Đề án Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trên thị trường Việt Nam

Công ty nên mạnh dạn hơn nữa trong việc đầu tư quảng cáo trên truyền hình. Do hiện nay, truyền hình là phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu, cập nhật của người dân. Quảng cáo trên truyền hình mang lại hiệu quả cao hơn rất nhiều lần so với các quảng cáo trên các phương tiện khác như báo, đài, áp phích. Một chương trình quảng cáo hấp dẫn có thể tăng mức tiêu thụ sản phẩm lên tới 5 - 6 lần. Công ty cần tổ chức tốt lực lượng bán hàng trực tiếp có trình độ, có khả năng tiếp thị, giao tiếp tốt để giới thiệu về sản phẩm. Tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm, tổ chức tham gia hội chợ hàng công nghiệp, hàng Việt Nam chất lượng cao qua đó thu hút được nhiều quan tâm của bạn hàng hoặc là Công ty có thể học được một số kinh nghiệm nhằm hoàn thiện hơn nữa chất lượng của sản phẩm. Bên cạnh đó, Công ty nên tổ chức tặng quà cho các đại lý như mũ, áo, sách vở, lịch. có mang tên và biểu tượng của Công ty thể hiện sự hiện diện của Công ty ở mọi lúc, mọi nơi. Cần có những khen thưởng kịp thời cho nhân viên thị trường của Công ty, nhân viên bán hàng khi có thành tích để khuyến khích họ hăng hái, năng động tham gia vào công tác phát triển thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ. Mặc dù sản phẩm của Công ty là sản phẩm tiêu dùng một lần, chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng, không cần các hoạt động sửa chữa, lắp đặt, bảo hành. nhưng Công ty cần phải thực hiện một số dịch vụ kèm theo khi bán hàng như: + Tổ chức tốt đội xe tải tốt nhằm tạo điều kiện giao hàng nhanh chóng, thuận tiện tới các đại lý, các cơ quan mua hàng. + Hướng dẫn khách hàng bảo quản hoặc cách giữ gìn sản phẩm. + Tạo cảm giác thoải mái, tiện lợi cho người tiêu dùng khi họ mua sắm hàng hoá và yên tâm khi sử dụng sản phẩm của Công ty. + Uy tín của Công ty được nâng cao, quan hệ khách hàng cũ ngày càng chặt chẽ và tạo nhiều cơ hội để tiếp xúc với khách hàng mới.

doc46 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1969 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trên thị trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ựa trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề tài chính luôn luôn là vấn đề gây nhiều trăn trở cho nhà quản lý. Khả năng tài chính của doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu hay vốn tự có và các nguồn vốn khác có thể huy động được. Tài chính được coi là phương tiện chủ yếu vũ khí sắc bén để tấn công, đánh thắng các đối thủ cạnh tranh . Doanh nghiệp nào không đủ khả năng tài chính sẽ bị thôn tính bới các đối thủ hùng mạnh hơn hoặc tự rút lui khỏi thị trường. Tổ chức Mỗi doanh nghiệp phải có một cơ cấu tổ chức định hướng cho phần lớn các công việc trong doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng đến phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị, quan điểm của họ đối với các chiến lược và điều kiện của doanh nghiệp. Cơ cấu nề nếp tổ chức có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạt động thực hiện chiến lược hoặc thúc đẩy các hoạt động đó không phát huy tính năng động sáng tạo của các thành viên trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có cơ cấu tổ chức hợp lý, năng động sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn các doanh nghiệp khác. Kinh nghiệm Kinh nghiệm sản xuất kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác nhu cầu trên thị trường trong từng thời kỳ, từ đó giúp doanh nghiệp chủ động trong việc sản xuất kinh doanh không bị ứ đọng vốn, tồn kho quá nhiều sản phẩm tiết kiệm được nhiều chi phí khác. Vì vậy, có thể nói, kinh nghiệm là thứ vô cùng quí giá đối với sự hoạt động thành công của mỗi doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động chức năng khác của doanh nghiệp có khả năng thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của người lãnh đạo doanh nghiệp, của các cán bộ quản lý bộ phận. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa Một sản phẩm hàng hóa được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì… hơn hẳn so với những sản phẩm cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa cao khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp. Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đó là 2 phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa có được do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra, nhưng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hóa quyết định mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của hàng hóa có ảnh hưởng rất lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo Chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hóa và chịu tác động của nhiều yếu tố: công nghệ dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động, trình độ quản lý… Chất lượng sản phẩm có thể được hiểu là mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật hoặc là khả năng thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Nâng cao chất lượng thì phải giải quyết được cả hai vấn đề trên. Xuất phát từ quan điểm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, khi đời sống của con người ngày càng cao thì việc cải thiện chất lượng sản phẩm trở thành vấn đề cấp bách đối với mỗi hàng hóa muốn xâm nhập sâu, rộng vào thị trường, đặc biệt là những thị trường mang tính quốc tế. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết tháng 7 năm 2000 đã mở ra những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Song để xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ, các sản phẩm của ta phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về công nghệ, hàm lượng dinh dưỡng, an toàn vệ sinh, cũng như về bao gói, bảo quản… Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, một quan niệm mới về chất lượng đã xuất hiện: chất lượng sản phẩm không chỉ là tốt, bền, đẹp mà nó còn do khách hàng quyết định. Quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố chủ quan, còn đánh giá của khách hàng mang tính khách quan. Ở đây, nhân tố khách quan đã tác động, chi phối yếu tố chủ quan. Quan niệm này xuất phát từ thực tế là mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Giá bán sản phẩm Giá cả là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định thị phần của doanh nghiệp và khả năng sinh lời của nó. Đồng thời, giá cả còn là công cụ linh hoạt nhất, mềm dẻo nhất trong cạnh tranh. Giá cả sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua thỏa thuận giữa người bán và người mua. Nó đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hay không mua của khách hang. Trong nền kinh tế thị trường, “khách hàng là thượng đế” họ có quyền lực chọn những gì mà họ cho là tốt nhất, và cùng một loại sản phẩm với chất lượng tương đương nhau, chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức giá bán thấp hơn. Mặc dù vậy, khi thu nhập của đại bộ phận dân cư đều tăng, khoa học kỹ thuật phát triển thì việc định giá thấp chưa hẳn là giải pháp hữu hiệu, đôi khi còn bị đánh đồng với việc suy giảm chất lượng. Vì vậy, định giá thấp, định giá ngang thị trường hay định giá cao, làm sao sử dụng giá cả như một vũ khí cạnh tranh lợi hại là tùy thuộc vào từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay tùy thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường. Bao bì, kiểu dáng sản phẩm: Sản phẩm có bao bì, kiểu dáng được thiết kế đẹp, bắt mắt, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng thì càng dễ nâng cao tính cạnh tranh. Hơn nữa, ở những thành phố lớn nhu cầu về sản phẩm thường dùng làm quà biếu, lễ, tết… Vì vậy vấn đề chất lượng, bao bì mẫu mã lại rất quan trọng, còn giá cả thì không thành vấn đề nên nó đóng vai trò quan trọng trong quyết định lựa chọn của người tiêu dùng. Nhãn mác, uy tín sản phẩm: Cùng một loại sản phẩm, cùng chất lượng tương đương nhau nhưng người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn những mặt hàng có tiếng trên thị trường để tiêu dùng. Vì theo họ, độ tin cậy của các sản phẩm đó sẽ cao hơn. Ngoài ra, một số thương hiệu sản phẩm còn thể hiện được phong cách, cá tính của người tiêu dùng. Khái quát về thị trường bánh kẹo Việt Nam Trong xu thế toàn cầu hoá, các sản phẩm của Việt Nam đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều trên thị trường thế giới, trong đó có thực phẩm, bánh kẹo. Theo nhận định của ông Perter Becker, Chủ tịch Hiệp hội các nhà sản xuất bánh kẹo Cộng hoà Liên bang Đức, bánh mỳ, bánh nướng đang dần trở thành những đồ ăn quen thuộc, thường xuyên của nhiều người dân Việt Nam. Vì vậy, thị trường bánh kẹo của Việt Nam đang có tiềm năng phát triển hàng đầu Đông Nam Á và trên thế giới. Theo ước tính của Công ty Tổ chức và điều phối IBA (GHM), sản lượng bánh kẹo tại Việt Nam năm 2008 đạt khoảng 476.000 tấn, đến năm 2012 sẽ đạt khoảng 706.000 tấn, tổng giá trị bán lẻ bánh kẹo ở thị trường Việt Nam năm 2008 khoảng 674 triệu USD, năm 2012 sẽ là 1.446 triệu USD. Tỉ lệ tăng trưởng doanh số bán lẻ bánh kẹo ở thị trường Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008-2012 tính theo USD ước tính khoảng 114,71%/năm, trong khi con số tương tự của các nước trong khu vực như Trung Quốc là 49,09%, Philippines 52,35%; Indonesia 64,02%; Ấn Độ 59,64%; Thái Lan 37,3%; Malaysia 17,13%… Thị trường bánh kẹo Việt Nam phát triển kéo theo nhu cầu sản xuất, tiêu thụ tăng, đòi hỏi phải có công nghệ, máy móc, thiết bị phù hợp để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước. Theo Hiệp hội các nhà sản xuất bánh kẹo Đức. Sẽ là rất tốt nếu như có sự hợp tác liên kết, liên doanh phát triển sản xuất, kinh doanh bánh kẹo giữa các doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp của Đức và châu Âu. Trước đây trên thị trường, bánh kẹo Việt Nam luôn là mặt hàng “lép vế” so với các sản phẩm cùng loại vì mẫu mã đơn điệu, bao bì xấu và chất lượng không cao. Thế nhưng chỉ một thời gian ngắn, bánh kẹo Việt Nam đã tăng tốc và giành lại ưu thế trên sân nhà. Vượt qua những khó khăn về nguồn vốn, công nghệ sản xuất và chiến lược kinh doanh, với thế mạnh về hương vị đậm đà, phù hợp với khẩu vị của người tiêu dùng, những thương hiệu uy tín như: Kinh Đô, Bibica, Hải Hà nối nhau ra đời, khẳng định đẳng cấp của mặt hàng bánh kẹo Việt Nam so với các mặt hàng cùng loại của Trung Quốc và các nước Âu, Mỹ. Liên tục cho ra đời những sản phẩm mới chất lượng cao được sản xuất với công nghệ hiện đại như: Cookies, Cracet, kẹo xốp mềm nhiều hương vị; Hải Hà, Kinh Đô đã trở thành cái tên quen thuộc với mọi lứa tuổi, mọi gia đình. Rất nhiều khách hàng trước đây chỉ chọn bánh kẹo ngoại để làm quà biếu, tặng người thân vào dịp lễ, tết, giỗ thì nay đã quay lại với bánh kẹo Việt Nam vì mẫu mã, bao bì đẹp, sang trọng không thua hàng ngoại nhưng giá cả lại phù hợp với túi tiền và quan trọng nhất là niềm tự hào người Việt dùng hàng Việt. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, bao bì, các doanh nghiệp bánh kẹo còn mở rộng mạng lưới đại lý, cửa hàng bán lẻ khắp các tính, thành, vào dịp lễ, tết sẽ có những chương trình khuyến mãi hấp dẫn. Áp dụng chiến lược kinh doanh, sản xuất theo dây chuyền, công nghệ tiên tiến, quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, thiết kế mẫu mã bắt mắt, giá cả phù hợp, ngành hàng bánh kẹo Việt Nam đang từng bước làm chủ thị trường nội địa. Việt Nam được đánh giá là một thị trường tiêu thụ hấp dẫn với dân số hơn 80 triệu dân, cơ cấu dân số trẻ với thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, tỷ lệ tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2008-2010 ước tính đạt bình quân trên 8%. Trong khi đó, tỷ lệ tiêu thụ bánh kẹo theo bình quân đầu người ở Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Ở thời điểm hiện nay, dù đã được cải thiện nhưng tỷ lệ tiêu thụ bánh kẹo của Việt Nam cũng mới chỉ ở vào khoảng 2 kg/người/năm. Chính những đặc điểm này đã khiến thị trường bánh kẹo Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn bao giờ hết. Chương 2: Phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà 2.1 Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà. 2.1.1 Giới thiệu chung về công ty Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà được thành lập ngày 25/12/1960 đã trải qua quá trình phát triển gần nửa thế kỷ, từ một xưởng làm nước chấm và ma-gi đã trở thành một trong những nhà sản xuất bánh kẹo hàng đầu Việt Nam với qui mô sản xuất lên tới 20.000 tấn sản phẩm/năm. Các thành tích trong những năm vừa qua của Công ty đã được nhà nước đánh giá cao thông qua việc được nhận huân chương Độc lập hạng Ba và các huân chương Lao động hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba. Trong thời kỳ sau năm 2000 trở lại đây đứng trước những thách thức mới nảy sinh trong quá trình hội nhập, Công ty đã chủ động đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến sản xuất ra những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao như Kẹo chew, Bánh kem xốp, Bánh xốp có nhân Miniwaf, Bánh dinh dưỡng dành cho học sinh theo chương trình hợp tác với tổ chức quốc tế Gret và Viện dinh dưỡng Bộ Y tế, các sản phẩm bổ sung canxi, vitamin hợp tác sản xuất với hãng Tenamyd Canada. Hiện nay Công ty là một trong số các Nhà sản xuất Bánh kẹo hàng đầu Việt Nam với sản lượng bình quân hàng năm trên 15.000 tấn. Công ty đã áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và Hệ thống HACCP theo Tiêu chuẩn TCVN 5603:1998 và HACCP CODE:2003. Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà là Doanh nghiệp đầu tiên trong lĩnh vực sản xuất bánh kẹo được cấp chứng nhận hệ thống "Phân tích mối nguy và các điểm kiểm soát tới hạn" (HACCP) tại Việt Nam. Điều này thể hiện cam kết của Lãnh đạo doanh nghiệp về đảm bảo an toàn thực phẩm đối với sức khoẻ của người tiêu dùng. Cơ cấu tổ chức Công ty Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà được tổ chức và hoạt động tuân thủ theo Luật Doanh nghiệp 2005. Các hoạt động của Công ty tuân theo Luật Doanh nghiệp, các Luật khác có liên quan và Điều lệ Công ty. Điều lệ Công ty bản sửa đổi đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua ngày 24/03/2007 là cơ sở chi phối cho mọi hoạt động của Công ty. Trụ sở, chi nhánh Công ty Cổ phần Bánh kẹo Hải Hà - Trụ sở chính: 25 Trương Định, Quận Hai Bà Trưng Hà Nội - Chi nhánh miền Nam: Lô 27, Đường Tân Tạo, Khu Công Nghiệp Tân Tạo, Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh - Chi nhánh miền Trung: 134- Ðường Phan Thanh - Quận Thanh Khê, Đà Nẵng - Các nhà máy, xí nghiệp sản xuất Tình hình hoạt động: HAIHACO có tốc độ tăng trưởng doanh số ổn định từ 10% đến 20%/năm. Tỷ lệ cổ tức năm 2008 là 15%. Với chiến lược phát triển trong thời gian tới, Công ty sẽ nâng cao được năng lực sản xuất kinh doanh và đa dạng hoá sản phẩm thông qua việc đầu tư các dây chuyền thiết bị hiện đại và đồng bộ 2.1.2 Đặc điểm về lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm kinh doanh - Sản xuất, kinh doanh trong và ngoài nước bao gồm các lĩnh vực bánh kẹo và chế biến thực phẩm. - Kinh doanh xuất nhập khẩu: các loại vật tư sản xuất, máy móc thiết bị, sản phẩm chuyên ngành, hàng hoá tiêu dùng và các loại sản phẩm hàng hóa khác; - Ðầu tư xây dựng, cho thuê văn phòng, nhà ở, trung tâm thương mại - Kinh doanh các ngành nghề khác không bị cấm theo các quy định của pháp luật. Công ty hiện có các nhóm sản phẩm chính sau: - Bánh quy - Kẹo Chew - Bánh kẹo hộp - Kẹo mềm - Bánh kem xốp - Kẹo jelly - Bánh Cracker - Bánh trung thu - Kẹo cứng – Lollipop. 2.1.3 Đặc điểm về thị trường và khách hàng a, Thị trường Phạm vi địa lý: + Hiện nay Văn phòng Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà đặt tại 25-27 Trương Định - Hai Bà Trưng - Hà Nội có diện tích 22.349 m2. Công ty được Nhà nước giao cho sử dụng khu đất này từ năm 1960 đến nay. Hiện tại Công ty trả tiền thuê đất hàng năm và đang làm thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho khu đất này. + Văn phòng Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh đặt tại Lô 27, Đường Tân Tạo, Khu Công Nghiệp Tân Tạo, Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh có diện tích là 2.565 m2, Khu đất này Công ty mua từ năm 2004 và có giá trị sử dụng đất trong 46 năm. + Văn phòng Chi nhánh Miền Trung đặt tại 134A - Ðường Phan Thanh, Quận Thanh Khê, Đà Nẵng có diện tích 110 m2 được Công ty mua từ năm 2002, hiện nay đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. + Nhà máy Bánh kẹo Hải Hà I đặt tại 19 Phố Sông Thao, Phường Tiên Cát, Thành Phố Việt Trì, Tỉnh Phú Thọ, có diện tích 29.985 m2. Công ty đang trả tiền thuê đất hàng năm và đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2004. + Nhà máy Bánh kẹo Hải Hà II đặt tại Km số 3, Đường Thái Bình, Phường Hạ Long, Thành phố Nam Định có diện tích 8833 m2. Công ty đang trả tiền thuê đất hàng năm và đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2005. + Tại TP Hồ Chí Minh, Công ty đang sở hữu một căn nhà 4 tầng trên diện tích 80m2 tại địa chỉ 778/13 Đường Nguyễn Kiệm, quận Phú Nhuận. Sở hữu nhiều khu đất có giá trị cao, phân bố khắp cả nước giúp cho sản phẩm đến tay người tiêu dùng dễ dàng, thuận tiện hơn. Thị trường: Mỗi đoạn thị trường đều có nhu cầu khác nhau về số lượng và chất lượng sản phẩm. Vì vậy, mọi quyết định về chất lượng sản phẩm cho các khu vực khác nhau là không giống nhau. Vì thực tế cho thấy thị hiếu, động cơ mua của khách hàng đều có sự phụ thuộc chặt chẽ vào các điều kiện: Văn hóa, phong tục tập quán, môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội… của từng vùng dân cư. Thị trường miền Bắc, điều kiện tự nhiên ở đây đủ bốn mùa, độ ẩm cao. Điều này trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng bánh kẹo trong quá trình chế biến, cung ứng, sử dụng, các quyết định về bao gói… Bên cạnh đó còn chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế, nhìn chung thu nhập còn thấp. Những sản phẩm có chất lượng cao thường được tiêu dùng ở những thành phố, thị xã lớn, còn ở vùng nông thôn thì người tiêu dung ít quan tâm đến chất lượng mẫu mã, với họ, giá cả mới là vấn đề cần xem xét. Với thị trường miền Trung, người tiêu dùng ở khu vực thị trường này thường hay không quan tâm đến khối lượng, bao bì mẫu mã của hàng hóa, song lại rất quan tâm đến hương vị (độ ngọt, cay), hình dạng của bánh kẹo. Một đặc điểm không thể phủ nhận là một thị trường dễ tính, nhu cầu lớn. Với năng lực của mình, Hải Hà hoàn toàn có thể gia nhập và phát triển thị trường. Trước đây, Hải Hà tập trung nhiều nhất cho thị trường miền Bắc, song một vài năm gần đây Hải Hà đã coi khu vực này là một thị trường đầy hứa hẹn và không ngừng hoàn thiện kênh phân phối tiêu thụ sản phẩm. Đặc điểm của thị trường miền Nam: Người tiêu dùng ở đây có điều kiện thu nhập khác cao, đặc biệt ở TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương,… nên khá khó tính. Đồng thời khí hậu ở đây cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến sở thích người tiêu dùng. Họ không quan tâm đến khối lượng mà phần lớn là chất lượng sản phẩm. Mặt khác, người miền Nam ưa ngọt cũng như các loại hương vị hoa quả khác nhau. Đây vừa là thế mạnh vừa là điểm yếu của công ty. Đó là, Hải Hà có ưu thế về độ ngọt song hương vị hoa quả chưa đa dạng. Hệ thống kênh phân phối xa, khó điều hành quản lý trực tiếp, dân cư không đều nên hiệu quả kinh doanh trên thị trường là chưa cao. b, Khách hàng HHC chủ yếu hướng tới thị trường bình dân trong khi các công ty khác tập trung khai thác thị trường trung và cao cấp. 2.1.4 Đặc điểm nội tại Vốn: Haihaco hiện có vốn điều lệ 54,75 tỷ đồng chuyên sản xuất, kinh doanh bánh kẹo và chế biến thực phẩm; kinh doanh xuất nhập khẩu: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, sản phẩm chuyên ngành, hàng hoá tiêu dùng và các sản phẩm hàng hoá khác; đầu tư xây dựng, cho thuê văn phòng, nhà ở, trung tâm thương mại… Cơ cấu sở hữu: Nhà nước: 51%, cổ đông trong, ngoài công ty: 49%. Nhân lực: Số lượng nhân sự trong Công ty: 1.350 người (tính tại thời điểm tháng 7/2008). Với đội ngũ lãnh đạo giàu kinh nghiệm, Công ty luôn đề ra được những chiến lược kinh doanh tốt, đội ngũ kỹ sư được đào tạo chuyên ngành có năng lực và lực lượng công nhân giỏi tay nghề. Công nghệ: Haihaco đang được sở hữu những dây chuyền sản xuất bánh kẹo tương đối hiện đại tại Việt Nam, trong số đó có một số dây chuyền thuộc loại hiện đại nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Toàn bộ các máy móc thiết bị của Công ty được trang bị mới 100% mỗi dây chuyền sản xuất từng dòng sản phẩm có sự phối hợp tối ưu các loại máy móc hiện đại có xuất xứ từ nhiều nước khác nhau. Các dây chuyền sản xuất chính gồm: Hai dây chuyền đồng bộ sản xuất Kẹo chew của Cộng hòa Liên bang Đức trị giá trên 2 triệu Euro, công suất 20 tấn/ngày, đưa vào sản xuất năm 2002 và 2004; + Dây chuyền sản xuất Kẹo mềm nguyên giá 1 triệu USD của CHLB Đức, công suất 10 tấn/ngày, đưa vào sản xuất từ năm 1996; + Một dây chuyền sản xuất Bánh quy, cookie của Đan Mạch nguyên giá 1 triệu USD, công suất 6 tấn/ngày đưa vào sản xuất năm 1992; + Một dây chuyền sản xuất Bánh cracker của Italia nguyên giá 1 triệu USD, công suất 7 tấn/ngày, đưa vào sản xuất năm 1996; + Một dây chuyền sản xuất kẹo Jelly của Australia, nguyên giá 0,6 triệu USD, công suất 4 tấn/ngày, đưa vào sản xuất năm 1997; + Dây chuyền sản xuất kẹo Jelly cốc của Malaysia, nguyên giá 100.000 USD công suất 2 tấn/ngày, đưa vào sản xuất năm 1997; + Dây chuyền sản xuất Bánh kem xốp của Malaysia công suất 6 tấn/ngày trị giá 500.000 USD đưa vào sản xuất năm 2000 và nâng công suất năm 2006; + Một dây chuyền sản xuất Bánh xốp cuộn của Malaysia công suất 3 tấn/ngày trị giá 150.000 USD đưa vào sản xuất từ cuối năm 2006 ; + Dây chuyền sản xuất Kẹo cứng nhân của Trung Quốc, Ba Lan, Đức công suất 10 tấn/ngày, trị giá 0,5 triệu USD; + Một dây chuyền sản xuất Kẹo cây trị giá 0,4 triệu USD do Đài Loan sản xuất, công suất 1 tấn/ngày đưa vào sử dụng năm 2004; + Một dây chuyền sản xuất bánh snack trị giá 100.000 USD do Trung Quốc sản xuất, công suất thiết kế 1 tấn/ngày đưa vào sử dụng từ tháng 06/2007. Quy trình sản xuất kẹo Chew: 2.2 Phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà. 2.2.1 Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà Tổng doanh thu: 418 tỷ so với kế hoạch 360 tỷ, tăng 16% Tổng lợi nhuận trước thuế: 22,084 tỷ so với kế hoạch 19 tỷ, tăng 16% Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn điều lệ là: 34,37% Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên doanh thu là: 4,56% Thu nhập bình quân của CBCNV là: 3 triệu đồng/người/tháng, so với kế hoạch tăng 9%. Cổ tức năm 2008: 15% Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: STT Nội dung Đơn vị tính TH 2007 KH 2008 TH 2008 Tỉ lệ (%) TH/KH TH/CKNT 1 Doanh thu thuần Tỷ đồng 344 360 418 116 121 2 Nộp ngân sách Tỷ đồng 22 23 25 109 113 3 Lợi nhuận trước thuế Tỷ đồng 24,6 19 22,1 116 90 4 Lợi nhuận sau thuế Tỷ đồng 21,1 16,34 19 116 90 5 Giá trị xuất khẩu Nghìn USD 248 313 387 123 156 6 Thu nhập bình quân (nghìn đồng) Nghìn đồng 2.500 2.750 3.000 109 120 (Nguồn: phòng kinh doanh – công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà) 2.2.2 Phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà Danh mục sản phẩm Hiện nay, HAIHACO tập trung phát triển 2 loại sản phẩm chính là Kẹo và Bánh, mỗi loại bao gồm các nhóm sản phẩm sau: + Kẹo: Kẹo “CHEW HAIHA”, Kẹo xốp mềm, Kẹo Jelly “CHIP HAI HA”, Kẹo cứng nhân, Kẹo cây “ HAIHAPOP”; + Bánh: Bánh quy, Bánh kem xốp, Bánh xốp cuộn MINIWAF, Bánh Snack-mimi, Bánh cracker; Bánh Trung thu, Bánh hộp; + Dòng bánh mềm cao cấp phủ sôcôla với công nghệ và thiết bị hiện đại của châu Âu và Hàn Quốc sẽ có mặt trên thị trường vào tháng 11 năm 2007 với các nhãn hiệu: Long-pie, Long-cake, Hi-pie, Lolie. Kẹo Chew: + Kẹo Chew là loại kẹo dẻo, có thành phần chủ yếu từ đường Gluco, chất béo, sữa...với các hương vị hoa quả vùng nhiệt đới. Trong các năm 2002 và 2004 Công ty đã đầu tư hai dây chuyền thiết bị đồng bộ sản xuất kẹo Chew trị giá trên 2 triệu Euro của Cộng hòa liên bang Đức với công suất 20 tấn/ngày. Qua 5 năm phát triển, Công ty đã cho ra đời hàng chục mẫu mã sản phẩm khác nhau, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng của nhiều đối tượng khách hàng. Nhãn hiệu “Chew Hải Hà” được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bảo hộ độc quyền quyền năm 2003. + Sản phẩm kẹo “Chew Hải Hà” của Công ty được đánh giá là dòng sản phẩm chủ lực, khẳng định lợi thế đi đầu của Công ty và chất lượng của nhóm sản phẩm. + Các nhãn hiệu sản phẩm tiêu biểu cho nhóm hàng này là chuỗi sản phẩm kẹo Chew hoa quả: Chew nho đen, Chew dâu, Chew đậu đỏ, Chew Coffee, Chew Taro, Chew caramen, Chew me cay, Chew sôcôla … Kẹo mềm, kẹo cứng: + Kẹo mềm và kẹo cứng là nhóm sản phẩm truyền thống của công ty với 2 dây chuyền nhập khẩu trị giá 1,5 triệu USD, công suất 20 tấn/ngày. Sản phẩm được sản xuất liên tục với trên 40 nhãn hiệu để đáp ứng mọi nhu cầu tiêu thụ của khách hàng. + Nhãn hiệu tiêu biểu: kẹo caramen Gold Bell, kẹo me, kẹo nhân dứa, kẹo cứng nhân sôcôla, kẹo xốp cam, kẹo xốp dâu, kẹo xốp chuối... Kẹo Jelly: + Các nhãn hiệu được đăng ký độc quyền với Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Kẹo Jelly được đầu tư nghiên cứu với nhiều chủng loại, hương vị mang tính cách tân, mẫu mã phong phú, rất phù hợp với các đối tượng khách hàng trẻ trung, năng động. + Các loại kẹo Jelly mà Công ty đang sản xuất: Jelly cốc, Jelly xốp, Jelly “Chip Hải Hà” Bánh quy & cracker + Bánh quy, cookie có thành phần chủ yếu từ bột, trứng, đường, sữa. Với công suất 6 tấn mỗi ngày trên dây chuyền sản xuất trị giá 1 triệu USD của Đan Mạch, các sản phẩm của Công ty sản xuất ra có chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng, nhất là trong các dịp Lễ, Tết hàng năm. + Bánh craker là loại sản phẩm chế biến từ bột lên men. Công ty đầu tư một dây chuyền trị giá 1 triệu USD, công suất 7 tấn/ngày, với các nhãn hiệu như Bánh Dạ Lan Hương, bánh kẹp kem, Bánh cracker vừng, Bánh cracker dừa, Bánh Bisavit-A... Sản phẩm của HAIHACO rất đa dạng về kiểu dáng và phong phú về chủng loại đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Có những sản phẩm mang hương vị hoa quả nhiệt đới như Nho đen, Dâu, Cam, Chanh..., có những sản phẩm mang hương vị sang trọng như Chew cà phê, Chew caramen, sôcôla....lại có những sản phẩm mang hương vị đồng quê như Chew Taro, Chew đậu đỏ, Cốm... Mặt khác các sản phẩm Bánh kẹo Hải Hà luôn luôn có chất lượng đồng đều, ổn định nên được người tiêu dùng đặc biệt là ở miền Bắc rất ưa chuộng. Thị phần của Haihaco ở thị trường này là rất lớn. So sánh với các đối thủ cạnh tranh chủ yếu Công ty Thị trường chủ yếu Sản phẩm cạnh tranh Thị phần Điểm mạnh Điểm yếu Hải Hà Miền Bắc Kẹo các loại, bánh kem xốp, biscuit 7,5% Uy tín, hệ thống phân phối rộng, quy mô lớn, giá hạ Chưa có sản phẩm cao cấp, hoạt động quảng cáo kém Hải Châu Miền Bắc Kẹo hoa quả, sôcôla, bánh kem xốp 5,5% Uy tín, hệ thống phân phối rộng, giá hạ Chất lượng chưa cao, mẫu mã chưa đẹp Kinh Đô Cả nước Snack, bánh tươi, biscuit, sôcôla, bánh mặn 12% Chất lượng tốt, bao bì đẹp, quảng cáo và hỗ trợ bán tốt, kênh phân phối rộng Giá còn cao Biên Hòa Miền Trung Miền Nam Biscuit, kẹo cứng, kẹo mềm, snack, sôcôla 7% Mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, hệ thống phân phố rộng Hoạt động xúc tiến kém, giá còn cao Tràng An Miền Bắc Kẹo hương cốm 3% Giá rẻ, chủng loại kẹo hương cốm phong phú Chủng loại bánh kẹo còn ít, quảng cáo kém 2.3 Đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà 2.3.1 Những thành tựu Trên thị trường sản xuất bánh kẹo hiện nay có khoảng hơn 30 doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo có tên tuổi trong đó Haihaco là một trong 5 nhà sản xuất bánh kẹo hàng đầu Việt Nam, là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của các Công ty như Bibica, Kinh Đô miền Bắc. Sản phẩm bánh kẹo Hải Hà liên tục được người tiêu dùng bình chọn là Hàng Việt Nam chất lượng cao trong nhiều năm liền từ 1996 đến nay. Gần đây nhất, Haihaco được bình chọn vào danh sách 100 thương hiệu mạnh của Việt Nam. Về thị phần Haihaco chiếm khoảng 6,5% thị phần bánh kẹo cả nước tính theo doanh thu. Kinh đô chiếm khoảng 20%, Bibica chiếm khoảng 7%, Hải Châu chiếm khoảng 3%. Đặc biệt, nếu xét về dòng kẹo Chew, Haihaco giữ vị trí số 1 về công nghệ, uy tín trên thị trường. Trong tương lai gần sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh như Bibica, Perfectti Van Melle vẫn chưa phải là thách thức lớn nhất đối với Haihaco. Về kẹo mềm, với dây chuyền thiết bị hiện đại, các sản phẩm kẹo xốp mềm Hải Hà chiếm thị phần lớn vượt qua tất cả các công ty sản xuất kẹo mềm trong nước. Cụ thể thành tựu đạt được ở mỗi dòng sản phẩm là: Kẹo chew : Dẫn đầu trong cơ cấu doanh thu là nhóm sản phẩm kẹo chew Hải Hà với sản lượng tiêu thụ của kẹo chew gối và chew nhân đạt 4.287 tấn, doanh thu tăng từ 27,7% năm 2004 lên 32% năm 2006. Xét về dòng kẹo chew, HAIHACO giữ vị trí số 1 về công nghệ, uy tín và thương hiệu trên thị trường. Trong tương lai gần sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh như Bibica, Perfectti Van Melle sẽ chưa phải là thách thức lớn nhất đối với HAIHACO. Sản phẩm kẹo chew Hải Hà có mười hai hương vị: nhân dâu, nhân khoai môn, nhân sôcôla, nhân cam….với công suất 20 tấn/ngày. Kẹo mềm : Trong cơ cấu doanh thu 2006 sản phẩm kẹo mềm chiếm 24,7%. HAIHACO là Công ty sản xuất kẹo mềm hàng đầu, với dây chuyền thiết bị hiện đại của Cộng hòa liên bang Đức, các sản phẩm kẹo xốp mềm Hải Hà chiếm lĩnh phần lớn thị phần của dòng sản phẩm này vượt qua tất cả các công ty sản xuất kẹo mềm trong nước. Bánh kem xốp : Sản phẩm bánh kem xốp và bánh xốp cuộn được sản xuất trên 2 dây chuyền của Malaysia công suất 6 tấn/ngày và 3 tấn/ngày. Sản phẩm của HAIHACO vẫn có ưu thế về giá cả, chất lượng cũng không thua kém các sản phẩm cạnh tranh khác từ các doanh nghiệp trong nước như Kinh Đô, Bibica, Hải Châu, Wonderfarm và hàng nhập khẩu. Doanh thu từ bánh kem xốp đạt 36,1 tỷ đồng trong năm 2006 tăng 5,2 tỷ đồng. Về tỷ trọng, dòng sản phẩm này chiếm 10,9%, tăng từ 9% năm 2005. Sản lượng tiêu thụ đạt mục tiêu chất lượng đề ra. Kẹo Jelly : Là dòng sản phẩm có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, từ 6,0% năm 2004 đến 8,6% năm 2006, kẹo jelly đem lại cho HAIHACO 28,6 tỷ đồng doanh thu (tăng 22,8% so với năm 2005) và 1,3 tỷ đồng lợi nhuận (tăng 8% so với năm 2005). Trong năm 2006, kẹo Jelly Chip Hải Hà đã được tiêu thụ với khối lượng 786,8 tấn.  Bánh Trung thu : HAIHACO luôn bám sát được thị hiếu của người tiêu dùng. Sản phẩm của HAIHACO được đánh giá cao về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đặc biệt có hương vị thơm ngon. Bánh Trung thu của HAIHACO gần đây được đổi mới về mẫu mã sản phẩm đẹp, sang trọng không thua kém các doanh nghiệp sản xuất bánh Trung thu khác. Hiện nay, bánh Trung thu Hải Hà cạnh tranh rất mạnh với bánh trung thu của Hữu Nghị và Bibica, đặc biệt là trên thị trường miền Bắc. Tuy nhiên tỷ trọng của bánh Trung thu trên tổng doanh thu chưa cao do tính chất mùa vụ của sản phẩm. Bánh Quy & Cracker: chịu sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Các doanh nghiệp trong nước có thế mạnh về công nghệ bên cạnh đó hàng ngoại nhập ngày càng xuất hiện nhiều ở những siêu thị lớn, chủng loại khá phong phú, phù hợp nhiều loại đối tượng người tiêu dùng. Thị phần của một số sản phẩm so với toàn ngành bánh kẹo (Đơn vị: tấn) Tên sản phẩm Sản lượng tiêu thụ Sản lượng toàn ngành Tỷ trọng (%) 1. Bánh kem xốp 1.650 9.167 18 2. Bánh Biscuit 2.125 11.185 19 3. Bánh mặn 545 7.786 7 4. Bánh hộp 290 5.800 5 5. Kẹo Jelly 520 5.270 9,87 6. Kẹo Caramen 495 12.380 4 7. Kẹo cứng 2.700 11.740 23 8. Kẹo mềm 4.100 11.081 37 9. Kẹo cân 400 8.150 4,9 (Nguồn: phòng kinh doanh – công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà) 2.3.2 Những tồn tại cần được khắc phục - Chất lượng sản phẩm làm ra tuy đã có chất lượng khá song tỷ lệ chưa cao. Haihaco có cả thảy hơn 200 loại bánh kẹo, trong số đó chỉ có những sản phẩm chủ lực mới được quan tâm thực sự tới chất lượng, các sản phẩm còn lại chưa thực sự có sự đầu tư thỏa đáng. - Nạn làm hàng giả, hàng nhái còn nhiều. - Trong quá trình sản xuất còn tồn tại nhiều sản phẩm sai hỏng làm giảm bậc chất lượng, tăng chi phí sản xuất kinh doanh dẫn tới giá thành cao, ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ sản phẩm. Nguyên nhân: Nhà nước và các cấp, các ngành có liên quan chưa thực sự quan tâm đến chất lượng sản phẩm, các chỉ tiêu chất lượng đặt ra chưa khắt khe, công tác kiểm tra chưa được thực hiện thường xuyên. Nhà nước chưa hoàn thiện các quy định về chất lượng sản phẩm hàng hóa, tạo nhiều khe hở cho các doanh nghiệp lách luật, dẫn tới nạn làm hàng giả còn nhiều ảnh hưởng xấu tới uy tín, thương hiệu của nhiều sản phẩm trên thương trường. Bên cạnh đó, các chế tài xử lý hành vi sản xuất buôn bán hàng giả, hàng nhập lậu, kém chất lượng chỉ dừng ở mức phạt hành chính bằng tiền ở khung thấp đã không đủ sức răn đe các vi phạm đó. Cụ thể, nhãn hiệu Taro của HAIHACO đã bị làm nhái hai lần bởi một công ty khác, mà hình thức xử lý công ty này chỉ là phạt tiền và yêu cầu phải tiêu hủy toàn bộ nhãn mác, bao bì đã in. Nguyên vật liệu phải nhập từ nước ngoài nhiều nên chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố nên chất lượng không ổn định, chi phí cao… khiến cho các sản phâm rơi vào thế bị động trong sản xuất kinh doanh. Thời tiết khí hậu thất thường, độ ẩm cao là điều kiện cho các vi sinh vật và các phản ứng hóa học bất lợi xảy ra làm cho nguyên vật liệu, bán thành phẩm bị biến đổi về chất, ảnh hưởng xấu tới chất lượng sản phẩm. Chương 3: Biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà 3.1. Tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Chất lượng sản phẩm cao đồng nghĩa với khả năng cạnh tranh cao, mức độ tiêu thụ sản phẩm lớn. Để nâng cao chất lượng sản phẩm ngoài việc đầu tư đổi mới công nghệ còn phải tăng cường công tác quản lý chất lượng. Hiện nay, Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà vẫn đang tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên chất lượng sản phẩm của Công ty chưa được ổn định, việc quản lý chất lượng còn lỏng lẻo. Bởi vậy, tăng cường quản lý chất lượng là hết sức cần thiết đối với Công ty để đảm bảo ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Để quản lý chất lượng có hiệu quả, Công ty phải thực hiện các biện pháp cụ thể sau: * Đảm bảo tốt nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất: Để đảm bảo chất lượng sản phẩm thì chất lượng nguyên vật liệu cũng phải được bảo đảm đồng thời đảm bảo đúng tiến độ và sự đồng bộ. Nguyên vật liệu dùng cho sản xuất sản phẩm bánh kẹo có tính dễ hư hỏng, không dự trữ được với khối lượng lớn, do đó Công ty cần tính toán số lượng nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất một cách hợp lý, tối ưu có hiệu quả. * Phải có sự phân cấp quản lý kỹ thuật, chức năng quản lý phải rõ ràng không chồng chéo lên nhau để khắc phục tình trạng việc kiểm tra chưa nghiêm khắc, trách nhiệm không rõ ràng dẫn đến khuyết điểm không phụ thuộc về ai, tạo nên sự vô trách nhiệm trong sản xuất, trong quản lý gây ra ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, giảm mức thị trường và giảm mức cạnh tranh trên thị trường. * Cán bộ kỹ thuật cần chú trọng theo dõi những khâu then chốt dễ hư hỏng như: pha trộn nguyên vật liệu, nấu kẹo, nướng bánh, bao gói nhằm giảm tỷ lệ bánh kẹo bị hư hỏng, chất lượng không bảo đảm ảnh hưởng đến uy tín về chất lượng sản phẩm, làm giảm khối lượng thị trường. Cần giao quyền cho cán bộ và kỹ thuật viên kiểm tra, theo dõi ở các khâu quan trọng, có kế hoạch phân tích xem xét những thông số kỹ thuật có liên quan ở khâu mình quản lý. Có như vậy mới xử lý kịp thời những sai hỏng trong quá trình sản xuất, tiết kiệm được chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. 3.2. Nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã sản phẩm Để nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty, ngoài biện pháp kỹ thuật, quản lý chất lượng như đã trình bày ở trên còn có một số biện pháp sau: * Nâng cao chất lượng ở khâu thiết kế: Giai đoạn thiết kế sản phẩm là khâu đầu tiên quy định chất lượng sản phẩm. Những thông số kỹ thuật thiết kế đã được phê chuẩn là tiêu chuẩn chất lượng quan trọng mà sản phẩm sản xuất ra phải tuân thủ. Chất lượng thiết kế tác động trực tiếp đến chất lượng của mỗi sản phẩm. Chất lượng ở khâu thiết kế thường là chất lượng mang tính kinh tế kỹ thuật. Vì vậy, ở khâu thiết kế Công ty cần chuyên môn hoá những đặc điểm nhu cầu của khách hàng thành đặc điểm của sản phẩm để chất lượng ở lĩnh vực này càng phản ánh chất lượng với sự phù hợp nhu cầu thị trường. Để các thông số kỹ thuật thiết kế có thể áp dụng vào sản xuất cần thoả mãn các yêu cầu sau: + Đáp ứng được nhu cầu khách hàng, thích hợp với khả năng của Công ty, đảm bảo tính cạnh tranh, tối thiểu hoá chi phí. Đối với Công ty, công tác thiết kế sản phẩm mới càng trở nên quan trọng. Các công thức pha trộn vật liệu, thiết kế mẫu mã, kích thước hình dáng sản phẩm cũng như bao gói cần phải được nghiên cứu cẩn thận và chi tiết. Trong đó, công tác nghiên cứu các đặc điểm về nhu cầu tiêu dùng, đặc điểm tâm lý và thị hiếu của thị trường là hết sức cần thiết. Thiết kế các đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản phẩm đưa ra các thông số rõ ràng để các phân xưởng dễ dàng thực hiện, đồng thời thuận tiện trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm được sản xuất dựa trên các thông số đó. Với những sản phẩm truyền thống mặc dù các loại sản phẩm này đã có thị trường nhưng công tác thiết kế lại các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng cần được hoàn thiện hơn nữa để gây ấn tượng hơn đối với khách hàng. * Nâng cao chất lượng ở khâu cung ứng: Mục tiêu nâng cao chất lượng ở khâu cung ứng là đáp ứng đúng chủng loại chất lượng, thời gian, địa điểm và đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của nguyên vật liệu đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra thường xuyên, liên tục với chi phí tối ưu nhất. Để thực hiện được yêu cầu trong khâu cung ứng, Công ty cần chú trọng đến những nội dung chủ yếu sau: - Lựa chọn người cung ứng có đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng vật tư nguyên liệu. - Thoả thuận về việc đảm bảo chất lượng vật tư cung ứng. - Thoả thuận về phương pháp thẩm tra, xác minh. - Xác định các phương án giao nhận. - Xác định rõ ràng, đầy đủ, thống nhất các điều khoản trong giải quyết những khiếm khuyết, trục trặc. Giải quyết tốt công tác cung ứng các yếu tố đầu vào là điều kiện cho khâu sản xuất thực hiện đúng các yêu cầu mà khâu thiết kế đã đặt ra. * Nâng cao chất lượng trong khâu sản xuất: Trong quá trình sản xuất, cán bộ kỹ thuật phải thường xuyên theo dõi tình hình sản xuất ở các công đoạn, quản lý tốt nguyên vật liệu để tránh lãng phí. Công tác kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên trong các công đoạn sản xuất gây ảnh hưởng đến chu trình sản xuất, tránh sự ách tắc trong công đoạn sản xuất gây ảnh hưởng đến chu trình sản xuất, chậm tiến độ sản xuất, không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng hàng hoá dẫn đến giảm uy tín của Công ty, mất thị trường do bị trống sản phẩm trên thị trường. Hiện nay, mẫu mã sản phẩm của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà so với các đối thủ cạnh tranh cùng ngành: Hải Châu, Hữu Nghị, Biên Hoà, Quảng Ngãi... còn rất đơn điệu, thiếu hấp dẫn trong con mắt người tiêu dùng. Vẫn biết rằng, chất lượng sản phẩm là quan trọng nhất, song chúng ta cần hiểu tâm lý người tiêu dùng là ưa hình thức. Nếu như một sản phẩm có hình thức bề ngoài rất hấp dẫn, kích thích tăng tính hiếu kỳ sản phẩm. Ta sẽ dùng thử sản phẩm đó ngay mặc dù chưa biết chất lượng sản phẩm đó như thế nào. Khi sử dụng sản phẩm, thấy đảm bảo chất lượng tức là đạt tiêu chuẩn thoả mãn được nhu cầu của khách hàng và đương nhiên những lần kế tiếp sẽ trở thành khách hàng quen thuộc của Công ty. Do vậy, Công ty cần nghiên cứu đặc tính của khách hàng về vấn đề thẩm mỹ để thiết kế những mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. 3.3. Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm Việc nghiên cứu tìm tòi tăng thêm chủng loại hàng hoá nhằm tạo ra sự phù hợp hơn đối với các nhóm đối tượng tiêu dùng, tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty mở rộng và phát triển thị trường. Đồng thời, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm góp phần làm cho nguồn sản phẩm thay thế các sản phẩm lỗi thời trở nên dồi dào hơn, người tiêu dùng có thể lựa chọn sản phẩm rộng hơn. Đa dạng hoá sản phẩm không cần đầu tư nhiều vốn cho khâu kỹ thuật. Trên dây chuyền sản xuất sẵn có, Công ty có thể nghiên cứu thêm những sản phẩm mới chỉ ở nguyên liệu: màu, mùi hương liệu, thành phẩm chất... dưới hình thức là chuyển loại. Với bánh kem xốp, Công ty có thể cho ra đời những chủng loại kem xốp với hương vị khác nhau trên dây chuyền công nghệ cũ. Công ty có thể nhập các loại hương liệu tinh dầu quý hiếm, hương vị hấp dẫn để sản xuất các loại bánh kem xốp hương vị mới phục vụ cho đoạn thị trường có thu nhập cao và có đủ khả năng cạnh tranh với hàng ngoại. Với sản phẩm kẹo, Công ty có thể tăng chủng loại kẹo cứng cũng như kẹo mềm. Bên cạnh đa dạng hoá chủng loại còn có đa dạng hoá khối lượng đóng gói. Công ty nên tiến hành với mỗi chủng loại sản phẩm với nhiều loại bao gói khối lượng khác nhau: Với các loại có trọng lượng: 100gr, 150gr, 175gr, 400 gr, 500gr để tạo sự thuận tiện trong mua bán của khách hàng giúp tăng khối lượng tiêu thụ sản phẩm bánh kẹo của Công ty. Công ty nên kết hợp đa dạng hoá với chuyên môn hoá sản phẩm. Trong phương án sản xuất nên có sự lựa chọn nghiên cứu để tạo ra những sản phẩm của riêng mình, tạo thế độc quyền và bán độc quyền. Không nên và không cần thiết phải chạy theo những sản phẩm giống đối thủ cạnh tranh, nhất là những sản phẩm đang là thế mạnh của họ. Khi thực hiện đa dạng hóa sản phẩm Công ty nên xác định cho mình một cơ cấu sản phẩm tối ưu. Sản phẩm có mức lãi cao phải chiếm tỷ trọng lớn. 3.4. Hạ giá thành sản phẩm để đẩy mạnh tiêu thụ: Giá bán là phương tiện cạnh tranh hữu hiệu thể hiện qua chính sách giá. Chính sách giá phù hợp là điều kiện quan trọng để người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm sao cho hợp túi tiền của họ. Để hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao tính cạnh tranh, kích thích tăng lượng tiêu thụ sản phẩm Công ty phải chú trọng công tác quản lý giá thành đó là hệ thống công tác từ việc hạch toán giá thành, phân tích dự báo giá thành cho đến tất cả các quyết định về kế hoạch điều hành sản xuất linh hoạt. Để giảm giá thành, Công ty có thể sử dụng các biện pháp sau: 3.4.1 Hạ thấp chi phí nguyên vật liệu Đối với sản phẩm bánh kẹo thì chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng trong giá thành sản phẩm. Với kẹo cứng chi phí về nguyên vật liệu thường chiếm 72 - 73% giá thành sản phẩm, kẹo mềm chi phí nguyên vật liệu chiếm 70% và bánh có chi phí nguyên vật liệu chiếm hơn 65% giá thành sản phẩm. Vì vậy, giảm chi phí về nguyên vật liệu có nghĩa quan trọng nhất đối với các biện pháp hạ giá thành. Để giảm được chi phí và nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm Công ty cần thực hiện tốt các công tác sau: * Tổ chức tốt công tác thu mua vật liệu: Ngoài việc đánh giá chất lượng của công tác thu mua nguyên vật liệu, Công ty còn phải giảm chi phí phát sinh ở từng nguồn cung ứng để rồi đi đến quyết định mua nguyên vật liệu ở nguồn cung ứng nào là kinh tế nhất. Cán bộ thu mua cần tính toán chi phí vận chuyển hàng về kho, lượng hao hụt... để tổng chi phí công tác thu mua là nhỏ nhất. Công ty bánh kẹo Hải Châu có đội xe vận tải hàng hoá thì nên chuyển nguyên vật liệu, kết hợp hàng 2 chiều để giảm chi phí vận chuyển. * Giảm chi phí bảo quản dự trữ nguyên vật liệu: Để giảm được chi phí nguyên vật liệu dự trữ ở trong kho, Công ty cần thực hiện tốt công tác quản trị nguyên vật liệu trong kho. Thực hiện tốt công tác tiếp nhận nguyên vật liệu vào trong kho, bảo quản, cấp phát vật liệu có ở trong kho và thực hiện công tác kiểm tra thường xuyên mức dự trữ khối lượng nguyên vật liệu đạt tính tối ưu nhất. Bên cạnh đó Công ty cần nâng cấp hệ thống kho tàng để nguyên vật liệu trong kho được bảo quản tốt hơn, thực hiện công tác chống ẩm mốc, bảo quản tốt chất lượng nguyên vật liệu trong kho. * Định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho sản phẩm. Định mức tiêu hao nguyên vật liệu là căn cứ để phân xưởng quan tâm đến việc tiết kiệm nguyên vật liệu cũng như các cán bộ kỹ thuật dùng để kiểm tra chất lượng sản phẩm. Mặc dù vậy, trong thời gian qua hệ thống định mức tiêu hao nguyên vật liệu ở các phân xưởng vẫn chưa sát với thực tế khi điều kiện ngày càng hoàn thiện hơn. Việc xác định lại, điều chỉnh lại hệ thống định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho từng loại sản phẩm sẽ làm giảm đáng kể giá thành sản phẩm. Trong quá trình sản xuất bánh kẹo, Công ty cũng tận dụng được loại bánh thứ phẩm, bánh vỡ để sản xuất lương khô nhưng vẫn còn những lãng phí khác mà Công ty có thể hạn chế được như rơi vãi nguyên vật liệu ra ngoài, hoà đường nấu đường vung vãi tràn ra ngoài gây lãng phí. Để khắc phục tình trạng này nhằm điều chỉnh hệ thống định mức hợp lý hơn Công ty cần thực hiện được một số việc sau để nâng cao điều kiện sản xuất: - Trang thiết bị xe đẩy chuyên dùng để hạn chế lãng phí do nguyên vật liệu rơi vãi. - Cải tiến, lắp đặt hệ thống cung cấp nước rửa và thu rửa trên các thiết bị sản xuất để có thể tận dụng nước rửa vào công đoạn hoà đường. - Thường xuyên kiểm tra sửa chữa máy móc thiết bị để giảm sản lượng phế phẩm. * Sử dụng nguyên vật liệu thay thế: Trong những năm vừa qua Công ty đã thay thế một số loại nguyên vật liệu bằng những nguyên vật liệu khác có giá rẻ hơn nhưng chất lượng vẫn được đảm bảo. Đối với một số loại sản phẩm bánh Công ty đã dùng dầu ăn làm nguyên liệu đầu vào thay vì dùng bơ chi phí cao hơn. Đối với chất phụ gia Công ty dùng mạch nha thay cho gluco trong sản xuất bánh kẹo các loại. Mặt khác Công ty có thể sử dụng các loại nguyên vật liệu đầu vào là nông sản ở trong nước thay vì nguyên vật liệu nhập từ nước ngoài để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. 3.4.2 Hạ thấp chi phí quản lý doanh nghiệp Chi phí quản lý doanh nghiệp là một trong những bộ phận cấu thành nên giá thành của toàn bộ sản phẩm của Công ty. Muốn hạ giá thành sản phẩm, một trong những giải pháp phải kể tới là hạ thấp chi phí quản lý của Công ty. Chi phí quản lý bán hàng của Công ty thường chiếm tỷ lệ cao trong công tác quản lý chung về sản xuất kinh doanh của Công ty. Cần bố trí một cách chặt chẽ, hợp lý đúng số lượng cần thiưết và phù hợp với yêu cầu của công việc, của từng thị trường. Tổ chức bán hàng phải ổn định nhưng phải linh hoạt, ổn định để chịu đựng những tổn thất nhân sự giám sát điều hành, đồng thời tổ chức phải đủ linh hoạt để biến đổi điều chỉnh theo các biến đổi ảnh hưởng đến Công ty trong ngắn hạn như biến động thị trường. 3.4.3 Giảm chi phí cố định, chi phí điện nước * Các biện pháp giảm chi phí cố định: Đối với chi phí cố định là khấu hao tài sản cố định, Công ty có thể giảm chi phí cố định này trong đơn vị sản phẩm bằng cách tăng cường khối lượng sản phẩm sản xuất ra và tìm cách tiêu thụ với phương châm “sản xuất ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó”. Trong sản xuất, cán bộ kỹ thuật thường xuyên kiểm tra, bảo dưỡng thiết bị máy móc để tránh xảy ra sửa chữa lớn làm tăng chi phí và ngưng trệ sản xuất, tận dụng tối đa công suất máy móc và khai thác triệt để nhu cầu thị trường. Đối với những máy móc thiết bị không còn tiếp tục sản xuất kinh doanh nên tổ chức thanh lý để thu hồi giá trị còn lại, đầu tư vào thiết bị sản xuất có lợi khác. Đối với chi phí cố định là chi phí gián tiếp, Công ty có thể giảm tỷ lệ chi phí này trong giá thành sản phẩm bằng cách giảm tỷ lệ lao động trong lực lượng lao động của Công ty. * Các biện pháp giảm chi phí điện nước: Mặc dù chi phí về nhiên liệu điện nước chiếm tỷ lệ nhỏ trong giá thành sản phẩm nhưng tiết kiệm chi phí này cũng làm lợi đáng kể cho Công ty: - Cần khuyến khích mọi người tiết kiệm điện, sử dụng dây tải điện tốt để tránh sự hao tổn đường dây. - Cần cải tạo lại hệ thống nước ở Công ty, lắp đặt đồng hồ đo nước, giáo dục cho mọi người trong Công ty có ý thức tiết kiệm nước. - Chi phí nguyên liệu than dầu Công ty nên mua than có chất lượng cao để tăng hiệu quả sử dụng. 3.5. Mở rộng hơn các hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm hàng hoá muốn tiêu thụ được không những phải có chất lượng tốt, giá cả phải chăng, bao bì mẫu mã đẹp mà làm sao phải thông báo những thông tin đó đến người tiêu dùng. Để làm được điều này, Công ty phải tiến hành các biện pháp như: Quảng cáo, yểm trợ xúc tiến bán hàng để giúp Công ty đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng được nhanh chóng. Quảng cáo nhằm truyển tải những thông tin về sản phẩm của Công ty như: hình dáng, kích thước, mẫu mã, chất lượng, giá cả các tính năng ưu việt của sản phẩm và những lợi ích mà họ sẽ được hưởng thụ sau khi mua (thơm ngon, tiện dụng). Thông qua các hoạt động quảng cáo, yểm trợ, Công ty kích thích gợi mở nhu cầu về sản phẩm. Có thể người tiêu dùng chưa biết về sản phẩm của Công ty, họ đang lưỡng lự so sánh nhưng khi đã nhận được những thông tin kích thích thị hiếu về tiêu dùng sản phẩm, họ sẽ có hành động mua hàng. Công ty nên mạnh dạn hơn nữa trong việc đầu tư quảng cáo trên truyền hình. Do hiện nay, truyền hình là phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu, cập nhật của người dân. Quảng cáo trên truyền hình mang lại hiệu quả cao hơn rất nhiều lần so với các quảng cáo trên các phương tiện khác như báo, đài, áp phích... Một chương trình quảng cáo hấp dẫn có thể tăng mức tiêu thụ sản phẩm lên tới 5 - 6 lần. Công ty cần tổ chức tốt lực lượng bán hàng trực tiếp có trình độ, có khả năng tiếp thị, giao tiếp tốt để giới thiệu về sản phẩm. Tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm, tổ chức tham gia hội chợ hàng công nghiệp, hàng Việt Nam chất lượng cao qua đó thu hút được nhiều quan tâm của bạn hàng hoặc là Công ty có thể học được một số kinh nghiệm nhằm hoàn thiện hơn nữa chất lượng của sản phẩm. Bên cạnh đó, Công ty nên tổ chức tặng quà cho các đại lý như mũ, áo, sách vở, lịch... có mang tên và biểu tượng của Công ty thể hiện sự hiện diện của Công ty ở mọi lúc, mọi nơi. Cần có những khen thưởng kịp thời cho nhân viên thị trường của Công ty, nhân viên bán hàng khi có thành tích để khuyến khích họ hăng hái, năng động tham gia vào công tác phát triển thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ. Mặc dù sản phẩm của Công ty là sản phẩm tiêu dùng một lần, chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng, không cần các hoạt động sửa chữa, lắp đặt, bảo hành... nhưng Công ty cần phải thực hiện một số dịch vụ kèm theo khi bán hàng như: + Tổ chức tốt đội xe tải tốt nhằm tạo điều kiện giao hàng nhanh chóng, thuận tiện tới các đại lý, các cơ quan mua hàng. + Hướng dẫn khách hàng bảo quản hoặc cách giữ gìn sản phẩm. + Tạo cảm giác thoải mái, tiện lợi cho người tiêu dùng khi họ mua sắm hàng hoá và yên tâm khi sử dụng sản phẩm của Công ty. + Uy tín của Công ty được nâng cao, quan hệ khách hàng cũ ngày càng chặt chẽ và tạo nhiều cơ hội để tiếp xúc với khách hàng mới. + Giá trị sản phẩm hàng hoá của Công ty được nâng lên. + Tăng khả năng cạnh tranh cuả Công ty trên thị trường. Kết luận Qua những phân tích trên có thể thấy, nâng cao năng lực cạnh tranh luôn là một yếu tố hàng đầu mà doanh nghiệp cần quan tâm, để có thể đứng vững và phát triển bền vững. HAIHACO trong thời gian qua đã không ngừng cố gắng để vươn lên là một trong những thương hiệu hàng đầu về sản phẩm bánh kẹo, tạo được một chỗ đứng vững chắc ở thị trường trong nước, công ty không ngừng tung ra những sản phẩm mới, bao bì sản phẩm cũng thường xuyên được đổi mới. Mặc dù vậy, các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh phải luôn được quan tâm vì thị trường luôn luôn biến đổi không ngừng, và nhu cầu khách hàng cũng thay đổi theo từng thời điểm. Trong điều kiện hội nhập, HAIHACO gặp phải những đối thủ cạnh tranh mới cả trong và ngoài nước, rất nhiều sản phẩm nhái được tung ra với giá thành rẻ hơn, vì vậy HAIHACO cần quan tâm tới cạnh tranh trên mọi mặt, cạnh tranh vừa hướng vào phục vụ khách hàng một cách tốt nhất, vừa chú ý quản lý chất lượng, cải tiến mẫu mã sản phẩm và đồng thời phải cắt giảm chi phí sao cho giá thành hợp lí với người tiêu dùng. Là một sinh viên, kiến thức và tầm nhìn còn hạn chế, trên đây chỉ là một góc nhìn chủ quan về vấn đề của cá nhân em. Dưới sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn – Th.S Đinh Lê Hải hà, đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trên thị trường Việt Nam” đã được hoàn thành, một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của này! TÀI LIỆU THAM KHẢO (1) Theo nghiên cứu của tổ chức SIDA, Thụy Điển (2) Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (3) Báo cáo thường niên của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà Website Bộ Công thương: Website: Website: Website: Website: http:/lehoibanhkeo.com Website: Website: Website: Website: www.direct.vn 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22193.doc
Tài liệu liên quan