Đề án Phân tích thực trạng và các giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại trong giai đoạn hiện nay

Nhận thức được xu thế phát triển của thời đại, Việt Nam đã bắt đầu quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, tăng cường phát triển kinh tế đối ngoại từ một thập niên trước dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VII. Trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn thúc đẩy quan hệ thương mại và hợp tác với tất cả các nước có trình độ phát triển và thể chế chính trị khác nhau. Nhờ thế chúng ta đã phá được thế bao vây cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, phát triển quan hệ thương mại với hơn 150 nước, trong đó 60 nước đã ký hiệp định thương mại và đã thoả thuận qui chế tối hậu quốc với 68 nước và vùng lãnh thổ. Việt Nam tiếp tục đẩy nhanh tiến trình hội nhập, nâng tiến trình này nên một tầm cao mới như việc xúc tiến tham gia các tố chức hợp tác kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực như khu vực thương mại tự do ASEAN, diễn đàn kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APEC), cơ chế hợp tác kinh tế - thương mại liên châu lục Á - Âu (ASEM) và tích cực tiến tới gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu to lớn đó, quá trình hội nhập của Việt Nam còn mắc phải một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục để tận dụng được tối đa các tiềm năng như nguồn nhân lực, điều kiện địa lý, các tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Việt Nam đã và đang nỗ lực đẩy nhanh tiến trình thực hiện các cam kết hội nhập cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, nhanh chóng hoà mình vào dòng chảy hối hả của nhịp điệu kinh tế thế giới.

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phân tích thực trạng và các giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp nhẹ, công nghiệp lắp giáp ô tô, diện tử vẫn cần nhiều lao động. Việt Nam với dân số gần 80 triệu người, kinh tế chưa phát triển, là một nước có thương mại lao động lớn. Việc xuất khẩu lao động mang lại nhiều lợi thế trước mắt và lâu dài. Vì vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động thu ngoại tệ là một nhiệm vụ quan trọng của kinh tế đối ngoại. 3.2.5.3. Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác. Ngoài các hoạt động nêu trên, lĩnh vực kinh tế đối ngoại còn có nhiều hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác như dịch vụ thu bảo hiểm, dịch vụ thông tin bưu điện, dịch vụ kiều hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn... Nhìn chung các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ ở nước ta mới đang ở giai đoạn hình thành và phát triển bước đầu. Những hoạt động này có triển vọng to lớn. Tuy nhiên, muốn đưa các hoạt động này thành một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, cần phải có cái nhìn đúng đắn về vai trò của chúng, cần đầu tư thoả đáng và có các chính sách thích hợp tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho nhân sách nhà nước, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân... 4. Vai trò và tác dụng của kinh tế đối ngoại Có thể khái quát vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại qua các mặt sau đây: - Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế; nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực. - Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA); thu hút khoa học, kỹ thuật, công nghệ; khai thác và úng dụng những kinh nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta. - Góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên nước công nghiệp tiên tiến hiên đại. - Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu đân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên vai trò của kinh tế đối ngoại chỉ đạt được khi hoạt động kinh tế đối ngoại vượt qua được những thử thách (mặt trái) của toàn cầu hoá và giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. II. Thực trạng và các giải pháp cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại. Trước những xu hướng và bối cảnh quốc tế phức tạp và mang tính cạnh tranh cao đòi hỏi chúng ta phải có một chién lược để đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cho thời gian tới. Chính vì vậy, việc xem xét đánh giá kết quả hoạt động kinh tế đối ngoại trong thời gian qua, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, ách tắc và đưa ra những giải pháp nhằm mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại là hết sức cần thiết. 1. Thực trạng kinh tế đối ngoại ở nước ta. 1.1. ưu điểm. Thông qua quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như đã khẳng định và nâng cao vị thế chính trị và ngoại giao của mình trên trường quốc tế, được đánh giá là một nước có môi trường chính trị ổn định nhất trong khu vực và là một trong hai nước đạt được mức tăng trưởng cao và ổn định nhất ở châu á. 1.1.1. Ngoại thương. Từ năm 1987, nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hoá quan hệ thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp được thực hiện hoạt động xuất - nhập khẩu một cách bình đẳng theo quy định của pháp luật. Bởi vậy, ngoại thương Việt Nam đã bước đầu khởi sắc và đạt được những kết quả quan trọng, thể hiện ở những khía cạnh sau: Một là, tốc độ tăng trưởng ngoại thương Việt Nam khá cao qua các năm và cao hơn tốc độ tăng trưởng xã hội. Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu năm 1991 - 2000 là 18,4%, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của GDP 2,6 lần. Xuất khẩu nói chung đạt nhịp độ tăng trưởng cao, do cơ cấu xuất khẩu được đổi mới, tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm qua chế biến cũng được tăng lên đáng kể (từ 8% năm 1991 lên 31.4% năm 2000); khối lượng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực cũng tăng khá, trước đây chỉ có 4 mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD, đến nay đã có thêm nhiều mặt hàng khác; đồng thời, thị trường trao đổi hàng hoá với các nước cũng được mở rộng do kinh tế toàn cầu bắt đầu được khôi phục sau khủng hoảng; sức mua của thị trường trong nước cũng bắt đầu được cải thiện. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đạt tốc độ tăng trưởng cao so với năm 1999 là: hàng dệt may tăng 8,8%; giày dép tăng 7,8%; hàng điện tử liên doanh tăng 28,2%; hàng thuỷ sản tăng 34%; hạt tiêu tăng 9,5%; hàng thủ công mỹ nghệ đạt 250 triệu USD, tăng 48%. Riêng dầu thô xuất khẩu tăng 68,3% đã góp phần tăng đáng kể cho kim nghạch xuất khẩu; số ngoại tệ chuyển từ nước ngoài về nước do xuất khẩu lao động lên tới 1,2 tỷ USD. Ngoài ra, còn cả những mặt hàng như: gạo, cà phê, chè, cao su ... Nhiều mặt hàng của Việt Nam có chất lượng cao, được khách hàng nước ngoài ưa chuộng và có chỗ đứng trên thị trường của nhiều nước trên thế giới, rõ nhất là trên thị trường của nước Mỹ, chẳng hạn: bia chai (sản phẩm liên doanh với Đức), mí ăn liền cao cấp, tôm đông lạnh, cà phê, gạo thơm, hàng may mặc, một số loại khoáng sản... bán rất chạy. Năm 2000, xuất khẩu đạt được nhịp độ tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay; giá trị kim nghạch xuất khẩu hàng hoá của cả nước đạt tới 14,3 tỷ USD, tăng 21,3%, so với kế hoạch dự kiến là 11 - 12%. Đó là một kết quả kỳ diệu. Điều đáng lưu ý - xuất khẩu của các doanh ngiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuy mới tham gia vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước nhưng đã có mức tăng trưởng nhanh. Cụ thể năm 1992 (chưa tính sản phẩm xuất khẩu dầu thô) xuất khẩu của khu vực này là 4,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; nhưng năm 1995 đã tăng lên 8,1%, năm 1996: 9,2%, năm 1997: 14%, năm 1998: 20%. Tỷ trọng hàng tiêu dùng nhập khẩu giảm từ 15% (năm 2000). Hiện nay, Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất (nhập khẩu tư liệu sản xuất chiếm tới 96%) trong tổng số kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tỷ trọng nhập siêu so với xuất khẩu giảm từ 33% xuống 8%; nghĩa là những năm trước 1995 phải nhập siêu tới 4 tỷ USD/ năm, nay giảm xuống chỉ còn 1 tỷ/ năm. Những tư liệu sản xuất được nhập khẩu của Việt Nam, chủ yếu là máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu. Nguồn hàng nhập khẩu, đại bộ phận từ các nước thuộc APEC, bao gồm Mỹ, Australia, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan... và một số nước EU, như Pháp, Đức, Itali, Thuỵ Sĩ... Hai là, thị trường trong hoạt động ngoại thương Việt Nam ngày càng được mở rộng và chuyển đổi sang hướng mới. Nếu như trước đây Việt nam chủ yếu buôn bán với Liên Xô (cũ) và Đông Âu (chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất nhập khẩu) thì hiện nay Việt Nam có quan hệ buôn bán với hơn 150 quốc gia trên thế giới. Các bạn hàng lớn nhất của Việt Nam hiện nay là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, EU... Ba là, nền ngoại thương Việt Nam đã từng bước xây dựng được một số mặt hàng có quy mô ngày càng lớn và được thị trường thế giới chấp nhận. Các mặt hàng có quy mô tương đối lớn trong nền ngoại thương Việt Nam là dầu khí, gạo, thuỷ sản, hàng may mặc, giày dép, một số cây công nghiệp như cà phê, chè, cao su... Bốn là, nền ngoại thương Việt Nam đã chuyển từ cơ chế chỉ huy tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế hoạch toán kinh doanh, phát huy quyền tự chủ của các doanh nghiệp, chuyển từ việc vay nợ để nhập khẩu sang việc đẩy mạnh xuất khẩu để nhập khẩu, nâng cao dần hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động ngoại thương. 1.1.2. Đầu tư quốc tế. 1.1.2.1. Đầu tư trực tiếp. Thứ nhất, khối lượng vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam khá lớn qua các năm. Kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tới nay đã có hơn 3.260 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam, với tổng số vốn đăng ký 44 tỷ USD (cả cấp mới và tăng vốn), trong đó có trên 2.600 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký trên 36 tỷ USD. Số vốn thực hiện đến nay đạt gần 20 tỷ USD, bằng 44,5% số vốn đăng ký, trong đó vốn phía nước ngoài là 18 tỷ USD. Khu vực có vốn FDI tạo ra trên 12% GDP, hơn 34% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 7% nguồn thu ngân sách của nhà nước (không kể dầu khí), sử dụng 35 vạn lao động trực tiếp. Hơn thế nữa, thông qua đầu tư nước ngoài chúng ta đã tiếp thu được công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý và tạo ra một số ngành sản xuất mới cho nền kinh tế. Nếu tính riêng 5 năm 1996 - 2000 so với 5 năm trước thì tổng vốn đầu tư mới đạt 20,73 tỷ USD, tăng 27,5%. Tổng vốn còn hiệu lực đạt 18,03 tỷ USD, tăng 7,5%. Vốn thực hiện đạt 21,87 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân 17%. Xuất khẩu đạt 10,6 tỷ USD, gấp 8,62 lần 5 năm trước và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 15,4%/năm. Nhập khẩu đạt 15,33 tỷ USD,gấp 6,4 lần 5 năm trước, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 11%/năm. Bình quân thời kỳ 5 năm qua khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp vào GDP chung cả nước với tỷ lệ 10,7% và đạt tốc độ tăng trưởng công nghiệp là 21,4%/năm. Sau một vài năm chững lại và suy giảm, từ năm 2000 đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã có dấu hiệu phục hồi, đặc biệt trong hai tháng đầu năm 2001 đã có 35 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn71,3 triệu USD, tăng 16,7% về số dự án, tăng 16,1% về vốn so với cùng kỳ năm 2000. Như vậy cho thấy đã có dấu hiệu tăng trưởng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Thứ hai, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam chúng ta đã bước đầu xây dựng được một số ngành công nghiêp có quy mô tương đối lớn và có trình độ công nghệ tương đối cao như dầu khí, thông tin viễn thông, điện tử, lắp ráp xe ô tô, xe máy, sản xuất xi măng... Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế và hình thành cơ cấu kinh tế mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thứ ba, các dự án có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đi vào hoạt động đã đưa lại một số kết quả quan trọng bước đầu như tạo ra hàng chục vạn chỗ làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, tạo ra khối lượng hàng hoá xuất khẩu trị giá hàng tỷ USD mỗi năm, và tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế cũng như tăng trưởng kinh tế. Thứ tư, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam còn đưa tới tác động tích cực trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, như tiếp nhận công nghệ cao, phát triển nguồn nhân lực(đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề), thúc đẩy nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy việc phát triển các hoạt động văn hoá, y tế, thể dục thể thao; cũng như tác động tích cực đến tâm lý tập quán của người dân Việt Nam. 1.1.2.2. Đầu tư gián tiếp Trong những năm qua, nước ta hướng việc sử dụng nguồn vốn ODA vào những vùng, những ngành, những lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước; trước hết là cải tạo nâng cấp và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Một số chương trình, dự án ODA được triển khai tại các vùng nông thôn, miền núi. Nhiều dự án cho phát triển giao thông, điện, thuỷ lợi, y tế giáo dục và đào tạo... Có thể nêu ra một số chương trình dự án ODA có quy mô lớn: chương trình tín dụng nông nghiệp của ADB, chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) và chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế (ESAP) của WB và IMF, Chương trình hỗ trợ hàng hoá của Nhật Bản,Ôxtrâylia, Hà Lan, Thụy Điển, Chương trình nâng cấp cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn. Nhờ vậy, từ năm 1993 đến nay thông qua 7 Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ, lượng vốn ODA được cam kết bao gồm cả viện trợ không hoàn lại và vốn vay ưu đãi dài hạn đã đạt hơn 15 tỷ USD. Trong đó, năm1993 đạt 1,81 tỷ USD, năm1994 đạt 1,94 tỷ USD, năm1995 đạt 2,26 tỷ USD, năm1996 đạt 2,34 tỷ USD, năm1997 đạt 2,4 tỷ USD, năm1998 đạt 2,2 tỷ USD, năm1999 đạt 2,1 tỷ USD. Việc giải ngân ODA nhìn chung còn chậm, từ năm 1993 - 1999 đạt khoảng 6,47 tỷ USD (năm 1999 đạt 1,452 tỷ USD). So với tổng vốn ODA được cam kết thì tỷ lệ giải ngân trong thời kỳ nêu trên mới đạt 49%, con nếu so với tổng lượng ODA đã đã được ký kết thì đạt khoảng 60%. Mức giải ngân bình quân trong 4 năm gần đây (1996 -1999) mới đạt 1,2 tỷ USD/năm bằng 70% mức kế hoạch đề ra. 1.1.3. Hợp tác quốc tế về sản xuất và chuyển giao kỹ thuật, khoa học - công nghệ. Đối với sự nghiệp phát triển khoa học - công nghệ của đất nước ta, trong thời gian qua, hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ đả chứng tỏ vai trò và vị trí quan trọng của mình với những thành tựu chủ yếu như sau: Thứ nhất, tiếp thu và cập nhật tri thức mới của thế giới, tiếp cận với nền khoa học hiện đại và công nghệ tiên tiến, trang bị kiến thức chuyên môn cho nhiều thế hệ các cán bộ khoa học - công nghệ, đồng thời học hỏi, thu nhận được nhiều phương pháp, kinh nghiệm tổ chức quản lý khoa học và tiến hành nghiên cứu của nước ngoài. Thứ hai, giới thiệu, quảng bá các thành tựu khoa học, tiềm năng của khoa học -công nghệ, những vấn đề cấp bách của Việt Nam với nước ngoài để tăng cường hiểu biết, thúc đẩy hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ và về các lĩnh vực liên quan. Mặt khác, cung cấp nhiều thông tin chính xác về công nghệ mới, hiện đại, giúp các cơ quan - tổ chức tư vấn, các đơn vị, cá nhân nhập, chuyển giao được nhiều công nghệ tiên tiến của nước ngoài thích hợp với điều kiện phát triển của nước ta; tạo điều kiện cho một số đơn vị, cơ quan nghiên cứu có thể đi tắt, đón đầu trong nghiên cứu - ứng dụng, hạn chế tình trạng nghiên cứu trùng lặp, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ cũ, kém phẩm chất, chưa phù hợp điều kiện đất nước,v.v.. Thứ ba, tăng cường tiềm lực khoa học - công nghệ quốc gia, minh chứng rõ nét là thông qua việc hợp tác hiệu quả với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trưóc đây, đào tạo được một đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ và năng lực tự mình tiến hành và tổ chức nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào quản lý kinh tế - văn hoá - môi trường, vào thực tiễn kinh doanh, thương mại ở Việt Nam... Thứ tư, trong một số trường hợp, hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ đã có những đóng góp cụ thể cho các trương trình khoa học - công nghệ cũng như kinh tế xã hội trong nước, góp phần giải quyết các nhu cầu cấp bách của sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống xã hội Việt Nam, đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội nhất định. 1.1.4. Các dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế. Một trong những lĩnh vực phát triển khá nhanh của kinh tế đối ngoại Việt Nam là ngành du lịch. Năm 1990, ngành du lịch mới chỉ đón được 25 vạn lượt khách quốc tế và 1 triệu lượt khách nội địa, đến năm 1994 đã tăng lên 1 triệu lượt khách quốc tế và 3,5 lượt khách nội địa. Đến năm 2000 đã tăng lên 2,1 triệu lượt khách quốc tế và 5 triệu lượt khách nội địa, doanh thu hơn 1 tỷ USD. Trong những năm gần đây, doanh thu của ngành du lịch tăng nhanh. Năm 1997 nộp ngân sách 840 tỷ đồng. Năm 1998, mặc dù cuộc khủng khoảng tài chính - tiền tệ Châu á tác động mạnh tới nền kinh tế khu vực nhưng ngành du lịch vẫn có doanh thu 6.400 tỷ đồng. Năm 2000, ngành này nộp ngân sách 9.000 tỷ đồng. Từ năm 1997 đến nay, đã có 260 dự án có vốn đầu tư nước ngoài về phát triển du lịch đã được cấp phép với tổng vốn đầu tư 9 tỷ USD. Phải thừa nhận rằng, hoạt động đầu tư nước ngoài trong ngành du lịch đã đem lại cho đất nước nhiều cơ sở hạ tầng quan trọng. Các cảng biến, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế , sân bay quốc tế, các đường cao tốc nối liền từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc viễn thông, cung cấp điện ngày càng được nâng cấp và mở rộng. Các dự án này tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt... Nhiều khu vui chơi giải trí phục vụ cho khách du lịch trong nước và quốc tế (khu công viên nước Hồ Tây, công viên Vầng Trăng, Đầm Sen, suối Tiên...) đã được xây dựng và mang lại sắc thái mới, tầm cao mới cho ngành du lịch Việt Nam. Vào thời điểm này, Việt Nam là điểm bay đến của hơn 20 hãng hàng không trong khu vực và quốc tế, các cảng biển của Việt Nam là điểm dừng của tàu khách nhiều nước như Thái Lan, Hồng Kông, Singapore... 1.2. Nhược điểm Việc đổi mới chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua đã đem lại nhiều thành công cho nền kinh tế đối ngoại. Nhưng bên cạnh những thành công đó, nền kinh tế đối ngoại của nước ta còn bộc lộ nhiều yếu kém cần khắc phục. 1.2.1. Ngoại thương Do hoàn cảnh lịch sử để lại. do những yếu kém chủ quan ngành ngoại thương Việt Nam vẫn còn tồn tại những nhược điểm sau đây: Một là, qui mô kim ngạch xuất - nhập khẩu của Việt Nam còn quá nhỏ bé so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam á. Hai là, cơ cấu mặt hàng xuất - nhập khẩu của Việt Nam còn nhiều bất cập. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của ta ở tình trạng lạc hậu, chất lượng thấp, mặt hàng manh mún, sức cạnh tranh yếu (gần 40% kim ngạch xuất khẩu là hàng nông, lâm, thuỷ sản, 30% kim ngạch xuất khẩu là hàng khoáng sản, trên 20% kim ngạch xuất khẩu là hàng gia công). Với tỷ lệ nêu trên, hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là mặt hàng nguyên liệu, hàm lượng khoa học - công nghệ thấp, do đó chịu nhiều thua thiệt trong buôn bán quốc tế. Trong khi đó, cơ cấu nhập khẩu của nước ta hiện là cơ cấu nhập khẩu ba nhóm hàng hoá - máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu và hàng tiêu dùng, hầu như không nhập khẩu bằng phát minh sáng chế và dịch vụ. Đây là cơ cấu chỉ thích hợp với nền kinh tế hướng nội, thay thế nhập khẩu.Trong ba nhóm hàng hoá trên,nhóm hàng tiêu dùng thường chiếm một tỷ lệ nhỏ và giảm dần trong những năm gần đây. Năm 1995, hàng tiêu dùng còn chiếm 15,2% tổng giá trị nhập khẩu, nhưng đến năm 2001, đã giảm xuống còn 5,3%. Ta không nhập khẩu bằng phát minh sáng chế - đó là một khiếm khuyết lớn, do vậy ta chỉ còn nhập máy móc thiết bị. Nước ta chỉ xuất khẩu dầu thô, nông hải sản, khó mua được máy móc thiết bị hiện đại, do vậy phải mua máy móc thiết bị cũ - xuất hiện nguy cơ biến nước ta thành ''bãi thải công nghiệp cũ''. Do ta không nhập bằng phát minh sáng chế để hiện đại hoá các máy móc cũ, công nghệ lạc hậu, tiêu xài nhiều nguyên, nhiên liệu vật liệu nhập khẩu - làm gia tăng chi phí. Ta cũng không nhập khẩu các dịch vụ cần cho phát triển công nghiệp như các dịch vụ tài chính, bảo hiểm, viễn thông, tư vấn v.v...nên các máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu về được sử dụng càng kém hiệu quả. Ba là, thị trường trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam còn bấp bênh, chủ yếu là thị trường gần (thị trường Đông Bắc á và Đông Nam á), nhiều trường hợp phải buôn bán qua trung gian, còn thiếu nhiều hợp đồng lớn và dài hạn. Bốn là, trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu còn chưa có sự sắp xếp hợp lý và phối hợp một cách nhịp nhàng giữa các doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại hàng tạo nên một thế cạnh tranh không có lợi cho các doanh nghiệp trong nước và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài ép cấp, ép giá, hoặc gây nên các điều kiện bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra nhiều doanh nghiệp của Việt Nam chưa giữ được chữ tín với bạn hàng nước ngoài, nhiều khi giao hàng không đúng chất lượng qui định, bị phạt hợp đồng, gây hậu quả nghiêm trọng. Năm là, kết cấu hạ tầng của ta còn nhiều yếu kém: - Hệ thống kho tàng, bến bãi, vận chuyển nội địa của nước ta còn nhiều yếu kém...gây nhiều tổn thất, làm tăng chi phí cho hàng xuất, hàng nhập, dẫn tới giảm bớt khả năng cạnh tranh của hàng hoá. - Thị trường thông tin ở Việt Nam chưa phát triển, thông tin về thị trường còn hạn chế nhiều, các dự báo thiếu chính xác... Do đó, các nhà doanh nghiệp không đủ thông tin cho các hoạt động xuất nhập khẩu. Điều này làm cho việt mua bán kém hiệu quả, đặc biệt kà đối với những hàng hoá không được xuất nhập một cách thường xuyên. Cũng do thiếu thông tin đã làm hạn chế khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu. - Các hoạt động trong các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, thanh toán quốc tế và những công đoạn như chuyên trở, bốc dỡ, giao nhận hàng hoá cũng còn nhiều hạn chế... cũng gây không ít khó khăn cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. - Các nhà doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam, kể cả đội ngũ cán bộ nhà nước quản lý còn bị hạn chế nhiều về mặt kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu, chưa am hiểu đầy đủ luật pháp và thông lệ quốc tế... ít nhiều trong tư duy của họ vẫn còn kinh doanh theo kiểu bao cấp, phụ thuộc vào cái gọi là quota hoặc trộ cấp xuất nhập khẩu. - Sáu là, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất - nhập khẩu còn thiếu đồng bộ và nhất quán, khi thì cứng nhắc, thủ tục rườm rà chồng chéo, khi thì buông lỏng, dễ dãi. 1.2.2. Đầu tư quốc tế Hoạt động đầu tư nước ngoài thời gian qua đã dặt ra nhiều vấn đề bức bách cần có những biện pháp giải quyết cụ thể nhằm năng cao vai trò và tác động tích cực của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế, đó là: Một là, chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài của Đảng và Nhà nước chưa được hiểu một cách thống nhất và đầy đủ:công tác quy hoạch đầu tư nước ngoài còn chậm và chưa cụ thể; hệ thống chính sách chưa đầy đủ, chưa đồng bộ. - Nhiều doanh nghiệp tiếp tục kiến nghị Chính phủ về những bát cập trong chính sách thuế, hải quan gây cản trở cho sản xuất của các doanh nghiệp, lãng phí thời gian của các doanh nghiệp và các cơ quan Nhà nước (ví dụ như Thông tư 40/2000/TT-BTC của Bộ tài chính) - Việc triển khai một số dự án còn tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong khâu giải toả mặt bằng, chuẩn bị đất đai gây lãng phí rất nhiều công sức kinh, phí và thời gian của nhà đầu tư, đặc biệt là các dự án lớn. - Việc tồn tại chính sách hai giá và việc áp dụng nhiều chính sách thuế khác nhau giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, nhất là giá cước hàng không, giá điện, phí quảng cáo... đang là trở ngại lớn cho việc thu hút và thúc đẩy tiến bộ thực hiện các dự án đầu tư. - Các văn bản qui định về sở hữu trí tuệ chưa rõ ràng và thực hiện mất thời gian; các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn Chính phủ xây dựng các thể chế để ngăn chặn có hiệu lực tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là nạn buôn lậu, hàng giả, hàng nhái đang phổ biến hiện nay. - Thủ tục nhập khẩu hàng hoá còn phức tạp, nhiều hải quan cửa khẩu còn yêu cầu phải xuất trình kế hoạch xuất khẩu. - Việc phân cấp, uỷ quyền trong quản lý đầu tư tiếp nước ngoài thời gian qua đã đạt một số kết quả tốt nhưng cũng bộc nộ một số hạn chế ảnh hưởng tới môi trường đầu tư. Do nhiều bộ ngành chưa hướng dẫn thực hiện cụ thể việc phân cấp cho địa phương nên dẫn đến tình trạng địa phương mất nhiều thời gian để hỏi ý kiến trước khi xử lý, kéo theo thời gian giải quyết kiến nghị của doanh nghiệp, vượt quá thời gian qui định. - Thủ tục hành chính còn rườm rà, tệ quan liêu, thiếu trách nhiệm của một số cán bộ công chức gây ách tắc triển khai dự án và sản xuất kinh doanh. Tình trạng ''nhiều cửa, nhiều khoá'' vẫn còn tồn tại. - Công tác vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài tuy đã cố gắng song vẫn chủ yếu tập trung trong nước, trong khi đó thông tin về Việt Nam ở nước ngoài chưa đủ để đáp ứng cho các đối tác nước ngoài hợp tác kinh doanh với chúng ta. Công tác thông tin tuyên truyền để phục vụ cho các đầu tư nước ngoài của các cơ quan Việt Nam ở nước ngoài và kể cả trong nước cũng chưa được quan tâm đúng mức. Hai là, trong số những dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép tại Việt Nam có một số đáng kể các dự án (khoảng trên 15% số dự án) bị đổ bể hoặc bị rút giấy phép trước thời hạn, đưa đến sự thiệt hại cho cả hai bên. Mặt khác, tỷ lệ góp vốn trong nhiều dự án liên doanh của phía Việt Nam rất thấp, chỉ ở mức 20 - 30% vốn pháp định, mà chủ yếu là quyền sử dụng đất đai, một số nhà xưởng và thiết bị đã cũ, đưa tới sự yếu thế của bên Việt Nam trong liên doanh và đưa đến sự thiệt thòi trong phân chia lợi nhuận của phía Việt Nam. Ba là, trong quá trình triển khai hoạt động đấu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã diễn ra sự mất cân đối đáng kể về việc thu hút vốn đầu tư theo ngành và theo lãnh thổ. Một tỷ trọng nhỏ vốn đầu tư tập trung vào những hoạt động định hướng xuất khẩu (trừ dầu khí) và chủ yếu tập trung voà việc chế biến các sản phẩm sơ chế. Trong ngành chế tạo, vốn đầu tư tập trung vào ngành dệt, da và may mặc với quy mô tương đối nhỏ. Những ngành này chỉ cần ít vốn đầu tư. Các ngành khác có thể thu hút số lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài như cơ sở hạ tầng, công nghiệp nặng, bất động sản, dường như chậm tiến triển và đã đạt tới điểm bão hoà. Mặc dù tất cả các địa phương trong cả nước đều thu hút được các dự án đầu tư nước ngoài nhưng phần lớn các dự án tập trung vào các thành phố và tỉnh lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hải Phòng. Đầu tư nước ngoài có tác động hạn chế đến các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Tỷ lệ thất bại của các dự án ở các địa bàn này khó khăn cao hơn các địa bàn khác. Bốn là, chi phí đầu tư và kinh doanh ở Việt nam cao hơn so với các nước trong khu vực như: giá điện sản xuất ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cao hơn so với Bangkok - Thái Lan, Kua Lumpur - Malaixia và Jakarta - Inđônêxia; Giá cước vận chuyển container ở Hà Nội và thành phố Hồ chí Minh cao hơn so với Thượng Hải - Trung Quốc, Singapore, Bangkok, Kual Lumpur, Jakarta và Malina - Philipin. Ngoài ra, mức thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ở Việt Nam cũng làm tăng chi phí đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Các thủ tục hành chính ở Việt nam cũng thường phức tạp và tốn nhiều thời gian hơn so với các nước trong khu vực. Chính những điều này đã làm giảm đáng kể các biện pháp khuyến khích đưa ra đối với đầu tư nước ngoài. 1.2.3. Hợp tác quốc tế về sản xuất và chuyển giao kỹ thuật, khoa học - công nghệ Là một nước đang phát triển, cho nên việc tạo lập một môi trường để khai khác tốt công nghệ quốc tế phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta giữ một vai trò hết sức quan trọng, nó góp phần vào sự thành bại của quá trình đó. Thực trạng về trình độ công nghệ ở nước ta khi bước vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá cho thấy: Thứ nhất, hệ thống công nghệ trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất đều lạc hậu, chắp vá, không đồng bộ, năng xuất và hiệu quả thấp. Sản phẩm làm ra chất lượng còn hạn chế; giá thành cao, sức cạnh tranh kém trên thị trường quốc tế và khu vực. Để khắc phục tình trạng lạc hậu như trên, Nhà nước đã ban hành các điều luật, các pháp lệnh về đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ nhằm tạo môi trường thuận lợi, tiến tới xây dựng nền công nghiệp phát triển phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Việc tạo dựng và khai thác môi trường công nghiệp quốc tế phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta thời gian qua chủ yếu là thông qua hợp tác đầu tư và nhập khẩu công nghệ. Số liệu điều tra cho thấy, yếu tố chuyển giao công nghệ trong liên doanh còn thấp, thậm chí không ít trường hợp nhập cả những công nghệ và thiết bị thải loại, công nghệ ngây ô nhiễm. Thứ hai, quan hệ hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ chủ yếu mang tính chất đơn cực, đối tác chính là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây (với các chương trình/ dự án chưa phải là lớn của các cơ quan liên hiệp quốc, của Pháp, ấn Độ, Thuỵ điển, Hà Lan, v.v..), phụ thuộc vào quan hệ chính trị - ý thức hệ, chưa tiếp cận được với nền khoa học - công nghệ tiên tiến của thế giới. Thứ ba, hình thức hợp tác chủ yếu về khoa học - công nghệ trước thời kỳ đổi mới là song phương, chủ yếu diễn ra giữa Nhà nước ta với một số nước và tổ chức quốc tế, do đó có đặc điểm tập trung và bao cấp, không khuyến khích các quan hệ trực tiếp giữa các tổ chức, cá nhân và với thành phần tư nhân. Thứ bốn, nguồn kinh phí chủ yếu là viện trợ của các nước và tổ chức quốc tế: Nhà nước và các tổ chức, cá nhân chưa dành kinh phí đầu tư và hỗ trợ cho hoạt động này. 1.2.4. Các dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế Các ngành dịch vụ, theo cách tính của WTO, hiện có khoảng 155 ngành, bao gồm các hoạt động ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, viễn thông, hàng không du lịch, tư vấn...Vai trò của nó thực sự quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là trong thời đại chuyển sang nền kinh tế trí thức. ở nước ta các ngành dịch vụ hiện đại vẫn kém phát triển. Không những thế quan niệm của xã hội ta vẫn xem trọng sản xuất hơn dich vụ, vẫn có xu hướng tập trung các nguồn lực cho sản xuất, kể cả các nguồn lực bên ngoài. Phần lớn các phương tiện vận tải phải mua ở nước ngoài, trong nước không sản xuất được hoặc chỉ sản xuất phương tiện có trọng tải không lớn. Các cơ sở hạ tầng cần cho du lịch và vận tải quốc tế là các cảng biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc viễn thông và cung cấp điện... của nước ta cón ít và nhiều hạn chế Về cảng biển, theo các chuyên gia nước ngoài, hiệu suất cảng biển Việt Nam được xếp thứ bảy trong số 9 nước Đông Nam á mà họ đánh giá, Việt Nam xếp sau Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái lan, chỉ xếp trên Trung Quốc và Inđônêxia. Các hãng vận tải biển nước ngoài xếp cảng Việt nam vào nhóm độc quyền kiểu ''Cácten'' vì tất cả các cảng do nhà nước sở hữu và vận hành. Nước ta chưa có cảng trung chuyển quốc tế, nên hàng xuất khẩu của ta phải trung chuyển qua các cảng Hồng Kông, Xingapore, làm tăng thêm chi phí khoảng 20 -30%. Phí cảng của ta do Ban vật giá chính phủ định hiện là rất cao, trong khi công nghệ bốc dỗ kém, quản lý lạc hậu, thời gian giải phóng tàu lâu, càng làm tăng thêm chi phí cho người xuất khẩu. Về hàng không, ta có hai sân bay quốc tế ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đều kém các sân bay quốc tế trong khu vực. Giá vé máy bay của ta còn cao so với khu vực, cùng với tình trạng chậm giờ bay, hoãn chuyến càng làm giảm sức hấp dẫn của hàng không Việt Nam. Về đường cao tốc, nước ta mới có được vài trăm km đường cao tốc - một con số quá nhỏ so với các quốc gia trong khu vực. Số lượng đường cao tốc ít ỏi đã làm cho hàng hoá chậm đến cảng và sân bay quốc tế, làm tăng thêm chi phí và thời gian. Về liên lạc, viễn thông, tuy đã có nhiều tiến bộ, nhưng còn những hạn chế sau: giá dịch vụ viễn thông quá đắt so với khu vực, giá thuê bao đường tuyến được quốc tế đánh giá là cực kỳ cao với nhiều thủ tục phiền hà, tốc độ truy cập Internet quá chậm, thương mại điện tử không phát triển. Chính sách tài chính - tín dụng quốc tế hỗ trợ hoạt động kinh tế đối ngoại yếu. Tỷ giá đồng VN với USD và các đồng tiền khác tuy đã được nhiều lần điều chỉnh kể từ 1996, nhưng hiện vẫn còn cao. Theo một số chuyên gia nước ngoài, mức cao này khoảng trên 10% và đã có tác dụng tiêu cực đến hành xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường ASEAN, Nhật Bản và Liên minh Châu Âu, trừ Trung Quốc và Mỹ. VN đồng cao giá và chưa do thị trường đích thực xác định đã tác dụng xấu không chỉ tới xuất khẩu mà cả với FDI và du lịch. Đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể chuyển đổi tự do. Trong khi tổng giá trị xuất nhập khẩu của nước ta dã ngang bằng tổng GDP, thì đây là một vấn đề rất bất lợi. Buôn bán quốc tế lớn đến thế, mà đồng tiền không chuyển đổi tự do được, có nghĩa là các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của ta phải chịu các chi phí chuyển đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã thế họ còn phải chịu thiệt do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ thu được do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải xin phép cấp. Cung cấp tín dụng cho xuất khẩu là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của xuất khẩu, thế nhưng ở nước ta việc cung cấp các tín dụng này, đặc biệt là cung cấp vốn lưu động cho các nhà xuất khẩu gặp nhiều trở ngại. Những trở ngại này liên quan tới những thủ tục vay vốn phiền hà, những qui chế phức tạp về thế chấp, nhất là trong điều kiện thị trường bất động sản hoạt động rất kém, sự phân biệt đối sử đối với cácloại hình doanh nghiệp, và chưa có cơ chế tái chiết khấu các thương phiếu... Việc cung cấp tín dụng yếu kém đã tác dụng xấu tới việc thu hút vốn FDI và du lịch, vì các nhà đầu tư ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn tong nước để phát triển kinh doanh. Một nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chỉ được khuyến khích đầu tư vào sản xuất khi họ bí, cần tư vấn không có, cần vay vốn lại khó khăn, cần bảo hiểm lại quá phức tạp, cần liên lạc viễn thông lại quá đắt... Do đó đã có nhiều nhà nước ngoài nhận xét rằng phải có lòng dũng cảm mới dám đầu tư vào Việt Nam. Môi trường dịch vụ hoạt động kém là một cản trở lớn đối với các nhà đầu tư từ các nước phát triển vì họ đang quen với môi trường đầu tư có hoạt động dịch vụ rất tốt. Điều này giải thích tại sao các nhà đầu tư Âu, Mỹ, Nhật lại do dự khi đầu tư vào Việt Nam. 2. Các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại Để thực hiện có hiệu quả cao mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế đối ngoại ở Việt Nam, cần có các giải pháp tổng thể bao gồm các giải pháp từ phía Nhà nước cũng như các giải pháp từ phía doanh nghiệp. Từ phía Nhà nước, các giải pháp tổng thể bao gồm Việc xây dựng chương trình, chiến lược, chính sách và qui hoạch phát triển kinh tế đối ngoại, bảo đảm sự ổn định của môi trường kinh tế - chính trị - xã hội, phát triển quan hệ hữu nghị và giữ gìn hoà bình cũng như việc đảm bảo các yếu tố về luật pháp, thể chế, trình độ của nguồn nhân lực, của hệ thống cơ sở hạ tầng cần phải tương xứng với mục tiêu đặt ra. Từ phía doanh nghiệp, các giải pháptổng thể bao gồm việc thành lập và phát triển các tập toàn kinh doanh mạnh, phát triển và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, mở rộng thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của hành hoá dịch vụ trên thị trường quốc tế cũng như tạo lập các yếu tố về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực. Dưới đây tôi tập trung phân tích một số giải pháp có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới. 2.1. Đảm bảo sự ổn định về môi trường chính trị, kinh tế xã hội. Môi trường chính trị, kinh tế - xã hội là nhân tố cơ bản, có tính quyết định đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài - hình thức chủ yếu, quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu sự ổn định chính trị không được đảm bảo, môi trường kinh tế không thuận lợi, thiếu các chính sách khuyến khích, môi trường xã hội thiếu tính an toàn...sẽ tác dụng xấu đến các quan hệ hợp tác kinh tế, trên hết là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài, bởi lẽ sẽ tác dụng gián tiếp hoặc trực tiếp đối với tỷ xuất lợi nhuận của các đối tác. Để đảm bảo môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý vĩ mô của nhà nước, sự nỗ lực của các ngành các cấp. 2.2. Tăng cường công tác tổ chức và quản lý kinh tế đối ngoại. Vai trò quan trọng về quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã được khẳng định. Đối vói lĩnh vục kinh tế đối ngoại do tính chất đặc biệt của nó vai trò đó lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Chỉ có tăng cường vai trò quản lý của nhà nước mới có thể đảm bảo mục tiêu, phương hướng và giữ vững được những nguyên tắc cơ bản trong kinh tế đối ngoại và có như vậy hoạt động kinh tế đối ngoại mới mang lại hiệu quả. Cũng chỉ có tăng cường vai trò quản lý của nhà nước mới có thể hạn chế được ngững rủi ro, nắm bắt được những cơ hội nhờ đó mang lại lợi ích cho các đơn vị hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng và quốc gai nói chung. Thông qua sự tăng cường vai trò quản lý của nhà nước sẽ khắc phục được tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, phát huy hiệu quả của sự hợp tác trong nước để có sức mạnh cạnh tranh quốc tế, trách được sự thua thiệt về lợi ích... Để tăng cường vai trò quản lý của nhà nước cần phải: - Tiếp tục cải tiến tổ chức và cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại từ Trung ương đến địa phương theo hướng Nhà nước quản lý thông nhất song có sự phân công rõ ràng cả về chức năng, quyền hạn và nghĩa vụ. Sớm hoàn thiện cơ chế quản lý ở các khâu xây dựng đề án, thẩm định đề án và quản lý sau khi cấp giấy phép. - Tập trung quản lý vốn ODA vào một đầu mối là Bộ Kế Hoạch và Đầu tư và các cơ quan kế hoạch và đâù tư ở các cấp để huy động và sử dụng mọi nguồn lực trong và ngoài nước theo định hướng của kế hoạch nhà nước. Sớm tăng cường cán bộ cho các cơ quan này. - Khẩn trương nghiên cứu để xác định phương án phân cấp quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao. Xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn nghĩa vụ của mỗi cấp trong lĩnh vực này. - Thực hiện việc quản lý, điều hành tỷ giá đồng Việt Nam với các đồng ngoại tệ theo nguyên tắc giá cả sát giá trị, đảm bảo tỷ giá ổn định, nhưng linh hoạt, có tác dụng khuyến khích có xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu những mặt hành chưa cần thiết. - Bộ Thương mại nghiên cứu thành lập ''trung tâm khuếch trương thương mại'' để làm công tác thúc đẩy xuất khẩu và là đầu mối đặt quan hệ, trao đổi kinh nghiệm với các tổ chức tương tự ở một số nước trong khu vực và trên thế giới. Có kế hoạch cụ thể cho các tổ chức kinh tế của nước ta đặt văn phòng đại diện ở nước ngoài để nghiên cứu thị trường tìm đối tác và xuất nhập khẩu. Bộ Thương mại phải phối hợp với các ngành hữu quan quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu để bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán. - áp những biện pháp hữu hiệu quản lý chặt chẽ mậu dịch đường biên, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm khắc các hoạt động buôn lậu như nắm: nguồn hàng nhập từ gốc; kiểm tra, thu thuế đối với mọi tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng nhập trên đất nước Việt Nam; phát động quần chúng tham gia đấu tranh chống buôn lậu và bán hàng lậu và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân buôn lậu và bán hàng lậu. Xây dựng các địa bàn biên giới vững mạnh. - Chấn chỉnh và đổi mới hoạt động, qui định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đại diện kinh tế, thương mại của Việt Nam ở nước ngoài, nhất là ở địa bàn trọng điểm. - Tăng cường và từng bước hiện đại hoá công tác thông tin kinh tế đối ngoại. Coi trọng công tác dự báo về kinh tế đối ngoại., giữ gìn thông tin trong kinh tế đối ngoại. - Các Bộ, ngành có kế hoạch cụ thể chuẩn bị mọi mặt cho việc tham gia APEC và WTO. 2.3. Đồng bộ hoá cơ sở pháp luật, bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách để pháp triển kinh tế đối ngoại. Yêu cầu đặt ra đối với hệ thống luật pháp hiện nay là việc thông qua và ban hành luật phải kèm theo các văn bản dưới luật - các văn bản hướng dẫn thực hiện với mức độ cụ thể, chi tiết để có thể thi hành được. Đồng thời, phương pháp giáo dục tuyên truyền cần có những thay đổi phù hợp nhằm nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết và thi hành luật pháp (như tăng cường hơn nữa môn học giáo dục pháp luật ở các cấp nhà trường, mở các lớp đào tạo ngắn hạn đủ để nắm bắt các thông tin quan trọng nhất của những luật mới ban hành đến từng cấp cơ sở của ngành, các địa phương,v.v...). Việc thi hành pháp luật cần có sự trợ giúp của các cơ quan chức năng, của các trung tâm tư vấn và có sự kiểm soát chặt chẽ từ trên xuống, giảm thiểu tình trạng hiểu sai, áp dụng sai theo kiểu ''phép vua thua lệ làng''. Việc ban hành luật đã khó nhưng việc áp dụng nó một cách nhất quán, đồng bộ công minh càng khó hơn. Bởi vậy vấn đề quan trọng là cần tăng cường pháp chế đi đôi với việc soạn thảo và ban hành hệ thông văn bản pháp luật, từ các cơ quan lập pháp đến hành pháp và tư pháp. Cụ thể là: - Xây dựng luật và pháp lệnh về đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài nhằm khuyến khích đầu tư ra một số địa bàn cần thiết, đáp ứng yêu cầu trước mắt và chuẩn bị khả năng phát triển lâu dài. - Sửa đổi và bổ sung các văn bản qui định của Chính phủ về quản lý, điều phối và sử dụng vốn ODA, về quản lý vay và trả nợ nước ngoài theo hướng phân định rõ chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như của các cơ sở quản lý, điều phối, sử dụng vốn ODA và vay, trả nợ nước ngoài. - Cải tiến chế độ tài chính, ngân hàng cho phù hợp với cơ chế mới nhằm hỗ trợ cho các hoạt động của nền kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu, xem xét việc tăng cường quỹ hỗ trợ xuất khẩu. -Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sác khuyến khích đầu tư hàng xuất khẩu (đối với từng lĩnh vực, từng sản phẩm cụ thể), có chính sách hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hàng xuất khẩu, kể cả doanh nghiệp nhà nước và tư nhân sản xuất hàng xuất khẩu (cả về thuế, hỗ trợ tín dụng ưu đãi để đầu tư sản xuất ...). -Kích thích các doanh nghiệp tư nhân sản xuất hàng hoá xuất khẩu, có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Chính phủ, được trực tiếp xuất khẩu những hàng hoá do mình sản xuất và nhập khẩu những gì cần cho sản xuất. Đối với các mặt hàng phân tán (như thủ công mĩ nghệ...) có thể tổ chức xuất khẩu thông qua các hiệp hội, ngành hàng, hợp tác xã... Có chính sác ưu đãi, khuyến khích liên doanh giữa các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp trong sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt giữa doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp khác. - Tiếp tục nghiên cứu chính sách thuế để khuyến khích xuất khẩu, đồng thời bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước. Trước mắt khuyến khích nhập khẩu gỗ để thực hiện chủ trương đóng cửa rừng. 2.4. Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế trí thức đang hình thành và từng bước phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội càng đóng vai trò quan trọng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao. Trong đó đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật mà trước hết là hệ thống thông tin liên lạc, giao thông vận tải. Đối với nước ta, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực bưu chính viễn thông thì trong lĩnh vực giao thồng vận tải mặc dù đang có nhiều cố gắng song vẫn còn quá lạc hậu so với các nước trong khu vực, trong khi vốn đầu tư vẫn còn hạn chế. Do vậy phải có chiến lược đầu tư đúng nhất là đầu tư tập trung có trọng điểm, dứt điểm và có hiệu quả cao, đặc biệt phải kiên quyết chống lại các hiện tượng tiêu cực gây thất thoát vốn đầu tư. 2.5. Đảm bảo việc đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế và người lao động Cán bộ làm kinh tế đối ngoại phải là người có đức, tài, trong đó đức là gốc. Để đáp ứng yêu cầu này, cần tập trung làm tốt một số việc: - Tăng cường đầu tư cho các trường đào tạo các chuyên ngành quốc tế, cho các viện nghiên cứu quốc tế, cho các bộ phận nghiên cứu tìm hiểu thị trường, cho các trường dạy những nghề phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại... - Mở các lớp ngắn hạn tào tạo cán bộ cho các ngành, các địa phương về hoạt động kinh tế đối ngoại. Tăng cường năng lực của đơn vị đầu mối ở Trung ưng và địa phương về cán bộ và phương tiện cần thiết, ưu tiên sử dụng hỗ trợ kỹ thuật của các nước và các tổ chức quốc tế cho mục tiêu này. - Chú ý đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế đối ngoại, phù hợp với yêu cầu phát triển lâu dài nền kinh tế hội nhập với thị trường thế giới, bao gồm cả cán bộ tài chính, ngân hàng, thương mại, quản lý đầu tư và kinh doanh kinh tế đối ngoại. Trước mắt cần tăng cường cho các cơ quan quản lý kinh tế đối ngoại từ Trung ưng đến địa phương moọt số cán bộ trẻ có phẩm chất tốt, có chuyên môn, ngoại ngữ. - Cần có kế hoạch gửi học sinh đi đào tạo ở nước ngoài nhiều hơn nữa về kinh tế đói ngoại. Ngoài việc gửi đi học theo các chương trình viện trợ không hoàn lại, có thể nghiên cứu sử dụng các nguồn vốn vay ưu đãi để gửi học sinh đi đào tạo cho lĩnh vực này. - Nâng cao chất lượng đào tạo trong nước về kinh tế đối ngoại, trước hết là chất lượng giáo trình, trình độ giáo viên, đạo đức phẩm chất của người học. - Cần có chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài vào Việt Nam hoạt động kinh doanh, trong đó có những chuyên gia giỏi trên lĩnh vực đã về hưu ở nước họ, nhưng họ lại muốn và có thể làm việc ở nước ta. - Có chính sách và biện pháp để sử dụng tốt đội ngũ cán bộ đã được tào tạo về kinh tế đối ngoại. Đặc biệt chú trọng sử dụng những cán bộ có trình độ, năng lực, phẩm chất ở những vị trí có liên quan trực tiếp đến kinh tế đối ngoại, đến đối tác nước ngoài, trong đó có các cán bộ tham gia quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, các xí nghiệp liên doanh. Kiên quyết thay thế những cán bộ không đủ năng lực và phẩm chất. Còn đối với các lao động phổ thông chúng ta phải khôi phục hệ thống các trường dạy nghề để đào tạo các công nhân lành nghề. Thực hiện mô hình liên doanh liên kết giữa các trung tam dạy nghề của Việt Nam với các tổ chức hoặc các công ty tập đoàn quốc tế nhằm đào tạo và cùng sử dụng số học viên sau khi ra trường. 2.6. Xây dựng và hoàn thiện các dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh tế đối ngoại như dịch vụ tư vấn pháp luật, tư vấn việc làm, tư vấn sản xuất và tiêu thụ... Các dịch vụ này tuy chỉ mang tính chất hỗ trợ nhưng có vai trò không nhỏ đối với hiệu quả đạt được của kinh tế đối ngoại. Chẳng hạn như nhờ có trung tâm tư vấn pháp luật sẽ giúp cho các nhà kinh doanh, nhất là các nhà kinh doanh nước ngoài đến Việt Nam gặp thuận lợi hơn khi tìm hiểu về luật pháp Việt Nam. Ngược lại các nhà kinh doanh Việt Nam cũng dễ dàng hiểu được những thông lệ và luật pháp quốc tế với sự giúp đỡ của các trung tâm tư vấn này, từ đó giảm thiểu những hành vi phạm pháp hoặc những quyết định sai lầm. Những trung tâm tư vấn thu mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp cho các đối tác bạn hàng tìm đến nhau và hiểu nhau hơn, vừa tiết kiệm thời gian và chi phí, đồng thời có thể tìm được những đối tác tối ưu nhất cho hoạt động sảm xuất - kinh doanh. Ngoài một số điều kiện nêu trên, để chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam thực hiện có hiệu quả cần phải thực hiện đồng thời các giải pháp như: cải cách các chính sách kinh tế cho phù hợp với yêu cầu đổi mới nền kinh tế cũng như xu thế phát triển của khu vực và thế giới; cải cách và pháp triển hệ thống tổ chức ngân hàng - tài chính hiện đại hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi về vốn cũng như các giao dịch cho các nhà kinh doanh; cải tổ hệ thống doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp quốc doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của chúng. 2.7. Xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, đối tác trở thành vấn đề rất cơ bản, có tính quyết định đối với hiệu quả kinh tế đối ngoại. Do hình thức kinh tế đối ngoại rất đa dạng nên đối tác cũng hết sức đa dạng. Cũng vì thế vừa xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác quan hệ trở thành vấn đề phức tạp cần được xử lý linh hoạt. Đối với việc xây dựng đối tác trong nước, điều quan trọng là phải từng bước xây dựng các đối tác mạnh (về vốn, công nghệ, năng lực quản lý, phong cách giao tiếp quốc tế...) có tầm cỡ quốc tế đóng vai trò đầu tầu trong quan hệ.Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp vẫn là những chủ thể chủ yếu trực tiếp hoạt động kinh tế đối ngoại nên cần phải xúc tiến xây dựng một số doanh nghiệp nhà nước thành lập tập đoàn xuyên quốc gia. Các tập đoàn này sẽ là lực lượng đầu tầu trong việc mở rông quan hệ kinh tế đối ngoại và thông qua đó lôi cuốn các doanh nghiệp khác. Đối với các đối tác nước ngoài: việc lựa chọn đối tác thích hợp luôn là vấn đề quan trọng đối với bên Việt Nam. Song trong tương lai và về lâu dài cần quan tâm hơn đối với các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn quốc tế lớn về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý mà chúng ta rất cần khai thác. Tuy nhiên để khai thác được họ hoàn toàn không phải là vấn đề đơn giản, đòi hỏi phải có chiến lược, sách lược đúng đắn trên cơ sở cùng có lợi. Trên đây là 7 giải pháp chủ yếu trong hệ thống các giải pháp. Mỗi giải pháp có vị trí khác nhau và sự phân định chỉ có ý nghĩa tương đối. Để mở rộng và năng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên. C. Kết luận Sự tác động của xu hướng toàn cầu hoá - quốc tế hoá đời sống các dân tộc đang làm cho các quốc gia dân tộc xích lại gần nhau, tăng giao lưu và mở rộng hợp tác với nhau. Trong tình hình đó, sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia gắn liền hữu cơ với sự tồn tại và phát triển của cả cộng đồng các nước trên thế giới. Toàn cầu hoá đã trở thành trào lưu lịch sử không thể đảo ngược, nhận thức đúng đắn xu hướng lịch sử của trào lưu này, hoạch định chiến lược và đối sách ngoại giao thích hợp là vấn đề nan giải nhưng không thể lẩn tránh được của đại đa số các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuân thủ một cách bị động hay bác bỏ hoàn toàn đều làm cho chúng ta mất đi cơ hội lịch sử để tự pháp triển trong quá trình toàn cầu hoá. Vì vậy tìm đối sách để hội nhập là một sự lựa chọn khôn ngoan. Nhận thức được xu thế phát triển của thời đại, Việt Nam đã bắt đầu quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, tăng cường phát triển kinh tế đối ngoại từ một thập niên trước dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VII. Trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn thúc đẩy quan hệ thương mại và hợp tác với tất cả các nước có trình độ phát triển và thể chế chính trị khác nhau. Nhờ thế chúng ta đã phá được thế bao vây cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, phát triển quan hệ thương mại với hơn 150 nước, trong đó 60 nước đã ký hiệp định thương mại và đã thoả thuận qui chế tối hậu quốc với 68 nước và vùng lãnh thổ. Việt Nam tiếp tục đẩy nhanh tiến trình hội nhập, nâng tiến trình này nên một tầm cao mới như việc xúc tiến tham gia các tố chức hợp tác kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực như khu vực thương mại tự do ASEAN, diễn đàn kinh tế khu vực châu á - Thái Bình Dương (APEC), cơ chế hợp tác kinh tế - thương mại liên châu lục á - Âu (ASEM) và tích cực tiến tới gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu to lớn đó, quá trình hội nhập của Việt Nam còn mắc phải một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục để tận dụng được tối đa các tiềm năng như nguồn nhân lực, điều kiện địa lý, các tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng... Việt Nam đã và đang nỗ lực đẩy nhanh tiến trình thực hiện các cam kết hội nhập cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, nhanh chóng hoà mình vào dòng chảy hối hả của nhịp điệu kinh tế thế giới. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin. 2. Giáo trình kinh tế đối ngoại. 3. Giáo trình kinh tế quốc tế. 4. Văn kiện nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX. 5. Tạp chí công nghiệp. 6. Tạp chí chứng khoán Việt Nam. 7. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. 8. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới. mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35506.doc
Tài liệu liên quan