Đề án Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-Xã hội

Hội nhập là một tất yếu khách quan. Một doanh nghiệp có thể vươn lên phát triển vững mạnh bằng thời cơ lớn mà hội nhập mang đến nhưng cũng còn chứa trong đó lại là những thách thức, rủi ro không nhỏ. Thời cơ lớn nhất có thể nói đó chính là sự bùng nổ của khoa học công nghệ mà đỉnh cao là kinh tế tri thức (công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học ). Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có thể chớp lấy thành quả công nghệ, nâng cao chất lượng, kỹ năng cũng như khả năng thay đổi trước môi trường.Nhưng môi trường kinh doanh với sự biến đổi không ngừng, tổng hợp các yếu tố kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá xã hội, chính trị luật pháp thách thức với những khó khăn, phức tạp có khi không dự tính trước được cho hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Một doanh nghiệp với các nhà quản trị giỏi và đội ngũ nhân lực hùng hậu, năng động, sáng tạo sẽ tạo ra lực nội sinh mạnh mẽ, đề ra được những chiến lược nhân sự, kinh doanh linh hoạt, hiệu quả và nó có thể thay đổi phương cách kinh doanh, quản lý của doanh nghiệp lên tầm cao của thời đại. Tổ chức nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng ở Việt Nam còn kém về mọi mặt, mang mặt bằng chung của một nước đang phát triển. Câu hỏi đặt ra có cách mạng nhận thức và năng lực đổi mới mỗi con người trong đội ngũ nhân lực được triệt để hay không, biến đội ngũ nhân lực thành “nhân lực tri thức” sẵn sàng cho hội nhập buộc nhà quản tị và những ai quan tâm đến vấn đề này suy xét và trở lời bằng hành động . Vấn đề Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực không những là vấn đề cấp bách mà còn mang tính chất chiến lược lâu dài. Trong thời gian ngắn, đề tài đã tập trung làm rõ một số vấn đề sau: Đi sâu phân tích thực trạng nguồn nhân lực hiện nay từ các mặt trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, chỉ ra những bất cập hiện nay giữa nguồn nhân lực với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong những năm vừa qua. Trên cơ sở dự báo yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước về trước mắt, đề tài kiến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong thời gian từ nay đến năm 2020 Tuy nhiên đây là một vấn đề lớn, nội dung phong phú, có liên quan đến nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội đòi hỏi sự nỗ lực, tập trung của mỗi ngành, mỗi cấp, một số vấn đề mà đề tài nêu ra sẽ tiếp thu, bổ sung và hoàn thiện hơn.

doc48 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1895 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-Xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như vậy mà tốc độ tăng dân số vẫn còn cao,trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khỏe của nhân dân lại thấp,nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng sống,trong đó có vấn đề giáo dục,chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Điều kiện lao động trong nhiều cơ sở các ngành sản xuất cũng như ở các cơ quan hành chính sự nghiệp của nước ta còn kém,thậm chí có nơi còn rất khắc nghiệt,môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng,các yếu tố nguy hiểm và độc hại vượt quá ngưỡng giới hạn cho phép nhiều lần, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có chiều hướng tăng nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân và hợp tác xã..Tất cả những điều này cho thấy chất lượng dân số nói chung và người lao động nói riêng về mặt thể lực sức khỏe cũng như điều kiện lao động,không bảo đảm,cần phải được cải thiệ căn bản.Nói cách khác,thu nhập thấp, đời sống khó khăn,dinh dưỡng thiếu,thể lực hạn chế, đó là trạng thái chung của nguồn nhân lực nước ta hiện nay về phương diện mức sống và sức khỏe. b)Về trí lực. Chất lượng nguồn nhân lực được phản ánh chủ yếu qua sức mạnh trí tuệ, đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của nguồn lao động, đặc biệt trong điều kiện trí tuệ hóa lao động hiện nay.Trình độ trí tuệ biểu hiện ở năng lực sáng tạo,khả năng thích nghi và kỹ năng lao động nghề nghiệp của người lao động thông qua các chỉ số:trình độ văn hóa dân trí,học vấn trung bình của một người dân;số lao động đã qua đào tạo,trình độ và chất lượng đào tạo;mức độ lành nghề(kỹ năng,kỹ xảo..)của lao động; trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh;năng suất,chất lượng;hiệu quả của lao động.. Theo số liệu của UNDP,chỉ số phát triển con người HDI của Việt Nam có xu hướng gia tăng từ xếp thứ 116/174 nước(1993) lên xếp thứ 109/177 nước(2000),nhưng năm 2003 lại tụt xuống thứ 112/177 nước.Nước ta là một trong mười nước có chỉ số xếp hạng HDI cao hơn xếp hạng GDP/người trên 20 bậc, điều này chứng tỏ nước ta đã cố gắng;gắn tăng trưởng kinh tế với xã hội,quan tâm đến yếu tố sức khỏe,y tế,giáo dục..Mặt khác,cho đến nay đại bộ phận lao động nước ta chưa qua đào tạo đầy đủ, đến cuối năm 2003 số người được đào tạo mới chỉ chiếm 17,5% tổng số lao động cả nước và hiện vẫn còn có3,74% lao động không biết chữ.Trong cơ cấu lao động ở các cơ sở sản xuất của nước ta, đội ngũ công nhân và lao động giản đơn chiếm 82%,đội ngũ các nhà kỹ thuật,quản lý,phát minh và đổi mới công nghệ chỉ chiếm 18%,trong khi tỷ lệ tương ứng ở các nước phát triển là 28% và 72%. Như vậy chưa nói đến chất lượng đào tạo và sự phù hợp giữa kiến thức đào tạo trước đây với việc làm hiện nay ra sao,mà chỉ riêng chỉ số trên đã cho thấy tỷ lệ lao động được đào tạo ở nước ta là quá thấp,vì thế chất lượng lao động nói chung rất hạn chế. Đáng chú ý là số lao động được đào tạo đã thấp mà hiện tại vẫn còn 2,2% trong tổng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa có việc làm.Thêm vào đó,chỉ khoảng 70% số người có trình độ đại học,cao đẳng và trung học chuyên nghiệp làm việc đúng ngành nghề đào tạo.Chẳng hạn,trong số học sinh tốt nghiệp các nghành nông,lâm,ngư nghiệp ở các trường trung học chuyên nghiệp chỉ trên 40% làm việc đúng ngành nghề,còn trong số sinh viên tốt nghiệp đại học ở các khoa này thì chỉ khoảng 20% đúng ngành đào tạo.Trong số lao động chuyển ngành nghề so với ngành nghề được đào tạo,chỉ có 42,5% được đào tạo lại,số còn lại 57,5% làm trái nghề,coi như chưa đào tạo.Ở khu vực hành chính sự nghiệp và bộ máy sản xuất kinh doanh khu vực nhà nước hiện có khoảng 30% cán bộ,nhân viên không đủ trình độ chuyên môn hay làm không đúng nghề,họ làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm...Tình hình này làm cho chất lượng lao động càng hạn chế. Hiện tại có 10% công chức chưa tốt nghiệp phổ thông;60,51% công chức tốt nghiệp đại hoc,cao đẳng;4,41% công chức có trình độ trên đại học;4,28% có trình độ lý luận chính trị cao cấp;28,26% có trình độ lý luận chính trị trung cấp;37,07% có trình độ tiếng Anh(A,B,C);14,47% đã qua đào tạo hành chính nhà nước;4,34% đã qua đào tạo quản lý kinh tế;227,19% được đào tạo về tin học. Đội ngũ trí thức lực lượng nòng cốt chưa nhiều nhưng những năm gần đây phát triển khá nhanh.Lao động có trình độ cao đẳng trở lên tăng từ 800.000 năm 1995 lên 1,3 triệu người năm 2000;số tiến sĩ chuyên ngành và tiến sĩ khoa học tăng từ 9.300 năm 1995 lên 13.500 người năm 2000.Còn theo thống kê của Hội đồng chức danh nhà nước năm 2002 thì đến cuối năm 2002,cả nước có hơn 1000 giáo sư và khoảng 4000 phó giáo sư.trong đó có một số chuyên gia đầu ngành về khoa học,kỹ thuật và công nghệ đạt trình độ quốc tế.Còn theo thống kê của Bộ nội vụ thì tính đến tháng 11-2004,cả nước đã có khoảng 5479 giáo sư,phó giáo sư được công nhận,trong đó số lượng giáo sư,phó giáo sư đang làm việc là 3075,chiếm 56,1%.Tuy nhiên so với một số nước trong khu vực và so với yêu cầu cấp bách của phát triển kinh tế trong điều kiện hiện nay thì con số đó còn quá nhỏ nhoi. Bảng 5.Một số chỉ tiêu về giáo dục các nước ASEAN Chỉ tiêu Thời gian Vietnam Brunay Indonexia Malayxia Philipin Thailan Singapo Đaihọc và sau trung học 5,1 - - 5 - - 22 Trung học 8,8 - - 48 - - 30 Tiểu học và thấp hơn 85,1 - - 47 - - 47 Tỷ lệ người biết chữ từ 15 tuổi trở lên (%) 1992 89 - 84 80 90 94 - Số năm đi học tính cho người từ 25 tuổi trở lên (năm) 1992 4,9 5,0 4,1 5,6 7,6 3,9 4,0 Số cán bộ khoa học kỹ thuật trên 1000người 1986-1991 - 21,7 12,1 - - 1,2 22,9 Tỷ lệ chi cho giáo dục trong GNP (%) 1991 1,6 - 2,5 6,9 2,9 3,8 3,4 GNP bình quân đầu người cho giáo dục 1991 4 - 21,9 510,6 21,46 62,7 480,8 (Nguồn: Chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người, Nxb Thống kê,HàNội1995) Tình hình trên cho thấy bên cạnh các chỉ tiêu đáng mừng như tỷ lệ người biết chữ từ 15 tuổi trở lên đạt được 89% năm 1992,tăng 6% so với năm 1989,thực trạng trình độ nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều vấn đề còn lo ngại;số người mù chữ từ 15 tuổi trở lên còn 4,7 triệu năm 1992;trong toàn bộ dân số ở độ tuổi lao động,chỉ có 5,1% là có trình độ đại học và sau trung học,8,8% có trình độ trung học;trong tổng số lực lượng lao động,số lao động kỹ thuật chỉ chiếm có 12%;năm 1995,trong số 40,2 triệu người chỉ có 4,7 triệu người là lao động có kỹ thuật.Một mặt,Việt Nam có cố gắng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo,chất lượng nguồn nhân lực như:số học sinh cao đẳng và đại học tăng từ 129.600 người năm 1990 lên 279.900 người năm1995.tức là tăng gần 2,3 lần trong 5 năm;tốt nghiệp đại học từ 20.500 năm 1990 tăng lên 58.500 năm 1995;số học sinh trung học chuyên nghiệp từ 135.400 năm 1990 lên 197.500 năm 1995,số tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp từ 39.900 năm 1990 lên 56.300 năm 1995.Chưa kể đến tỷ lệ chi cho giáo dục đào tạo trong GDP đã tăng nhanh từ 1,6% năm 1991 lên 2,75% năm 1993,Gần 6% năm 1994.Nhưng để đạt được mức độ chung như nước khác ngay trong khối ASEAN,rõ ràng chúng ta còn phải đầu tư nhiều thời gian,công sức và tiền của cho công tác giáo dục đào tạo để biến những tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam thành hiện thực. c)Phẩm chất đạo đức tinh thần của người Việt Nam. Xem xét chất lượng nguồn nhân lực không thể không nói đến đạo đức,tư tưởng,văn hóa,tâm lý,tính cách...của con người. Đây là phẩm chất đạo đức-tinh thần có vai trò hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực,thúc đẩy tính tích cực và làm gia tăng hiệu quả hoạt động của con người.Những phẩm chất đạo đức-tinh thần trên không chỉ do tồn tại xã hội đương thời chi phối mà còn chịu ảnh hưởng dai dẳng của xã hội trước,nhất là khi đã trở thành truyền thống.Con người là sản phẩm của lịch sử,nên dù có ý thức hay không đều mang trong mình một di sản truyền thống nhất định.Mà truyền thống thì bao gồm cả yếu tố giá trị,tích cực lẫn những yếu tố phản giá trị,tiêu cực.Vì vậy,trong tư tưởng, đạo đức,văn hóa tâm lý,tính cách của con người Việt Nam hôm nay,bên cạnh những giá trị truyền thống tốt đẹp,có cả những di sản không tốt từ truyền thống cần được khắc phục trong quá trình phát triển.Nổi cộm là những tư tưởng và tâm lý tiểu nông, đó là:coi trong địa vị,ngôi thứ,chủ nghĩa hình thức,gia trưởng;nặng về tình nghĩa hơn lý lẽ;thiên về tình cảm,kinh nghiệm,thiếu lý trí,thực nghiệm khoa học; dễ thỏa hiệp,bảo thủ,dung hòa;hay nể nang,tùy tiện,sống theo lệ hơn là theo luật;lối sống mang nặng tâm lý cộng đồng làng xã,lấy các quan hệ họ hàng,làng xóm làm chuẩn mực cư xử...Tất cả những điều đó đã làm cho con người trở nên thiển cận, đố kỵ,bản vị,cục bộ,bè phái.Trong truyền thống,người Việt Nam thường không đề cao trí tuệ(mặc dù trọng sự học)mà ca tụng sự khôn khéo:" ăn cỗ đi trước,lội nước theo sau",thủ thế,giữ mình..Những đặc điểm trên đây chẳng những hoàn toàn xa lạ,không thích hợp với con người lao động công nghiệp,mà còn tạo ra"sức ì"ghê gớm,là lực cản quá trình phát triển kinh tế.Vì vậy,việc cải tạo,khắc phục và xóa bỏ những di sản tiêu cực của truyền thống thực sự là một cuộc đấu tranh rất khó khăn,phức tạp và lâu dài như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:"Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to,nó ngấm ngầm cản trở cách mạng tiến bộ.Chúng ta lại không thể trấn áp nó,mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận,rất khó chịu,rất lâu dài". 2.1.4. Đánh giá chung chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay. Dân số nước ta đông,tốc độ tăng dân số khá lớn,tạo ra lực lượng lao động dồi dào và trẻ,nhu cầu về việc làm ngày càng tăng,giá lao động lại rẻ, đây đang là lợi thế so sánh quan trọng của nguồn nhân lực của nước ta.Mặt khác,con người Việt Nam có truyền thống yêu nước,cần cù,chịu khó,có tư chất thông minh và sáng tạo,có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh. Không chỉ trong quá khứ mà cả ngày nay,không chỉ tầng lớp trên xã hội mà cả người dân bình thường cũng có truyền thống hiếu học,trọng học dù điều kiện khó khăn cũng đều cố gắng cho con cái của mình được học hành, đỗ đạt cao để trở thành trí thức,có địa vị xã hội.Mặt khác,do ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa,Nhất là của Nho giáo ở nước ta vẫn tồn tại khá phổ biến là tâm lý trọng chức tước,thích làm quan và coi quan tước là một bậc thang đánh giá sự tiến bộ của một cá nhân. Điều đó thúc đẩy nâng cao dân trí,nâng cao trình độ học vấn của dân tộc,phản ánh trách nhiệm cao của cha mẹ với con cái,với thế hệ trẻ. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp truyền thống mang nặng tính tự cung tự cấp,thêm vào đó cơ chế tập trung bao cấp quan niệm hiện vật tồn tai trong một khoảng thời gian khá dài ở Việt Nam một tập tính không quen hạch toán kinh tế,ngại trao đổi,buôn bán.Từ khi thực hiện nền kinh tế hàng hóa thị trường,tập tính không phù hợp này phần nào được dỡ bỏ và cải biến,người Việt Nam đã bắt đầu làm quen với nền kinh tế thị trường,song nói chung sự yếu kém về năng lực hạch toán,quản lý kinh tế vẫn còn là hạn chế lớn của người Việt Nam hiện nay. Qua một số đánh giá trên cho thấy dân số nước ta tuy đông nhưng chất lượng sống thấp,lực lượng lao động dồi dào nhưng chất lượng hạn chế,nhất là về trình độ chuyên môn nghiệp vụ,kỹ năng lao động,thể lực và văn hóa lao động công nghiệp, đặc biệt là tư tưởng và tâm lý của người sản xuất nhỏ vẩn còn tồn tại phổ biến của người lao động.Thêm vào đó,việc khai thác và sử dụng số lao động đã qua đào tạo ,có trình độn lại bât hợp lý và kém hiệu quả; đồng thời có sự mất cân đối lớn về cơ cấu trình độ đào tạo và phân bổ lao động giữa các ngành. Bảng 6.Dự báo nguồn nhân lực đến năm 2020 Chỉ tiêu 2000 2005 2010 2020 Dân số (người) 82.000.000 89.000.000 95.037.000 106.530.000 Nguồn lao động xã hội (người) 44.000.000 47.161.800 51.750.000 70.000.000 Lao động đang làm việc 37.000.000 39.151.100 41.303.800 47.000.000 Lao động qua đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ(người) 9.600.000 22% 14.148.540 30% 20.700.000 40% 42.000.000 60% Cơ cấu lao động Đại học/Cao đẳng-Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề 1-2-5,0 1-2-6,5 1-2,5-9 1-3-12 Đai học và cao đẳng 1.200.000 1.489.320 1.656.000 2.625.000 Trung học chuyên ngiệp 2.400.000 2.978.580 4.140.000 7.875.000 Công nhân kỹ thuật 6.000.000 9.680.580 14.904.000 31.500.000 Công nhân kỹ thuật (có bằng) 1.800.000 30% 3.380.203 35% 4.961.600 40% 15.750.000 50% (Nguồn:Chiến lược giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp vụ trung học chuyên nghiệp và dạy nghề Bộ Giáo dục và đào tạo) Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển đất nước,phát triển nguồn nhân lực phải bám sát những yêu cầu phát triển đất nước. Điều này đòi hỏi cần phải cải thiện môi trường kinh tế xã hội,nâng cao chất lượng sống của con người,tiến hành hàng loạt giải pháp thích ứng, đồng bộ,hướng vào việc khai thác,sử dụng và phát triển có hiệu quả nguồn nhân lực. 2.2.Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. 2.2.1.Tuyển dụng Hiện nay,nước ta vẫn chưa thật có các giải pháp tuyển dụng nhân viên hợp lý và đặc biệt nhất là khu vực nhà nước.Còn phổ biến hiện tượng sinh viên,học sinh được đào tạo ra làm việc trái nghề của mình cho thấy được rằng việc tuyển mộ chưa hợp lý,tạo ra việc lãng phí tiền của cũng như không đáp ứng được yêu cầu công việc một cách tốt nhất.Ở nước ta chỉ khoảng 70% số người có trình độ đại học,cao đẳng và trung học chuyên nghiệp làm việc đúng ngành nghề đào tạo.Chẳng hạn,trong số học sinh tốt nghiệp các nghành nông,lâm,ngư nghiệp ở các trường trung học chuyên nghiệp chỉ trên 40% làm việc đúng ngành nghề,còn trong số sinh viên tốt nghiệp đại học ở các khoa này thì chỉ khoảng 20% đúng ngành đào tạo.Trong số lao động chuyển ngành nghề so với ngành nghề được đào tạo,chỉ có 42,5% được đào tạo lại,số còn lại 57,5% làm trái nghề,coi như chưa đào tạo.Ở khu vực hành chính sự nghiệp và bộ máy sản xuất kinh doanh khu vực nhà nước hiện có khoảng 30% cán bộ,nhân viên không đủ trình độ chuyên môn hay làm không đúng nghề,họ làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm...Tình hình này làm cho chất lượng lao động càng hạn chế.Do đó cần đưa ra được các giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng này,sắp xếp đúng người đúng việc thỏa mãn nhu cầu con người cho xã hội. 2.2.2.Đào tạo Theo số liệu điều tra xã hội học của Tổng liên đoàn lao động,trong tổng số 5.303 công nhân thì có tới 4,13% công nhân ở trình độ tiểu học(cấp I cũ),34,54% công nhân ở trình độ trung học cơ sở( cấp II cũ),43,37% công nhân ở trình độ trung học phổ thông(cấp III cũ),13,29% công nhân có trình độ trung cấp,và số có trình độ đại học và trên đại học chiếm một tỷ lệ thấp là 4,34% và 0,08%. Qua số liệu nghiên cứu trên có thể đưa ra một số nhận xét chung: Trình độ học vấn của công nhân còn thấp,hiện vẫn còn khoảng 20% chưa phổ cập cấp II và 53% chưa phổ cập cấp III,đây là một yêu cầu cấp bách đặt ra cho xã hội,đặc biệt là các nhà hoạt động chính sách. Công nhân không biết ngoại ngữ chiếm tỷ lệ rất cao,khoảng từ 86%(Tiếng Anh) đến 98% các thứ tiếng khác. Số công nhân có bậc thợ cao từ bậc 5 trở lên còn ít hơn nhiều so với số công nhân bậc thợ thấp(từ bậc 1 đến bậc3);tỷ lệ này là 25.10% so với 31,25%.Đáng chú ý là tỷ lệ công nhân không nghề,lao động phổ thông còn lớn:24,63%.Ở độ tuổi từ 35 trở xuống,số thợ bậc cao càng ít,chỉ chiếm khoảng 12% Đối với các ngành nghề khác nhau,các lĩnh vực có vị trí địa lý và cơ cấu kinh tế-xã hội khác nhau có cơ cấu công nhân có trình độ văn hóa,nghề nghiệp cũng khác nhau.Song dù ở đâu thì trình độ văn hóa và nghề nghiệp của họ cũng còn thấp chưa đáp ứng được so với yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. Qua đấy thấy được rằng việc đào tạo đội ngũ công nhân chưa sâu,công tác giáo dục chưa thành nếp sống chung của toàn xã hội.Chỉ khi xã hội hóa được giáo dục thì mới có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhanh và mạnh mẽ phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. 2.2.3.Đãi ngộ Hiện nay các chính sách của Nhà nước nhằm thu hút nguồn nhân lực đưa lao động đã qua đào tạo về phục vụ các khu vực nông thôn,miền núi đã có nhiều hiệu quả việc mở rộng cửa ,trải thảm đỏ cho sinh viên ra trường có điều kiện công tác ngay ở khu vực nông thôn đã khuyến khích khá lớn lượng sinh viên mới ra trường tham gia.Với các chính sách hữu hiệu để thu hút lao động đã qua đào tạo đến làm việc ở các vùng nông thôn miền núi.Trong những năm qua nhà nước ta đã có những chính sách nhằm khuyến khích sinh viên mới ra trường đến công tác và lập nghiệp ở các vùng nông thôn:như được hưởng 100% lương trong thời gian tập sự,tăng các loại phụ cấp để thu nhập của họ gấp hai lần lương cơ bản,tăng thời gian nghỉ phép lên gấp đôi và một số cơ chế ưu đãi khác. Nhà nước còn đưa ra các chính sách thu hút nguôn lao động trí thức nước ngoài ,Việt kiều về tham gia kinh doanh tại Việt Nam với các ưu đãi,các cơ chế thông thoáng tạo điều kiện làm ăn kinh doanh và đóng góp chất xám cho xã hội,Hiện nay theo ước tính có khoảng 400.000 người Việt Nam có trình độ đại học trở lên sinh sống ở nước ngoài(chiếm 15% trên tổng số trên 2,5 triệu Việt kiều)trong số đó nhiều người là giáo sư,tiến sĩ,chuyên gia giỏi,giữ những vị trí quan trọng trong khoa học và công nghệ các nước.Do đó cần có chính sách đãi ngộ hợp lý đáp ứng được các yêu cầu thuận tiện cho công dân Việt Nam ở nước ngoài có thể về nước làm ăn,sinh sống đây cũng là nguồn lực quan trọng cho phát triển đất nước. 2.2.4.Đánh giá Tốc độ tăng nguồn lao động còn ở mức cao, đến năm 2000 bình quân mỗi năm tăng nguồn lao động khoảng 2,95%. Thời kỳ 2001 đến 2010, số lao động cần giải quyết việc làm mới vào khoảng 11-12 triệu người, hầu hết là lao động trẻ, trong khi nguồn lực đầu tư cả trong nước và quốc tế cho phát triển sản xuất tất hạn chế. Theo tính toán, sau năm 2000 trên tổng thể nước ta vẫn dư thừa lao động. Mặt khác, tỷ lệ thất nghiệp thành thị hiện nay còn rất lớn và đang có xu hướng tăng lên. năm 1999 tỷ lệ đó là 6,85%, tăng thêm 0,84% so với năm 1997; đặc biệt là Hà Nội, tỷ lệ đó là 9,09% so tổng lực lượng lao động. Trong nông thôn, tình trạng thiếu việc làm rất nghiêm trọng và cũng đong có xu hướng tăng lên. tỷ lệ sử dụng thời gian lao động trong nộng thôn của lưc lượng lao động trong độ tuổi, năm 1998 là 71,13%, so với 1997 giảm 2,01% (1997 là 731,14%). Trong khi đó lại thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật cao. Nhiều lĩnh vực như: lắp ráp ô tô, đóng tàu, dầu khí.v.v phải thuê lao động nước ngoài. đó là một mâu thuẫn gay gắt hiện nay. Với chủ trương tiếp tục công cuộc đổi mới, tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có lợi thế. Nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, nước ta phải đối mặt với một thách tức lớn về chất lượng nguồn nhân lực. Tỷ lệ lao động qua đào tạo rất thấp (nảm 1998 tỷ lệ này là 17n,8%). Chưa có chính sách phân luồng trong giáo dục và đào tạo, cơ cấu đào tạo bất hợp lý, tỷ lệ giữa đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ là 1-1,6-3, 6. Trong khi các nước khác là 1-4-10; giáo dục, đào tạo nặng về bằng cấp, thi cử, xu hướng thương mại hoá trong đào tạo khá phổ biến; đào tạo không gắn với sản xuất và thị trường sức lao động (không gắn với sử dụng); lao động trong nông nghiệp nông thôn hầu như không được đào tạo. Có thể nói, điểm yếu cơ bản nhất của giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực của nước ta thời gian qua là chưa tạo ra được một đội ngũ lao động có năng lực và có tính năng động xã hội cao, đáp ứng yêu cầu của sản xuất, của thị trường sức lao động. Nguồn nhân lực Việt Nam hơn bao giờ hết cần được đào tạo để phát triển nội lực với giá trị mới và vượt qua được những thách thức mới của thị trường lao động trong nền kinh tế tri thưc tương lai. CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC 3.1.Phương hướng và những quan điểm chỉ đạo. -Phương hướng chung. Biến đổi cơ cấu nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội.Về cơ cấu lao động,cần khắc phục tình trạng bất hợp lý trong cơ cấu lao động giữa các ngành,các khu vực sản xuất trong thời gian qua,từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao đồn cho sản xuất công nghiệp,giảm lao động nông nghiệp, Đại hội Đảng lần thứ IX nêu lên mục tiêu:tăng lao động cho công nghiệp,xây dựng và dịch vụ lên 50% vào năm 2010,giảm lao động nông,lâm,ngư nghiệp cả về số tuyệt đối và tỷ trọng từ 61,3%(năm 2000) xuống còn 50%(năm 2010).Bên cạnh đó cần nhanh chóng khắc phục tình trạng thừa thầy thiếu thợ như hiện nay theo hướng gắn việc hình thành các khu công nghiệp,các khu công nghệ cao với các trường dạy nghề.Phát triển nhanh và phân bổ hợp lý các trường dạy nghề trên cả nước,mở rộng các loại hình đào tạo nghề đa dạng,linh hoạt năng động.Phấn đấu đạt số học sinh công nhân kĩ thuật tăng 11-12%/năm trong giai đoạn 2000-2005. Nâng cao toàn diện chất lượng nguồn nhân lực. Về tầm vóc,thể lực:Phấn đấu đến năm 2010,giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống còn khoảng 20% và tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi.Ngoài ra cần tạo điều kiện thuận lợi và tổ chức tốt việc nghỉ ngơi vui chơi giải trí cho nhân dân,từ việc đi tham quan nghỉ mát,thưởng thức nghệ thuật đến tổ chức các lễ hội truyền thống..Như vậy cùng với việc cải thiện đời sống vật chất,nhu cầu tinh thần của con người cũng không ngừng được nâng lên.Việc thỏa mãn những nhu cầu đó vừa góp phần vào việc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất sản phẩm sức lao động,vừa nâng cao thể lực của con người. Về trí lực:Nâng cao trí lực là nhiệm vụ cơ bản và xuyên suốt quá trình xây dựng nguồn nhân lực.Trí lực là yếu tố quan trọng nhất,quyết định chất lượng người lao động trong điều kiện kinh tế tri thức đang phát triển mạnh mẽ.Để nâng cao năng lực chuyên môn,trình độ tay nghề và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động,trong những năm tới phải quan tâm hơn nữa đến các lĩnh vực sau : đảm bảo cho trẻ em trong độ tuổi đi học cấp I đều được đến trường;phấn đấu phổ cập trung học cơ sở trong cả nước;tiếp tực việc thực hiện xóa mừ chữ,khắc phục tình trạng tái mù chữ và nâng cao trình độ học vấn cho người lao động thông qua hệ thống giáo dục thường xuyên;phấn đấu đến năm 2010,nâng tỷ lệ lao động được đào tạo lên 40%.Hiện nay con số người lao động không được đào tạo nghề ở nước ta còn đông.Trong nền kinh tế thị trường và mở cửa,người lao động không biết nghề thì bản thân họ rất khó tìm việc,vì ngày nay người ta quan tâm chủ yếu đến chất lượng lao động chứ không tập trung vào khai thác số lượng lao động như trước đây.Vì vậy,phát triển đào tạo nghề phải gắn với các chương trình kinh tế-xã hội của đất nước,với nhu cầu phát triển kinh tế của các ngành,các vùng kinh tế.Thực hiện xã hội hóa đào tạo nghề nhằm thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho việc đào tạo nghề,tạo thuận lợi cho người lao động có cơ hội học nghề để tìm kiếm việc làm. Về phẩm chất đạo đức-tinh thần của con người Việt Nam:Phẩm chất đạo đức-tinh thần ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực.Vì vậy,nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ chú ý đến thể lực và trí lực mà phải coi trọng cả phẩm chất đạo đức-tinh thần của con người.Để có được những con ngươì có phong cách sống và kỹ năng lao động nghề nghiệp tốt.Mỗi dân tộc đều có những giá trị truyền thống của mình gắn với con người và đất nước.Giá trị truyền thống là nền tảng mà trên đó các thế hệ nối tiếp nhau phải thừa kế và phát triển.Không dựa trên nền tảng giá trị truyền thống thì không thể tiếp thu có hiệu quả những thành tựu văn minh nhân loại. -Những quan điểm chỉ đạo. Nhận thức đúng vị trí và đặc điểm con người trong thời đại ngày nay,thấy được nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất trong tất cả các nguồn lực hiện có để phát triển kinh tế-xã hội,trên cơ sở đó xây dựng thành công chiến lược con người. Xây dựng,phát triển nguồn nhân lực nhằm phát huy tốt nhất vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với sự thành công của nền kinh tế,đồng thời không ngừng gia tăng giá trị con người. Xây dựng phát triển con người theo yều cầu đất nước trong nền kinh tế thị trường,cách mạng khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế. Gắn phát triển nguồn nhân lực với khai thác,sử dụng lao động;lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn và thước đo để xác định phương hướng khai thác và phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng nguồn nhân lực bằng nhiều cách,nhiều con đường,biện pháp mang tính tổng hợp và đồng bộ;kết hợp giữa cá thể hóa với xã hội hóa;truyền thống với hiện đại,dân tộc với quốc tế. -Nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020. Đến năm 2020 phấn đấu về cơ bản đưa nước ta trở thành nước công nghiệp và đạt chỉ tiêu 50-60% lao động qua đào tạo nghề nghiệp. Phát triển đào tạo đại học,trung học chuyên nghiệp,đẩy mạnh đào tạo công nhân lành nghề,bảo đảm có được có nhiều nhân tài đất nước Phấn đấu sớm có một số cơ sở giáo dực từ phổ thông đến đại học đạt tiêu chuẩn quốc tế. 3.2.Các nhóm giải pháp cơ bản. 3.2.1.Đào tạo. -Nhận thức đúng vị trí của giáo dục đào tạo.Điều đầu tiên cần chú ý là phải lam cho toàn Đảng ,toàn dân nhận thức sâu sắc rằng giáo dục và đào tạo là nền tảng của chiến lược con người;rằng mọi chiến lược phát triển kinh tế xã hội sẽ không thể thành công nếu không thực hiện tốt chiến lược phát triển đào tạo.Quan niệm tích cực này càng trở nên cấp thiết trong điều kiện hiện nay,khi tỷ lệ lao động cơ bắp ngày một giảm,còn lao động trí tuệ ngày một gia tăng;khi lợi thế lao động đông và giá nhân công nhân công rẻ nhanh chóng mất tác dụng do thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại mang lại.Giáo dục và đào tạo đóng vai trò quyết định trong việc gây dựng nguồn nhân lực-nguồn lực qúy giá nhất trong các nguồn lực.Nguồn lực quý giá đó lại do chính chúng ta gây dựng nên chứ không thể chuyển giao từ bên ngoài như chuyển giao công nghệ,không thể thu hút từ các nước phát triển như thu hút đầu tư.Bởi thế,giờ đây phảo thật coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,giáo dục và đào tạo phải được đi trước một bước,thậm chí đi trước nhiều bước.Ngoài ra,theo một ý nghĩa sâu rộng hơn,giáo dục và đào tạo còn có tác dụng thúc đẩy hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới xung quanh chúng ta,về bản sắc từng dân tộc,cũng như sự tương đồng khác biệt giữa các nền văn hóa văn minh,các giai cấp,các quốc gia-dân tộc,...nghĩa là giáo dục có vai trò mở rộng tầm nhìn,nâng cao trình độ tri thức cho người lao động,để họ có thể tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại trong khi vẫn bảo tồn được văn hóa dân tộc. -Tiếp tục đổi mới hệ thống giáo dục.Cùng với việc nhận thức đúng vai trò,vị trí của giáo dục và đào tạo,tiếp tục đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo ở tất cả các bậc đại học từ nội dung đến phương pháp,để sản phẩm đào tạo ra có chất lượng cao,đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động trong nước và quốc tế.Việc thiết kế hệ thống kiến thức giáo dục và đào tạo cần thực hiện theo phương châm cơ bản,hiện đại,thiết thực,bám sát yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và xu thế tiến bộ của thời đại.Nội dung của giáo dục phải bao gồm không chỉ những kiến thức thuần túy về khoa học,kỹ thuật công nghệ,chuyên môn nghề nghiệp,mà còn cả những kiến thức về văn hóa nhân văn-về tính nhân văn,những giá trị nhân văn sâu sắc của con người Việt Nam.Phải giáo dục cho thế hệ trẻ Việt Nam òng quyết tâm,ý chí vươn lên không cam chịu đói nghèo lạc hậu ngay từ khi còn nhỏ,đang học tập ở bậc tiểu học.Đồng thời phải giáo dục đạo đức,thể chất,giáo dục văn hóa lao động công nghiệp,ý thức tiết kiệm,tinh thần lao động,trách nhiệm công dân,ý thức dân tộc,trang bị cho người học vốn hiểu biết về môi trường sinh thái,về văn hóa pháp luật và văn hóa dân chủ,chuẩn bị cho họ thói quen sống và làm việc trong một xã hội công dân có kỷ cương,pháp luật nghiêm minh. Như vậy muốn cho con người-sản phẩm của giáo dục và đào tạo có đủ những năng lực và phẩm chất cần thiết,thích ứng được không chỉ với điều kiện hiện nay mà cả trong tương lai,thì nội dung giáo dục và đào tạo phải được định hướng đầy đủ theo các mục tiêu:kinh tế,xã hội,kỹ thuật,nhân văn,chính trị và phát triển.Những định hướng giá trị cơ bản cần được giáo dục cho con người Việt Nam hiện nay là:yêu nước,trung thành tuyệt đối với lợi ích quốc gia dân tộc,có tinh thần cố kết cộng đồng,có niềm tin vững chắc,có quyết tâm cao thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội;có phẩm chất đạo đức tốt;có bản chất nhân văn nhân đạo,nhân ái;có thể lực cường tráng;có trình độ khoa học công nghệ;con người công dân;con người vừa đậm đà bản sắc dân tộc,vừa có cá tính và bản sắc bản lĩnh riêng. -Phương pháp giáo dục và đào tạo cũng cần đổi mới thật sự.Phương pháp gồm nhiều con đường,cách thức,biện pháp,nhưng phương pháp chung có hiệu quả cao và đang trở thành xu hướng có tính phổ biến là biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.Phương pháp này có tác dụng kích thích,phát huy tính chủ động tích cực,thúc đẩy sự phát triển trí tuệ và khai thác khả năng sáng tạo của người học,giúp họ hình thành năng lực và phương pháp tư duy khoa học.Không có năng lực và phương pháp tư duy khoa học,thì không thể có sự phát trí tuệ thật sự và do đó,nhân cách sẽ thiếu hụt một thành tố quan trọng,làm cho người ta dễ dao động và không có sức mạnh tự thân.Giờ đây hiệu quả của giáo dục đào tạo không chỉ tính bằng sự phát triển của năng lực sáng tạo,phương pháp tư duy khoa học,khả năng thích nghi và khả năng biến tri thức thành kỹ năng người lao động.Đây là điểm cần thiết của người học,là nền tảng và phương tiện quan trọng giúp họ đạt hiệu quả cao không chỉ trong hoạt động thực tiễn mà cả trong quá trình tiếp tục tự đào tạo,cập nhật thường xuyên kiến thức sau này,nếu không muốn tụt hậu,vì trong thời đai thông tin bùng nổ,tri thức hiện nay,cứ mỗi 7 năm lượng tri thức lại tăng gấp đôi..Do vậy,nếu như về mặt không gian,giáo dục và đào tạo phải được mở rộng ra toàn xã hội,thì về mặt thời gian,giáo dục và đào tạo phải được kéo dài suốt đời người để người lao động kịp thích nghi,thích ứng với yêu cầu phát triển xã hội. -Thực hiện giáo dục đào tạo trên những nguyên tắc mới:xã hội hóa,dân chủ hóa và nhân văn hóa. Xã hội hóa giáo dục và đào tạo là huy động toàn xã hội làm giáo dục,động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước.Đây là một tư tưởng chiến lược coi sức mạnh toàn xã hội là điều kiện tiên quyết để phát triển có hiệu quả sự nghiệp giáo dục và đào tạo một cách lâu dài,chứ hoàn toàn không phải là một giải pháp tình thế,có tính chất sách lược.Xã hội hóa cần được hiểu là giáo dục chio mọi người,toàn dân được giáo dục suốt đời;là mọi người cho giáo dục,vì giáo dục;mỗi người phải tự học,tự đào tạo qua thực tiễn. Dân chủ hóa giáo dục là động lực quan trọng thúc đẩy tinh năng động,năng lực sáng tạo,tính tích cực của chủ thể và khách thể giáo dục,do đó chất lượng giáo dục được nâng cao.Ngày nay người ta coi sự bình đẳng về cơ hội học nghề là một trong những mục tiêu trọng yếu của dân chủ hóa giáo dục.Nghĩa là,Nhà nước đảm bảo sao cho mỗi người đều có cơ hội học tập thích đáng để có được một nghề nghiệp xứng đáng.Một xã hội càng có nhiều người như vậy thì sức mạnh xã hội sẽ càng được nhân lên. Nhân văn hóa giáo dục nhằm hướng đến việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh.Đòi hỏi quá trình giáo dục đenm đến cho học sinh không những kiến thức khoa học,trình độ học vấn mà còn hàng loạt phẩm chất càn thiết ở con người.Đó là niềm tin trên cơ sở hiểu biết,là tinh thần phê phán,tôn trọng sự thật và chân lý,thái độ trọng thực tiễn và hiệu quả,là những quan điểm đúng đắn về lẽ sống,các chuẩn mực đạo đức,các giá trị thẩm mỹ thể chất,về cội nguồn văn hóa dân tộc,phương pháp tư duy lịch sử,sự kết hợp truyền thống và hiện đại và về những định hướng giá trị trong con người Việt Nam cần vươn tới.Chẳng những thế mà Nhật Bản và các nước công nghiệp mới châu Á rất chú trọng đến tính nhân văn trong giáo dục của họ. -Mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục đào tạo. Mở rộng quy mô với việc tăng số lượng người học thông qua đa dạng hóa các hình thức và các loại hình đào tạo để các tầng lớp dân cư có điều kiện nâng cao dân trí,nhanh chóng giải quyết chất lượng nguồn lao động.Do đó,cùng với các trường trung học chuyên nghiệp,các trường và trung tâm đào tạo công nhân kỹ thuật để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật của các thành phần kinh tế ở địa phương mình.Mặt khác,mở thêm các trường đào tạo của ngành,các công ty,doanh nghiệp lớn có thể thành lập cơ sở đào tạo công nhân kỹ thuật riêng hoặc ký hợp đồng đào tạo trực tiếp với các trường theo yêu cầu riêng của doanh nghiệp;tăng cường đào tạo nghề mới hoặc đào tạo lại công nhân kỹ thuật bằng các khóa dài ngày hay ngắn ngày dưới hình thức kèm cặp tại chỗ ở nơi sản xuất(nhà máy,xí nghiệp,công xưởng...)với phương châm "cần gì học nấy".Cách đào tạo này có hiệu quả nhiều mặt,không chỉ tạo thị trường sử dụng sản phẩm đào tạo,nối liền đào tạo với sử dụng,mà còn hình thành quan hệ ràng buộc về mặt trách nhiệm,nghĩa vụ của cơ sở sử dụng lao động với các cơ sở đào tạo về vốn,về điều kiện thực hiện kỹ năng.Đồng thời,tăng cường dạy nghề tại nông thôn dưới hình thức các lớp ngắn hạn nhằm tạo việc làm mới,nâng cao năng suất lao động. Nâng cao chất lượng trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ khoa học,công nghệ hiện đại cả về nội dung kiến thức,phương pháp giáo dục đào tạo.Vấn đề này phụ thuộc nhiều về yếu tố,từ nội dung chương trình đến người thầy,phương pháp,điều kiện phương tiện vật chất,...trong đó khâu thanh tra giữ vai trò đặc biệt quan trọng.Vì vậy,cần thường xuyên kiểm tra,đánh giá xác minh,dư luận xã hội về chất lượng đào tạo,nhất là các trường đại học dân lập,đại học mở,các hệ đào tạo không chính quy để lập lại trật tự kỷ cương trong giáo dục và đào tạo,nâng cao chất lượng sản phẩm đào tạo. Nâng cao hiệu quả giáo dục đào tạo bằng cách gắn đào tạo với sử dụng.Cần khắc phục tình trạng bất cập giữa đào tạo với thị trường lao động dẫn đến hiện tượng sản phẩm đào tạo ra vừa thừa lại vừa thiếu như hiện nay.Sự bất cập này chẳng những không đáp ứng được yêu cầu về số lượng chất lượng lao động,làm giảm hiệu quả giáo dục đào tạo,mà còn gây nên sự lãng phí đáng tiếc nhất là khi nguồn vốn đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn qúa ít ỏi.Do vậy, phải trên cơ sở nghiêm túc rà soát lại mà đưa ra một kế hoạch và quy hoạch đào tạo hợp lý theo lĩnh vực và theo bậc đào tạo,kể cả đào tạo lại,đặc biệt là phải có chiến lược giáo dục và đào tạo hữu hiệu.Chiến lược này phải gắn với nhu cầu thị trường lao động,phải mang trong mình chức năng dự báo,đón đầu được các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội. - Phát hiện và đào tạo nhân tài có hiệu quả.Một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục đào tạo là phát hiện,bồi dưỡng và nâng đỡ các tài năng để tạo ra đội ngũ chuyên gia giỏi,các nhân tài trong các lĩnh vực.Thiếu đội ngũ này không thể nói đến văn minh,hiện đại và do đó,xã hội không thể phát triển.Họ thực sự là tài sản quý hiếm của mỗi quốc gia và ngày càng trở nên quý giá trong thời đại ngày nay khi sức mạnh của mỗi dân tộc được đo bằng sức mạnh của nguồn lực trí tuệ.Đành rằng không có một chương trình"đào tao-bồi dưỡng-nâng đỡ"nào tự nó làm nảy sinh nhân tài cũng khác nhau.Vì thế,cần có môi trường hoạt động thuận lợi thúc đẩy sự xuất hiện nhân tài.Môi trường đó phải là sự tự do tư tưởng,kích thích tư duy sáng tạo,dồi dào về thông tin,có đủ phương tiện cần thiết cho hoạt động sáng tạo và được trọng dụng,đãi ngộ thỏa đáng về vật chất và tinh thần. -Phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng,bảo đảm chất lượng,có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp,tập trung tâm lực vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nâng cao mức sống và điều kiện làm việc cho giáo viên đảm bảo cho người thầy có thể lao động hết mình vì sự nghiệp trồng người.Từ vài năm trở lại đây đã có sự điều chỉnh thang bậc lương hành chính sự nghiệp cho giáo viên lên mức cao nhất.Tuy nhiên so với các thang bậc khác thì cũng không chênh lệch là mấy,chưa nói đến so sánh thu nhập của giáo viên với thu nhập của các nghề nghiệp có lợi thế khác trong xã hội còn thấp rất nhiều.Do đó chế độ tiền lương hiện hành vẫn chưa trở thành động lực mạnh để các giáo viên chuyên tâm với nghề nghiệp. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên,sử dụng hợp lý và khai thác có hiệu quả tài năng của họ.Nhà nước cần có những sự quan tâm đặc biệt đến đội ngũ này thông qua các chính sách,chế độ cụ thể,thiết thực về tiền lương,nhà ở,hưởng thụ các dịch vụ xã hội,các phần thưởng các danh hiệu cao quý.. -Đầu tư thỏa đáng cho giáo dục và đào tạo.Vấn đề nóng bỏng nhất và quan trọng nhất lúc này là huy động các nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo;nhân lực,vật lực và tài lực.Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy đầu tư cho giáo dục và đào tạo chính là đầu tư cơ bản,đầu tư cho sản xuất,đầu tư cho sự phát triển nhanh,bền vững và hiệu quả nhất(ở Mỹ,đầu tư cho giáo dục 1USD lãi 4USD,ở Nhật đầu tư 1USD lãi 10 USD).Đầu tư cho giáo dục đào tạo không chỉ là đầu tư cho con người như một phương tiện phát triển xã hội,mà còn là đầu tư cho chính mục tiêu phát triển con người của xã hội.Vì vậy,Nhà nước cần điều chỉnh ngân sách cho giáo dục đào tạo ít ra cũng nên bằng mức đầu tư của các nước phát triển ở khu vực Châu Á- trên 20%.Nói một cách tổng quát,phải xã hội hóa đầu tư cho giáo dục và đào tạo,trong đó ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo,vì giáo dục và đào tạo,trong đó ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ đạo,vì giáo dục và đào tạo đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội-"lợi ích lan tỏa".Chỉ như vậy,sự nghiệp giáo dục và đào tạo mới có thể được cải thiện một bước,đáp ứng yêu cầu cung cấp lao động chất lượng cao cho xã hội. 3.2.2.Đãi ngộ. a)Tạo việc làm cho người lao động. -Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần và thúc đẩy nó phát triển là điều kiện tiên quyết để giải quyết việc làm.Để cho chính sách kinh tế nhiều thành phần thực sự đi vào cuộc sống.Nhà nước cần tạo ra một môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế,lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn để xem xét,lựa chọn các chính sách phù hợp,hạn chế đến mức tối thiểu sự phân biệt đối xử của các cơ quan quản lý(trong việc đề ra những quy định có tính chất trói buộc hơn là hỗ trợ,thúc đẩy) đối với khu vực kinh tế tư nhân. -Đặc biệt quan tâm tạo việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.Công tác quy hoạch và kế hoạch hóa dài hạn về lao động và việc làm trong nông nghiệp,nông thôn cần tiếp tục đặt ra một cách nghiêm túc và thiết thực,có sự điều tra đánh giá chuẩn việc làm và trợ giúp việc làm quốc gia trong lĩnh vực nông nghiệp,nông thôn phải được cụ thể hóa phù hợp hơn với điều kiện kinh tế xã hội,sinh thái từng vùng.Khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất quy mô lớn theo kiểu trang trại và tạo lập môi trường kinh tế,xã hội và luật pháp thuận lợi cho nó phát triển.Bởi đây là mô hình sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội lớn như tạo ra khả năng huy động vốn,khai thác tiềm năng sản xuất,tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động và tăng thêm nông sản hàng hóa cho xã hội.Bên cạnh đó chú trọng đầu tư xây dựng,phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế,kỹ thuật và xã hội ở nông thôn,vì nó là tiền đề tất yếu để phát triển sản xuất,nhờ đó tạo việc làm và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho cư dân nông thôn -Chú trọng tạo việc làm cho lao động đã qua đào tạo,nhất là đối với lao động trí tuệ.Ở nước ta lực lượng lao động trí tuệ còn quá nhỏ bé so với yêu cầu(mới chỉ chiếm 17,5% lao động xã hội),nhưng hiện tại vẫn còn 2,2% trong tổng số lao động có chuyên môn kỹ thuật chưa có việc làm.Vì lẽ đó,để thúc đẩy khoa học-công nghệ phát triển,tạo ra nhiều việc làm cho đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ,Nhà nước cần có cơ chế chính sách buộc các doanh nghiệp làm việc có hiệu quả bằng cách ứng dụng khoa học,cho phép các doanh nghiệp dùng vốn để làm khoa học.Các công ty lớn ở các nước đều dùng một phần vốn lớn để làm khoa học,thường khoảng 3-5% doanh thu cho nghiên cứu và triển khai,riêng các công ty công nghệ cao dùng 8-12% doanh thu,có công ty dùng tới 17-21% doanh thu cho nghiên cứu triển khai.Mặt khác cần có các chính sách ưu tiên cho vay vốn để đổi mới công nghệ,khuyến khích miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất,đổi mới sản phẩm.Đồng thời,đánh thuế cao đối với các doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu,tiêu tốn nhiêu nguyên nhiên liệu,gây ô nhiễm môi trường.. -Tăng vốn đầu tư tạo việc làm,phát triển thị trường lao động và mở rộng xuất khẩu lao động.Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư,giai đoạn 2005-2010 để phát triển sản xuất,giải quyết việc làm cho nguồn lao động hiện có,cần lượng vốn đầu tư ít nhất khoảng 50 tỷ USD.Để có được lượng vốn lớn như vậy phải tạo vốn từ nhiều kênh,nhưng trước hết Nhà nước cần có chính sách hấp dẫn,tin cậy để thu hút nguồn vốn trong nhân dân dưới nhiều hình thức;đồng thời phải tăng cường tiết kiệm tiêu dùng,nâng dần tỷ lệ tích lũy từ nội bộ nền kinh tế để tập trung cho sản xuất.Lý luận kinh tế cũng như thực tiễn của nhiều nước đều khẳng định nguồn vốn trong nước mới thực sự giữ vai trò quyết định.Cùng với điều đó,nên tiếp tục đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tranh thủ viện trợ quốc tế hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tranh thủ viện trợ quốc tế nhằm góp phần giải quyết việc làm và thông qua đó đào tạo nghề nghiệp,nâng cao trình độ chuyên môn người lao động. -Mở rộng các hệ thống các trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm,kết hợp với việc thông tin rộng rãi dưới nhiều hình thức về nhu cầu việc làm,khả năng cung ứng lao động được đào tạo cũng như các yêu cầu khả năng sử dụng lao động.Đồng thời cần tạo ra sự liên kết thông tìn giữa người sử dụng và nơi đào tạo,tạo điều kiện thuận lợi để những thông tin về nhu cầu lao động đến với các trường đại học,các cơ sở các trung tâm đào tạo.Sụ phát triển của thị trường lao động có tác dụng gắn kết nhanh giữa cung và cầu lao động,nhờ đó mà hạn chế lãng phí lao động,góp phần khai thác triệt để và có hiệu quả lực lượng lao động xã hội. -Ngoài ra,tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động dưới nhiều hình thức trên cơ sở kết hợp lợi ích đất nứơc với lợi ích người lao động,đặt nó trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung.Xuất khẩu lao động không chỉ là giải pháp quan trọng mà nhằm giải quyết việc làm,tăng nguồn thu nhập cho cá nhân và đất nước,mà nó còn là con đường để đào tạo nguồn lao động.Để phát triển thị trường xuất khẩu lao động,phải tăng cường tìm kiếm,mở rộng thị trường nước ngoài,nghiên cứu thị trường quốc tế để đào tạo chuẩn bị nhân lực cho xuất khẩu lao động;đồng thời Nhà nước cho phép các tổ chức kinh tế,cá nhân được tham gia xuất khẩu lao động,dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước. b)Tổ chức lao động xã hội hợp lý,khai thác tốt năng lực người lao động. -Chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động phải gắn với cơ chế thị trường,có sự quản lý hướng dẫn của Nhà nước.Đểb tăng khai thác,sử dụng lao động hợp lý có hiệu quả,phù hợp với cơ chế chung của nền kinh tế,chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động ở nước ta hiện nay phải thực sự gắn cơ chế thị trường có sự quản lý hướng dẫn của Nhà nước.Trước hết,vấn đề tuyển dụng lao động phải xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động,với sự tác động của các quy luật trong nền kinh tế thị trường.Phải thực hiện chế độ thi tuyển một cách nghiêm túc,khoa học,khách quan với nội dung và mức độ yêu cầu khác nhau tùy theo từng loại lao động.Bằng cấp chứng chỉ mới là bằng chứng,là điều kiện để dự tuyển chứ không phải là tất cả,muốn đánh giá chính xác phải kiểm tra,sát hạch thi tuyển để xác định thực chất mà có quyết định tuyển dụng,bố trí và xếp lương hợp lý. Cần đa dạng hóa các loại hình tuyển dụng và sử dụng lao động,tuyển chính thức vào biên chế,tuyển theo hợp đồng dài hoặc ngắn hạn và tuyển dụng theo việc cụ thể. Ngoài ra cần thực hiện cơ chế quản lý lao động thống nhất trên toàn nền kinh tế quốc dân.Phải có chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động chung cho mọi thành phần kinh tes,mọi doanh nghiệp,không phân biệt hình thức sở hữu tư liệu sản xuất nhằm bảo đảm quyền dân chủ,bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghịêp trên lĩnh vực này. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý,sử dụng và trả lương ở khu vực kinh tế nhà nước để từng bước nâng cao hiệu quả của khu vực kinh tế này,đồng thời có những đòn bẩy để giữ chân người tài,mặt khác,tích cực tạo môi trường thuận lợi để phát huy hết mọi khả năng,tạo ra xu hướng,việc khó tìm người tài,người tài tìm việc khó có hiệu quả cao..Kết quả là mọi người làm việc phù hợp với khả năng và sở trường của mình,như vậy trên phạm vi toàn xã hội lao động tiến dần đến chỗ toàn dụng. -Có chính sách hữu hiệu để thu hút lao động đã qua đào tạo đến làm việc ở các vùng nông thôn miền núi.Trong những năm qua nhà nước ta đã có những chính sách nhằm khuyến khích sinh viên mới ra trường đến công tác và lập nghiệp ở các vùng nông thôn:như được hưởng 100% lương trong thời gian tập sự,tăng các loại phụ cấp để thu nhập của họ gấp hai lần lương cơ bản,tăng thời gian nghỉ phép lên gấp đôi và một số cơ chế ưu đãi khác.Tuy nhiên các chính sách này vẫn chưa đủ mạnh để khắc phục được sự chênh lệch khá xa hiện nay không chỉ về thu nhập mà về cả chất lượng cuộc sống giữa trí thức nông thôn và trí thức thành phố. -Thực hiện chính sách"cầu hiền" khai thác triệt để lao động trí tuệ. Tạo môi trường tinh thần -xã hội thuận lợi,phù hợp với yêu cầu của hoạt động sáng tạo.Môi trường đó trước hết theo Lenin,"Phải đảm bảo phạm vi hết sức rộng rãi cho sáng kiến cá nhân,cho khuynh hướng cá nhân,cho tư tưởng và sức tưởng tượng..." Đầu tư đúng mức,tập trung và có trọng điểm,khắc phục ngay tinh trạng đầu tư dàn trải và quá thấp hiện nay(trên dưới 1% tổng chi ngân sách Nhà nước),thực hiện triệt để việc tăng tỷ lệ ngân sách nhà nước chi cho khoa học và công nghệ không dưới 2% tổng chi ngân sách. Mặt khác,đã đến lúc Nhà nước phải có chính sách"cầu hiền" theo phương châm "bến hiền thuyền đậu" để khắc phục hữu hiệu tình trạng "teo chất xám","bạc chất xám" đang diễn ra,đồng thời khai thác và sử dụng triệt để đội ngũ lao động trí tuệ hiện có thu hút được trí thức Việt kiều và trí thức nước ngoài vào làm ăn với ta.Bảo đảm chế độ đãi ngộ thỏa đáng về vật chất tinh thần và môi trường,điều kiện,phương tiện làm việc thuận lợi có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. -Bảo đảm sự phù hợp,chính xác trong tuyển dụng,đánh giá,sắp xếp,đề bạt cán bộ.Tình hình trên đòi hỏi Nhà nước sớm có cơ chế,chính sách thích hợp trong việc phát hiện,lựa chọn những người có tài để tạo nguồn xây dựng đội ngũ cán bộ(lãnh đạo,quản lý)như một loại của cải quốc gia quy hiếm.Đồng thời,bố trí cán bộ hợp lý,bảo đảm đúng người,đúng việc với tinh thần lấy tiêu chuẩn làm căn cứ lựa chọn,đề bạt;lấy hiệu quả công việc làm cơ sở đánh giá,đãi ngộ.Muốn vậy,phải tiêu chuẩn hóa chức danh cán bộ,đây là cơ sở không chỉ cho công tác bố trí,đề bạt mà còn cho việc đào tạo,bồi dưỡng cán bộ.Trong lựa chọn cán bộ,để đảm bảo chất lượng kinh nghiệm cho thấy phải liên tục lựa chọn sàng lọc,trong đó lấy thực tài qua công việc làm trọng,không nên chỉ dựa vào bằng cấp,hàm vị,đức phải thể hiện qua cần kiệm liêm chính,ở sự trung thành với lợi ích quốc gia-dân tộc;đồng thời,phải tạo ra môi trường rộng mở cho sự phát triển thi thố tài năng. KẾT LUẬN Hội nhập là một tất yếu khách quan. Một doanh nghiệp có thể vươn lên phát triển vững mạnh bằng thời cơ lớn mà hội nhập mang đến nhưng cũng còn chứa trong đó lại là những thách thức, rủi ro không nhỏ. Thời cơ lớn nhất có thể nói đó chính là sự bùng nổ của khoa học công nghệ mà đỉnh cao là kinh tế tri thức (công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học…). Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có thể chớp lấy thành quả công nghệ, nâng cao chất lượng, kỹ năng cũng như khả năng thay đổi trước môi trường.Nhưng môi trường kinh doanh với sự biến đổi không ngừng, tổng hợp các yếu tố kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá xã hội, chính trị luật pháp …thách thức với những khó khăn, phức tạp có khi không dự tính trước được cho hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Một doanh nghiệp với các nhà quản trị giỏi và đội ngũ nhân lực hùng hậu, năng động, sáng tạo sẽ tạo ra lực nội sinh mạnh mẽ, đề ra được những chiến lược nhân sự, kinh doanh linh hoạt, hiệu quả và nó có thể thay đổi phương cách kinh doanh, quản lý của doanh nghiệp lên tầm cao của thời đại. Tổ chức nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng ở Việt Nam còn kém về mọi mặt, mang mặt bằng chung của một nước đang phát triển. Câu hỏi đặt ra có cách mạng nhận thức và năng lực đổi mới mỗi con người trong đội ngũ nhân lực được triệt để hay không, biến đội ngũ nhân lực thành “nhân lực tri thức” sẵn sàng cho hội nhập buộc nhà quản tị và những ai quan tâm đến vấn đề này suy xét và trở lời bằng hành động . Vấn đề Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực không những là vấn đề cấp bách mà còn mang tính chất chiến lược lâu dài. Trong thời gian ngắn, đề tài đã tập trung làm rõ một số vấn đề sau: Đi sâu phân tích thực trạng nguồn nhân lực hiện nay từ các mặt trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, chỉ ra những bất cập hiện nay giữa nguồn nhân lực với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong những năm vừa qua. Trên cơ sở dự báo yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước về trước mắt, đề tài kiến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong thời gian từ nay đến năm 2020 Tuy nhiên đây là một vấn đề lớn, nội dung phong phú, có liên quan đến nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội đòi hỏi sự nỗ lực, tập trung của mỗi ngành, mỗi cấp, một số vấn đề mà đề tài nêu ra sẽ tiếp thu, bổ sung và hoàn thiện hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Khoa Kinh tế lao động-Giáo trình kinh tế phát triển-GS.TS.Vũ Thị Ngọc Phùng-NXB Lao động-xã hội-Hà Nội-2005. Quản trị nguồn nhân lực-Trần Kim Dung-NXB Giáo dục 2001. Khoa Khoa học quản lý-Giáo trình chính sách kinh tế- xã hội-PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà(chủ biên)-NXB Khoa học-kỹ thuật. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH-PTS.Mai Quốc Chánh(chủ biên)-NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội 1999. Nguồn lực con người trong quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam-TS Trần Văn Khái-NXB Lý luận chính trị-Hà Nội 2005. Lao động,việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới(Nolwen Henaff-Jenan yves Martin)NXB Thế giới 2001. Viện nghiên cứu giáo dục "Những vấn đề chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước-Bối cảnh-Xu hướng và động lực phát triển''. Khoa Khoa học quản lý-Giáo trình Khoa học quản lý Tập II-TS.Đoàn Thị Thu Hà-TS.Nguyễn Thị Ngọc Huyền-NXB Khoa học kỹ thuật 2002. Văn kiện đại hội Đảng cộng sản toàn quốc lần thứ IX -ĐCSVN-NXB Chính trị quốc gia 2001. Phát triển con người,từ quan điểm đến chiến lược và hành động-Trung tâm KHXH-NV Quốc gia-NXB Chính trị quốc gia 1999. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35987.doc
Tài liệu liên quan