp giữa các đơn vị du lịch chưa thắt chặt chẽ nhịp nhàng gây nên sức ép từ phía bên ngoài. - Quản lý hoạt động du lịch vẫn còn sở hở. Nhiều tài nguyên bị khai thác mà không có tôn tạo bảo vệ, nhiều tài nguyên tu sửa xây dựng lại khác hẳn công trình ban đầu bị "bê tông hoá"… Các doanh nghiệp du lịch vẫn lợi dụng sơ hở quản lý của Nhà nước để trốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh… - Thị trường khách ở Bắc Mỹ đến Việt Nam giảm do vụ khủng bố sau ngày 11/9 sản lượng khách đã đặt phòng báo huỷ thiệt hại lớn cho ngành du lịch Việt Nam. - Tổng lượng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh kể từ sau Đại hội IX. Điều này có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển du lịch của đất nước. II- Thực trạng và sự tác động của môi trường kinh tế tới sự phát triển du lịch Việt Nam. 1. Tình hình kinh tế nước ta. Lịch sử phát triển kinh tế xã hội loài người đã chứng kiến những bước ngoặt căn bản từ mỗi giai đoạn, thời kỳ nhất định. Sau những bước ngoặt đó những biến đổi trong tri thức khoa học, trong cách thức sản xuất, trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội kéo theo những biến đổi to lớn trong đời sống chính trị xã hội loài người. Động lực chủ yếu để phát triển kinh tế đất nước là phát huy mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nhân - nông dân - trí thức. Kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy tiềm năng và nguồn lực của thành phần kinh tế của toàn xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN. Một đất nước không thể hùng mạnh mà lại cô lập với thế giới bên ngoài. Vì vậy Đảng ta đã xác định "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế phân đấu vì hoà bình độc lập và phát triển". Kể từ năm 1990 Mỹ bãi bỏ cấm vận nước ta đến nay. Nền kinh tế nước ta đang từng ngày từng giờ vận động trong nhịp sống mới. Chính sách mở cửa khuyến khích tất cả thành phần kinh tế, hộ gia đình tham gia voà nền kinh tế thị trường. Guồng máy ấy hoạt động ngày càng có hiệu quả đưa nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, mạnh, vững bằng chính sức mạnh nội lực của mình. Tình hình kinh tế được thể hiện ở những yếu tố sau: a. Qui mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thị trường trong nước rất sôi động không bó hẹp trong nước, các nước lân cận Việt Nam đã vươn sang cả những thị trường xa xôi. Do đó tốc độ tăng trưởng các ngành đều tăng cao. Trong những năm 1992 - 1997 nền kinh tế nước ta vẫn tăng cao ổn định trên 8% mặc dù năm 1997 bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính Châu á. Tính theo GDP đầu người giai đoạn này đạt trên dưới 6,5% mỗi năm. Tình hình kinh tế xã hội quí I/2001. Tốc độ tăng GDP so với các năm trước được thể hiện ở bảng dưới đây. Năm 1999 2000 2001 Tốc độ tăng GDP 4,1% 5,6% 7,2% Lạm phát 2,9% 0,8% 0,0% Năm 1999 GDP bình quân đầu người = 310$ Năm 2000 tốc độ tăng GDP 7% Phấn đấu năm nay nhịp độ tăng GDP 7,5 - 8%. 6 tháng đầu năm nay tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đất nước có sự chậm hơn so với kế hoạch dự báo. Đó là ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân nổi trội nhất là nền kinh tế thế giới đang có dâú hiệu phát triển chậm lại. Theo đánh giá của chuyên gia kinh tế nước ngoài mới đây: "Hoạt động kinh tế Việt Nam có những dấu hiệu tích cực bất chấp môi trường bên ngoài kém đi". Song không phải vì thế mà sự phát triển du lịch bji chững lại mà vẫn tiếp tục tăng chứng tỏ nhu cầu về đời sống tinh thần của tầng lớp dân cư không ngừng tăng lên và trong chừng mực nhất định nào đó du lịch ít bị ảnh hưởng của những yếu tố lạm phát. b. Xu hướng phát triển của ngành dịch vụ. Sản phẩm của ngành dịch vụ mang tính vô hình, do đó khách hàng không thể kiểm tra đo lường chất lượng trước được. Mặt khác ngành dịch vụ phát triển ngày càng phong phú đa dạng về sản phẩm có sức hút lớn khi mà đời sống xã hội được nâng lên. Kinh tế dịch vụ luôn gắn liền với xu hướng vận động của nền kinh tế trong nước và quan hệ kinh tế quốc tế. Do đó ngành dịch vụ luôn cố gắng, nỗ lực để phục vụ khách hàng tốt nhất. Năm 2000 tổng doanh thu ngành dịch vụ bằng 40,7% tổng GDP cả nước 1999 bằng 40,5% tổng GDP cả nước 2000. c. Tình trạng cán cân thanh toán quốc tế. Xuất khẩu tăng trong quí I/2000 nhưng chưa đạt tốc độ đề ra xuất khẩu tăng làm cho việc thu ngoại tệ tăng lên, làm cho tỷ giá hối đoái trên thị trường của đồng Việt Nam đối với ngoại tệ thấp hơn. Do đó khi khách du lịch vào bị thiệt điều đó không có lợi cho ngành du lịch. d. Sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác. Nhà nước đầu tư vốn vào xây dựng thấp hệ thống đường xá, mua sắm các phương tiện vận chuyển. Đối với ngành tiểu thủ công nghiệp được phục hồi với những làng nghề truyền thống trên khắp 3 miền đất nước. Ngành nông nghiệp phát triển nhanh; bưu chính viễn thông, hải quan… cũng tham gia tích cựuc vào sự phát triển nền kinh tế đất nước, phục vụ thuận tiện cho khách du lịch, nhà kinh doanh du lịch. e. Tỷ trọng dân trong độ tuổi lao động tích cực. Phản ánh trình độ phát triển nguồn lao động của xã hội. Nước ta là nước có dân số trẻ vì tỷ lệ dân trong độ tuổi lao động cao chiếm 63,5% tổng lao động, tuy nhiên lao động kỹ thuật còn quá ít. Năm 2000 nguồn lao động tăng lên 16,5% tổng lao động xã hội, nó phản ánh nguồn cung lao động tăng rất nhanh. Hiện nay tỷ lệ người thất nghiệp rất cao. 2. Sự tác động của môi trường kinh tế tới sự phát triển du lịch Việt Nam. Kinh tế là nguồn gốc, là cơ sở cho nhu cầu đi du lịch của người dân. Trước đây hoạt động đi du lịch còn mang tính manh mún lẻ tẻ thì giờ đây du lịch đã có tổ chức thông qua các đại lý lữ hành. Các đại lý này phân bổ khắp nơi; tạo thành mạng lưới sẵn sàng có ở mọi nơi phục vụ khách hàng. Kinh tế đất nước phát triển đã nâng cao và cải thiện được chất lượng phương tiện, phục vụ, cơ sở hạ tầng sau nữa là ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và xây dựng những chiến lược phát triển du lịch trong mối quan hệ tương tác nhanh chóng và chính xác hơn. - Các ngành kinh tế không ngừng phát triển làm tăng ngân sách Nhà nước từđó hoạt động đầu tư cho du lịch được quan tâm hơn. Nhà nước đã đầu tư vào công trình nâng cấp tu sửa, xây dựng mới hệ thống đường giao thông đến các điểm du lịch, các trung tâm thành phố. Mua sắm đội máy bay để phục vụ cho vận chuyển đầu tư, tu sửa, tôn tạo những công trình khác mang tính lịch sử, ghi lại những dấu ấn của một thời kỳ nhất định, khôi phục những làng nghề truyền thống. Toàn ngành du lịch huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển du lịch ở trong nước và nước ngoài do hợp tác đa phương được đẩy mạnh và chủ động hơn những năm trước. Du lịch Việt Nam xuất hiện trong các diễn đàn, các sự kiện quốc tế với một vị thế mới cao hơn như diễn đàn ASEAN - ATF 2001 ở Brunei đồng thời tranh thủ sự tài trợ của các nước. Tổng Cục Du lịch triển khai dự án "Điều chỉnh qui hoạch tổng thể phát triển bền vững du lịch Việt Nam 2001 - 2002" rồi tiếp đến mở rộng hợp tác với tiểu vùng MêKông chuẩn bị hợp tác du lịch Việt Nam Lào - Cămphuchia, tham gia hợp tác du lịch APEC, Tổng Cục Du lịch đã chuẩn bị phương án cam kết làm việc du lịch, phục vụ Việt Nam đàm phán gia nhập tổ chức thương mại quốc tế. Chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài với việc ra đời Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 là đúng đắn kịp thời. Nhờ đó đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước tạo thế và lực cho kinh tế nói chung du lịch nói riêng. Tính đến 20/6/2001 có 2.802 dự án đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư 36,75 tỷ $ Mỹ trong đó trên 1.300 dự án đi vào sản xuất có doanh thu. Việc đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực du lịch và khách sạn thời gian qua cũng đã thu được những kết quả nhất định đánh thức tiềm năng du lịch trong nước. Dự án đầu tư đáp ứng kịp thời nhu cầu buồng, phòng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế và vui chơi giải trí. Trong cả nước hiện có 125 dự án đang hoạt động trong lĩnh vực khách sạn du lịch với tổng vốn đầu tư 3,5 tỷ $ Mỹ, bao gồm 85 dự án khách sạn với tổng vốn đầu tư 2,15 tỷ $ Mỹ và 40 dự án kinh doanh sân golf, khu thể thao, vui chơi giải trí với tổng đầu tư 1,4 tỷ $ Mỹ. Hoạt động đầu tư tăng sản phẩm mới; du lịch mới mang tính đặc thù Việt Nam, đầu tư nghiên cứu thị trường, đầu tư cho việc tôn tạo bảo vệ, giữ gìn, tăng nguồn TNDL, đảm bảo phát triển bền vững tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch với hiệu quả cao nhất, hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro. Ngoài ra nhờ kinh tế phát triển mà việc giáo dục, tuyên truyền, nâng cao chất lượng phục vụ của nhân viên trong ngành, những người sắp vào nghề, cư dân địa phương… có những kết quả đáng kể. Có nhiều loại hình du lịch mới được nghiên cứu, xây dựng và triển khai. Cùng với những loại hình du lịch truyền thống, những loại hình du lịch mới như: Du lịch hang động, sinh thái, du lịch đêm… tạo ra hệ thống sản phẩm có sức hấp dẫn đối với du khách. Mỗi vùng có một lễ hội dân tộc riêng được tổ chức trên khắp vùng quê của tổ quốc gây chú ý đối với du khách, dư luận trong và ngoài nước. Nhiều địa phương đã huy động vốn ngân sách vốn trong dân; vốn liên doanh liên kết phát triển cơ sở vật chất kinh tế du lịch nhất là các cơ sở vui chơi giải trí. Đầu tư xây dựng 4 trung tâm du lịch quốc gia: Hạ Long - Cát Bà; Lăng Cô - Bạch Dương - Non nước; Văn Phong - Đại Lãnh và đan Kia - suối vàng với tổng vốn 2.800 tỷ đồng và 16 tuyến du lịch chuyên đề cả 3 miền Bắc, Trung, Nam… Mở rộng hợp tác về du lịch giữa các địa phương là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự phát triển du lịch của vùng nhằm tăng cường sức mạnh và tận dụng ưu thế từng địa phương bổ sung khai thác sản phẩm đem lại lợi ích cho mỗi nơi. Phát triển du lịch quốc gia phải chú trọng phát triển du lịch địa phương. - Sự tác động của khoa học công nghệ tới sự phát triển của du lịch Sự bùng nổ khoa học kỹ thuật đã gây nên đột biến trong tăng trưởng kinh tế. Lĩnh vực công nghệ thông tin được sử dụng hầu hết trong kinh doanh du lịch và được AD một cách có hiệu quả trong quản lý các hoạt động kinh doanh khách sạn, lữ hành. Sử dụng (công nghệ thông tin đã giảm được chi phí, tiết kiệm do giảm thời gian sử dụng đại lý trung gian, mô tả được tính khắc biệt của sản phẩm du lịch bằng cả âm thanh, hình ảnh sống động mà không có hình thức quảng cáo thông thường nào có thể diễn tả hết được, có khả năng tập trung vào những thị trường trọng điểm vàvừa có thể cung cấp thông tin cho thị trường rộng lớn. Do đặc điểm của sản phẩm du lịch khách hàng thường phải tới nơi cung cấp mới tiêu dùng được sản phẩm hơn nữa khách hàng lại ở xa rải rác so với nơi có sản phẩm, khách hàng không thấy được sản phẩm trước khi qui định mua do vậy họ phải tthu thập thông tin chọn mua các sản phẩm qua mạng Intenet, thương mại điện tử. Thiết lập được mạng lưới dịch vụ đặt trước mà không đòi hỏi thêm chi phí dtvà nhân viên. Điều hạn chế ở nước ta là công nghệ thông tin chỉ tập trung ở những thành phố lớn. Do đó chỉ có khả năng thu hút thị trường khách ở đây và khách quốc tế …, mặt khác do nhận thức của nhân dân về công nghệ thông tin còn rất mới mẻ và lạ lẫm. Hoạt động du lịch là hướng vào những hoạt động đáp ứng nhanh và đa dạng những nhu cầu của khách du lịch do đó đưa KHCN trang thiết bị hiện đại vào kinh doanh du lịch là hết sức cần thiết. Các khách sạn liên doanh với nước ngoài ở nước ta có hệ thống trang thiết bị tương đối hiện đại và tiện lợi đáp ứng được nhu cầu của khách hàng quốc tế như: máy ngửi khói, còi báo động, vòi phun nước…. Nhờ có thành tựu khoa học công nghệ mà nước ta đã sắm được những phương tiện vận chuyển hiện đại như ô tô có chất lượng cao, máy bay hiện đại v.v… Phát triển hoạt động du lịch không thể không nói đến nhân tố con người. Đó là nguồn lực quan trọng để phát triển du lịch. Theo nghiên cứu gần đây Việt Nam có mức tăng trưởng kinh tế rất cao (>5%/nă) song mức chi tiêu vào giáo dục cơ bản và sau cơ bản không cao (chiếm từ 2,2% GNP đến 3,8% GNP).. đầu tư vào con người là hình thức đầu tư đặc biệt thông qua hình thức giáo dục nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ…. đây là hình thức đầu tư đúng đắn và chỉ mới con người mới qui định sự phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững. Tài nguyên bất kỳ nước nào cũng có hạn nhưng tài nguyên trí thức thì không bao giờ cạn. Do đó tăng trưởng trong tương lai phụ thuộc vào tri thức con người.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35178.doc
Tài liệu liên quan