Đề án Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống thu và quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam

Thời gian hơn 5 năm hoạt động chưa phải là dài, tuy nhiên cùng với sự giúp đỡ của Nhà nước và sự nỗ lực của bản thân ngành BHXH, hệ thống BHXH đã từng bước hoàn thành những chức năng, nhiệm vụ cơ bản của ngành. Trong đó công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH đã góp phần tạo điều kiện cho việc thực hiện các công tác khác của ngành BHXH, cũng như hoàn thiện ngành. Công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH không những tạo điều kiện cho việc chi trả trợ cấp cho người lao động nhằm ổn định cuộc sống của họ mà còn góp phần ổn định, cân đối thu chi, giảm dần sự bao cấp của NSNN cho quỹ. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH vẫn còn nhiều điểm tồn tại cần khắc phục giải quyết trong thời gian tới. Trong phạm vi đề án này, dựa trên cơ sở lý luận chung và phân tích tình hình thực tiễn thời gian qua, em đã đưa ra một số giải pháp cần thiết để hoàn thiện công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam. Kính mong sự góp ý của các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế Bảo hiểm.

doc34 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1247 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống thu và quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tượng tham gia BHXH chỉ giới hạn là cán bộ công nhân viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước và lực lượng vũ trang. Việc đóng góp của người lao động là rất nhỏ, nên nguồn quĩ chủ yếu là do ngân sách Nhà nước bao cấp. Quĩ BHXH thực sự là một gánh nặng của ngân sách Nhà nước. Vấn đề cấp bách đặt ra là cải cách phương thức thu và quản lý thu quĩ BHXH cũng như các vấn đề khác liên quan như các chế độ chi trả, qui định mức hưởng trợ cấp của từng chế độ. 2.2. Quỹ BHXH Việt nam sau năm 1995: Sau Nghị định 12/CP năm 1995, chính sách BHXH mới đã có nhiều cải tiến mang lại tác dụng nhiều mặt trong việc bảo đảm an toàn xã hội. Đối tượng tham gia BHXH mở rộnh hơn thể hiện ở chỗ áp dụng đối với mọi người lao động trong cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế. Quĩ BHXH chủ yếu được hình thành trên cơ sở đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, Nhà nước chỉ hỗ trợ thêm. Chính phủ thành lập cơ quan BHXH Việt Nam có chức năng và nhiệm vụ quản lý quĩ BHXH, thực hiện thu, chi trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH. Như vậy, quĩ BHXH là một quĩ tài chính độc lập, thực hiện tự cân đối thu chi và đang giảm dần sự bao cấp của ngân sách Nhà nước. Thực hiện cơ chế mới, quĩ BHXH đã dần dần đảm bảo ổn định cuộc sổng của người lao động và gia đình họ, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nội dung thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam Các nguồn thu quĩ BHXH Việt Nam Quĩ BHXH Việt Nam được hình thành từ các nguồn sau: do người lao động đóng góp, do người sử dụng lao động đóng góp, do Nhà nước bù thiếu và một số nguồn thu khác như: tiền nộp phạt của các doanh nghiệp chậm nộp tiền bảo hiểm, lãi đầu tư, giúp đỡ của các tổ chức từ thiện và quốc tế. Do người lao động đóng góp Người lao động - với tư cách là người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm đóng 5% so với tổng tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất. Tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH gồm lương theo ngạch bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp khu vực, đắt đỏ, chức vụ, thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có). Các đối tượng tham gia đóng BHXH bắt buộc như sau: Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên. Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp; trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể. Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang. Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện (hiện nay đã mở rộng đến cấp xã, phường). Công chức viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện. Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc. Như vậy, những đối tượng được tham gia BHXH theo Nghị định 12/CP năm 1995 bao gồm người lao động trong mọi thành phần kinh tế và người lao động trong hầu hết các ngành. Tuy nhiên, cũng theo Nghị định này, đời sống của một lực lượng lao động đông đảo là nông dân nông thôn vẫn chưa được bảo đảm bởi hệ thống BHXH. Ngoài ra, còn có thợ thủ công, tiểu thương, người lao động trong các doanh nghiệp sử dụng ít hơn 10 lao động vẫn chưa được tham gia BHXH. Vì vậy, vấn đề mở rộng đối tượng tham gia BHXH là cấp thiết đối với hệ thống BHXH Việt Nam. Giải quyết được vấn đề này không những nhằm đảm bảo ổn định đời sống của toàn bộ xã hội mà còn là biện pháp để tăng nguồn thu quĩ BHXH. Do người sử dụng lao động đóng góp Khi thuê mướn người lao động, người sử dụng lao động cũng có nghĩa vụ đóng góp BHXH cho người lao động. Cụ thể là người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quĩ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Người sử dụng lao động có thể là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Nhà nước cũng tham gia đóng góp vào quĩ BHXH với tư cách là người sử dụng lao động tại các cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể, các tổ chức thuộc lực lượng vũ trang. Như vậy, tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động gấp 3 lần tỷ lệ đóng góp của người lao động. Thông thường, ở các nước thì người sử dụng lao động đóng góp xấp xỉ gấp hai lần so với tỷ lệ đóng góp của người lao động. Nhà nước bù thiếu Ngoài việc tham gia đóng góp vào quĩ BHXH với tư cách người sử dụng lao động, ngân sách Nhà nước còn bù thiếu cho quĩ BHXH để giúp cho việc chi trả các chế độ hưu trí, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp mất sức lao động, bảo hiểm y tế, tử tuất đối với người đang hưởng BHXH trước Nghị định 43/CP năm 1993 và hỗ trợ để chi trợ cấp cho công nhân, viên chức nghỉ hưu sau Nghị định 43/CP. Như vậy, quĩ BHXH hạch toán độc lập nhưng vẫn chịu sự bao cấp một phần từ ngân sách Nhà nước, được sự bảo hộ của Nhà nước. Qui định này góp phần ổn định thu chi quĩ BHXH cũng như ổn định tình hình kinh tế xã hội. Tuy nhiên, xu hướng của quĩ BHXH Việt Nam là giảm dần bao cấp của ngân sách Nhà nước và tiến tới tự cân đối thu chi. Bên cạnh các nguồn thu cơ bản từ người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước, quĩ BHXH còn được bổ sung bằng các nguồn khác tuy không ổn định nhưng cũng chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu quĩ BHXH. Các nguồn khác Do tham gia BHXH là bắt buộc nên cũng như nộp tiền bảo hiểm y tế, các loại thuế ..., tiền BHXH của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế do Nhà nước qui định tài khoản nộp, thời hạn nộp. Vì vậy, Nhà nước cũng có chế tài phạt doanh nghiệp nào chậm nộp tiền BHXH. Những doanh nghiệp chậm nộp tiền BHXH, ngoài tiền BHXH truy thu còn phải nộp thêm tiền lãi và tiền nộp phạt theo qui định của Nhà nước. Nguồn thu này ngoài tác dụng tăng thu cho quĩ BHXH còn là điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp nộp tiền BHXH đúng hạn để đảm bảo thu chi của quĩ BHXH. Một nguồn thu không thường xuyên khác của quĩ BHXH là viện trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo của các tổ chức trong nước và quốc tế. Tuy là nguồn thu không thường xuyên, nhưng nguồn thu này cũng góp phần bổ sung đáng kể cho quĩ BHXH, giúp quĩ thực hiện chức năng đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ. Một nguồn thu khác cũng hết sức quan trọng, đó là lãi thu được từ hoạt động đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của quĩ BHXH. Do quĩ BHXH hoạt động theo nguyên tắc thu trước, chi sau nên quĩ cần phải được bảo toàn và phát triển. Theo qui định của Nhà nước thì một lượng vốn nhàn rỗi nhất định của quĩ BHXH có thể được đem đầu tư để thu lãi nhưng phải bảo đảm nguyên tắc an toàn, có lãi và đảm bảo lợi ích kinh tế xã hội. Hiện nay, quĩ BHXH nhàn rỗi được phép cho vay để thu lợi nhuận theo chỉ định của Nhà nước, cụ thể là do Bộ Tài Chính chỉ định. Như vậy, việc quản lý đầu tư quĩ BHXH chưa được tập trung, thống nhất. Tổ chức BHXH Việt Nam quản lý hoạt động sự nghiệp của hoạt động BHXH, chịu trách nhiệm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quĩ nhưng lại không được phép quyết định hoạt động đầu tư quĩ. Một điểm hạn chế nữa, danh mục đầu tư quĩ BHXH Việt Nam rất nghèo nàn và đều là các lĩnh vực có lãi suất thấp: Đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế xã hội đất nước Đầu tư mua trái phiếu, công trái Gửi vào ngân hàng Nhà nước 3.2. Tổ chức thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam Theo Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ, hệ thống BHXH Việt Nam được thành lập đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, sự quản lý Nhà nước của bộ Lao động - thương binh và xã hội và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan, sự giám sát của các tổ chức công đoàn. Theo Nghị định này, cơ quan BHXH Việt Nam là đơn vị tổ chức thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam. Về mặt tổ chức, BHXH Việt Nam hình thành một hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương và được chia thành 3 cấp: cấp Trung ương ; cấp tỉnh, thành phố ; cấp quận, huyện. Vì vậy thu và quản lý thu quĩ BHXH cũng được phân cấp cho phù hợp với cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Nhiệm vụ của từng cấp quản lý như sau: * BHXH cấp huyện có nhiệm vụ : Tổ chức thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản tại địa bàn huyện gồm: - Các đơn vị do huyện trực tiếp quản lý - Các đơn vị ngoài quốc doanh sử dụng 10 lao động trở lên - Các xã, phường, thị trấn - Các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu Lập kế hoạch thu BHXH trên địa bàn huyện cho năm sau và gửi cho BHXH tỉnh Chuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh Lập báo cáo tình hình thực hiện thu BHXH trên địa bàn huyện hàng tháng, quí, năm và gửi cho BHXH tỉnh Kiểm tra, thẩm định số liệu thu của các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện * BHXH cấp tỉnh Tổ chức thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động đóng trên địa bàn tỉnh gồm: - Các đơn vị do Trung ương quản lý - Các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - Các đơn vị, tổ chức quốc tế - Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng lao động lớn - Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài - Các đơn vị sử dụng lao động mà BHXH huyện không đủ điều kiện thu Lập kế hoạch tổng hợp thu BHXH trên địa bàn tỉnh cho năm sau Chuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam Lập báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện thu BHXH trên địa bàn tỉnh hàng tháng, quí, năm và gửi cho BHXH Việt Nam Kiểm tra thẩm định số liệu thu của các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh và của BHXH huyện cấp dưới * BHXH Việt Nam Thu BHXH của BHXH bộ Quốc phòng, bộ Công an, ban cơ yếu Chính phủ Lập kế hoạch thu BHXH trong toàn bộ hệ thống BHXH, giao kết kế hoạch thu BHXH cấp dưới Kiểm tra thẩm định số liệu thu của BHXH cấp dưới Báo cáo tình hình hoạt động của hệ thống BHXH lên Chính phủ, bộ Lao động - thương binh và xã hội và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan Các đơn vị, doanh nghiệp có người lao động tham gia BHXH phải có trách nhiệm báo cáo cho BHXH cấp tương ứng về số lao động tham gia BHXH và quỹ tiền lương của doanh nghiệp; trích và nộp tiền BHXH vào tài khoản thu BHXH tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc tại Kho bạc Nhà nước theo đúng thời hạn quy định . Theo cơ cấu thu trên, các cấp quản lý thu BHXH được phân công, phân nhiệm rõ ràng, không có sự trùng lắp ở các cấp. Ngoài ra, hệ thống quản lý thu theo chiều dọc giúp cho việc kiểm tra, thẩm định hoạt động của các cấp được dễ dàng. Hiện nay, mô hình quản lý thu như trên đang được áp dụng trong hệ thống BHXH Việt Nam. Do nhiều nguyên nhân mà tình hình thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại cần giải quyết. Sau đây chúng ta hãy xem xét tình hình thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam. Phần hai: Tình hình thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam những năm gần đây (1995 - 2000) Tình hình số người tham gia BHXH tại Việt Nam (1995 - 2000) Theo Nghị định 12/CP năm 1995, ngoài những người lao động được tham gia BHXH đã nêu ở trên, còn một lượng lớn lao động trong lực lượng lao động ở nước ta chưa tham gia BHXH như lao động nông nghiệp ở nông thôn, những người lao động làm việc tự do, không ổn định (thợ thủ công, tiểu thương, lao động làm việc theo mùa vụ ngắn hạn ...). Số lao động chưa tham gia BHXH này không phải là nhỏ, chiếm khoảng 40% lực lượng lao động ở nước ta. Tuy nhiên, số lao động thuộc diện tham gia BHXH thuộc các thành phần kinh tế cũng vẫn chưa tham gia BHXH đầy đủ. Tình hình thực tế như sau: Bảng 1: Số lao động tham gia BHXH tại Việt Nam giai đoạn (1995-2000) Năm Tổng số (người) Tốc độ tăng liên hoàn (%) KV tư nhân - ngoài quốc doanh (người) Tốc độ tăng (%) DN vốn nước ngoài (người) Tốc độ tăng(%) 1995 1996 1997 1998 1999 2275998 2961444 3162352 3355589 3579427 - 30,1 6,78 6,1 6,7 30063 56280 84058 122685 125279 - 87,2 49,4 46 37 78791 125889 214596 242108 361522 - 59,8 70,5 12,8 49,3 (Nguồn : Tạp chí BHXH 5/2000) Xét về số lao động tham gia BHXH tại Việt Nam, theo bảng trên ta thấy, sau khi đổi mới hệ thống BHXH Việt Nam, số lao động tham gia BHXH liên tục tăng lên với tốc độ cao. Năm 1995, số người lao động tham gia BHXH là 2,2 triệu, đến năm 1999, con số này đã tăng đến 3,6 triệu, như vậy là tăng khoảng 60%. Chưa kể hàng năm có khoảng 15 vạn lao động về hưu không được liệt kê vào bảng số liệu trên. Năm 1995 là năm gốc của đổi mới, số lao động tham gia BHXH mới chỉ đạt 2.275.998 người. Sang năm 1996, sau khi có đầy đủ số liệu về số lao động thuộc diện tham gia BHXH, quĩ lương... một số lượng lớn lao động ở các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng 10 lao động trở lên đã tham gia BHXH. Số người tham gia BHXH năm 1996 tăng lên 685.446 nghĩa là tăng 30,1% so với năm 1995. Các năm sau 1997, 1998, 1999, số người lao động tham gia BHXH liên tục tăng tốc độ hơn 6%/năm. Tuy nhiên, khi so sánh lượng tăng tuyệt đối trung bình của giai đoạn 1995 - 2000 là khoảng 300.000 người với 1.200.000 lực lượng tăng tự nhiên hàng năm của Việt Nam thì số người tham gia bảo hiểm tăng thêm chiếm 1/4 số người lao động tăng thêm. Tất nhiên, trong 1,2 triệu lao động tăng thêm hằng năm còn bao gồm cả thất nghiệp, người làm việc ở khu vực tư nhân, tiểu thương, thợ thủ công... Mặt khác, Việt nam hiện nay có khoảng 38 triệu lao động ,nhưng chỉ 14% trong số đó tham gia BHXH. Vậy trong những năm tới, Nhà nước cũng như ngành bảo hiểm xã cần có những giải pháp tích cực để tăng số người tham gia BHXH . Như vậy, nhìn chung là số người tham gia BHXH tăng liên tục với tốc độ cao qua các năm. Tuy nhiên tỉ lệ số người tham gia BHXH so với tổng số lao động còn thấp, đặc biệt là khi so sánh với các nước trên thế giới: tỉ lệ này là xấp xỉ 95% ở các nước kinh tế phát triển . Tình hình chung là như vậy, nhưng để tìm ra nguyên nhân của thực trạng và giải pháp thích hợp để tăng số người tham gia BHXH, chúng ta cần xem xét tình hình người lao động tham gia BHXH ở từng khối - loại hình kinh tế. Đối với khối hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang, do lương của người lao động được ngân sách Nhà nước cấp nên số lao động tham gia hoạt động trong khu vực này đảm bảo tham gia BHXH đầy đủ. Cũng như vậy, trong khối doanh nghiệp Nhà nước - những doanh nghiệp do Nhà nước cấp vốn thành lập và quản lý - do hệ thống quản lý lao động, tiền lương chặt chẽ nên người lao động tại các doanh nghiệp này tham gia BHXH cũng đầy đủ. Cụ thể là, năm 1999, số người lao động tham gia BHXH khối hành chính sự nghiệp là 1.367.341 người; khối doanh nghiệp Nhà nước là 1.521.256 người. Số người lao động tham gia BHXH ở hai khối ngành này chiếm hơn 3/4 số người lao động tham gia BHXH cả nước. Trong những năm tới, ở hai khối ngành này, do hầu hết lao động đều tham gia BHXH đầy đủ nên số người lao động tham gia bảo hiểm sẽ tăng không mạnh. Ngược với xu hướng của 2 khối ngành trên, số người lao động tham gia BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số người lao động tham gia BHXH cả nước cũng như so với số người tham gia lao động trong lĩnh vực này. Trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bảng 1 cho chúng ta thấy, số người tham gia BHXH liên tục tăng mạnh trong các năm từ 1995 đến 1999. Số lao động tham gia BHXH năm 1999 so với năm 1995 tăng từ 30.063 đến 125.279 người, nghĩa là tăng gấp 4 lần. Đây cũng là khu vực có số lao động tham gia BHXH tăng mạnh nhất so với các loại hình kinh tế khác với tốc độ tăng bình quân 60%/năm. Tuy nhiên, khi so sánh với số lao động tham gia hoạt động trong khu vực thì số lao động tham gia BHXH chỉ chiếm hơn 10%. Hơn thế nữa, số lao động tham gia BHXH này chỉ tập trung ở một số tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài lý do là đối tượng tham gia BHXH chỉ giới hạn là lao động ở các doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên, thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều phía: Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động: Về phía Nhà nước: Nhà nước, chính quyền địa phương còn chưa quan tâm đúng mức đến khu vực lao động này, chưa có chế độ kiểm tra, quản lý, xử lý cũng như chế tài thoả đáng để đảm bảo nghĩa vụ cũng như quyền lợi của người lao động. Ngoài ra, còn do sức ép về việc làm của khu vực này mà các cơ quan chức năng nhiều khi lúng túng trong việc thực hiện các biện pháp chế tài của pháp luật. Về phía người sử dụng lao động: Do đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là các đơn vị kinh tế nhỏ, hoạt động sản xuất kinh doanh còn chưa ổn định, số đầu doanh nghiệp nhiều nhưng các yếu tố như lao động, địa bàn, hoạt động... lại thường xuyên thay đổi dẫn đến quan hệ lao động lỏng lẻo. Đây chính là yếu tố gây tâm lý né tránh nghĩa vụ nộp BHXH của người chủ sử dụng lao động ở khu vực này. Mặt khác, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lãi ít, thu nhập người lao động thấp nên đóng BHXH cũng gây khó khăn cho cuộc sống người lao động. Về phía người lao động: Người lao động ít hiểu biết về pháp luật, chưa có khái niệm về BHXH hoặc ít quan tâm đến BHXH nên cũng không yêu cầu chủ thực hiện BHXH cho mình. Hiện nay, các khu vực ngoài quốc doanh còn 86% lao động chưa tham gia BHXH. Thực trạng này đòi hỏi Nhà nước và cơ quan BHXH Việt Nam có các biện pháp giải quyết để hoàn thiện hệ thống BHXH và đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động. Khu vực có số người tham gia BHXH tăng nhanh kế tiếp là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm: doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Số lao động tham gia BHXH ở khu vực này tăng rất nhanh từ 78.791 người năm 1995 lên đến 361.522 người năm 1999. Tốc độ tăng bình quân cao khoảng 40%/năm. Duy chỉ có năm 1998, do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, mức độ vốn đầu tư vào Việt Nam giảm hẳn, ngoài ra còn do khó khăn về tài chính, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải giảm bớt số lượng công nhân, nên mức độ tăng tuyệt đối của số người tham gia BHXH đột ngột giảm, mức độ tăng tuyệt đối là 27.512 người so với mức độ tăng tuyệt đối các năm là hơn 100.000 người. Sang năm 2000, nền kinh tế châu á đã hồi phục, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng vì vậy số nhân công được thuê mướn sẽ tăng lên. Trong những năm tới, số người lao động tham gia trong lĩnh vực này sẽ có tốc độ tăng cao. Đây sẽ là nguồn thu lớn cho quĩ BHXH do số lượng lao động tham gia hoạt động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khá đông và tiền lương thu nhập của lao động trong khu vực này thường cao hơn hẳn các khu vực khác. Như vậy, nhìn chung, số người lao động tham gia BHXH có xu hướng tăng mạnh, liên tục qua các năm, trong cả nước cũng như trong tất cả các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, khi so sánh số người đã tham gia BHXH với số người thuộc diện tham gia BHXH thì tỷ lệ này còn rất nhỏ, đặc biệt là tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đóng góp của những người lao động tham gia BHXH và chủ của họ sẽ là nguồn hình thành chủ yếu của quĩ BHXH. Tình hình thu quĩ BHXH như sau: Tình hình thu quĩ BHXH Việt Nam (1995 - 2000) Biểu 1: Thực tế số thu của BHXH Việt Nam (1995 - 1999) Đơn vị: triệu đồng (Nguồn : Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 3 năm 2000) Số liệu bảng trên cho ta thấy số thu BHXH tăng lên liên tục qua các năm. Tổng thu BHXH qua năm năm đạt gần 15.000 tỷ đồng. Như đã nêu ở phần trước, năm 1996, số người lao động tham gia BHXH tăng mạnh so với năm 1995. Chính vì thế, số thu BHXH năm 1996 là 2.569.733 triệu người tăng gấp 3 lần số thu năm 1995 (778.486 triệu người). Các năm 1997, 1998, 1999, số thu BHXH tăng lên liên tục với tốc độ cao. Hai quý đầu năm 2000, số thu BHXH đạt khoảng 2.500 tỷ đồng. Chúng ta sẽ nhận thấy những thành tựu vượt bậc của BHXH Việt Nam nếu so sánh số thu BHXH giai đoạn 1995 - 2000 với số thu BHXH những năm trước khi đổi mới hệ thống BHXH Việt Nam. Lấy năm 1994 làm mốc, số thu BHXH năm 1994 là 420 tỷ đồng. Như vậy, năm 1995, số thu BHXH là 778 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với năm 1994. Năm 1999, số thu BHXH là 4.188 tỷ đồng, tăng gấp 10 lần năm 1994. Như vậy, chỉ qua năm năm đổi mới hệ thống thu và quản lý thu, BHXH Việt Nam đã tăng gấp 10 lần. Số thu BHXH tăng nhanh, liên tục qua các năm chứng tỏ cơ chế thu và quản lý quỹ BHXH Việt Nam đã đi đúng hướng, đảm bảo hiệu quả. Tuy nhiên, số thu BHXH Việt Nam vẫn còn thấp, chưa xứng đáng với tiềm năng lao động lớn ở nước ta. Nguyên nhân của tình trạng này như sau: Thứ nhất, số thu BHXH thấp do tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là 20% so với tổng quỹ lương. Tỷ lệ này còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tại các nước kinh tế phát triển như Bỉ, tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là 30% đến 40% so với tổng quỹ lương. Mặt khác, không những tỷ lệ đóng góp thấp mà mức lương để trích nộp BHXH cũng thấp và không đồng đều giữa các thành phần kinh tế. Người tham gia BHXH có mức lương trích nộp thấp nhất là người lao động tại các doanh nghiệp làm ăn không có hiêụ quả hoặc đang lỗ, hoạt động sản xuất cầm chừng. Mà số doanh nghiệp này hiện nay không phải là nhỏ. Người tham gia BHXH có mức lương trích nộp cao thường là người lao động có vốn đầu tư nước ngoài. Người tham gia BHXH trong khối hành chính sự nghiệp có mức lương trích nộp bằng mức lương tối thiểu nhân hệ số cấp bậc, chức vụ cộng các khoản phụ cấp. Từ 1/1/2000, mức lương tối thiểu bằng 180.000 đồng. Trước đó, tiền lương tối thiểu bằng 144.000 đồng. So với Indonesia - một nước nằm trong khu vực Đông Nam á, mức đóng góp tối thiểu bằng 1000Rp một ngày (quy đổi ) Thứ hai: số thu BHXH thấp nhưng tỷ lệ nợ đọng tiền đóng BHXH còn cao. Nhìn chung, tiền BHXH nợ bình quân 500 tỷ đồng, chiếm từ 11 đến 12% diện thu đã quản lý được. Nếu gọi tổng mức phải nộp BHXH là 100% trong một năm 12 tháng thì mức nợ một tháng chiếm 8,33% (tương ứng với 30 ngày). Số nợ tiền BHXH qa các năm như sau: Bảng 2: Số nợ tiền BHXH các năm 1995 – 1999 Tính đến ngày Số nợ/số phải nộp (%) Số ngày nợ tương ứng(ngày) 31/12/1995 31/12/1996 31/12/1997 31/12/1998 31/12/1999 11,3 8,3 11,2 10,0 9,0 40 30 40 36 32 Nguồn: Tạp chí BHXH tháng 5/2000 Qua số liệu trên, ta thấy, hệ thống thu BHXH đã có nhiều phấn đấu, điều chỉnh thích hợp để rút ngắn số ngày chiếm dụng tiền BHXH từ 40 ngày xuống32 ngày. Như vậy là giảm được 8 ngày. Mục tiêu của các năm tới là tiếp tục giảm số ngày chiếm dụng xuống mức phù hợp có thể chấp nhận được. Tình hình nợ đọng ở từng khối loại hình như sau: - Khối hành chính sự nghiệp: Do có nguồn tiền lương và tiền đóng BHXH ổn định, được ngân sách Nhà nước cấp nên mức chiếm dụng chỉ trong 7 ngày (ứng với chu kỳ phát lương) - Khối doanh nghiệp Nhà nước là khối có mức độ chiếm dụng lớn nhất trong các khối với mức độ trên 2 tháng do có khó khăn về việc làm, thu nhập, phương thức tính và trả lương. - Các khối khác nói chung duy trì mức chiếm dụng trong vòng một tháng. Như vậy là trong công tác quản lý thu nợ đọng phải tập trung sự chú ý vào khối doanh nghiệp Nhà nước nhiều hơn các khối khác. Số nợ đọng ở các tỉnh thành phố cũng có mức độ nợ đọng khác nhau. Tình hình nợ đọng ở một số tỉnh, thành phố năm 1999 như sau: Bảng 3: Số tiền chiếm dụng BHXH ở một số tỉnh, thành phố: Tên tỉnh Số nợ/số phải nộp Số ngày chiếm dụng Số thực tế(tỷ đồng) Tỷ lệ (%) tương ứng (ngày) Phú Thọ 18/73 24 90 Hoà Bình 13/120 20 73 Thái Bình 7,7/38 15 54 Thanh Hoá 6,6/44 16 58 Gia Lai 16,6/102 16 58 Nguồn: Tạp chí BHXH, số 5/2000 Các tỉnh khác có mức nợ khoảng hơn một tháng Trong mỗi tỉnh, số nợ của các đơn vị sử dụng lao động cũng có mức chiếm dụng ít nhiều khác nhau . Nguyên nhân của tình trạng tiền BHXH nợ đọng như đã trình bày ở trên xuất phát từ hai phía: Nhà nước và các doanh nghiệp đóng BHXH: Về phía Nhà nước: - Hành lang pháp lý và những chế tài pháp luật Nhà nước cho việc thu nộp BHXH chưa cụ thể và chưa đủ mạnh để buộc các chủ sử dụng lao động nộp BHXH đúng thời hạn, đủ số lượng. Chính vì vậy mà còn có nhiều doanh nghiệp cố tình chiếm dụng quỹ BHXH một cách trái pháp luật mà vẫn không bị xử lý. Theo Nghị định 38/CP của Chính phủ quy định: “Xử phạt hành vi trốn tránh trách nhiệm nộp BHXH hoặc chậm nộp BHXH” song thẩm quyền xử phạt thuộc về Thanh tra Nhà nước về lao động và UBND các cấp. Như vậy là không có sự đồng bộ trong việc thu BHXH và xử phạt dẫn đến những khó khăn trong việc kết hợp thu BHXH và xử phạt để đạt hiệu qủa thu BHXH cao nhất. - ở nhiều địa phương, các cơ quan quản lý Nhà nước, đoàn thể, quần chúng, cơ quan bảo vệ pháp luật chưa tích cực phối hợp cùng các cơ quan BHXH thực hiện các biện pháp cưỡng chế các chủ sử dụng lao động đóng BHXH theo quy định. - Do quy định quy trình tính lương và phát lương của hầu hết các đơn vị lĩnh lương tháng đều hoàn thành vào tháng sau. Dẫn đến việc nộp BHXH của tháng trước, tháng sau mới nộp được. Về phía các đơn vị sử dụng lao động: - Nhiều đơn vị thực hiện trả lương cho người lao động theo sản phẩm. Việc trả lương không những phụ thuộc vào số sản phẩm làm ra mà còn phụ thuộc vào việc sản phẩm có tiêu thụ được hay không. Vì vậy, tiền BHXH cũng phải đợi đến khi thanh toán lương cho người lao động mới nộp. Tình trạng này thường xảy ra ở các đơn vị sản xuất hàng thủ công, các nông, lâm trường còn phụ thuộc vào cơ chế giao khoán đất đai. - Do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Do sản xuất không ổn định, nhiều doanh nghiệp thiếu việc làm cho người lao động, kinh doanh thua lỗ, thậm chí còn nợ cả tiền lương của người lao động kéo theo nợ tiền nộp BHXH. những doanh nghiệp này tập trung ở một số ngành như du lịch, thương mại dịch vụ... - Do chủ sử dụng lao động thiếu ý thức, chưa thực sự quan tâm đến việc nộp BHXH, mặc dù khả năng của các đơn vị này đủ sức thực hiện việc trích nộp đúng quy định, điều đó dẫn đến nợ giả tạo. Những doanh nghiệp thuộc dạng này tập trung ở các ngành điện, nước, bưu chính viễn thông, hàng không... - Một số doanh nghiệp cho rằng việc trích nộp 20% BHXH hàng tháng (trong đó, người lao động đóng 5%, người sử dụng lao động đóng 15%) là quá lớn, do đó đã trốn nộp BHXH hoặc cố tình chiếm dụng quỹ BHXH để sử dụng trong sản xuất kinh doanh mà không chịu một biện pháp xử lý nào đáng kể. Các doanh nghiệp thuộc dạng này tập trung ở các ngành giao thông vận tải và xây dựng. - Một nguyên nhân khác cũng khá phổ biến là số nợ tồn đọng trước đây tồn tích lại, đơn vị sử dụng lao động chưa có nguồn hoặc chưa đủ cơ sở để xử lý hay nộp, hoặc giải trình xin xử lý xoá nợ, nên vẫn phải treo nợ trên sổ sách. Tình hình thu quỹ BHXH và chiếm dụng tiền BHXH các năm trước đây như vậy, nhưng năm 2000, thu BHXH lại có những khó khăn riêng. Do tiền lương tối thiểu được điều chỉnh từ 144.000 đồng/tháng lên 180.000 đồng/tháng kể từ ngày 1/1/2000, nên kế hoạch thu BHXH năm 2000 cũng phải điều chỉnh lên tương ứng. Nhưng một điều bất cập là: theo Nghị định 175/1999/NĐ - CP, ngày15/12/1999 của Chính phủ về việc điều chỉnh mức lương tối thiểu, chỉ quy định phạm vi thực hiện ở các đơn vị hành chính sự nghiệp và các đơn vị thụ hưởng tiền lương do ngân sách Nhà nước cấp. Và đến ngày 27/3/2000 mới có Nghị định 12/2000/NĐ - CP quy định về tiền lương tối thiểu trong các doanh nghiệp ở khu vực sản xuất. Như vậy là thời gian thực hiện kế hoạch thu năm 2000 chỉ còn 8 tháng do nhiều doanh nghiệp 4 tháng đầu năm vẫn chờ văn bản hướng dẫn thực hiện việc điều chỉnh mức lương tối thiểu nên chưa đóng BHXH. Chính vì vậy, việc hoàn thành kế hoạch thu sẽ gặp nhiều khó khăn. Một khó khăn khác là : năm 2000 và 2001, lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp giảm 10%, vì vậy, số lao động trong các khu vực khác tham gia và đóng BHXH phải tăng lên để các bù đắp đủ số thu BHXH. Nhưng vấn đề thu BHXH ở các khu vực khác (doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp Nhà nước) vẫn là vấn đề khó giải quyết từ những năm trước. Mặt khác, do có chính sách ưu đãi tạo điều kiện cho người lao động về hưu trước tuổi nên số lao động về hưu và thôi việc một lần năm 2000 có chiều hướng tăng lên đột ngột cũng làm giảm nguồn thu của quỹ. Dự kiến năm 2000, thu quỹ BHXH cả nước khoảng 5000 tỷ đồng, cao hơn năm 1999 là 20%. Trong đó, chỉ gần 10% tăng là do tăng tiền lương tối thiểu làm căn cứ thu BHXH (do tiền lương ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng rất lớn). Còn lại hơn 10% kế hoạch thu BHXH là do số người tham gia BHXH tăng và truy thu nợ quỹ BHXH. Với những khó khăn đã nêu ở trên, để hoàn thành kế hoạch thu, BHXH phải có những biện pháp thích hợp cùng với nỗ lực của toàn ngành. Nguồn thu chủ yếu của quỹ BHXH là đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Bên cạnh đó, tiền nộp phạt của các doanh nghiệp nộp chậm tiền BHXH cũng đóng góp một phần không nhỏ vào nguồn quỹ. Hiện nay, tiền nộp phạt khi nộp tiền BHXH chậm do Bộ Tài chính quy định theo khung nộp phạt chung là: phạt mỗi năm không quá hai lần, mỗi lần không quá 1.5 triệu đồng, giống như quy định nộp chậm thuế VAT và bảo hiểm y tế. Số tiền nộp phạt này chỉ mang tính chất cảnh cáo mà không có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp nộp tiền BHXH đúng thời hạn quy định. Một nguồn thu khác cũng rất quan trọng của quỹ BHXH là lãi đầu tư vốn nhàn rỗi quỹ BHXH. Mặc dù lãi suất của các lĩnh vực đầu tư thấp, khoảng 5 đến 6%/năm, tổng số tiền sinh lời của quỹ từ năm 1995 đến 1999 là 1.400 tỷ đồng. Riêng năm 1999, tiền nhàn rỗi của quỹ là 12.000 tỷ đồng (lớn nhất từ trước đến nay) và bổ sung cho quỹ BHXH được 631 tỷ đồng. Ngoài ra, năm 1999, quỹ BHXH đã mua 500 tỷ đồng công trái Nhà nước với lài suất 50%/5 năm. Đây là nguồn vốn dài hạn cho quỹ, đông thời góp phần hỗ trợ tài chính cho Nhà nước. Từ những nguồn thu ở trên: đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, các khoản thu khác, BHXH Việt Nam chi trả trợ cấp cho người lao động. Trong thời gian qua, để đảm bảo chi trả trợ cấp nhằm ỏn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ, Nhà nước vẫn phải bổ sung liên tục nguồn quỹ BHXH. Tình hình ngân sách Nhà nước cấp cho quỹ BHXH Để đảm bảo nguồn kinh phí lâu dài cho hệ thống trợ cấp BHXH, Nhà nước quy định: ngân sách Nhà nước trợ cấp hưu trí cho cán bộ, công chức, quân nhân đã nghỉ việc trước năm 1995 đang hưởng lương hưu và các loại trợ cấp hàng tháng khác. Như vậy là quỹ BHXH không phải chi một khoản trợ cấp khá lớn cho người lao động trong một thời gian dài. Quỹ BHXH chỉ chịu trách nhiệm chi trả các loại trợ cấp cho cán bộ, công chức, quân nhân hưởng trợ cấp sau năm 1995. Tuy nhiên, trong 5 năm qua, khi so sánh tổng số chi BHXH hơn 24.000 tỷ đồng và tổng số thu BHXH gần 4.200 tỷ đồng, chúng ta thấy thu BHXH không thể bù đắp cho chi BHXH. Chính vì vậy, những năm qua, ngân sách Nhà nước luôn phải hỗ trợ quỹ BHXH. Tình hình cụ thể như sau: Biểu 2: Nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong quỹ BHXH Việt Nam (1995 - 1999) (Nguồn : Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 3 năm 2000) Qua biểu trên ta thấy: ngược với xu hướng tăng lên của tổng chi BHXH qua các năm 1995 - 1999, nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong quỹ BHXH có xu hướng giảm dần từ 96,19% năm 1995 xuống 84,90% năm 1999. Như vậy, giai đoạn 1995 - 1999, tỷ lệ ngân sách Nhà nước cấp cho quỹ BHXH giảm bình quân 3%/năm. So với giai đoạn 1990 - 1994 trước khi đổi mới hệ thống BHXH, nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong quỹ BHXH là khoảng hơn 90% và luôn có xu hướng tăng lên. Vậy là trong thời gian qua, công tác thu quỹ BHXH đã đạt được một số thành công nhất định. Tuy vẫn còn phụ thuộc phần lớn vào ngân sách xã hội, quỹ BHXH đã dần tách ra khỏi ngân sách Nhà nước, giảm nhẹ gánh nặng của ngân sách Nhà nước và hoà hệ thống tài chính quốc gia. Để đạt được những thành tựu trên, BHXH Việt Nam đã có nhiều cải tiến trong hệ thống quản lý BHXH nói chung và quản lý thu BHXH nói riêng. 4. Quản lý thu BHXH Yêu cầu của ngành BHXH nói chung và yêu cầu của công tác quản lý thu BHXH nói riêng là cập nhật và lưu trữ trong một thời gian dài các thông tin về đối tượng tham gia BHXH như họ tên, năm sinh, giới tính, thời gian tham gia BHXH... và về các đơn vị sử dụng lao động như tổng quỹ tiền lương tham gia BHXH, số tiền nộp BHXH kỳ này, số tiền nộp BHXH còn nợ đọng. Chính vì thế mà ngành BHXH luôn cần lưu trữ một số lượng lớn hồ sơ tài liệu. Trước kia, công tác quản lý thu BHXH thực hiện bằng phương pháp thủ công trên giấy tờ vừa tốn kém, vừa khó đảm bảo tính chính xác, kịp thời. Trong thời đại công nghệ tin học phát triển như vũ bão và được áp dụng rộng rãi khắp nơi, BHXH Việt Nam đã từng bước ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thu BHXH. Cho đến nay, cả 3 cấp BHXH: cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện đều đã được trang bị máy vi tính để thực hiện không những công tác thu mà còn các công tác khác của ngành BHXH như quản lý sổ BHXH, chi trả trợ cấp cho người lao động. áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thu BHXH đã có một số tác dụng sau : Giảm nhẹ sức lao động thủ công trong hoạt động thống kê báo cáo thu BHXH, đồng thời đảm bảo tính chính xác, kịp thời của các báo cáo thu hàng quý của BHXH các cấp. Thúc đẩy các đơn vị sử dụng lao động quan tâm đến việc báo cáo số người tham gia BHXH, mức lương tham gia BHXH để phản ánh chính xác, kịp thời tình hình thu nộp BHXH của đơn vị. Tiết kiệm thời gian luân chuyển chứng từ, truyền đạt thông tin giữa các cấp BHXH . Tuy đã trang bị hệ thống máy vi tính cho các cấp BHXH, nhưng các chương trình được sử dụng đều là những chương trình riêng lẻ, không có sự liên kết giữa các cấp BHXH và chưa tạo điều kiện cho việc kết hợp công tác quản lý thu BHXH và các công tác khác trong ngành. Hơn nữa, mỗi cấp BHXH lại sử dụng một chương trình khác nhau, đặc biệt có nơi vẫn còn sử dụng những chương trình đã quá lạc hậu, vì vậy, cũng không có khả năng liên kết BHXH các cấp. Trong thời gian tới, để đảm bảo công tác thu BHXH cũng như đảm bảo sự phát triển của toàn ngành, BHXH Việt Nam cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống thông tin và nối mạng toàn quốc. Bên cạnh việc trang bị các thiết bị thông tin hiện đại, BHXH cũng luôn chú trọng đến nâng cao nguồn lực con người. Hàng năm, cán bộ hoạt động trong ngành được đào tạo mới hoặc đào tạo lại trong công tác quản lý quỹ BHXH, bảo toàn và phát triển quỹ, các nghiệp vụ cơ bản trong công tác BHXH, cơ sở khoa học của việc hoạch định các chính sách, chế độ. Đặc biệt, ngành chú trọng vào công tác phổ cập tin học cho cán bộ trong toàn ngành và có đội ngũ chuyên viên kỹ thuật giỏi về xử lý những vấn đề trong quá trình áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thu BHXH. Như vậy là sau một thời gian ngắn áp dụng hệ thống thu và quản lý thu mới, BHXH Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể như số người tham gia BHXH tăng, số thu BHXH tăng qua các năm... Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được, BHXH Việt Nam còn vấp phải một số khó khăn như: tình hình nợ đọng còn nhiều, quỹ BHXH chưa đủ khả năng chi trả cho người lao động, ngân sách Nhà nước vẫn phải bao cấp. Để khắc phục những khó khăn trên, trong những năm tới, các ngành, các cấp sẽ đưa ra những giải pháp hữu hiệu. Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cấp thiết cho hệ thống thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam. Phần ba: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam. Các giải pháp đưa ra nhằm hoàn thiện hệ thống thu và quản lý thu quỹ BHXH phù hợp với định hướng phát triển chung của ngành, xu hướng phát triển chung của thế giới. Một số định hướng phát triển chung. - Coi trọng phát triển về chiều rộng bao gồm cả mở rộng các đối tượng tham gia và các hình thức tham gia BHXH. Về mở rộng đối tượng tham gia BHXH: BHXH thu hút tất cả các đối tượng lao động thuộc các thành phần kinh tế. Về hình thức tham gia: gồm 2 hình thức tự nguyện và bắt buộc. Ngoài ra, cần có nhiều loại hình BHXH tự nguyện để phù hợp với khả năng đóng góp của người dân. - Dần cải tiến, hoàn thiện phương pháp quản lý thu với các biện pháp đồng bộ nhằm thu đúng, thu đủ tiền đóng BHXH của người lao động, người sử dụng lao động heo đúng pháp luật. Từ đó, thúc đẩy và cải thiện tình hình thu BHXH, đáp ứng nhu cầu về BHXH của người lao động. - Quỹ BHXH phải được quản lý nhằm bảo tồn và tăng trưởng quỹ đồng thời, giảm dần sự bao cấp của ngân sách Nhà nước. - Từng bước hiện đại hoá cơ chế thu và quản lý thu quỹ BHXH. Những giải pháp cụ thể Tăng số người tham gia BHXH Tăng đối tượng lao động thuôc diện tham gia BHXH Hiện nay, dân số Việt Nam khoảng 78 triệu người, cơ cấu dân trẻ, số người lao động trong độ tuổi lao động chiếm phần lớn dân số - khoảng 46 triệu người. Hàng năm, lực lượng lao động tăng tự nhiên khoảng 1,2 triệu người. Tuy nhiên, số người lao động thuộc diện tham gia BHXH chỉ đạt 60% lực lượng lao động. Như vậy, còn 40% lực lượng lao động chưa được tham gia BHXH, cũng có nghĩa là cuộc sống của những người này chưa được đảm bảo bằng chế độ BHXH và có sự không công bằng giữa những người lao động. Mặt khác, trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII cũng nêu rõ chủ trương của Đảng là “mở rộng chế độ BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế”. Đồng thời, do yêu cầu chung của tổ chức lao động quốc tế ILO là “tất cả mọi người với tư cách là thành viên trong xã hội có quyền hưởng BHXH”. Vì vậy, đối tượng thuộc diện tham gia BHXH cần phải được mở rộng. Theo quy định trong Điều lệ BHXH thì những đối tượng sau chưa được tham gia BHXH: * Người lao động trong các doanh nghiệp có ít hơn 10 lao động. * Người lao động trong khu vực tiểu thủ công nghiệp. * Người lao động trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. * Người lao động tự tạo việc làm ở khu vực phi chính thức. Trong những đối tượng người lao động trên thì chỉ có người lao động trong các doanh nghiệp có ít hơn 10 lao động là Nhà nước có thể có khả năng kiểm soát nghề nghiệp, thời gian hoạt động và thu nhập của họ. Do vậy, trong thời gian tới, khi mở rộng đối tượng thuộc diện tham gia BHXH cần tập trung vào người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có ít hơn 10 lao động. Do thu nhập của đối tượng lao động trong khu vực này còn thấp và do khả năng quản lý của ngành BHXH còn hạn chế nên trước hết, cần mở rộng đối tượng thuộc diện tham gia BHXH ở các doanh nghiệp có từ 3 lao động trở lên và tham gia BHXH dưới hình thức bắt buộc. Ngoài ra, cũng cần nên mở rộng đối tượng là giáo viên các trường dân lập, tư thục các cấp từ mẫu giáo đến đại học. Sở dĩ như vậy là vì loại hình trường dân lập, tư thục đang phát triển mạnh mẽ; thu nhập của đối tượng này lại tương đối cao, ổn định và dễ quản lý. Những đối tượng khác chưa được tham gia dưới hình thức bắt buộc thì có thể tham gia dưới hình thức tự nguyện. Do tính chất lao động của họ rất đa dạng và thu nhập của họ cũng khó kiểm soát, nên cách thức tổ chức sẽ linh hoạt hơn. Nhà nước đề ra khung pháp lý, định hướng chung, còn mức đóng góp BHXH tuỳ thuộc vào khả năng thu nhập của người lao động và sẽ có nhiều mức đóng góp khác nhau để người lao động có thể lựa chọn. Bên cạnh đó, để hỗ trợ thêm giúp cho các đối tượng này có khả năng tham gia BHXH tự nguyện, Nhà nước vẫn phải quy định mức đóng góp của người sử dụng lao động nhưng số tiền này được trả trực tiếp cho người lao động để họ tự tham gia BHXH. Bên cạnh việc tăng số lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm thì việc tăng số người tham gia BHXH cũng rất quan trọng. * Tăng số người tham gia BHXH Trên thực tế thì số người tham gia BHXH trên cả nước chỉ chiếm hơn 25% số người thuộc diện tham gia BHXH. Còn lại 75% chưa tham gia vì nhiều nguyên nhân khác nhau (như đã phân tích ở phần II). Vì vậy, một trong những vấn đề cấp bách hiện nay là tăng số người tham gia BHXH. Giải quyết được những vấn đề này không những đảm bảo tăng nguồn thu cho quỹ BHXH mà còn giúp người lao động và người sử dụng lao động được hưởng quyền lợi chính đáng và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với xã hội. Nguyên nhân chính của vấn đề số lao động tham gia BHXH thấp là các chủ sử dụng lao động cố tình trốn tránh đăng ký tham gia BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn (chủ yếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanh). Để giải quyết vấn đề này, cùng với giải quyết một loạt các vấn đề khác trong ngành BHXH, cơ quan quản lý Nhà nước về BHXH - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cần nhanh chóng hoàn thiện dự thảo Luật BHXH để trình Quốc hội khoá X. Khi Luật BHXH được thông qua, nó sẽ tạo ra một hành lang pháp lý hoàn chỉnh khiến chủ các doanh nghiệp không viện lý do để trốn tránh đăng ký tham gia BHXH nếu muốn kinh doanh đúng luật. Các quy định về đăng ký số lao động trong doanh nghiệp, số lao động tham gia BHXH, báo cáo về quỹ lương của doanh nghiệp phải được quản lý chặt chẽ ngay từ khi ban hành giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần quy định các chế tài phạt nặng hoặc đình chỉ công việc kinh doanh đối với những doanh nghiệp không đăng ký tham gia BHXH cho người lao động. Đối với các cấp BHXH thì cần quy định chỉ tiêu thu BHXH thành chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu khen thưởng của ngành nhằm tạo động lực cho BHXH các cấp hoàn thành chỉ tiêu thu. Một nguyên nhân quan trọng khác của tình trạng này là do không những người sử dụng lao động mà cả người lao động chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của chính sách BHXH dẫn đến họ chưa có được thái độ và hành vi đúng đắn trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo quy định của pháp luật. Đẻ giải quyết khó khăn này, BHXH Việt Nam cần nâng cao hiệu quả tuyên truyền về BHXH cả về mặt nội dung và hình thức tuyên truyền. Về nội dung tuyên truyền BHXH bao gồm tuyên truyền về nội dung, bản chất của chính sách BHXH, các chế độ BHXH, từ đó, khiến người lao động hiểu được bản chất nhân văn, nhân đạo của BHXH, nhận thức được tham gia BHXH là quyền lợi và cũng là nghĩa vụ của mỗi người đã được pháp luật quy định. Do vậy, khi chủ sử dụng lao động trốn nộp BHXH cho người lao động là vi phạm pháp luật, người lao động có quyền đòi hỏi và sẽ mạnh dạn đấu tranh nhằm bảo đảm quyền lợi của mình. Về hình thức tuyên truyền, nên sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau để phù hợp với nhận thức, tâm lý, trình độ của người lao động và người sử dụng lao động. Đối với người lao động, nên sử dụng nhiều hình thức trực quan sinh động như truyền hình, sách hỏi đáp về BHXH, tờ gấp giới thiệu về BHXH, các loại ấn phẩm tuyên truyền như áp phích, tranh cổ động, lịch, vật lưu niệm có nội dung BHXH, thông qua các cuộc thi về tìm hiểu BHXH, sáng tác các ca khúc về BHXH. Trong đó, các nội dung tuyên truyền cần biên tập cô đọng, dễ hiểu, hấp dẫn. Các ấn phẩn tuyên truyền cần được phổ cập một cách rộng rãi đến tận người lao động, đơn vị sử dụng lao động dưới dạng tặng phẩm tuyên truyền. Đối với người sử dụng lao động, BHXH cấp tương ứng cần thường xuyên cử cán bộ BHXH đến đơn vị để hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH. Một hình thức tuyên truyền rất hiệu quả đối với cả người lao động và người sử dụng lao động là tăng cường phát hành tạp chí BHXH đến tận cơ sở sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, BHXH Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng như Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, các báo (như báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Lao động xã hội, Thời báo Tài chính, Doanh nghiệp...) để tuyên truyền về BHXH. Ngoài việc nâng cao số lượng người lao động đóng góp vào quỹ BHXH, cũng như rất cần thiết phải nâng cao chất lượng đóng góp, nghĩa là mức độ đóng góp của từng người. 2.2. Giải pháp tăng doanh số quỹ BHXH. Hiện nay, BHXH Việt Nam quy định: người lao động nào có đóng BHXH thì mới có quyền hưởng các chế độ bảo hiểm theo quy định. Nhưng trong thực tế, quỹ BHXH vẫn chưa đủ khả năng chi trả các khoản trợ cấp cho người lao động, ngân sách Nhà nước hàng năm vẫn phải bao cấp phần lớn cho quỹ. Theo tính toán, nếu tiếp tục tình trạng thu BHXH thấp, số chi ngày càng tăng thì đến năm 2030, quỹ BHXH sẽ bằng không và không có khả năng chi trả trợ cấp cho người lao động nữa. Mặt khác, một thực tế là mức đóng góp BHXH của người lao động Việt Nam còn thấp so với một số nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, một biện pháp cần thiết trong những năm tới là tăng mức đóng góp BHXH. Sở dĩ mức đóng góp BHXH thấp một phần là vì tiền lương làm cơ sở đóng BHXH thấp hơn nhiều so với thu nhập thực tế của người lao động. Trong thời gian qua, Nhà nước đã nâng tiền lương tối thiểu từ 144.000 đồng lên 180.000 đồng (năm 2000) và sắp tới là 210.000 (năm 2001) để tiền lương sát với thu nhập thực tế của người lao động hơn. Trong thời gian tới, mức tiền lương tối thiểu cũng cần được tiếp tục nâng lên cũng như tăng khả năng kiểm soát thu nhập của người lao động. Tuy nhiên để giải quyết được vấn đề này, BHXH cần có sự phối hợp của các ngành các cấp khác như Bộ Tài chính, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội... Một biện pháp khác để tăng mức đóng góp BHXH là nâng tỷ lệ đóng góp bắt buộc. Biện pháp này cần được thực hiện từng bước và phối hợp với việc tăng tiền lương tối thiểu để tránh sự xáo trộn lớn trong thu nhập của người lao động. Tỷ lệ đóng góp cụ thể và mức tiền lương tối thiểu tương ứng như sau : Năm Tiển lương tối thiểu (đồng) Tỷ lệ đóng góp so với quỹ lương (%) 2001 - 2005 210.000 30 - 35% (người lao động đóng 40%, người sử dụng lao động đóng 60%) 2005 - 2010 300.000 40 - 50% (người lao động đóng 50%, người sử dụng lao động đóng 50%) Cùng với các biện pháp tăng doanh số thu quỹ BHXH, BHXH Việt Nam cần có những biện pháp tích cực để đảm bảo thu đúng, thu đủ và truy thu tiền BHXH. BHXH Việt Nam quy định chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các cơ quan đơn vị nộp tiền BHXH chậm. Đồng thời thường xuyên cử cán bộ của BHXH đến các đơn vị sử dụng lao động để kiểm tra, đôn đốc nộp BHXH và trích lập thưởng cho cán bộ thu BHXH nếu quản lý công tác thu tốt, hiệu quả. Ngoài ra, một biện pháp rất hiệu quả khác là không thực hiện chi trả trợ cấp BHXH cho người lao động ở các đơn vị nợ đọng tiền BHXH quá lâu với số lượng lớn. Biện pháp này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động, và chính họ sẽ gây sức ép để chủ sử dụng lao động đóng BHXH. Để đồng bộ với đối tượng thu BHXH phức tạp, số lượng thu lớn, BHXH Việt Nam cần hoàn thiện cơ chế quản lý quỹ BHXH. 2.3. Giải pháp quản lý thu quỹ BHXH. Để đảm bảo tính chính xác, kịp thời của công tác quản lý thu quỹ BHXH gồm: quản lý đối tượng tham gia BHXH, quản lý tiền thu, tiền nợ quỹ BHXH . BHXH Việt Nam nên sử dụng hệ thống máy vi tính cho các cấp BHXH. Nhưng tình hình áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thu còn nhiều điều bất cập cần giải quyết. Trước hết, BHXH Việt Nam cần hỗ trợ thêm kinh phí cho BHXH cấp tỉnh, huyện để thay thế các chương trình quản lý đã cũ kỹ, lạc hậu và không hiệu quả. Bên cạnh đó, BHXH Việt Nam nên thuê hoặc mua những chương trình quản lý hiệu quả và cho sử dụng các chương trình này trên toàn quốc. Các chương trình này cần được nối mạng liên kết, tạo điều kiện cho nhau thu và quản lý thu trên máy vi tính. Do việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào quản lý, cán bộ trong ngành cũng cần nâng cao trình độ tin học. Cần mở các lớp dạy tin học quản lý cho cán bộ, công chức toàn ngành. Các lớp học này phải có chương trình thi và cấp bằng. Các cán bộ mới tuyển thì yêu cầu phải có trình độ tin học phù hợp với ngành. Ngoài việc nâng cao trình độ tin học, trình độ nghiệp vụ của cán bộ trong ngành cũng cần được nâng cao. Mục tiêu, mỗi năm toàn ngành ít nhất phải có 20% cán bộ được đào tạo mới hoặc đào tạo lại, tập trung vào các lĩnh vực quản lý quỹ BHXH, cơ sở khoa học của việc thực hiện chính sách, chế độ; những vấn đề cơ bản về bảo toàn và phát triển quỹ BHXH… Về vấn đề đầu tư phát triển để tăng thêm nguồn thu cho quỹ BHXH, trong thời gian qua, phần lợi nhuận đầu tư mang lại chưa đóng góp nhiều cho quỹ BHXH cũng như chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của quỹ. Theo định hướng phát triển ngành BHXH thì quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tự hạch toán cân đối thu chi, BHXH Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý sự nghiệp BHXH, do vậy BHXH Việt Nam phải là tổ chức quản lý và quyết định đầu tư vốn nhàn rỗi quỹ BHXH . BHXH Việt Nam cần được giao quyền tự do lựa chọn các dự án nằm trong khuôn khổ quy định của Nhà nước để đầu tư theo cơ chế thị trường và tự chịu trách nhiệm về mức độ hiệu quả cũng như rủi ro trong đầu tư tài chính . Ngoài ra, Nhà nước cũng cần hỗ trợ cho việc đầu tư của quỹ BHXH như: quy định những lĩnh vực đầu tư độc quyền cho quỹ BHXH (như đầu tư xây các khu chung cư, các công trình công cộng...) không đánh thuế thu nhập từ những phần lợi nhuận thu được từ các hoạt động sinh lời của quỹ BHXH,... Điều này có ý nghĩa rất quan trọng để quỹ BHXH có thêm nguồn lực tự cân đối thu chi.... Kết luận Thời gian hơn 5 năm hoạt động chưa phải là dài, tuy nhiên cùng với sự giúp đỡ của Nhà nước và sự nỗ lực của bản thân ngành BHXH, hệ thống BHXH đã từng bước hoàn thành những chức năng, nhiệm vụ cơ bản của ngành. Trong đó công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH đã góp phần tạo điều kiện cho việc thực hiện các công tác khác của ngành BHXH, cũng như hoàn thiện ngành. Công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH không những tạo điều kiện cho việc chi trả trợ cấp cho người lao động nhằm ổn định cuộc sống của họ mà còn góp phần ổn định, cân đối thu chi, giảm dần sự bao cấp của NSNN cho quỹ. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH vẫn còn nhiều điểm tồn tại cần khắc phục giải quyết trong thời gian tới. Trong phạm vi đề án này, dựa trên cơ sở lý luận chung và phân tích tình hình thực tiễn thời gian qua, em đã đưa ra một số giải pháp cần thiết để hoàn thiện công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam. Kính mong sự góp ý của các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế Bảo hiểm. Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo. Bài viết của Tổ chức Lao động quốc tế tại hội thảo quốc gia về phát triển BHXH Việt Nam từ 30/9 đến 1/10/1999. Công ước về an toàn xã hội của Tổ chức Lao động quốc tế ngày 28/6/1952. Giáo trình Bảo hiểm - NXB Thống Kê, năm 2000. Nghị định số 12/CP (26/1/1995). Tạp chí BHXH, số ra hàng tháng. Tạp chí Thị trường tài chính - tiền tệ, tháng 3/1999. 7. Một số tài liệu khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34984.doc
Tài liệu liên quan