Đề án Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sở hữu Nhà nước ở nước ta thời gian tới

Qua quá trình nghiên cứu và phân tích, chúng ta thấy hơn mười năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước đã tạo cho nền kinh tế đất nước phát triển mạnh mẽ. Có sự thành công đó là do hướng đi đúng đắn của Đảng và Nhà nước, Đảng và Nhà nước đã biết giải quyết được nhiều vấn đề mấu chốt và phức tạp. Trong những vấn đề đó, vấn đè sở hữu Nhà nước là vấn đề quan trọng nhất trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, nó có đóng góp không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều phương hướng giải quyết vấn đề sở hữu Nhà nước mang tính chất thiết thực và hiệu quả trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế thị trường, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp và trong các doanh nghiệp Nhà nước. Sở hữu Nhà nước và giải quyết sở hữu Nhà nước là một vấn đề rất phức tạp và còn nhiều bức xúc tuy nhiên chúng ta không thể và không được phép lảng tránh. Để trình bày và làm sáng tỏ đề tài này đòi hỏi phải có trình độ chuyên sâu nhất định. Vì vậy, những phân tích trong bài trên nhiều chỗ chưa đạt tiêu chuẩn, thiếu sót và đôi chỗ chưa được khách quan. Một lần nữa mong được sự góp ý và chỉ dậy của thầy!.

doc23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sở hữu Nhà nước ở nước ta thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong quá trình nghiên cứu nhằm tiếp tục hoàn thiện quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH-nhiệm vụ trung tâm của bẩy chương trình khoa học xã hội và nhân văn được triển khai ở giai đoạn 1996-2000 nhăm thực hiện 3 định hướng lớn trong nhiều nghiên cứu khoa học mà bộ chính trị đã giao cho hội đồng lý luận TW chỉ đạo thực hiện, có nhiều vấn đề đặc biệt quan trọng như kinh tế thị trường và định hướng XHCN, vấn đề sở hữu thành phần kinh tế. Vấn đề sở hữu là một vấn đề rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế cũng như chính trị của đất nước, được bắt nguồn từ hiến pháp năm 1980, quy định nền kinh tế quốc dân có hai thành phần: khu vực Nhà nước (đại diện cho sở hữu toàn dân) cho đến năm 1992. Trong quá trình Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường đang diễn ra. Quốc hội đã thông qua hiến pháp mới công khai cho phép sở hữu tư nhân và còn tăng cường sự bảo hộ của Nhà nước đối với hình thức này. Hiến pháp xác định có ba hình thức sở hữu: của toàn dân (sở hữu Nhà nước), sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Hơn thế nữa cả ba hình thức đều được Nhà nước bảo hộ. Trong ba hình thức sở hữu mà hiến pháp năm 1992 đã đề ra thì hình thức sở hữu Nhà nước là một trong ba loại hình cơ bản của chế độ sở hữu về tài sản, tiền vốn của các xí nghiệp quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân. Như chúng ta đã biết cải cách chế độ sở hữu Nhà nước là một vấn đề nan giải nhưng không thể né tránh. Giải quyết sở hữu Nhà nước là một vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, nóng bỏng, phức tạp có nhiều ý kiến rất khác nhau xoay quanh, nội dung đề cập tương đối rộng đòi hỏi phải có sự thảo luận, nghiên cứu nghiêm túc. Tuy nhiên do giới hạn bởi thời gian, kinh nghiệm thực tiễn và khả năng kiến thức em khó có thể trình bày đầy đủ tất cả các khía cạnh trong đề án và còn nhiều thiếu xót. Vì vậy em xin phép được tập trung trình bày những khía cạnh quan trọng và cơ bản nhất của vấn đề. Em thành thật mong sự góp ý và chỉ bảo của thầy! I. Sở hữu và sở hữu Nhà nước. 1. Sở hữu. Sở hữu là quan hệ cơ bản nhất của con người trong quá trình sản xuất . Đó là sự chiếm hữu của một người hay một cộng đồng (Chủ thể sở hữu) đối với những thực thể của thế giới vật chất (Đối tượng hay khách thể sở hữu) với đặc trưng thuộc về chủ sở hữu, đối tượng (hay khách thể) sở hữu do chủ thể sở hữu chiếm hữu thường xuyên hay tạm thời một phần hay tất cả. Sỏ hữu thì trước hết phải có quyền chiếm hữu nói rộng ra là có quyền định đoạt đối với một đối tượng sở hữu. - Bản chất của sở hữu: như một phạm trù kinh tế bộc lộ ra ở chỗ nó chứa đựng cái chất lượng xã hội đặc biệt gây ra sự phân cực kinh tế giữa những vật khác nhau và những người khác nhau đại diện cho vật, do đó phải bắt buộc phải cần đến nhau. Sở hữu là hình thức xã hội của sự jthống nhất các cực kinh tế đối lập và phương thức tổ chức (Kết hợp) về mặt xã hội các yếu tố riêng rẽ của nền sản xuất. Bản chất của sở hữu nó còn biểu hiện ở nội dung của sở hữu mà nội dung của sở hữu là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên, bao trùm của sở hữu. Nó tương đối ổn định, tĩnh tại, nhưng đôi khi chỉ là quyền danh nghĩa. Đó là trường hợp chủ thể sở hữu không thực hiện nó, không sử dụng nó, mà lại giao nó cho người khác và chỉ giữ quyền thu nhập và sở hữu. Quyền sử dụng là quyền sử dụng đối tượng sở hữu theo mục đích và nguyện vọng của người sử dụng sở hữu với tư cách là người chủ sở hữu và người sử dụng đối tượng sở hữu, có thể thống ở một người hoặc được phân chia giữa nhiều người. Điều này có nghĩa là người sử dụng đối tượng sở hữu có thể không phải là người chủ sở hữu hoặc ngược lại người chủ sở hữu có thể không phải là người sử dụntg đối tượng sở hữu (vì đã chuyên quyền sử dụng nó cho người khác rồi). Chẳng hạn trường hợp một công nhân làm thuê có thể sử dụng tư liệu sản xuất (mà dù anh ta không phải chủ sở hữu nó) hoặc ngược lại người chủ khách sạn có thể không sử dụng khách sạn (mặc dù người đó là chủ sở hữu nó) nếu người sử dụng đối tượng sở hữu không phải là người chủ sở hữu. Thì anh ta chỉ có thể thực hiện quyền sử dụng nó trong thời hạn và trong những điều kiện của người chủ sở hữu đề ra. Quyền định đoạt: là quyền thực hiện toàn diện đối với đối tượng (hay khách thể) sở hữu. Quyền định đoạt đem lại cho chủ thể quyền và khái niệm sử dụng đối tượng (hay khách thể) sở hữu theo bất cứ cách nào, kể cả việc đem chuyền nó cho người khác, thay đổi nó một cách sâu sắc, cải tạo nó thành một đối tượng sở hữu khác, hay thậm chí huỷ bỏ nó. Chủ thể của quyền định đoạt cũng có khái niệm thực hiện những thẩm quyền cơ bản của người chủ sở hữu: xác định các phương thức sử dụng đối tượng (hay khách thể) sở hữu, kí kết các hợp đồng liên quan đến các đối tượng sở hữu bán cho thuê, tặng... ) trên thực tế người chủ sở hữư chỉ thực sự là người chủ sở hữu khi anh ta có quyền hoặc có khả năng thực hiện định đoạt đối tượng sở hữu. Do vậy, người sử dụng đối tượng sở hữu cũng có thể là người chủ sở hữu, nếu anh ta có quyền chiếm hữu và có quyền định đoạt. Về thực chất, khi trao hoặc chuyển quyền định đoạt cho người khác, cũng có nghĩa là chuyển các thẩm quyền sở hữu cho người khác. - Đối tượng sở hữu: đối tượng sở hữu đã từng dịch chuyển từ sở hữu nô lệ, đất đai sang sở hữu tư bản (sở hữu vốn) thể hiện dưới dạng: sức lao động mua được, tư liệu sản xuất hiện đại (máy móc). Ngày nay cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học-công nghệ đối tượng sở hữu xuất hiện nhân tố mới: sở hữu (trí tuệ) hay cụ thể hơn đối tượng chủ yếu của sở hữu là những tư liệu sản xuất quan trọng như đất đai, tài nguyên, khoáng sản, nhà máy, hầm mỏ, năng lượng, thông tin, của cải, trí tuệ, tiền vốn, các phương tiện kỹ thuật hiện đại... Và xuất hiện những đối tượng sở hữu mới: bầu trời quốc gia, tài nguyên đại dương, các mô, tế bào gen... - Hình thức sở hữu: Hiện nay chúng ta đã và đang chấp nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nên chấp nhận sở hữu đa dạng với nhiều hình thức bao gồm những hình thức sở hữu sau: + Sở hữu Nhà nước: là hình thức sở hữu mà Nhà nước đại diện cho nhân dân sở hữu những tài nguyên, khoáng sản, những tư liệu sản xuất chủ yếu và những của cải của đất nước. + Sở hữu tập thể: là sở hữu của những chủ thể kinh tế (cá nhân người lao động tự nguyện tham gia cùng hợp tác với nhau để tổ chức sản xuất kinh doanh. + Sở hữu cá thể: sở hữu tư nhân của người sản xuất nhỏ là sở hữu về tư liệu sản xuất của bản thân người lao động. Chủ thể của sở hữu ngày là người nông dân, cá thể, thợ thủ công, tiểuthương... họ vừa là chủ sở hữu đồng thời là người lao động. + Sở hữu tư nhân tư bản: là hình thức sở hữu của các nhà tư bản vào các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. + Sở hữu hỗn hợp: là hình thức sở hữu có sự tham gia của nhiều loại chủ thể khác nhau về tính chất. Mỗi chủ thể kinh tế có thể tham gia một hoặc nhiều đơn vị tổ chức kinh tế khi thấy có lợi. Các thành phần kinh tế trong sở hữu hỗn hợp có mối liên hệ nội tại và tác động qua lại lẫn nhau, nó là kết quả của công cuộc cải tạo và xây dựng nền kinh tế theo hướng XHCN - Tính pháp lý của sở hữu: sở hữu phải được thể chế hoá về mặt pháp lý. Về nguyên tắc không phải quan hệ pháp lý quyết định sự tồn tại của quan hệ sở hữu, mà chính quan hệ sở hữu hiện thực phát triển đến một trình độ nhất định đòi hỏi những quy định pháp lý về sở hữu phải thay đổi cho phù hợp. Quyền sở hữu là hình thức thể hiện cần thiết của các quan hệ kinh tế của sở hữu và được quy định bởi các quan hệ kinh tế đó. Sở hữu với tính cách là một phạm trù pháp lý luôn luôn phản ánh các quan hệ kinh tế của sở hữu. Các quan hệ pháp luật của sở hữu, khác với các quan hệ kinh tế của sở hữu, được xác lập phụ thuộc vào ý chí con người, bởi ý chí và nhận thức của những con người tham gia vào các quan hệ ấy. Họ tham gia vào các quan hệ đó với tính cách là những người mang quyền và nghĩa vụ đựơc điều chỉnh và bảo vệ bởi pháp luật. Và mặc dầu là sự phản ánh và được quy định bởi các quan hệ kinh tế, các quan hệ pháp luật của sở hữu, tồn tại một cách tương đối độc lập. - Tính kinh tế của sở hữu: bao gồm nhiều mối quan hệ của ai? Ai sở hữu? Ai quản lý kinh doanh (sử dụng)? Thực hiên lợi ích kinh tế dưới những hình thức nào? Thông qua hệ thống lợi ích kinh tế nào? Quan hệ lợi ích một mặt phải đảm bảo lợi ích cho nhóm chủ thể sở hữu, mặt khác phải đảm bảo lợi ích cho nhóm chủ thể quản lý kinh doanh (sử dụng). Động lực kinh tế bắt nguồn từ nội dụng bên trong của quan hệ sở hữu tạo nên các lực lượng giai cấp, tầng lớp khác nhau. Về mặt kinh tế vấn đề ai, giai cấp nào chiếm hữu những tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động và giai cấp nào bị loại ra khỏi chiếm hữu đó có ý nghĩa rất quan trọng. Nói cách khác lợi ích giai cấp được biểu hiện trong đó là khía cạnh quan trọng của quan hệ kinh tế của sở hữu. Lợi ích giai cấp này về bản chất là lợi ích kinh tế trong xã hội có giai cấp nó được bảo vệ bằng pháp lụât 2. Sở hữu Nhà nước. Lịch sử hình thành và bản chất sở hữu Nhà nước Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ ở giai đoạn cuối do sự phát triển của LLSX sau ba cuộc phân công lao động xã hội (lần thứ 1, ngành trăn nuôi tách khỏi trồng trọt; lần thứ 2, thủ công nghiệp tách khỏi công nghiệp; lần thứ 3, với sự xuất hiện của tầng lớn thương nhân). Do năng xuất lao động đã lao hơn trước, con người có kinh nghiệm hơn v.v... Trong xã hội có sản phẩm dư thừa và xuất hiện những người chiếm đoạt của cải dư thừa đó và trở thành giàu có, (tư hữu riêng) đã đẩy nhanh quá trình phân hoá tầng lớp xã hội và giai cấp xuất hiện. Có giai cấp thì tất yếu có đấu tranh giai cấp. Để cuộc đấu tranh giai cấp nằm trong vòng trật tự nhất định không phá vỡ xã hội thì có một tổ chức đặc biệt ra đời để quản lý xã hội. Đó là nhà nứơc. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của nhà nứơc chủ nô duy trì và bảo vệ chế độ sở hữu của chủ nô đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội ngay cả sở hữu bản thân người nô lệ (nô lệ là công cụ biết nói không được xem là người). ở đây, trình độ tư hữu của còn thấp nhưng tính chất khắc nghiệt và bất bình đẳng là tuyệt đối. Trong xã hội phong kiến: Sở hữu đẳng cấp phong kiến thể hiện rõ ở chế độ”phong tước, cấp điền” của các vua chúa phong kiến. Nhà nước và pháp luật phong kiến bảo vệ, duy trì chế độ sở hữu của địa chủ lãnh chúa phong kiến đối với ruộng đất và duy trì tình trạng nửa phong kiến của nông dân và giai cấp phong kiến. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa: Trên cơ sở tan rã dần của sở hữu phong kiến đã xuất hiện và phát triển quan hệ sở hữu tư sản. Đó là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư (do công nhân làm thuê sáng tạo ra bị giai cấp tư sản chiếm không). Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì có 2 phương thức quá độ lên CNXH. Đối với những nước như nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nghèo, lạc hậu chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, thì nhất thiết cần có một thời kỳ lịch sử với sự tồn tại của đa thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân để sử dụng sức mạnh và ưu thế của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá, tất cả nhằm tạo ra tiền đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho CNXH. Mặc dù vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay nhằm phát triển LLSX thì sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo để định hướng cho sở hữu tư nhân nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung đi theo đúng quĩ đạo. + Giai đoạn 1945 – 1959: Cách mạng tháng tám thành công ngày 02/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một nhà nước công – nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam á ra đời với mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội mới theo con đường phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Hiến pháp 1946 đã tạo cơ sở pháp lý và từ đây quyền sở hữu tài sản riêng của công dân trở thành quyền hiến định. Nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc đó phải xoá bỏ quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất quan trọng của thực dân Pháp, của các đế quốc khác, các thế lực phản động và thù nghịch, của giai cấp địa chủ phong kiến Pháp luật giai đoạn 1945 – 1959 đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc xác lập quan hệ sở hữu mới dưới chính quyền dân chủ nhân dân. Từ đó xây dựng cơ sở vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của chế độ mới. Trong giai đoạn này ta đã dùng chính quyền vô sản làm công cụ cải tạo xã hội thiết lập quan hệ sản xuất XHCN, chúng ta coi công hữu là mục tiêu. +. Giai đoạn 1959 – 1960: Miền Bắc tiến lên CNXH, còn miền nam tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới để đi đến cuộc tổng tiến công và nổi dậy ngày 30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, cả nước đi lên CNXH. Miền Bắc về cơ bản hoàn thành cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế phi XHCN. Nhiệm vụ chủ yếu thời kỳ này ta xác lập và hoàn thiện chế độ sở hữu XHCN ở miền Bắc. Điều 12, hiến pháp 1959 khẳng định “Kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân”. Trong đó tồn tại các hình thức sở hữu là: Sở hữu nhà nước, sở hữu của các nhà tư sản dân tộc, sở hữu của tiểu thương, thợ thủ công, hộ nông dân cá thể; sở hữu tập thể của các HTX, được quy định tại điều 11 Hiến pháp 1959... thực hiền các Nghị quyết Đại hội Đảng, lần thứ III, IV, là vừa xây dựng vừa cải tạo, trong cải tạo có xây dựng sở hữu thời kỳ này tạo tiền đề quan trọng có ý nghĩa to lớn cho thời kỳ tiếp theo. + Giai đoạn 1980 – 1986: Hiến pháp 1980 thay thế hiến pháp 1959 đã ghi nhận phạm vi và bản chất của sở hữu toàn dân. Trong đó tại các điều 18, 19, 23, 24, 27 của hiến pháp 1980 đã quy định các hình thức sở hữu cơ bản sau: Sở hữu toàn dân đối với đất đai, hầm mỏ, rừng núi sông hồ... (Điều 19); Sở hữu tập thể; sở hữu của công dân. Tuy nhiên, xét về thực tế nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, năng suất lao động thấp, dân trí thấp vv... Còn về chủ quan, do quá nhiệt tình, cộng với sự thiếu hiểu biết nhận thức không đúng nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nên đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu XHCN. Một thời gian dài chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí coi nó là hình thức đối lập với XHCN, là mầm mống khôi phục chế độ bóc lột. Thật ra, sở hữu cá nhân không biến thành tư bản, không biến thành công cụ để bóc lột người lao động. Sở hữu cá nhân chủ yếu đối với các vật phẩm tiêu dùng, nhằm thỏa mãn các nhu cầu của người lao động phụ thuộc vào trình độ của sở hữu xã hội. Trong tuyên ngôn Đảng cộng sản đã chỉ ra Chúng tôi cần gì phải xoá bỏ sở hữu ấy, sự tiến bộ của công nghiệp đã xoá bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xoá bỏ cái đó rồi. Do nhấn mạnh đề cao, tuyệt đối hoá vai trò và tính ưu việt của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể (HTX) nên đến một thực tế. Năng suất lao động thấp kém, hàng hoá khan hiếm thiếu lương thực, khủng hoảng kinh tế, xã hội. Trước tình hình đó Đảng ta đã nhìn nhận lại, nhận thức lại và thừa nhận sai lầm khuyết điểm do chủ quan nóng vội muốn có ngay CNXH và vận dụng quy luật kinh tế sai (đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất). Từ đây, đường lối đổi mới toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam được tập trung trong văn kiện Đại hội VI (1986) và tiếp tục sau này được các Đại hội VII, VIII khẳng định là: Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. - Vai trò của sở hữu Nhà nước. Như ta vẫn thấy, Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế-xã hội, do đó là vai trò quan trọng của sở hữu Nhà nước. Trong những điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, vai trò của sở hữư Nhà nước không ngừng tăng lên; nhưng sở hữu Nhà nước không đồng nhất với tính mục đích và hiệu quả đơn thuần, mà chủ yếu được coi như công cụ đảm bảo cho tính định hướng xã hội chung của nền sản xuất va tính hiệu quả kinh tế-xã hội chung. Cũng không nên quên rằng do đặc tính chung toàn dân mà sở hữu Nhà nước vốn mang sẵn tính vô chủ và quan liêu do đó cần sự bảo vệ hành chính-pháp lý để không cho phép chúng từ bàn tay xã hội sang những bàn tay tư nhân. Sở hữu Nhà nước đảm nhận các nội dung quyền lực chính trị, pháp lý, an linh hay các chức năng kinh tế-xã hội (như giáo dục, ý tế, văn hoá) là trực tiếp va vô điều kiện thuộc về toàn dân. Sở hữu Nhà nước-sở hữu Nhà nước đang hoạt động trong nền sản xuất xã hội tham gia vào vòng quanh của thị trường, tức là nhiệm vụ kinh doanh, là cần phải quan tâm. Do đó sở hữu Nhà nước giữ vai trò nền tảng trong quan hệ sở hữu của các chế độ xã hội chủ nghĩa. II. Những đổi mới về sở hữu Nhà nước ở nước ta và kết quả đạt được 1. Những đổi mới về sở hữu Nhà nước ở nước ta từ năm 1986 đến nay. Chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, tiến hành hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, trước hết là điều chỉnh các hình thức sở hữu vốn có, là kết hợp một cách tối ưu các lợi ích. Lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích của nhà nước. Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không phải là"thụt lùi" không làm "Mất CNXH" như một số người lầm tưởng mà chính là một chủ trương lớn để khai thác, phát huy mọi tiềm năng của toàn xã hội cũng như tranh thủ các nước và các tổ chức quốc tế. Cơ sở lý luận của việc xác lập tính đa dạng các hình thức sở hữu thể hiện ở luận điểm của C.Mác và Ănghen cho rằng các hình thức sở hữu đựơc xác lập bởi trình độ xã hội hoá sản xuất. Vì vậy, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đa dạng hoá sở hữu là một thành tựu lớn cả về lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới. Với những thành tựu đáng mừng về kinh tế - xã hội của đất nước ta sau hơn 10 năm đổi mới đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, hợp lý. Thực tế cũng cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu để phù hợp với tính chất đặc điểm của từng thành phần kinh tế và phù hợp cũng như khai thác, thúc đẩy được các yếu tố của lực lượng sản xuất ở các trình độ khác nhau phát triển. Khi thực hiện chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nứơc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật thể chế hoá về sở hữu phản ánh trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất nước ta còn thấp không đồng đều. Vì thế ứng vói nó là các hình thức sở hữu đa dạng. Bởi vì: phát triển nền kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh là mục đích cuối cùng của chế độ xã hội ta. Trong phạm vi hẹp có thể coi sở hữu là một trong những phương tiện để đạt mục tiêu này và bước đầu thực hiện CNH, HĐH đất nước (văn kiện hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII 1/1994) vai trò của mỗi hình thức sở hữu trong một chế độ sở hữu có ý nghĩa và tác dụng khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Điều 15, hiến pháp 1992, quy định"cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu ta nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng". Trước đây chúng ta thường dùng khái niệm sở hữu toàn dân, một khái niệm rất trìu tượng dễ dẫn đến mơ hồ. Nói thuộc sở hữu toàn dân có nghĩa không thuộc ai cả, dẫn đến vô chủ. Hơn nữa cơ chế nào để thực hiện hình thức sở hữu đó. Bởi vậy về lý luận và thực tiễn đòi hỏi nó cần được thay đổi bằng khái niệm “sở hữu Nhà nước”. Tất nhiên hiện nay vẫn còn có ý kiến khác nhau cho rằng trong thời kỳ quá độ vừa có sở hữu toàn dân (đất đai tồn tại dưới dạng sở hữu hai cấp: Nhà nước và người được giao quyền sử dụng), vừa có sở hữu Nhà nước. Sở hữu Nhà nước bao gồm tất cả các lực lượng kinh tế vật chất trong các doanh nghiệp Nhà nước, trong các ngân hàng, kho bạc, ngân sách, dự trưc quốc gia... mà Nhà nước là người chủ sở hữu. Trong tính đa dạng của các hình thức sở hữu, sở hữu Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Khái niệm sở hữu Nhà nước có nội dung và phạm vi rộng lớn, trong đó có doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy không phải chỉ có doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, mà là kinh tế Nhà nước trong đó doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận giữ vai trò chủ đạo. Sở hữu Nhà nước đã tồn tại dưới nhiều hình thức doanh nghiệp khác nhau như: hình thức doanh nghiệp vốn Nhà nước đầu tư 100%, hay hình thức doanh nghiệp mà vốn Nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế, hoặc có hình thức doanh nghiệp mà Nhà nước góp vốn cổ phần, tô nhượng, cho thuê, liên doanh liên kết... 2. Kết quả đạt được và những tồn tại. a. Kết quả đạt được Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. ý nghĩa lịch sử của đại hội VI đã phân tích đúng đắn sự chuyển đổi nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Sự thành công của sự chuyển đổi đó là do nhiều yếu tố tạo nên. Trong các yếu tố đó, sự có mặt của sở hữu Nhà nước, nó có vai trò quan trọng dể đưa nền kinh tế của đất nước phát triển và đã đạt được những kết quả đáng kể: - Sở hữu Nhà nước giữ vai trò nền tảng trong quan hệ sở hữu của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, do đó sở hữu Nhà nước tạo điều kiện cho việc thống nhất quản lý tư liệu sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật chủ chốt của đất nước như đất đai, hầm mỏ, tài nguyên khoáng sản... để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế lâu dài và ổn định của toàn xã hội. - Nhờ có sở hữu Nhà nước mà có thể tích tụ tập trung những tiềm lực của nền kinh tế, tạo ra những tập đoàn kinh tế mạnh, có đủ khả năng đóng vai trò chủ đạo, điều tiết và chi phối nền kinh tế cua cả nước. - Do nhân dân làm chủ sở hữu tư liệu sản xuất dựa trên quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa nên sở hữu Nhà nước đảm bảo việc tổ chức quản lý sản xuất và phân phối mang tính chất xã hội chủ nghĩa “do dân-vì dân”. Chế độ người bóc lột người được xoá bỏ “làm theo năng lực hưởng theo lao động”. - Sở hữu Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc xây dựng các công trình phúc lợi xã hội như văn hoá, giáo dục, y tế... nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. - Sở hữu Nhà nước có khả năng đảm bảo được việc giữ vững độc lập chính trị, ổn định an ninh trật tự và toàn xã hội. b. Những tồn tại. Bản thân hình thức sở hữu Nhà nước (công hữu) là hình thức sở hữu ưu việt nhất và là cái đích cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trong qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội xuất phát từ nền sản xuất nhỏ và trong bối cảnh nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta chịu tác động khác nhau của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa từ các nước trên thế giới và trong khu vực thì sở hữu Nhà nước của nền kinh tế nước ta hiện nay còn có những tồn tại: - Sở hữu Nhà nước hình thành kinh tế Nhà nước, thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng trong quá trình xây dựng chế độ sở hữu và cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã nhanh chóng công hữu hoá tư liệu sản xuất, xác lập quan hệ sản xuất vượt quá yêu cầu và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và đặc biệt cao so với trình độ và ý thức làm chủ của người lao động. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã trở thành nhân tố kìm hãm cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho những nhân tố tích cực của sở hữu Nhà nước và kinh tế Nhà nước xã hội chủ nghĩa không được phát huy. -Sở hữu Nhà nước, ở một góc độ nhất định dễ dẫn đến tình trạng “ vô chủ” trong các doanh nghiệp Nhà nước không phát huy quyền làm chủ thực sự của người lao đông, chưa gắn bó lợi ích thiết thực của nhân dân lao động với hiệu quả sản xuất để thúc đẩy người lao động hăng say sản xuất, do đó đã triệt tiêu động lực bên trong của các doanh nghiệp, đẻ ra tình trạng ‘tha hoá’ lao động mới; nạn tham nhũng quan liêu, chây lười lao động phát sinh... tình trạng làm ăn thua lỗ chiếm dụng vốn lẫn nhau, nợ đọng móc ngoặc, làm ăn kiểu chụp dựt là tương đối phổ biến. - Sở hữu Nhà nước dẫn đến tình trạng độc quyền của các ngành sản xuất do các tập đoàn kinh tế Nhà nước thâu tóm. Từ đó, nó tạo ra sự thiếu bình đẳng đối với các thành phần kinh tê, không khuyến khích việc cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm giá, phục vụ mục đích cục bộ của doanh nghiệp Nhà nước, gây thiệt hại quyền lơi của người tiêu dùng. - Sở hữu Nhà nước được quản lý thông qua một số doanh nghiệp Nhà nước, đã không phát huy được tiềm năng sẵn có của tư liệu sản xuất trong tay. Đội ngũ những người quản lý thiếu năng động, sáng tạo, nhiều quyền nhưng ít phải chịu trách nhiệm, gây tình trạng ỷ lại Nhà nước, làm ăn thu lỗ triền miên, để lại gánh nặng cho ngân sách và đây là lực lượng cản trở lớn trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sở hữu Nhà nước và các thành phần kinh tế Nhà nước ở nước ta thời gian tới. 1. Đối với hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nền kinh tế nước ta chuyển hướng cơ cấu kinh tế thị trường, chúng ta thực hiện chính sách mở cửa, đa dạng hoá các thành phần kinh tế. thiết lập cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức đa dạng, dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hợp doanh, các công ty cổ phần thuộc khu vực kinh tế tư nhân đã hình thành và ngày càng phát triển, hoạt động trên các lĩnh vực công nghệ, thương mại, dịch vụ, tài chính, tín dụng và ngân hàng. Hiện nay chúng ta có một hệ thống vơí khoảng 6000 doanh nghiệp Nhà nước đang tồn tại và hoạt động. Để nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau: - Xác định rõ cơ chế quản lý tài chính cho các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh và dịch vụ công ích. Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh được giao đầy đủ quyền tự chủ tài chính nhưng chỉ được Nhà nước đầu tư lần đầu. Sau đó phải bảo toàn vốn, tự huy động vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp hoạt động công ích được Nhà nước bảo đảm vốn để thực hiện các nhiệm cụ công ích do Nhà nước giao. Đồng thời chịu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ của Nhà nước trong công tác quản lý tài chính, sử dụng vốn , tài sản, doanh thu, chi phí, lỗ, lãi... - Xác định rõ quyền của chủ sở hữu Nhà nước đối với doanh nghiệp. Trong đó có quyền hưởng lợi từ hiệu quả hoạt động kinh doanh mang lại. khẳng định sau thuế là của Nhà nước (quyền để lại cho doanh nghiệp, thu về ngân sách, chuyển cho các đơn vị khác..). Tài sản thuộc sở hữu doanh nghiệp, doanh nghiệp có toàn quyền quyết định trong những vấn đề như: mua sắm, nhượng lại, thanh lý, cầm cố, thế chấp... Nếu có khống chế sẽ dựa vào giá trị tài sản so với tổng số vốn Nhà nước cấp, không nên dựa vào loại tài sản cụ thể. - Mở rộng hơn nữa quyền tự kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp được quyết định các vấn đề như: trích khấu hao TSCĐ ( Nhà nước chỉ quy định mức sàn), đầu tư mở rộng sản xuất, sử dụng các chi phí... kèm theo nó phải có cơ chế kiểm tra, giám sát (đấu thầu mua sắm, đấu giá nhượng bán, công khai hoá các khoản chi-Nghị định số 07/1999ND-CP ngày 13.2.1999. Phải quy định rõ trách nhiệm của người điều hành, quản lý doanh nghiệp, có chế tài cụ thể cho từng vi phạm. Quy định rõ ràng trong vấn đề đầu tư, kinh doanh thua lỗ, gây mất mát tài sản Nhà nước. - Chuyển đổi cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp từ “hành chính, bao cấp”sang cơ chế “đầu tư tài chính”. áp dụng cơ chế giao vốn, bảo toàn vốn và thu “ phí sử dụng vốn” (không phải thuế vốn). Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp là giao cho một pháp nhân tư pháp (không phải giao cho giám đốc hay chủ tịch HĐQT). Thu nhập ngoài lương của CNVC, kể cả giám đốc được hưởng tỷ lệ thuận với tỷ suất lợi nhuận vôn được giao. Mối quan hệ giữa các tổng công ty 90-91 với các doanh nghiệp thành viên chuyển sang phương thức của người đầu tư vốn, hay mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con. - Cần tăng cường công tác kiểm toán nội bộ và kiểm toán Nhà nước thông qua chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp . Thực hiện công khai hoá tình hình vốn và hiệu quả sử dụng vốn; tình hình công nợ tới hạn và quá hạn; các khoản thu chi từ hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác... - Tăng cương đầu tư cho việc đổi mới kiểm soát công nghệ là một trong những yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Nhà nước cần tập trung giúp đỡ doanh nghiệp trong việc huy động vốn đổi mới công nghệ. Đồng thời đưa các yêu cầu kiểm tra, kiểm soát việc đổi mới thiết bị, công nghệ tại doanh nghiệp. Cấm nhập các thiết bị lạc hậu so với khu vực thế giới. - Hạn chế, tiến tới tách dần các phí xã hội mà doanh nghiệp Nhà nước phải gánh chiụ. Các phí này ảnh hưởng không nhỏ đến đến sản xuất-kinh doanh. Chẳng hạn tổng công ty than, tổng công ty cà fê... đầu tư cho giao thông, đường dây tải điện trong vùng dân cư, chi cho nhà trẻ, y tế... - Cần nghiêm túc hơn nữa trong việc thực thi luật pháp, chính sách ban hành. Tránh tình trạng luật pháp, chính sách chỉ tồn tại trên “văn bản” hoặc có áp dụng thì tuỳ tiện theo kiểu “phép vua thua lệ làng”, hoặc cố tình vận dụng sai để nhằm đạt lợi ích riêng mình. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất-kinh doanh trước mắt song đa số các doanh nghiệp Nhà nước đang cố gắng hết sức tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, tìm ra nguồn vốn để đầu tư mới thiết bị công nghệ; quản lý sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn vốn sẵn có. Tìm mọi cách huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau để mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Điều quan trọng là Nhà nước cần đổi mới cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp; tháo gỡ các ách tắc khó khăn tạo một hành lang pháp lý chặt chẽ cho các doanh nghiệp có điều kiện cạnh tranh lành mạnh với các doanh nghiệp khác trong nước và ngoài nước; nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, phát huy vai trò chủ đạo của mình. 2. Đối với vấn đề sở hữu Nhà nước trong nông nghiệp. Hiến pháp năm 1992 và luật đất đai năm 1993 đã quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất và quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và phá luật, đảm bảo sử dụng có mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất đai cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định và lâu dài với những quyền rộng rãi. Đồng thời Nhà nước có quyền thu hồi đất đai trong những trường hợp cần thiết”. Luật đất đai ra đời đã tăng cường quyền sở hữu đối với đất dai, tuy luật vẫn duy trì chế độ sở hữu Nhà nước về đất đai, quyền sử dụng đất do Nhà nước cấp đã được công nhận. Vấn đề đặt ra trong điều kiện cần phải tiếp tục xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh có sự điều tiết của Nhà nước , tiến lên công nghiệp hoá thì chế độ sở hữu ruộng đất ở nước ta hiện nay còn những bất cập và phát sinh gì mới cần bổ sung và điều chỉnh. Từ thực tế ta rút ra một số vấn đề sau: - Nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chọn chế độ sở hữu về đất không có chế độ tư nhân về đất có phù hợp không? - Mối quan hệ quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất ở nước ta đặt ra như thế nào cho phù hợp với yêu cầu phát triển. -Vấn đề thị trường trong nền kinh tế thị trường ở nước ta đặt ra như thế nào trong qúa trình đi lên công nghiệp hoá. - Vấn đề hạn điền trong sở hữu và sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta. - Về chế độ sở hữu, ta chọn chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là hoàn toàn phù hợp về mội khía cạnh: chính trị, kinh tế , tâm lý XH, truyền thống lịch sử. Ngay ở những nước kinh tế phát triển, quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai cũng không có nghĩa tư nhân có quyền vô hạn định đối với đất đai. Họ chỉ có một số quyền nhất định trong việc sử dụng và chuyển nhượng đất đai cho các hoạt động kinh tế bình thường trong khuôn khổ pháp luật. -Về mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất. Đây là khía cạnh hết sức quan trọng quyết định nhiều tới sự phát triển của nền nông nghiệp nước ta. Phải khẳng định rằng tách biệt quyền sở hữu đất đai và quyền sử dụng đất đai trong nông nghiệp là đúng đắn. Cần tách biệt 2 quyền này vì nếu một khi nông dân được pháp luật bảo vệ về quyền sử dụng đất lâu dài thì họ sẽ sẵn sàng đầu tư lâu dài trên mảnh đất đó như cải tạo hệ thống thuỷ nông, áp dụng những biện pháp bảo vệ đất hữu hiệu và mua sắm thêm những thiết bị máy móc hiện đại phục vụ cho công việc canh tác của mình. Hơn thế nữa, một khi nông dân đã chắc là được sở hữu riêng một tài sản trong một chu kỳ dài thì họ sẵn sàng bảo vệ nó sao cho có hiệu quả cao nhất chứ không như trước kia khi mà mọi thứ đều là tài sản công và việc ăn chia là theo phương thức công bằng, điểm này là vô cùng quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và bền vững trong sản xuất nông nghiệp. Như vậy để thực hiện được việc tách biệt hai quyền trên, một nhiệm vụ cấp bách và hết sức cần thiết là phải tiến hành giao đất cho nông dân. Việc thực hiện nghị định 64/CP về giao đất và cấp giấp chứng nhận quyền sử dụng đất ở các đồng bằng sông Hồng là đúng hướng song tiến độ và mức độ giữa các tỉnh, thành có sự khác nhau, riêng ngoại thành là rất chậm, tình trạng đó làm cho nông dân chưa yên tâm đầu tư khai thác, xảy ra nhiều tiêu cực. Để hình thành việc giao đất và cấp giâý chứng nhận quyền sử dụng đất đai cho các hộ nông dân, cần giải quyết một số vấn đề sau: - Các tỉnh thành cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để các huyện xã triển khai theo nghị định 64/CP, ở những địa phương để lại quỹ đất công ích cao hơn 50% cần thực hiện nghiêm túc theo luật định, khẩn trương hình thành việc đo đạc và lập bản đồ địa chính. - Tích cực xử lý các vi phạm để cấp giấy chứng nhận. Do lịch sử để lại, còn nhiều trường hợp vi phạm về luật đất đai như: Cấp giấy sai thẩm quyền, lấn chiếm trái phép, chuyển đất canh tác sang xây dựng cơ bản, mua bán chuyển nhượng không đúng luật, thiếu hoặc không có hồ sơ về đất đai... vì thế cần có văn bản pháp quy của Nhà nước hướng dẫn cụ thể và xử lý thống nhất các hiện tượng trên. Về vấn đề thị trường ruộng đất trong nền kinh tế trong qúa trình công nghiệp hoá. Kinh tế thị trường hình thành và hoàn thiện, nông nghiệp từ sản xuất tự túc tiến lên sản xuất hàng hoá do các hộ nông dân, các trang trại gia đình được trao quyền sử dụng ruộng đất đảm nhiệm với tư cách là các doanh nghiệp nông nghiệp sản xuất nông sản hàng hoá. Như vậy các yếu tố sản xuất đầu vào và đầu ra của các doanh nghiệp nông nghiệp (hộ nông dân, trang trại) đều trở thành hàng hoá với đầy đủ mọi thuộc tính của nó. Cho đến nay, trên văn bản pháp lý của nước ta chưa thừa nhận ruộng đất là một loại hàng hoá và pháp luật cấm mua bán đất đai. Nhưng trong cuộc sống đời thường của xã hội, đã từ lâu đất đai vẫn là đối tượng mua bán, trao đổi một cách ngấm ngầm hoạt động như chợ đen. Tình trạng đó một mặt làm cho công tác quản lý nông nghiệp gặp khó khăn, gây thất thu lớn cho ngân sách, mặt khác không tạo được tiền đề cho việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất, làm ách tắc quá trình phân công lại lao động. Vì thế phải xác định rõ được giá trị, giá cả của ruộng đất, công nhận sự lưu chuyển ruộng đất giữa các đối tác như các hàng hoá khác và xác lập thị trường ruộng đất trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên vẫn còn có một số trở ngại nữa đối với việc hình thành một thị trường tự do thật sự để tạo điều kiện cho việc trao đổi mua bán quyền sử dụng đất. Về vấn đề lưu chuyển ruộng đất ở nước ta trong thời gian tới. Trong nền sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, các loại hàng hóa đều được lưu chuyển tự do. Vì thế khi đã công nhận đất đai là hàng hoá thì nó cũng được lưu chuyển tự do trên thị trường. ở nước ta luật đất đai năm 1993 đã quy định “Người sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp” tức là đã công nhận sự lưu chuyển đất đai trong XH. Tuy nhiên trên thị trường việc lưu chuyển diễn ra rất chậm chạp và phức tạp. Nhà nước ta khi giao đất cho dân đã quy định phải được sử dụng đúng mục tiêu. Đặc biệt Nhà nước đã hạn chế việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang thành đất xây dựng hay đất có mục đích sử dụng khác và phải được phép của Chính phủ khi có nghiên cứu thực sự. Việc chuyển đổi đất nông nghiệp từ hộ này sang hộ khác để kinh doanh với mục đích khác thì phải chịu mức thuế là 50% giá trị diện tích đất đó. Tuy áp dụng những biện pháp trên, năng suất canh tác vẫn có phần giảm đi. Vì rằng đói với một vài hộ nông dân thì hiện tại trồng lúa trên mản đất họ được giao không phải là giải pháp tối ưu vì trong tương lai yêu cầu về lúa gạo sẽ giảm đi và lúc đó sản xuất lúa gạo sẽ không còn hấp dẫn nữa đối với đại đa số nông dân. Do vậy việc hạn chế chuyển đổi mục đích sử dụng đất sẽ có phần ảnh hưởng đến việc đa dạng sản xuất, đa dạng sản phẩm, ít tạo điều kiện cho nông dân tránh những rủi ro về giá và thời tiết do một khi cứ phải loay hoay với sản xuất lúa. Theo điều 77 của luật đất đai năm 1993 thì mọi hộ gia đình nếu đã có quyền sở hữu đất nông nghiệp hoặc đất lâm nghiệp để phát triển nông nghiệp hoặc trồng rừng thì có thể sử dụng giấy chứng nhận quyền sở hữu đó làm thế chấp cho ngân hàng khi vay vốn. Nhưng giá trị của đất thế chấp chỉ nằm trong phạm vi của giá thuê đất mà chủ thuê đã trả (0,5-0,7%) có nghĩa là chủ đất chỉ có thể được vay một khoản rất nhỏ so với giá trị thật mảnh đất của họ. Nếu đất đai thiếu khả năng thế chấp thì cũng là một lý do chính làm cho thiếu vắng một thị trường tín dụng hoàn hảo. Như vậy, cần phải có nhiều biện pháp giải quyết những bất cập về vấn đề lưu chuyển ruộng đất ở trên để thúc đẩy quá trình lưu chuyển. Khuyến khích các hoạt động chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế, đặc biệt là cho thuê đất mà biện pháp chủ yếu là các chính sách thuế. Vấn đề hạn điền trong sở hữu và sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta cũng là một vấn đề quan trọng. Qua nhiều lần sửa đổi, luật đất đai năm 1993 đã quyết định thời hạn sử dụng đất nông nghiệp là 20 năm đối với cây hàng năm và 50 năm đối với cây lưu niên. Thông tư 64/CP ngày 27.9.1993 có quy định hạn điền mà từng hộ có thể sử dụng nhằm tránh những trường hợp quá tập trung diện tích cho một số đối tượng trong khi đó lại có một bộ phận lại chẳng nhận được phần đất nào cả. Đối với đất nông nghiệp thì mức quy định tối đa đa cho một hộ là 3 ha ở miền Nam và 2 ha ở miền Bắc. Còn đối với đất để canh tác cây lâu niên là 10 ha ở vùng trung du và 30 ha ở vùng núi. Những hộ nào nhận quá mức trên thì phần diện tích dôi ra chỉ được sử dụng trong thời gian nửa kỳ bình thường mà thôi, còn nửa chu kỳ sau thì họ phải trả thuế đất cho Nhà nước. Bên cạnh việc gia hạn sử dụng đất, một vấn đề nữa nổi lên là phải giao đất cho nông dân như thế nào. Mặt trái của những chính sách caỉ cách trong nông nghiệp và chủ yếu là chính sách giao đất cho nông dân để họ tự canh tác đó là sự manh mún trong quản lý và khó có thể đảm bảo sự công bằng trong XH một khi toàn bộ đất đai bị phân làm nhiều mảnh, nhiều chủ sở hữu. Chính vì sự manh mún đó của đất đai canh tác đã dẫn đến việc sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn cũng như lao động trong nông nghiệp. Vì thế cần tiếp tục thực hiện tốt thông tư 64/ CP để nâng cao hiệu quả sản xuất của các nguồn lực trong nông nghiệp. Như vây, các chính sách về ruộng đất là rất quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp Nhà nước có phát triển hay không một phần lớn phụ thuộc vào các chính sách ruộng đất hợp lý, bắt kịp với quá trình phát triển của toàn bộ nền kinh tế thì mọi tư tưởng cốt lõi để xây dựng nên những chính sách đó là phải tách biệt 2 quyền sở hữu và sử dụng, quản lý ruộng đất. kết luận Qua quá trình nghiên cứu và phân tích, chúng ta thấy hơn mười năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước đã tạo cho nền kinh tế đất nước phát triển mạnh mẽ. Có sự thành công đó là do hướng đi đúng đắn của Đảng và Nhà nước, Đảng và Nhà nước đã biết giải quyết được nhiều vấn đề mấu chốt và phức tạp. Trong những vấn đề đó, vấn đè sở hữu Nhà nước là vấn đề quan trọng nhất trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, nó có đóng góp không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều phương hướng giải quyết vấn đề sở hữu Nhà nước mang tính chất thiết thực và hiệu quả trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế thị trường, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp và trong các doanh nghiệp Nhà nước. Sở hữu Nhà nước và giải quyết sở hữu Nhà nước là một vấn đề rất phức tạp và còn nhiều bức xúc tuy nhiên chúng ta không thể và không được phép lảng tránh. Để trình bày và làm sáng tỏ đề tài này đòi hỏi phải có trình độ chuyên sâu nhất định. Vì vậy, những phân tích trong bài trên nhiều chỗ chưa đạt tiêu chuẩn, thiếu sót và đôi chỗ chưa được khách quan. Một lần nữa mong được sự góp ý và chỉ dậy của thầy!. Tài liệu tham khảo Sách: Giáo trình kinh tế chính trị tập 2-Đại học kinh tế quốc dân. Văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, toàn tập 4 C.Mác và F.Enghen Những vấn đề kinh tế cơ bản trong thời kỳ kinh tế quá độ ở Việt Nam. Tập thể các tác giả. Kỷ yếu hội thảo “Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước hiện nay”. Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Tạp chí: Nghiên cứu và lý luận số 16/1996. Nghiên cứu-trao đổi số 7/1996. Tạp chí ngân hàng số 18/1998. Tạp chí cộng sản số 21/1997 Nghiên cứu lý lụân 1/1998 Kinh tế và dự báo số 4/1996 mục lục Lời mở đầu 1 Nội dung 2 I. Sở hữu và sở hữu Nhà nước 2 1. Sở hữu 2 2. Sở hữu Nhà nước 5 II. Những đổi mới về sở hữu Nhà nước ở nước ta và kết quả đạt được 9 1. Những điểm đổi mới về sở hữu Nhà nước ở nước ta từ 1986 đến nay 9 2. Kết quả đạt được và những tồn tại 11 III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sở hữu Nhà nước ở nước ta thời gian tới. 13 1. Đối với hệ thống doanh nghiệp Nhà nước 13 2. Đối với vấn đề sở hữu Nhà nước trong nông nghiệp 16 Kết luận 21

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35245.doc
Tài liệu liên quan