Đề án Những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam

Phát triển các dịch vụ tư vấn, thông tin cũng là hướng để các NHTM đa dạng thu nhập, tăng khả năng cạnh tranh, phát triển cùng sự phát triển của các doanh nghiệp. Thông thường việc hỗ trợ kỹ thuật (đặc biệt cho vùng nông thôn) cung cấp các thông tin thị trường sẽ mở ra cơ hội dt cho các doanh nghiệp. Với nghiệp vụ của mình, ngân hàng sẽ tư vấn để chọn lựa các kế hoạch kinh doanh khả thi, và do đó cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệpm nên được nhìn nhận là kết quả của sự hợp tác của ngân hàng và doanh nghiệp và là kết quả của quá trình chăm sóc khách hàng. - Giải pháp liên quan đến nghiệp vụ của NHTM, các NHTM nên áp dụng và mở rộng tài khoản thấy chi đối với khách hàng. Việc này sẽ giảm được hai phần ba thủ tục và thời gian chờ đợi của khách hàng, tất nhiên với điều kiện khách hàng cam kết chỉ mở tài khoản tại một ngân hàng. Hiện nay, mỗi doanh nghiệp đến vay vốn lần đầu tại một NHTM đều được ngân hàng mở cho 2 tài khoản – một tài khoản tiền vay, một tài khoản tiền gửi. Tài khoản tiền vay để hạch toán các khoản vay và trả nợ. Tài khoản tiền gửi để hạch toán các khoản nộp vào và rút ra hàng ngày của doanh nghiệp. Việc tác hai tài khoản tiền gửi và cho vay làm cho 2 công đoạn vay vốn và trả nợ của một quá trình kinh doanh thống nhất bị tách rời nhau. Khi có nguồn thu, vốn của doanh nghiệp phải nằm ở tài khoản tiền gửi thanh toán chỉ được ngân hàng trả lãi 0,1%/tháng, trong khi nợ tiền vay phải trả lãi ngân hàng từ 0,6 đến 0,7%/tháng. Bên cạnh đó việc sử dụng tài khoản này còn gây ra thủ tục phiền hà, cứng nhắc khi khách hàng muốn vay vốn. Tài khoản thấu chi có thể nói ngắn gọn là một tài khoản thấu chi có thể nó ngắn gọn là một tài khoản lưỡng tính, vừa mang nội dung của tài khoản cho vay, vừa mang nội dung của một tài khoản tiền gửi khách hàng khi xin vay vốn chỉ việc hoàn tất thủ tục xin vay vốn cho lần đầu còn từ lần hai chỉ cần mất đúng 15 là có thể hoàn tất khoản vay. Sử dụng tài khoản này giảm được tiền lãi phải trả cho ngân hàng do chênh lệch lãi suất, đồng thời qua tài khoản thậm chí sẽ biết được khách hàng đang gặp thuận lợi hay khó khăn như trên tài khoản thấu chi sẽ được sử dụng trong cạnh tranh mở rộng tín dụng và lôi kéo khách hàng.

doc45 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như nước ta. Mặc dù đang ứ đọng vốn nhưng nhiều NHTM, nhất là csac NHTM quốc doanh vẫn xác định đối tượng khách hàng của họ là các doanh nghiệp nhà nước còn doanh nghiệp ngoài quốc doanh chi là khách hàng dự trữ. Ông Nguyễn Văn Phẩm, giám đốc sở giao dịch II, ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, cho biết gần 90% tổng dư nợ hiện có khoảng 1.000 tỷ đồng, của Sở giao dịch II thuộc về các tổng công ty. Còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ được vay mộ tỷ lệ dưới 10% tổng dư nợ. Tất nhiên, không phải ngân hàng nào cũng “từ chối” tư nhân. Tiêu biểu là ngân hàng Đông á, trên 70% tổng dư nợ là dành cho các cơ sở ngoài quốc doanh. Hay như Sài Gòn Công thương ngân hàng (Sai Gon Bank), tỷ lệ cho vay khu vực tư nhân so với khu vực nhà nước là 60/40. Tuy nhiên, số lượng ngân hàng có cơ cấu tín dụng như trên lại không nhiều lắm. Hơn nữa, đây mới chỉ là cơ cấu cho vay sản xuất kinh doanh trong nước chứ tài trợ xuất khẩu cho khu vực tư nhân thì ngay cả những ngân hàng trên cũng còn dè dặt. Nhiều quan chức ngân hàng đã thừa nhận không giám cho tư nhân vay tiền trên L/C đã mở bởi vì cho rằng : có L/C chưa chắc họ đã xuất hàng, xuất hàng chưa chắc đã có đầy đủ chứng từ, có bộ chứng từ chưa chắc đã thu được tiền. Do có quan điểm như vậy nên các doanh nghiệp tư nhân khi có L/C xuất khẩu thường liên hệ trực tiếp với chi nhánh ngân hàng nước ngoài để vay tiền. Họ biết chắc như đinh đóng cột rằng với L/C trong tay mà thiếu tài sản thế chấp thì các ngân hàng nội địa cũng không đầu tư tiền vào họ. Gần đây, một vài ngân hàng trong nước đã mạnh dạn cho vay đối với những cơ sở có L/C xuất khẩu nhưng chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước, còn đối với khu vực tư nhân lại không đáng kể. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới riêng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh do phải vay ở bên ngoài với lãi suất chắc chắn là cao hơn mà còn làm cho phạm vi của chính các ngân hàng trong nước bị thu hẹp lại. Hiện nay, cùng với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã chiếm tới 60% GDP cả nước. Trong tổng số 40 triệu lao động ở Việt Nam thì có tới 36 triệu người làm việc trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Hơn 5 năm, có khoảng 5 triệu người có thêm việc làm thì hầu hết đều do khu vực này tạo ra. Như vậy, có thể thấy tiềm lực của kinh tế ngoài quốc doanh là rất lớn, kéo theo đó là một nhu cầu vay vốn khổng lồ. Vậy mà, các NHTM Việt Nam lại không thực sự coi trọng khu vực này, không đặt họ ngang hàng với khu vực kinh tế quốc doanh mà lại đối xử với họ như những khách hàng dự trữ. Đây là một điều bất hợp lý trong nền kinh tế thị trường hiện đại. 2.2.1. Hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động n1 hiện nay, tuy đã được cải tiến nhiều nhưng vẫn chưa thực sự khoa học và thiếu đồng bộ, chưa đủ sức điều chỉnh những diễn biến phức tạp trong thực tế kinh doanh của NHTM. Nhiều hướng dẫn của các Bộ, ngành khác nhau còn chồng chéo, rất khó khăn trong triển khai thực hiện. Những quy định về giải thể, phá sản doanh nghiệp, tài sản thế chấp, cầm cố của công nghiệp tại ngân hàng chưa khoa học và chưa công bằng gây thiệt hại chung cho nền kinh tế và ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp được đầu tư chủ yếu bằng vốn ngân hàng, nhưng khi doanh nghiệp bị giải thể thì chủ thể được thanh toàn nợ từ nguồn thanh lý tài sản còn lại của doanh nghiệp lại khôg phải là ngân hàng cho vay, dẫn đến việc mất vốn của ngân hàng là điều không tránh khỏi. Những doanh nghiệp “có vấn đề” thì các cơ quan pháp luật phải can thiệp và ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đơn vị trong quá trình điều tra, tài sản thế chấp sẽ không được tiếp tục khai thác hoặc khai thác một cách kém hiệu quả, gây thất thoát vốn cho các doanh nghiệp và ngân hàng. Hệ thống văn bản pháp luật chưa khoa học, thiếu đồng bộ khiến thủ tục cho vay hiện nay ở các NHTM khá rườm rà, cứng nhắc phải trải qua nhiều khâu. Vì lẽ đó thời gian từ lúc nộp đơn xin vay đến lúc mà các đơn vị vay được vốn thường rất dài, 10 ngày nếu vay ngắn hạn và 45 ngày cho vay trung hạn và dài hạn. Trong thời buổi bùng nổ thông tin như ngày nay, để nắm bắt cơ hội làm ăn người ta phải chạy đua từng ngày thậm chí từng giờ, vậy mà phải nằm chờ lâu như vậy mới có thể vay được vốn thì quả là khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Cũng chính vì hệ thống văn bản chưa khoa học, rõ ràng nên các NHTM không giám đưa vào sử dụng nhiều nghiệp vụ mới nhằm rút ngắn thời gian cũng như chi phí quản lý vốn vay cảu mình. 2.2.1. Các cơ quan hữu quan chưa có được cái nhìn thấu đáo về ngân hàng và hoạt động kinh doanh tiền tệ, nếu chưa có được sự phối hopự đồng bộ, tích cực với ngân hàng trong việc giải quyết những vấn đề liên quan. Cho đến nay không ít người còn cho rằng việc cho vay và thu hồi nợ vay chỉ đơn thuần là việc của ngân hàng, trong khi trên thực tế có nhiều khoản vay ngân hàng đã thoả hiệp theo đúng mọi quy định của nhà nước mà vẫn không thu hồi được nợ, lúc đó việc thu hồi nợ đã vượt ra khỏi chức năng và khả năng của ngân hàng. Mặc dầu đã có nhiều thông tư liên tịch giữa NHNN và các Bộ, các ngành liên quan hướng dẫn thực hiện những vấn đề có liên quan đến hoạt động ngân hàng, nhưng thực tế đòi hỏi cần phải có sự phối hợp nhiều hơn nữa giữa các cơ quan này với nhau trong thời gian tới. Những ngân hàng này khiến các NHTM tiếo tục co cụm, chờ đợi thời cơ. Hoạt động kinh doanh tiền tệ là một loại hình kinh doanh đặc biệt, rất nhạy cảm chịu tác động mạnh mẽ từ các yếu tố của nền kinh tế trong nước và thế giới. Trong thời gian quan, nền kinh tế nước ta cũng như một số nước trong khu vực có những khó khăn nhất định nên đã tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các đơn vị vay vốn, điều này như một phản ứng dây chuyền đã tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh ngân hàng mà đặc biệt là công tác tín dụng. Do một số khó khăn của nền kinh tế và sự chững lại của nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian qua nên gía bất động sản đã liên tục giảm xuống, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn vay. - Bối cảnh kinh tế những năm gần đây chứa đựng nhiều yếu tố không thuận lợi cho hoạt động tín dụng của các NHTM. Trong khi tổng đầu tư xã hội sụt giảm thì đầu tư của nhà nước lại tăng nhanh từ 38,3% năm 1995 lên 61,6% năm 1999. Điều đáng chú ý là trong tổng nguồn vốn đầu tư tập trung của nhà nước, chỉ khoảng 10% là vốn huy động trong nước và khoảng 90% còn lại là nguồn vốn ODA. Trong dài hạn nếu các chương trình đầu tư của nhà nước thành công, hệ thống cơ sở hạ tầng được cải thiện sẽ thúc đẩy đầu tư của khu tư nhân. Song trong thời gian trước mắt, nếu không thoát khỏi xu hướng này, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế sẽ còn phụ thuộc khá chặt chẽ vào tiến độ giải ngân của vốn ODA. Sự hiện diện của các nguồn vốn ưu đãi quốc tế rõ ràng làm giảm các cơ hội cung cấp tín dụng của các NHTM. Trong các hạng mục ưu tiên đầu tư kích cầu của thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết các dự án lớn đã tìm được vốn vay với lãi suất ưu đại tuyệt đối so với mặt bằng lãi suất kinh doanh. Vốn trong dân cư cũng tạo ra một áp lực “khó chịu” đối với hoạt động cho vay của các ngân hàng. Vốn nhàn rỗi trong dân cư hiệp ước khoảng 10-12 tỷ USD, trong đó 44% dưới dạng vàng, ngoại tệ và tổng cộng khoảng 70% ở dạng không sinh lời. Nguồn vốn này đang được nhà nước khuyến khích đưa vào kinh doanh, nhưng trong thời gian trước mắt chúng sẽ là nguồn vốn cạnh tranh với các NHTM khi nềnkt có triển vọng tăng trưởng hoặc là áp lực tiền gửi trong trường hợp có nền kinh tế rơi vào trạng thái trì trệ. Xu hướng này sẽ được giải toả, nếu lãi suất được thực sự xác định bởi sự vận động của cung, cầu và các NHTM trước hết phải đáp ứng được nhu cầu vốn vay của dân cư và các doanh nghiệp tư nhân nhỏ. - Cho đến trước khi có sự điều chỉnh chính sách lãi suất của NHNN vào năm 1999, thì lãi suất cho vay cảu các NHTM ở Việt Nam là rất cao 1,25%/tháng đối với cho vay ngắn hạn, bên cạnh đó tỉ lệ tái cấp vốn cũng là 1,1% /tháng. ii. những tồn tại trong hoạt động tín dụng của các nhtm Việt Nam. 2.2. Những khó khăn trong hoạt động tíndụng của các NHTM Như trên đã trình bày, hoạt động tín dụng là hoạt động chính của NHTM, nó đem lại thu nhập, chủ yếu cho ngân hàng và tài trợ vốn cho nền kinh tế, tuy nhiên trong những năm qua tỉ lệ tăng trưởng tín dụng đã không đạt được như mong muốn, nguyên nhân cả chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng đó, đã có nhiều ý kiến đề cập, chung qui lại các ý kiến đều tập trung chủ yếu vào những nguyên nhân cơ bản sau: Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hiện nay đang nằm trong tình trạng chung là làm ăn kém hiệu quả, vốn tự có ít hoạt động chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng, điều này gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng trong hoạt động đầu tư tín dụng. Nếu thực hiện theo đúng quy định của nhà nước là: doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, vốn tự có không đảm bảo thì không đầu tư, như thế sẽ đẩy doanh nghiệp đến chỗ đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, kéo theo cả ngân hàng cũng lâm vào cảnh không tốt đẹp gì hơn, đồng thời ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và cả vấn đề xã hội. Bên cạnh đó, có những doanh nghiệp dù làm ăn có hiệu quả nhưng vẫn phải nợ ngân hàng. Cho đến giữa năm 1998, các tổng công ty xây dựng đã nợ ngân hàng hàng ngàn tỷ đồng, mỗi tổng công ty cùng một lúc dư nợ vốn vay, bảo lãnh của từ 6-10 ngân hàng, từ NHTMQD, đến NHTM cổ phần ngân hàng liên doanh và thậm chí cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tổng công ty xây dựng cầu Thăng Long hiện dư nợ ngân hàng trên 300 tỷ đồng …. Nguyên nhân chủ yếu cho vấn đề trên là các công ty bị bên A nợ trong khi đó vẫn phải xây dựng, máy móc trên công trường vẫn phải đưa vào vận hành, phải tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động. Tình hình nợ NHTM của các Tổng công ty khác cũng không sáng sủa hơn. Ngân hàng công thương Việt Nam đến 31/3/1998 có tổng dư nợ cho vay của các Tổng công ty 90-91 lên tới 4091 tỉ đồng. Đứng trước khó khăn đó, các NHTM rất lúng túng, và một thực tế hiện nay là các ngân hàng thường co cụm trong đầu tư, chờ thời cơ, vì nếu ngân hàng cứ tiếp tục cho vay thì sẽ rất khó khăn trong việc thu hồi vốn, nợ quá hạn sẽ tăng cao, cho đến 1 lúc nào đó, khi doanh nghiệp không còn khả năng thanh toán các món vay thì ngân hàng sẽ trở thành người “có ý làm trái, gây hậu quả nghiêm trọng:. - Một thực tế đang tồn tại lâu nay là tình trạng doanh nghiệp vay vốn luôn đối phó với ngân hàng thông qua việc cung cấp các số liệu không trung thực, mặc dù những số liệu này đều đã được các cơ quan có chức năng kiểm duyệt. Chế độ kế toán, thống kê đã được ban hành, nhưng phần lớm các doanh nghiệp đều được thực hiện không nghiêm túc. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh, cũng như việc quản lý vốn vay của đơn vị, để qua đó có thể đưa ra được những quyết định đầu tư đúng đắn có tác dụng hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, nhằm thu hồi vốn cho ngân hàng. Trên địa bàn Nghệ An từ đầu năm nay, các ngành chức năng mới kiểm tra việc chấp hành luật công ty ở 27 công ty TNHH thì tất cả các công ty này đều vi phạm, thậm chí có công ty vi phạm pháp luật một cách nghiêm trọng. Phần lớn các công ty đều vi phạm, về điều kiện thành lập, khai khống vốn điều lệ. Một vấn đề hết sức nghiêm trọgn là có 20 trong số 22 công ty được kiểm tra vi phạm lệch kế toán thống kê, điều lệ kế toán nhà nước. Đối với lĩnh vực kinh tế quốc doanh, theo thống kê của một nhóm chuyên gia đối với 25 doanh nghiệp lớn tại địa bàn có quan hệ tín dụng với các ngân hàng cho thấy dư nợ tín dụng ngân hàng gấp 4 lần số vốn được cấp và gấp 11,8 lần số vốn lao động được cấp của những doanh nghiệp này. Nhiều khi các NHTM có những quyết định đầu tư không căn cứ vào số liệu báo cáo cử đơn vị mà thường dựa trên nhiều nguồn thông tin phong phú khác, có khi là dựa vào những cảm nhận trực quan của mình, điều này nếu kéo dài sẽ rất nguy hiểm. Thực tế đã chứng minh rằng việc cung cấp các số liệu không trung thực của đơn vị, thêm vào đó là việc tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng đã gây lên những vụ đổ bể tín dụng gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế như vụ Tamexco và Minh Phụng. - Do chuyển sang làm ăn trong cơ chế thị trường chưa lâu nên hầu hết các doanh nghiệp hiện nay chưa có đủ năng lực và kinh nghiệm để cạnh tranh trên thương trường, thường thua thiệt trong kinh doanh. Mặt khác, đất nước đang trên đà chuyển đổi nền kinh tế do đó chưa có được những quy hoạch cụ thể, ổn định lâu dài ở tầm vĩ mô, nên đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp trong việc đầu tư sản xuất. Nhiều dây chuyền sản xuất lắp đặt xong thiết bị, khi bước vào sản xuất thì sản phẩm không tiêu thụ được do nhà nước có chủ trương cấm hoặc sản xuất hạn chế. Một số mặt hàng do không có quy hoạch tổng thể và sự chỉ đạo thống nhất nên có quá nhiều doanh nghiệp đầu tư vốn nhưng sản phẩm lại không tiêu thụ được do đó đã bão hoà hoặc lợi nhuận thu về không được như khi xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật, hoặc không có đủ nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, điều này gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng vì phần lớn vốn đầu tư của doanh nghiệp là vốn vay ngân hàng. Các doanh nghiệp đang hoạt động trong thị trường độc quyền cao. Các nghiên cứu cho thấy, ngoài các ngành độc quyền tự nhiên như Điện, Nước, thì độc quyền còn có trong hầu hế các ngành kinh tế và nhà độc quyền chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, các Tổng công ty. Một hậu quả của sự độc quyền là không sử dụng hết công suất, tồn kho hàng hoá lớn của Tổng công ty 90-91: khoảng 6000 tỷ đồng, trong đó mía đường: 540 tỷ đồng, xi măng: 700 tỷ đồng, hàng dệt may 500 tỷ đồng. Các liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lại giữ vị trí độc quyền trong các ngành có hàm lượng công nghệ tương đối cao. Sự hạn hẹp của thị trường Việt Nam và vị trí đi đầu của các dự án lớn rất thấp, ví dụ: sản xuất và lắp ráp xe tải: 3%, ôtô dưới 12 chỗ, xe máy 8%, khả quan nhất là thép xây dựng đạt khoảng 50%. Chính tình hình trên đã làm cản trở việc nhập ngành của các hãng khác và cản trở việc mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh từ đó các NHTM gặp khó khăn trong việc đẩy mạnh tổng mức tín dụng. Với lãi suất cao như vậy, thêm vào đó là tỉ lệ lạm phát tương đối thấp, đặc biệt là năm 1999 tỉ lệ lạm phát chỉ là 91%, thì lãi suất thực tiến gần tới lãi suất danh nghĩa. người gửi hầu như bảo toàn giá trị của cả vốn lẫn lãi. Ngược lại, người đi vay không được khấu trừ bởi 1 tỉ lệ lạm phát thông thường của một nền kinh tế đang tăng trưởng. Hơn nữa, tỉ lệ lạm phát thấp còn phản ánh sự kém sôi động của lưu thông hàng hoá, không hình thành nên các kì vọng đầu tư tích cực. Với tỉ lệ lạm phát thấp và lãi suất cao đã không đẩy mạnh được việc mở rộng tín dụng đói với các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Thực tế cho thấy việc tăng dư nợ vào các tháng 2,3,6,9,10 của năm 1999 là không bình thường: -24%, +10,7%, +1,6%, +22,3% và +0,7%. Các số liệu hiện đại diện trên rất thất thường, phản ánh sự méo mó của thị trường vốn (Trong khi đó số dư tiền gửi tại các NHTM tại thành phố Hồ Chí Minh tăng khá đều đặn: +2,7%; +2,7%; +1,8%l; +2,8% và +3,5%. Tuy vậy, duy trì lãi suất cai cũng đã đem lại một số kết quả khác. Lãi suất cao tạo cho đồng Việt Nam có giá trị cao so với USD. Chính sự đánh giá cao này làm giảm nhẹ xu thế tích trữ và găm đồng USD góp phần ổn định giá trị đồng Việt Nam trong khoảng 14000 đ/1USD trong suốt cả năm 1999. -Việc hình thành nên các Tổng công ty 90-91 của Chính phủ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến chiến lược kinh doanh nói chung và chiến lược khách hàng nói riêng của các NHTM. Thông qua việc thành lập nên cácTổng công ty 90-91, Chính phủ đã tạo nên 1 sự thay đổi mạnh mẽ trong toàn bộ cấu trúc nền kinh tế nói chung và môi trường kinh doanh của các ngân hàng nói riêng. Nhu cầu về vốn của các Tổng công ty này là rất lớn nhằm trang bị công nghệ mới thích ứng với sự cạnh tranh trong điều kiện mới. Tuy nhiên, chính điều này cũng đang nảy sinh một sóo mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn lớn của các Tổng công ty 90-91 với khả năng còn hạn chế của các NHTM Việt Nam. Nhu cầu về vốn của các Tổng công ty 90-91 lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng. Tổng công ty xi măng vay vốn nước ngoài để đầu tư khoảng 1 tỷ USD cho các nguồn điện trong đó vốn vay từ các nguồn chiếm trên 70%. Tổng công ty than trong giai đoạn 1995-1997 đã đầu tư 1584 tỷ đồng, cũng trong 3 năm nói trên, ngành dầu khí đã đầu tư 660 tỷ đồng vào cơ sở hạ tầng mà chủ yếu là từ vốn vay. Hầu hết các Tổng công ty này đều có tăng trưởng về vốn trong thời gian qua. Trong khi đó, vốn tự có của các NHTM lại quá nhỏ bé, tổng vốn tự có của 4 NHTM quốc doanh lớn nhất Việt Nam vào khoảng 5.500 tỷ VND. Như vậy, với điều kiện cho vay đối với 1 khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có theo qui chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo quyết định 324/1998/QĐ-NHNN ngày 30/9/1998 của Thống đốc NHNN, thì toàn bộ các NHTM quốc doanh cũng chỉ có thể cho vay hợp vốn cho một Tổng công ty giá trị tối đa là 825 tỉ VND. Do đó, khi các Tổng công ty có nhu cầu về vốn đầu tư cho những công trình trọng điểm của nền kinh tế trong các ngành như dầu khí, địên lực, than, giấy hàng không…. Thì rất khó có thể huy động được đủ vốn từ các NHTM tỏng nước, bởi vì các ngân hàng không thể đáp ứng đủ nhu cầu vốn vay của các Tổng công ty này . Một yếu tố khác mà các NHTM quan tâm là tính khả thi (cả về mặt tài chính, kinh tế, xã hội…) của các dự án của các Tổng công ty 90-91. Với số vốn nhỏ bé như đã đề cập ở trên, mà chủ yếu là huy động từ các nguồn ngắn hạn thì điều gì sẽ xảy ra nếu những dự án đầu tư vào các Tổng Công ty 9-91, thường là các dự án dài hạn, không mang lại hiệu quả như mong muốn. Trên thực tế đã có nhiều dự án có tính khả thi chưa cao và còn phụ thuộc nhiều vào các chính sách bảo hộ của Chính phủ cũng như chưa tính tới xu hướng hội nhập trong khu vực và trên thế giới. Những khoản đầu tư to lớn đang bị kẹt lại trong các nhà máy đường, sắt thép và xi măng đang là những bằng chứng điển hình đòi hỏi các NHTM phải suy nghĩ thận trọng hơn, trước khi đưa ra các quyết định đầu tư của mình. Đội ngũ cán bộ ngân hàng phần lớn đã được đào tạo một cách cơ bản và đã có nhiều đóng góp trong quá trình đổi mới ngành ngân hàng, góp phần vào việc phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên với việc phát triển nhanh chóng của công nghệ ngân hàng và đòi hỏi ngày càng cao cảu hoạt động kinh doanh tiền tệ trong cơ chée thị trường thì lực lượng cán bộ, đặc biệt là cán bộ làm công tác tín dụng đã không chuyển biến kịp để có thể thích ứng với điều kiện mới. Mỗi khi cán bộ ngân hàng không thực hiện tốt được công việc của mình, không đưa ra được những quyết định kịp thời, chính xác thì hoạt động ngân hàng mà cụ thể là công tác tín dụng gặp phải khó khăn là điều không thể tránh khỏi. - Hiện tại, các ngân hàng không chỉ có lượng vốn nhỏ, hoạt động trong môi trường còn nhiều khó khăn mà hệ thống thể chế còn nhiều bất cập, tâm lý chưa thực sự coi trọng trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và sự yếu kém cố hữu về nghiệp vụ đang cản trở sự yếu kém cố hữu về nghiệp vụ đang cản trở sự mở rộng tín dụng cho các đối tượng này. iii.những tồn tại trong hoạt động tín dụng của các nhtm Việt Nam 3.1.Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng Thực trạng hoạt động ngân hàng vừa qua ở Việt Nam cho thấy hoạt động tín dụng chỉ phát triển ở mức độ cầm chừng và dường như co lại, vốn cho vay không hiệu quả, nợ quá hạn tăng. Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng, theo em cần chú ý thực hiện một số biện pháp sau: Lựa chọn khách hàng Lâu nay trong kinh tế thường xuất hiện tình trạng là khách hàng lựa chọn ngân hàng, ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng với hầu hết khách hàng đến với mình. Thực ra ở đây phải là quan hệ hai chiều: khách hàng lựa chọn ngân hàng và ngân hàng cũng phải lựa chọn khách hàng. Điều này rất quan trọng vì nó hạn chế rủi ro của ngân hàng, đảm bảo vốn cho vay ra được thu hồi đầy đủ, đúng hạn và có lãi, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Khi lựa chọn khách hàng, ngân hàng cần chú ý chọn những khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, làm ăn có uy tín và sẵn lòng trả nợ đúng hạn. Ngân hàng có thể xem xét quan hệ kinh doanh của khách hàng với các tổ chức kinh tế khác qua nhiều năm để có cơ sở đánh giá mức độ uy tín của khách hàng. Việc lựa chọn khách hàng cần phải được thoả hiệp một cách chủ động (nghĩa là nếu biết đơn vị kinh tế nào làm ăn có hiệu quả và có uy tín thì ngân hàng có thể chủ động đặt quan hệ tín dụng với đơn vị đó) chứ không phải bị động, cứ ngồi chờ khách hàng đến gõ cửa xin vay, khi đó ngân hàng mới xem xét duyệt cho vay hay không. Việc lựa chọn khách hàng phải áp dụng cho mọi thành phần kinh tế, tránh tình trạng đối với thành phần kinh tế quốc doanh ngân hàng cứ cho vay mà không xem xét đơn vị đó kinh doanh có hiệu quả không. Một vấn đề cân nhắc đến ở đây là khi lựa chọn khách hàng để có quan hệ tín dụng thì vấn đề tài sản thế chấp không nên đặt quá nặng như hiện nay. Thực tế vừa qua cho thấy nhiều ngân hàng khi xét cho vay hầu như chỉ chú ý đến yếu tố khách hàng có tài sản thế chấp hay không (và hàng loạt vấn đề kèm theo tài sản thế chấp như giấy tờ của tài sản thế chấp có đầy đủ và hợp lệ hay không…) Thực ra chỉ có tài sản thế chấp vẫn chưa đủ vì khách hàng làm ăn không hiệu quả thì cũng dẫn đến ngân hàng mất vốn hoặc đọng vốn vì việc giải quyết tài sản thế chấp ở nước ta hiện nay không đơn giản và dễ dàng chút nào. Ngược lại, cũng có một số đơn vị có thể không đủ tài sản thế chấp có uy tín và làm ăn có hiệu quả thì ngân hàng vẫn có thể vay trên cơ sở đảm bảo của vốn vat chính là kết quả sản xuất có được do vốn vay đem lại. Vấn đề ở đây là tài sản sản xuất có được do vốn vay đem lại. Vấn đề chủ yếu là Hàn Quốc hoạt động kinh doanh của đơn vị, uy tín tronglàm ăn và sự sẵn lòng trả nợ đúng hạn của đơn vị. Có như vậy ngân hàng sẽ linh động hơn trong việc đặt quan hệ tín dụng với khách hàng chứ không quá e dè và chặt chẽ dẫn đến co cụm tín dụng Nâng cao năng lực kiểm định dự án đầu tư Nâng cao năng lực thẩm định dự án đầu tư là một yêu cầu luôn được đặt ra trong công tác thẩm định dự án của các ngân hàng để các ngân hàng có thể chủ động trong việc ngăn chặn những dự án tồi và tài trợ cho những dự án tốt một cách có Hàn Quốc. Nâng cao năng lực thẩm định dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nước ta đang đẩy nhanh tốc độ đầu tư nhằm đạt được mục tiêu duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế bền vững tạo đà cho phát triển vững chắc ở những năm sau và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nâng cao năng lực thẩm định dự án còn giúp cho các ngân hàng có thể chủ động trong việc tham gia tư vấn, thẩm định và từ chối ngay từ đầu những ý tưởng đầu tư không khả thi, tiết kiệm chi phí cho nền kinh tế. Tuy nhiên, để nâng cao năng lực thẩm định dự án việc làm đơn giản mà nó là cả một quá trình bởi vì nó đòi hỏi người thẩm định phải được trang bị những kiến thức cơ bản về dự án, kĩ năng thẩm định dự án và nắm được các quy định của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Ngoài ra, người thẩm định về những ngành nghề, sản phẩm của dự án do mình phụ trách, thu thập những thông tin cần thiết về thị trường để có thể chủ động tài trợ cho những dự án cần ưu tiên phát triển, khắc phục tình trạng đầu tư tràn lan khồn đúng định hướng, dẫn đến hiện tượng dư thừa như trong thời gian qua. Do vậy, để nâng cao năng lực thẩm dịnh án đầu tư, trong thời gian tới ngoài việc môin cán bộ thẩm định tự bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn (rất cần sự quan tâm của mỗi ngân hàng và của NHTM) nên chú ý đến những biện pháp sau: Một là, cán thẩm định phải thườgn xuyên cập nhật những quy định của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư, đó là: - Quy định về dự toán vốn đầu tư xây dựng - Quy định về đấu thầu - Quy định về bảo vệ môi, trường - Quy định về quy hoạch, kiến túc và xây dựng - Quy định về chế độ tài chính đối với từng loại hình doanh nghiệp. - Quy định về chế độ khấu hao TSCĐ, chế độ tiền lương, tiền thưởng, BHXH. -Quy định về tiền thuê đất, tiền sử dụng đất được UBND các tỉnh, thành phố ban hành dựa theo khung giá do Chính phủ quy định. - Quy định về miễn giảm ưu đãi, hỗ trợ và khuyến khích đầu tư . Hai là, thu thập những thông tin cần thiết để phục vụ cho công tác thẩm định ở phương diện thị trường sản phẩm của dự án. - Thông tin về số lượng doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm trong cùng 1 khu vực thị trường, cả các doanh nghiệp sắp thành lập. - Thông tin mức cầu về sản phẩm cùng loại. - Mức cung thực tế của các doanh nghiệp trên thị trường hiện tại. - Thông tin về giá cả, dự báo thị trường trong nước và quốc tế. - Quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng phát triển do các bộ, ngành xây dựng công bố…. Ba là, những và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn cho phép đối với từng ngành nghề. Chuyển từ vị trí bị động sang chủ động Trong quá trình cho vay, ngân hàng phải chuyển từ vị trí bị động sang chủ động, nghĩa là phải giám sát chặc chẽ quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng, từ đó mới có thể phát hiện kịp thời những tình huống có vấn đề và nguyên nhân của nó, trên cơ sở đó có thể giúp ngân hàng đề ra biện pháp khắc phục hoặc có biện pháp bảo toàn vốn cho vay của ngân hàng. Thí dụ như khi theo dõi mưc thu chi hoạt động hàng tháng của đơn vị vay vốn, nếu thấy có sự giảm sút, nếu chỉ một tháng thì có thể chưa sao, nhưng nếu mức giảm sút cứ tiếp diễn và ngày càng tăng thì đó là hiện tượng không bình thường, có vấn đề, nó đòi hỏi ngân hàng phải có biện pháp tác động kịp thời. Tránh tình trạng biết đơn vị vay vốn sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến kinh doanh không hiệu quả và không có khả năng trả được nợ đúng hạn, ngân hàng lại hco vay thêm nợ mới để trả nợ cũ và cứ thế thì sẽ dẫn đến nguy cơ mất vốn của ngân hàng. ở đây, vai trò của ngân hàng phải chủ động hơn vì vốn mà ngân hàng cho vay sẽ tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị, do đó ngân hàng cần sâu sát hơn vì hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn. Qui trách nhịệm trong quan hệ tín dụng Trong hoạt động tín dụng, nếu vấn đề tránh nhiệm tín dụng định rõ ràng, cụ thể sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trách nhiệm ở đây thuộc về cả hai phía, đơn vị vay vốn và đơn vị cho vay. Đơn vị vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả và hoàn trả vốn vay và lãi đúng hạn. Đơn vị cho vay phải giám sát vốn vay theo đúng mục đích đề ra và khi phát hiện tình huống có vấn đề phải có biện pháp tác động kịp thời, hạn chế thấp nhất mức thiệt hại có thể xảy ra. Khi đơn vị vay vốn không hoàn trả vốn vay và lãi đúng hạn, ngân hàng có quyền áp dụng các chế tài để thu hồi lại vốn đã cho vay (ví dụ: phát mãi tài sản thế chấp….). Điều này đòi hỏi hệ thống pháp luật ở nước ta phải đồng bộ và chặt chẽ, để nếu cần, ngân hàng cứ chiếu theo luật mà thực hiện, góp phần bảo toàn vốn vay. Trong trường hợp cho vay nhưng không thu hồi được nợ thì cán bọ ngân hàng có trách nhiệm hành chính, tuỳ trường hợp cụ thể mà ngân hàng quy mức trách nhiệm cụ thể đối với cán bộ ngân hàng làm mất vốn. Không nên quy trách nhiệm hình sự trong trường hợp này, sẽ dẫn đến tình hình nhiều ngân hàng sợ trách nhiệm nặng không giám mở rộng quan hệ tín dụng trở nên quá khắt khe trong việc xét duỵêt cho vay, dẫn đến hoạt động tín dụng bị co lại, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Điều này có thể tạo môi trường cho các ngân hàng nước nước ngoài và ngân hàng liên doanh tranh thủ thị trường khách hàng, lôi kéo nhiều khách hàng của ngân hàng trong nước. Nâng cao công nghệ ngân hàng, xây dựng mạng lưới thông tin, tín dụng toàn diện. - Thường xuyên liên lạc với trung tâm tín dụng và với các cơ quan khác - Thường xuyên liên lạc với các chi nhánh các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác để trao đổi thông tin, theo dõi khách hàng chặt chẽ. - Liên hệ với cơ quan chính quyền địa phương tại địa bàn các doanh nghiệp để luôn có thông tin và chấp hành luật lệ doanh nghiệp. - Thường xuyên theo dõi phương tiện thông tin báo chí… bất kỳ thông tin nào liên quan đến doanh nghiệp có liên hệ vớn ngân hàng cũng cần được ghi nhận và phân tích kỹ càng. Đổi mới quy trình quản lý tín dụng Quy trình quản lý tín dụng là những công đoạn để “chế biến đầu vào thành đầu ra” mong muốn nếu thực hiện tốt quy trình tín dụng có vai trò quan trọng trong nâng cao chất lượng tín dụng. Lâu nay, tại các NHTM Việt Nam, các cán bộ tín dụng thường đảm đương từ A đến Z của quy trình nên không tránh khỏi khiếm khuyết trong thực thi nhiệm vụ. Vì vậy, để khắc phục nhược điểm này, cần một sự chuyên môn hoá trong quản lý tín dụng thành các bộ phận chuyên biệt và phải kết hợp nhịp nhàng các bộ phận này với nhau. - Bộ phận tiếp thị: có chức năng nghiên cứu thị trường, tìm ra nghệ thuệt kinh doanh phù hợp với thực tế để thu hút khách hàng, đồng thời bộ phận này còn có trách nhiệm phân loại giấy tờ của khách hàng vay vốn, chuyển sang bộ phận pháp chế và bộ phận phân tích kinh tế đẻ xem xét, đánh giá những điều kiện đảm bảo nợ vay. - Bộ phận pháp chế: chịu trách nhiệm xem xét về pháp lí các giấy tờ của khách về thế chấp cầm cố tài chính và vay vốn ngân hàng. Nếu thấy đủ cơ sở pháp lý thì chuyển sang bộ phận nghiệp vụ tín dụng. Ngoài ra bộ phận này còn có trách nhiệm tiếp cận với các cơ quan pháp luật nhằm giải quyết nợ bằng cách thanh lí tài sản khi khách hàng có hành vi lẩn trốn, lừa đảo. - Bộ phận phân tích kinh tế: có nhiệm vụ những kĩ khách hàng bằng việc phân tích, xem xét đánh giá được khả năng chi trả của người vay. Do đó, bộ phận này cần căn cứ vào báo cáo tài chính, phương án sản xuất kinh doanh và các thông tin bên ngoài về khách hàng. Những thông tin này rất có ích trong việc tránh lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức xảy ra. Khi phân tích đánh giá khách hàng thì chuyển sang bộ phận nghiệp vụ tín dụng. - Bộ phận tín dụng có trách nhiệm xem xét tính pháp lí của thủ tục vay, thiết lapạ hợp đồng tín dụng để trình hội đồng tín dụng quyết định. Sau khi đã có quyết định của hội đồng tín dụng và giải quyết cho vay thì bộ phận nghiệp vụ tín dụng mới phối hợp với kế toán và ngân quỹ để giải ngân đúng quy định. Ngoài ra còn thu nhập tin tức chỉ dẫn về khách hàng và ghi chép, cập nhập khía kỳ hạn nợ, nhắc nhỏ khách hàng trả nợ đúng quy định, báo cáo về những khách hàng chưa trả nợ đúng hạn theo nguyên nhân để hội đồng tín dụng giải quyết gia hạn hay không gia hạn. - Bộ phận kiểm tra, kiểm soát: dựa vào văn bản pháp quy để xem xét hoạt động tín dụng có theo đúng văn bản pháp quy không để phát hiện những tồn tại, những vi phạm và những kiến nghị trực tiếp với hội đồng tín dụng nhằm thiết lập hệ thống phòng ngừa rủi to, hạn chế tổn thất do hoạt động tín dụng gây ra. - Hội đồng tín dụng: có thẩm quyền quy định có cấp tín dụng bay không cho khách hàng, vì vậy bộ phận này cần tập trung những chuyên gia am hiểu có trình độ cao trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Vơi quy trình như vậy sẽ rất có ích trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của mỗi NHTM, tuy nhiên nếu không phối hợp nhanh chóng, nhịp nhàng các bộ phận này với nhau sẽ làm chậm trễ việc cấp tín dụng cho khách hàng. 3.2. Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng của NHTM Để phát triển mạnh mẽ hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế đó thì việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng là chưa đủ mà cần thiết phải mở rộng hoạt động tín dụng cả về khối lượng và loại hình tín dụng. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng là điều kiện tiền đề nhằm mở rộng hoạt động này ở mỗi NHTM. Từ thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam thời gian qua, những khó khăn trở ngại trong việc mở rộng hoạt động này không chỉ có nguyên nhân từ phía ngân hàng mà cả môi trường mà nó hoạt động. Vì vậy, để mở rộng hoạt động tín dụng cần có sự điều chỉnh trong các chính sách của nhà nước. Theo em dưới đây là các giải pháp chủ yếu. 3.2.1. Các giải pháp của nhà nước - Cải cách triệt để trong mô hình quản lý của các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các Tổng công ty 90-91. Vấn đề chủ yếu của các Tổng công ty 90-91 là sự bất hợp lí trong mô hình tổ chức, mâu thuẫn giữa vấn đề sở hữu và quản lý trong các Tổng công ty 90-91. Phần lớn các Tổng công ty 90-91 được hình thành trên cơ sở gộp các đơn vị kinh doanh trong cùng một ngành hàng với nhau mà không lưu ý đến đặc điểm của ngành cũng như của các đơn vị thành viên nên tạo ra sự chồng chéo, phân tán giữa các thành viên. Với tư cách quản lý theo ngành doc, nhưng lại chưa có kế hoạch quản lý chặt chẽ, nên phần lớn các Tổng công ty 90-91 đều gặp khó khăn trong công tác điều hành. Nhiều Tổng công ty trở thành gánh nặng cho các đơn vị thành viên do việc phải chia sẻ thị trường, mất các khách hàng tiềm năng do việc phân chia thị trường không hợp lý tử TCT mẹ. Chức năng và phân cấp quản lý của Hội đồng quản trị với chức năng điều hành của TGĐ tại các TCT 90-91 chưa được quy định rõ ràng. Có thể nói rằng, cơ sở của sự yếu kém trong mô hình tổ chức TCT hiện nay là không đảm bảo sự giám sát hiệu quả của cơ quan nhà nước với chức năng là chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Việc các cơ quan quản lý nhà nước đề bạt các cán bộ nắm giữ các chức vụ trong HĐQUá TRìNH và TGĐ các TCT là không hợp lý về mặt kinh tế. Việc cho phép một hoặc một vài cá nhân không nắm quyền sở hữu công ty nhưng lại có thể đưa ra các quyết định kinh doanh, tài chính liên quan đến số phận TCT là điều không thực tế. Chính vì vậy, mô hình TCT 90-91 vẫn chưa thoát khỏi cái bóng của mô hình TCT và liên hiệp các doanh nghiệp trong thời kì bao cấp. Chính những vấn đề trên đã khiến các TCT hoạt động không đạt hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, tình hình tài chính tại nhiều doanh nghiệp vẫn còn chưa lành mạnh, thậm chí đáng báo động, cơ cấu sản xuất kinh doanh và mặt hàng không hợp lý. Do đó trong thời gian tới cần đẩy mạnh công tác cổ phần hoá các DNNN, chuyển các DNNN sang hoạt động theo cơ chế công ty TNHH hoặc công ty cổ phần, bổ sung hình thức công ty TNHH chỉ có một sáng lập viên, từ đó mới có thể giải quyết triệt để mâu thuẫn giữa chức năng quản lý kinh tế với vấn đề sở hữu. Tuy nhiên, việc cổ phần hoá DNNN là công việc khó khăn cần phải tiến hành từng bước, tránh tư tưởng nóng vội, chủ quan. - Phần lớn các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay công nghệ đã cũ kĩ, lạc hậu, máy móc thiết bị trang bị cách đây và ba chục năm nên công suất kém, dẫn đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng nhu cầu thị trường, khó tiêu thụ cạnh tranh được với hàng ngoại. Thêm vào đó, tư duy, quan niệm của chúng ta vẫn bị ảnh hưởng bởi nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, lạc hậu, chưa theo kịp với sự phát triển kinh tế trong cơ chế thị trường. Vì vậy, nhà nước cần ban hành những chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mạnh dạn đổi mới dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng mà các doanh nghiệp trong nước có thể sản xuất được. Tuy nhiên việc thi hành chính sách bảo hộ này nên thận trọng và không kéo dài quá lâu bởi chính sách nó cũng có thể bóp nghẹt sản xuất trong nước bởi nó tạo ra ỳ lớn trong nền kinh tế. Nhà nước cũng cần đẩy mạnh quan hệ thương mại với nước ngoài, tạo cơ hội pháp lí cho các nhà sản xuất trong nước hướng cả ra thị trường mới tổ ở nước ngoài, từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Song song với chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất trong nước, Chính phủ cũng cần thực hiện các biện pháp kích cầu hiệu quả bởi nó là yếu tố tạo ra cơ hội đầu tư mới cho các nhà sản xuất. - Các doanh nghiệp ở Việt Nam, không chỉ có công nghệ lạc hậu, thị trường nhỏ, hạn hẹp vơ hội đầu tư mà còn hoạt động trong môi trường độc quyền cao và không công bằng. Việc có những ư tiên hỗ trợ cho hoạt động của những doanh nghiệp thuộc các ngành trọng điểm là điều cần thiết cho sự phát triển nền kinh tế đất nước. Các DNNN thường nhận được các chính sách ưu đãi hơn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là điều không thể được . Trong thời gian tới nhà nước cần hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo điều kiện hoạt động bình đẳng như nhau trước pháp luật nhà nước. Nhà nước cũng cần điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất cho hợp lý hơn, bởi qua các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung hoạt động trong ngành thương mại và dịch vụ, chưa đến 1% hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp. Do các doanh nghiệp này chưa tập trung vào sản xuất nên không tạo ra được năng lực cải tiến công nghệ nội sinh và kéo theo nhu cầu đầu tư lớn, từ đó việc cấp tín dụng của các NHTM có phần bị hạn chế. Chỉ có cải tiến áp dụng công nghệ mới, mới đem lại cơ hội đầu tư nhờ giá thành hạ, kéo dài chu kì sống của sản phẩm hay phát triển sản phẩm mới. Cần biết rằng trong dài hạn, sự gia tăng đầu tư và tổng mức tín dụng không thể vượt quá mức độ tiến bộ công nghệ của tổng thể nền kinh tế của. - Nhà nước cần thiết phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành để tạo điều kiện hình thành và phát triển tín dụng thuê mua cũng như bảo hiểm tín dụng tại Việt Nam. Tín dụng thuê mua là hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn rất mới mẻ đối với Việt Nam, vì vậy để nhanh chóng triển khai hình thức tín dụng này cần khẩn trương bổ sung hoàn thành cơ chế tín dụng thuê mua, xác lập và mở rộng tài sản thuê mua. Tr 42 Tóm lại, để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng thì khâu lựa chọn khách hàng phải d ngân hàng đặc biệt chú ý. Đây là khâu đầu tiên ngân hàng phải thực hiện trước khi cho vay vốn. Nếu nó được thực hiện tốt sẽ góp phần hạn chế rủi ro tín dụng, nâng cao hiệu quả vốn vay. Đồng thời chính điều này cũng tác động trở lại các đơn vị vay vốn, kích thích các đơn vị này sản xuất kinh doanh có hiệu quả và giữ chữ tín với ngân hàng, vì trong trường hợp ngược lại việc vay vốn của đơn vị sẽ gặp khó khăn, dễ dàng bị ngân hàng từ chối cho vay. Tuy nhiên, trong tất cả các biện pháp trên, yếu tố con người vẫn là quan trọng nhất. Thực hiện bảo hiểm tín dụng Việc thiết lập và phát triển bảo hiểm tín dụng sẽ hết sức cần thiết trong việc khai thác thông tua các cản trở về thể chế hiện nay. Các công ty bảo hiểm tín dụng sẽ là các kênh san sẻ rủi ro của các NHTM, đảm bảo sự phát triển của từng doanh nghiệp. Tuy vậy nếu các công ty bảo hiểm tín dụng này được thành lập trước thuộc NHNN hay Bộ tài chính, thì có thể từ khu vực tư nhân hoặc thủ tục phức tạp sẽ vẫn hạn chế việc tiếp cận vốn ngân hàng cũng như với các công ty bảo hiểm. Tại các nước có thị trường tài chính phát triển, họ tổ chức một công ty bảo biểm tín dụng tầm cỡ quốc gia. Các tổ chức tín dụng hàng nắm phải đóng góp phí bảo hiểm và nếu một khoản cho vay nào đó gặp rủi ro thì sẽ được quỹ này bồi thường. Quỹ bảo hiểm tín dụng có vai trò hết sức quan trọng để hạn chế thiệt hại về vốn khi ngân hàng cho vay gặp rủi ro và thị trường bảo hiểm tín dụng nào ra đời, vì vậy các NHTM Việt Nam vẫn thường phải mua bảo hiểm quốc tế hoặc tự bảo hiểm cho mình bằng cách trích lập quỹ dự phòng ngăn ngừa rủi ro với mức 10% lợi nhuận ròng cho tới khi bằng vốn điều lệ. Đó là yêu cầu cấp bách đặt ra là nhà nước cần sớm nghiên cứu và thành lập một công ty bảo hiểm tín dụng. - Chính phủ cần chỉ đạo chính quyền các cấp, các ngành chức năng liên quan thường xuyên quan tâm đến công tác theo dõi, kiểm tra kiểm soát và xử lý kiên quyết việc vi phạm pháp luật tại các doanh nghiệp, đặc biệt là pháp lệnh kế toán, đơn vị sản xuất kinh doanh của mỗi thành phần kinh tế nhằm đánh giá một cách chính xác kết quả kinh doanh của nền kinh tế cũng như từng đơn vị; cần thiết phải có chính sách công khai hoá một số chỉ tiêu tài chính cốt lõi và chế độ kiểm toán bắt buộc đối với mọi đơn vị sản xuất điều kiện đảm bảo mọi tình hình, số liệu thông tin đều trung thực, đảm bảo độ tin cậy và tính pháp lý cao, nhằm tạo điều kiện cho ngành ngân hàng ngăn ngừa, hạn chế rủi ro “thông tin không cân xứng” mgna lại. Các cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập, cấp đăng ký kinh doanh, giấy phép kinh doanh các tiêu chuẩn thiết kế phải kiểm tra, kiểm soát và quản lý chặt chẽ, con người theo đúng quy định của nhà nước. Tóm lại những giải pháp của nhà nước nhằm tháo gỡ những khó khăn, tồn tại đến từ bên ngoài ngân hàng. Những giải pháp đó góp phần ổn định và phát triển mạnh mẽ nền kinh tế tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng. 3.2.2. Các giải pháp của hệ thống ngân hàng a. Đối với NHNN NHNN Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Những chính sách NHNN thực hiện đang dần hướng dẫn các NHTM Việt Nam phát triển theo kịp với sự phát triển chung của nền kinh tế trong thời gian qua, để tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh hoạt động tín dụng, giải quyết tình trạng vốn ứ đọng trong các NHNN đã cso những giải pháp sau: - Ban hành quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng kèm theo quyết định số 154/1998/QĐ-NHNN ngày 29/4/1998 nhằm giải quyết tình trạng vốn nhỏ đủ tài trợ cho các dự án lớn của các NHTM. Quy chế đã rút ngắn con đường tìm đến với nhau của các ngân hàng thành viên và tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng đầu mối. Đặc biệt là sau khi chính phủ ban hành văn bản 118/199/QĐ-TTg ngày 4/5/1999 cho phép các NHTM dành ra 400 triệu USD để thực hiện cho vay các dự án trọng điểm của nhà nước thì các NHTM Việt Nam đã thực sự vào cuộc. Liên tiếp trogn 2 tháng 8 và 10 năm 1999, ngân hàng ngoại thương đã tổ chức thành công khoản vay đồng tài trợ đối với dự án khí Nam Côn Sơn và dự án Đuôi hỏi Phú Mỹ 2.1. mỗi khoản vay 100 triệu USD, thời gian vay 10 năm,với sự tham gia của các ngân hàng: NHCT, NHĐT, & PTVN, NHNo & PTNT, NHTMCP Quân đội NHTMCP Kĩ thương, NHTMCP hàng hải và NHLD Firstvinabank. - Việc điều chỉnh chính sách lãi suất cũng có tác động mạnh tới việc mở rộng hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Trong năm 1999, NHNN đã 5 lần thực hiện giảm lãi suất cho vay của các NHTM.Song song với việc quản lý lịch sử NHNN cũng quy định lại tỉ lệ dự trữ bắt buộc theo hướng giảm tỉ lệ này nhằm tăng cường việc sử dụng nguồn vốn không sinh lời đang bị ứ đọng. NHNN cũng thay đổi chính sách lãi suất tới việc quy định lãi suất cơ bản. Qua đó các NHTM và tổ chức tín dụng ấn định lịch sử cho vay của mình dựa trên lịch sử cơ bản và được phép dịch chuyển thêm 0,3%. Nhằm tháo gỡ những khó khăn, góp phần mở rộng hoạt động tín dụng của các NHTM trong thời gian tới, NHNN cần chú ý tới các biện phjáp sau: - Cần nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cán bộ nhân viên ngân hàng. Các vụ đổ bển11, những lần vi phạm pháp luật làm thất thoát hàng ngàn tỉ đồng tại các ngân hàng TM quốc doanh cso môt phần trách nhiệm thuộc về NHNN. Trong các cụ kinh tế lớn thời gian gần đây ở địa phương, nổi bật là vụ Tramexco. Minh Phụng – Epco. Tại chi nhánh Vietcombank ở thành phố Hồ Chí Minh trước khi vụ án Minh Phụng – Epco được phanh phui đã có đến 6 đoàn thanh tra của NHNN về làm việc mà vẫn không phát hiện ra những việc làm sai trái tại n1 này. Việc đó khiến NHNN không thể không có những dấu hỏi cho đội ngũ cán bộ thanh tra của mình. Hiện nay, tỉ lệ nhân viên ngân hàng có trình độ đại học trở lên tại các NHTM còn rất thấp chỉ khoảng 30% trong khi yêu cầu đặt ra là phải có khoảng 70% cán bộ ngân hàng có trình độ Đại học. Vì vậy, trong thời gian tới NHNN cần tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân viên của mình. Với đội ngũ có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt sẽ giúp các NHTM nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động tín dụng mới. - Tiếp tục cùng với các cơ quan chức năng khác của nhà nước hoàn thiện cơ sở pháp luật cho việc mở rộng các loại hình tín dụng cũng như các nghiệp vụ khác của NHTM. Tiếp tục củng cố thị trường liên ngân hàng, qua đó củng cố mối quan hệ hợp tác làm ăn giữa các ngân hàng thành viên, xu thế mới trong các NHTM thời gian tới đã nảy sinh một số vấn đề để có thể gây trở ngại cho các NHTM như: nguồn vốn ngoại tệ để cho vay hợp vốn - đồng tài trợ chủ yếu là từ nguồn ngắn hạn sang cho vay dài hạn, chưa có quy chế bảo đảm tiền vay, trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ tín dụng còn nhiều bất cập… - Cải thiện công tác ra quyết định cho chính xác hợp lí hơn vì trong thời gia qua một số qui chế, chính sách co NHNN ban hành chỉ tồn tại trong thời gian ngắn rồi lại sửa đổi bổ sung hoặc thay bằng quy chế mới. Điều này gây ra nhiều khó khăn trong hoạt động tín dụng của các NHTM. b. Các giải pháp chủ yếu là: - Yếu con người ở đâu và lúc nào cũng là yếu tố quan trọng nhất. Các NHTM cần nhận thức rõ điều này để củng cóo đội ngũ của mình từ các nhân viên cho đené các cán bộ quản lý, lãnh đạo bởi nó quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng nói chung và việc mở rộng hoạt động tín dụng nói riêng. Đây sẽ là một giải pháp vừa mang tính trước mắt, vừa mang tính lâu dài. - Các NHTM cần chú trọng việc tạo lập nguồn vốn vay có chiến lược quản lý, sử dụng hợp lí. Hiện nay, nguồn vốn mà các NHTM huy động được chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn nhưng khi cho vay lại chủ yếu là cho vay trung và dài hạn. Điều này gây ra phản ứng e ngại của các NHTM trong cho vauy dài hạn. Không có tiêu chí cố định về việc huuy động vốn ngắn hạn là nguồn để vay ngắn hạn, thì không có nguồn để cho vay dài hạn. Căn cứ quan trọng nhất để xác định tỷ trọng cho vay trung và dài hạn là số dư vững chắc của các ngân hàng. Khi các NHTM e ngại cho vay trung và dài hạn buộc các doanh nghiệp phải vay ngắn hạn để đầu tư cho trung và dài hạn, vì thế luôn có sự phá vỡ các kì hạn nợ, thậm chí phát sinh tình trạng đáo nợ một cách khá phổ biến. Nhiều khoản tín dụng được định kỳ hạn nợ một cách khiêm cưỡng, giả tạo dẫn đến khách hàng không trả nợ đúng hạn, kết cục là ngân hàng phải tìm cách huy động để kịp thời chi trả các khoản tiền gửi đáo hạn, làm biến dạng cấu trúc của vốn huy động, làm cho việc huy động vốn trở lên bị động, thiếu khoa học, hoạt động tín dụng của ngân hàng không đạt hiệu quả mong muốn - Các NHTM cần coi trọng công tác Marketing bởi vì qua đó nâng cao hình ảnh của ngân hàng, giúp ngân hàng thiết lập được các mối quan hệ vững chắc, lâu dài với các khách hàng của mình. Tăng cường công tác Marketing, cải thiện dịch vụ khách hàng đối xử với mỗi cá nhân như là một doanh nghiệp là cách thức để các NHTM có thể nâng cao thu nhập từ các dịch vụ về tài khoản cá nhân. ở đây kinh nghiệm của các ngân hàng các nước phát triển về mở rộng tín dụng như xây dựng mối quan hệ trọn đời với các cá nhân (ngân hàng Sumitono- Nhật Bản); đa dạng hoá các loại hình vốn huy động tiền gửi như: tiền gửi của thiếu niên, tiền gửi đặc biệt, tiền gửi 15 ngày… (ngân hàng tiết kiệm của Nga), hay lãi suất tiền gửi cố định kết hợp với các điều khoản thanh toán sớm đặc biệt (ngân hàng Dresder - Đức) có thể rất hữu ích trong việc phát triển các dịch vụ phù hợp với mọi người dân. Phát triển các dịch vụ tư vấn, thông tin cũng là hướng để các NHTM đa dạng thu nhập, tăng khả năng cạnh tranh, phát triển cùng sự phát triển của các doanh nghiệp. Thông thường việc hỗ trợ kỹ thuật (đặc biệt cho vùng nông thôn) cung cấp các thông tin thị trường sẽ mở ra cơ hội dt cho các doanh nghiệp. Với nghiệp vụ của mình, ngân hàng sẽ tư vấn để chọn lựa các kế hoạch kinh doanh khả thi, và do đó cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệpm nên được nhìn nhận là kết quả của sự hợp tác của ngân hàng và doanh nghiệp và là kết quả của quá trình chăm sóc khách hàng. - Giải pháp liên quan đến nghiệp vụ của NHTM, các NHTM nên áp dụng và mở rộng tài khoản thấy chi đối với khách hàng. Việc này sẽ giảm được hai phần ba thủ tục và thời gian chờ đợi của khách hàng, tất nhiên với điều kiện khách hàng cam kết chỉ mở tài khoản tại một ngân hàng. Hiện nay, mỗi doanh nghiệp đến vay vốn lần đầu tại một NHTM đều được ngân hàng mở cho 2 tài khoản – một tài khoản tiền vay, một tài khoản tiền gửi. Tài khoản tiền vay để hạch toán các khoản vay và trả nợ. Tài khoản tiền gửi để hạch toán các khoản nộp vào và rút ra hàng ngày của doanh nghiệp. Việc tác hai tài khoản tiền gửi và cho vay làm cho 2 công đoạn vay vốn và trả nợ của một quá trình kinh doanh thống nhất bị tách rời nhau. Khi có nguồn thu, vốn của doanh nghiệp phải nằm ở tài khoản tiền gửi thanh toán chỉ được ngân hàng trả lãi 0,1%/tháng, trong khi nợ tiền vay phải trả lãi ngân hàng từ 0,6 đến 0,7%/tháng. Bên cạnh đó việc sử dụng tài khoản này còn gây ra thủ tục phiền hà, cứng nhắc khi khách hàng muốn vay vốn. Tài khoản thấu chi có thể nói ngắn gọn là một tài khoản thấu chi có thể nó ngắn gọn là một tài khoản lưỡng tính, vừa mang nội dung của tài khoản cho vay, vừa mang nội dung của một tài khoản tiền gửi khách hàng khi xin vay vốn chỉ việc hoàn tất thủ tục xin vay vốn cho lần đầu còn từ lần hai chỉ cần mất đúng 15’ là có thể hoàn tất khoản vay. Sử dụng tài khoản này giảm được tiền lãi phải trả cho ngân hàng do chênh lệch lãi suất, đồng thời qua tài khoản thậm chí sẽ biết được khách hàng đang gặp thuận lợi hay khó khăn như trên tài khoản thấu chi sẽ được sử dụng trong cạnh tranh mở rộng tín dụng và lôi kéo khách hàng. Kết luận Trên đây là những tìm hiểu của em về hoạt động tín dụng của NHTM, chủ yếu là hình thức cho vay tiền với các khía cạnh: thực trạng và những khó khăn củ hoạt động tín dụng trong các NHTM Việt Nam và những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động này. Mối NHTM có quy mô khác, có phạm vi hoạt động khác nhau nên những khó khăn mà các ngân hàng gặp phải sẽ không giống nhau do đó các giải pháp được đưa ra trong đề án này không phải ngân hàng nào cũng áp dụng như vậy, nhưng xét về tổng thể đối với hệ thống NHTM thì đó là những khó khăn và giải pháp chủ yếu. Và việc giải quyết những khó khăn này là việc làm rất cần thiết, cần sự tham gia của nhiều Bộ, ngành khác nhau, nhằm đưa ngân hàng phát triển đáp ứng dcnx đòi hỏi của nền kinh tế từ đó ổn định và phát triển nền kinh tế đất nước. tuy nhiên để ổn định và phát triển ngoài việc tham gia hỗ trợ của yếu tố bên ngoài, các ngân hàng thành viên cũng cần sự nỗ lực phấn đầu và có thể nói đây sẽ là yếu tố quyết định bởi một sự bất ổn của một ngân hàng cũng có thể kéo thei sự bất ổn định, sụp đổ của cả một hệ thống ngân hàng và đó sẽ là một nguyên nhấn dẫn đến khủng hoảng kinh tế . Như vậy trình bày trong đề án hoạt động tín dụng là một hoạt động phức tạp của một NHTM nó bao gồm nhiều nghiệp vụ khác nhưng vì nhiều lí do mà em không đề cập tới các nghiệp vụ tín dụng khác như chiết khấu, bảo lãnh, kí thác… mà có thể những tìm hiểu của em trong đề án này cũng chưa hẳn đã đúng, chưa hẳn đã đầy đủ nên em rất mong được sự đánh giá của thầy cô và bạn bè để lần sau sẽ làm tốt hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29348.doc
Tài liệu liên quan