Đề án Pháp luật Quốc tế và Luật Việt Nam quy định Hoạt động nhập khẩu. Thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ Phần Thiết bị Thắng Lợi

Như vậy, xét trên tổng thể, mặc dù vẫn còn một số hạn chế trong hoạt động nhập khẩu của nước ta thời gian qua, nhưng về cơ bản nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển hoạt động nhập khẩu trên cả phương diện tăng trưởng kim ngạch, mở rộng thị trường, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa nhập khẩu. Những thành tựu đó đã góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích các nước đến hợp tác làm ăn và đầu tư vào Việt nam, từng bước nâng cao vị thế của Việt nam trên trường quốc tế. Để thực hiện các chiến lược,chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các chính sách kinh tế, cơ chế quản lí và sử dụng đồng bộ các công cụ, biện pháp quản lí và điều tiết kinh tế vĩ mô, trước hết là các công cụ kinh tế. Trong đó, việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ kinh tế nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu là rất cấp bách. Nhà nước cần có những biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam vươn tới các thị trường có “nền công nghệ nguồn” để nhập khẩu các máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại, giảm nhanh tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng và máy móc thiết bị từ các nước có “nền công nghệ trung gian” và “nền công nghệ thấp”. Kinh nghiệm của những nước và cùng lãnh thổ Châu Á đã thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu hay còn gọi là Chiến lược hướng về xuất khẩu như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Trung Quốc, cho thấy, hầu hết các nước đều chú trọng hoàn thiện để sử dụng hiệu quả các công cụ kinh tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại từ các nước công nghiệp phát triển. Qua đó, có thể khẳng định lĩnh vực hoạt động của công ty Cổ phần thiết bị Thắng Lợi là lĩnh vực vẫn còn rất nhiều điều hứa hẹn cho sự phát triển lâu dài và bền vững, đặc biệt là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Hoạt động của công ty đã đi hoàn toàn đúng hướng với phương châm thay đổi cơ cấu nhập khẩu theo hướng hiện đại của Chính phủ Việt nam. Đó là nhập khẩu các thiết bị công nghệ cao từ các “nền công nghệ nguồn” như Nhật, Mỹ, Đức, Anh, Thụy Điển Nối tiếp theo những thành công trong hơn 10 năm trưởng thành và phát triển, công ty nên tiếp tục khai thác các lĩnh vực kinh doanh vô cùng hấp dẫn này, và tin rằng cùng với các chính sách ưu đãi của Nhà nước nhằm khuyến khích nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị thì hoạt động kinh doanh của công ty sẽ ngày càng gặp nhiều thuận lợi, tạo đà cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững.

doc69 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Pháp luật Quốc tế và Luật Việt Nam quy định Hoạt động nhập khẩu. Thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ Phần Thiết bị Thắng Lợi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a các nước đang phát triển là thành viên của WTO và cũng còn cao hơn các nước trong khu vực Đông Nam Á (trong biểu thuế của Việt Nam, mức thuế suất trung bình cho tất cả các mặt hàng là 15,9% và riêng mức thuế suất trung bình cho các mặt hàng có thuế suất từ 10% trở lên là 23,6%). Hơn nữa, trong tổng kim ngạch nhập khẩu, các mặt hàng thuộc diện miễn thuế nhập khẩu, hàng gia công và hàng có thuế suất 0% chiếm tỉ lệ rất lơn. Điều này cho thấy mức bảo hộ của chính sách thương mại Việt Nam ở mức thấp hơn mức bảo hộ trung bình của các nước. Thêm nữa, sự sửa đổi nhiều lần biểu thuế nhập khẩu (cả về cơ cấu và mức thuế suất) đã tác động gây khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là trong việc dự đoán và đón bắt các cơ hội thị trường cũng như trong hoạch định chiến lược và kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp. 3.2.2. Công cụ tỷ giá hối đoái Trong khoảng chục năm trở lại đây, tỷ giá giữa VNĐ so với USD tăng dần với biên độ dao động khá mềm dẻo và linh hoạt theo xu hướng giá VNĐ giảm dần. Sau “cú sốc tỷ giá” tháng 8/1998 (phá giá mạnh đồng Việt Nam) đã đẩy giá thị trường tự do lên, tỷ giá hối đoái danh nghĩa cũng tăng mạnh (năm 199 là 14.004 VNĐ/1USD, năm 2000 là 14.501 VNĐ/1USD, năm 2002: 15.430 VNĐ/1USD, năm 2003: 15.560 VNĐ/1USD, và đến nay là khoảng 16.050 VNĐ/1USD). Thực tiễn biến động tỷ giá hối đoái theo xu hướng tỷ giá giữa VNĐ và đôla Mỹ ngày càng tăng và thường xuyên bị điều chỉnh đã gây một số khó khăn cho các nhà nhâp khẩu. Hơn một thập kỷ qua, việc Nhà nước ta sử dụng công cụ tỷ giá chủ yếu là nhằm mục tiêu ổn định nền kinh tế vĩ mô nên tác động của tỷ giá này đến xuất nhập khẩu hàng hóa chưa rõ nét. Việc sử dụng công cụ kinh tế này nhằm mục tiêu điều chỉnh nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ chưa thể hiện rõ hiệu quả. 3.2.3. Công cụ tín dụng Hiện nay, Nhà nước đang sử dụng công cụ tín dụng dưới nhiều hình thức khác nhau như đầu tư phát triển, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiêu dùng và các hình thức hỗ trợ tín dụng khác. Dịch vụ tín dụng do các ngân hàng Thương mại, các công ty cho thuê Tài chính, Quỹ hỗ trợ phát triển, các Quỹ đầu tư… thực hiện. Dịch vụ này bao gồm các loại cho vay bằng tiền dưới dạng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, chiết khấu và cho vay bằng tài sản dưới dạng cho thuế tài chính. Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đã tận dụng được một số nguồn vốn tín dụng để mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động của mình, nhưng chủ yếu đó lại là các doanh nghiệp nhà nước (chiếm khoảng 80%), khu vực kinh tế tư nhân còn bị hạn chế rất nhiều. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp không có hoặc it khi có đủ tài sản để thế chấp và các ngân hàng vân có khuynh hướng hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn sẽ ít rủi ro hơn, và một nguyên nhân nữa là do thủ tục cho vay của các ngân hàng còn rườm rà, gây tốn kém về thời gian và công sức. 3.3. Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi Một trong những nguyên nhân khiến nền kinh tế Việt Nam tụt hậu so với kinh tế thế giới là do sự tụt hậu về khoa học kỹ thuật. Năm 1986, chúng ta bắt đầu thực hiện lộ trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa Đất nước với mục đích đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất vào trong nước, tận dụng lợi thế của người đi sau so với những Quốc gia đi trước đã rất phát triển, với phương châm “đi tắt, đón đầu”. Khi mà rất nhiều nước đã phát triển nền đại công nghiệp với nhiều thiết bị siêu hiện đại thì một đất nước có tài nguyên “rừng vàng biển bạc” như Việt Nam lại vẫn là một nền kinh tế vô cùng thô sơ và nghèo nàn. Chúng ta không chỉ cần mang về Việt Nam các loại máy móc thiết bị mà hơn như thế, chúng ta cần những máy móc thực sự hữu dụng và có chất lượng để phục vụ cho tất cả các ngành kinh tế, để Việt Nam không trở thành bãi rác công nghệ của các nước phát triển. Những nhu cầu bức thiết đó cũng như sự kiện Việt Nam mở cửa nền kinh tế, hội nhập thị trường thế giới, đã mở ra rất nhiều hứa hẹn cho các lĩnh vực kinh doanh về máy móc công nghệ, thiết bị điện tử. Nắm bắt được thời cơ đó, rất nhiều doanh nhân, dựa trên cơ sở sự hiểu biết của mình trong lĩnh vực máy móc thiết bị, đã tìm cho mình con đường kinh doanh trong lĩnh vực này, và cũng trong những năm đầu đổi mới ấy, công ty TNHH Thắng Lợi đã được thành lập. Công ty được thành lập từ năm 1993, có tên giao dịch đối ngoại là Victory Company Limited và đến tháng 7/2005 thì chuyển thành Công ty cổ phần Thiết bị Thắng Lợi (Victory Instrument Jsc). Ngay từ đầu, công ty đã xác định hướng kinh doanh với các hoạt động được coi là rất mới mẻ so với thời điểm lúc bấy giờ, đó là kinh doanh các loại máy móc, thiết bị đo lường có tính kỹ thuật hiện đại phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, các phòng thí nghiệm, cũng như các ngành nghề đòi hỏi trình độ công nghệ cao. Công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi là một công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại chứ không tiến hành sản xuất. Là đại diện của nhiều hãng sản xuất thiết bị nổi tiếng thế giới, chủ yếu của Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu và các nước tiên tiến khác, Công ty Cổ Phần Thiết Bị Thắng Lợi cung cấp thiết bị, vật tư và giải pháp trong các lĩnh vực sau. - Thiết bị đo lường, thử nghiệm điện, điện tử, cơ khí - Thiết bị mô phỏng và thực hành vật lý, hoá học, sinh học và các chuyên ngành điện, điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin, tự động hoá, xử lý môi trường,.v..v… - Thiết bị an ninh, bảo vệ, kiểm soát nhân sự - Linh kiện điện, điện tử, cơ khí - Thiết bị phân tích và thiết bị cơ bản trong phòng thí nghiệm - Thiết bị nghiên cứu, quan trắc, xử lý ô nhiễm môi trường - Thiết bị nghiên cứu, kiểm tra chất lượng sản phẩm cho các ngành công nghiệp, thuỷ sản, dược phẩm, thực phẩm và nước giải khát - Thiết bị cho ngành công nghệ sinh học - Thiết bị y tế - Thiết bị nghiên cứu và thử ngiệm vật liệu xây dựng - Thiết bị trắc đạc và định vị vệ tinh - Thiết bị thi công xây dựng - Các giải pháp tự động hoá: tự động hoá toà nhà, tự động hoá trong giao thông, giải pháp tổng thể cho nhà máy - Cung cấp các dây chuyền tự động hoá cho các ngành công nghiệp. Hoạt động điển hình của công ty là nhập khẩu các loại thiết bị, máy móc từ nước ngoài về để cung cấp cho khách hàng trong nước. Công ty Cổ Phần Thiết bị Thắng Lợi đã và đang cung cấp vật tư, thiết bị, giải pháp cho rất nhiều khách hàng trên khắp các vùng miền của Tổ quốc. Với đội ngũ cán bộ đông đảo, năng động, nhiệt thành và giàu năng lực, cùng với kênh cung cấp rộng khắp, Victory đang càng ngày càng khẳng định vị trí và uy tín của mình trong cả nước. 3.3.1. Quá trình xác lập và ký kết hợp đồng nhập khẩu của Công ty Thắng Lợi Hợp đồng nhập khẩu của công ty với đối tác nước ngoài thông thường được ký kết với nội dung rất đơn giản, chỉ gồm các điều khoản cơ bản về loại hàng hoá, giá cả, số lượng và phương thức vận chuyển hàng. Sở dĩ như vậy là do các đối tác nước ngoài đa phần là những nhà cung cấp rất có uy tín, là đối tác quen thuộc của công ty, và hơn nữa, trong số đó cũng có cả những hãng sản xuất lớn đã lựa chọn công ty Thắng Lợi làm đại lí độc quyền cho họ tại Việt Nam. Cụ thể, hiện nay, công ty Thắng Lợi đang là đại lý phân phối độc quyền tại Việt Nam các sản phẩm của nhiều hãng danh tiếng như: HIOKI- hãng sản xuất thiết bị kiểm tra - đo lường điện, điện tử hàng đầu trên thế giới của Nhật Bản; Hãng thiết bị nghiên cứu tài nguyên rừng và môi trường Silva của Thụy Điển; Phywe- hãng sản xuất đến từ thành phố Goettingen (Đức) nổi tiếng với hơn 40 giải Nobel về khoa học tự nhiên chuyên cung cấp các bài thí nghiệm về các lĩnh vực khoa học tự nhiên hàng đầu thế giới, với gần 90 năm kinh nghiệm, Phywe mang lại một hệ thống các bài thí nghiệm vật lý, sinh học, hoá học phong phú, đa dạng; AOIP - Pháp là hãng chuyên sản xuất các thiết bị đo lường, kiểm chuẩn với độ chính xác rất cao; Hãng Bruel and Kjaer (Đan Mạch)- nhà sản xuất hàng đầu các sản phẩm chuyên về đo lường, phân tích, xử lí tín hiệu âm thanh và rung (Sound anh Vibration); ONO SOKKI- nhà cung cấp thiết bị đo kiểm hàng đầu Nhật Bản;… Nội dung hợp đồng ngắn gọn Xem phụ lục và rất nhiều điều khoản liên quan đến vấn đề pháp lí về giải quyết tranh chấp khi có vi phạm xảy ra cũng không được chú ý nhiều. Hầu hết các hợp đồng đều không có điều khoản thoả thuận về luật áp dụng để đảm bảo thực hiện, các điều khoản thoả thuận về phương thức giao hàng như FOB, CFR… đều không được gắn với bất kỳ phiên bản Incoterms cụ thể nào. Thậm chí việc lựa chọn các điều kiện giao hàng quốc tế cũng được lựa chọn chưa phù hợp, chẳng hạn như điều kiện FOB vốn chỉ được áp dụng khi vận chuyển hàng hoá bằng đường biển thì lại được áp dụng để vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không. Chỉ trong một số ít trường hợp, khi lần đầu cộng tác với một nhà cung cấp mới thì hợp đồng mới xác định rõ phiên bản Incoterms cụ thể được dẫn chiếu. Đối với các hãng mà công ty làm đại diện độc quyền, công ty phân công một người phụ trách chung, chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh trước công ty và hãng đó. Các thành viên ở các văn phòng đại diện được phân công kinh doanh máy móc, thiết bị của hãng này phải chịu sự chỉ đạo của người phụ trách chung và phải báo cáo hoạt động với người này. Việc xác lập một hợp đồng nhập khẩu, công ty có thể cử người đàm phán, thỏa thuận và đưa ra một bản hợp đồng để các bên cùng ký kết; hoặc cũng có thể đơn giản hơn là bạn hàng nước ngoài đưa ra một báo giá và công ty chấp nhận với giá đó, hay công ty fax một đơn đặt hàng sang cho các nhà cung cấp và nhà cung cấp đồng ý cung cấp mặt hàng theo đúng tiêu chuẩn về số lượng, chất lượng, giá cả trong đơn đặt hàng, thì trong những trường hợp này coi như đã thiết lập hợp đồng, không cần ký một hợp đồng riêng rẽ nữa. Nhưng thông thường, do đặc điểm phức tạp của hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế nên hình thức hợp đồng theo kiểu chấp nhận chào hàng chỉ thường được công ty áp dụng đối với hoạt động thương mại trong nước, và rất hãn hữu đối với hoạt động nhập khẩu. Trong việc thiết lập và ký kết hợp đồng với các nhà cung cấp nước ngoài, các bên chỉ thỏa thuận với nhau một vài vấn để cốt yếu là loại hàng, giá cả và thời gian giao hàng, con các điều khoản khác thì được lập theo một mẫu hợp đồng đã có sẵn sau quá trình các bên có sự hợp tác lâu dài với nhau. Sau khi có hợp đồng và đã thực hiện xong việc giao nhận hàng hóa, công ty phát đi một lệnh chuyển tiền yêu cầu ngân hàng của mình thanh toán cho người bán, và cuối cùng sẽ nhận lại được điện chuyển tiền thông báo việc chuyển tiền đã được thực hiện, khi đó coi như hoàn tất một hợp đồng nhập. Một bộ hồ sơ đầy đủ để xác nhận một hợp đồng nhập đã hoàn tất bao gồm Hợp đồng có chữ ký và con dấu của các bên, hoặc một báo giá hay đơn đặt hàng được chấp nhận; Lệnh chuyển tiền và điện chuyển tiền Ngoài ra, còn có thể có các văn bản khác có liên quan chặt chẽ đến hợp đồng như: giấy nhận nợ, đơn xin mua ngoại tệ, ủy nhiệm chi (lệnh chi), hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng thực chất nó không chỉ phục vụ cho hoạt động nhập khẩu mà đây là một hợp đồng vay vốn ngân hàng để cung cấp cho mọi hoạt động của công ty. Hợp đồng này đơn giản chỉ là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa ngân hàng và doanh nghiệp, theo đó thì ngân hàng sẽ cho công ty vay một khoản tiền trong một thời hạn nhất định với một mức lãi suất nhất định, và công ty phải cam kết đảm bảo nghĩa vụ thanh toán bằng viêc thế chấp tài sản hoặc các biên pháp tương đương. Thông thường, đối với khoản tiền vay trong hợp đồng tín dụng, ngân hàng sẽ đưa ra một hạn mức số dư khoản vay. Doanh nghiệp chỉ được phép vay vốn của ngân hàng nếu số dự nợ trong tài khoản của công ty nằm trong mức giới hạn đó. Còn nếu số dư nợ vượt quá hạn mức quy định thì công ty chỉ được vay vốn khi đã thanh toán hết khoản vượt quá đó cho ngân hàng. Trong các hoạt động liên quan đến tài chính trong nước cũng như thanh toán quốc tế, hai ngân hàng mà công ty Thắng Lợi thường xuyên giao dịch là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn- Chi nhánh Bắc Hà Nội, và Ngân hàng Indovina. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, trước đây, khi vay vốn, công ty cũng phải thế chấp tài sản. Nhưng dần dần, do làm ăn lâu dài và có uy tín nên ngân hàng cho phép công ty được tín chấp thay vì phải thế chấp Tài sản. Mức tín chấp được tăng dần từ 30%, 50% và đến nay Công ty đã được xếp vào danh sách khách hàng loại A của ngân hàng nên được tín chấp gần như 100% giá trị khoản vay, cụ thể là hiện nay công ty chỉ phải thế chấp số tài sản 3 tỷ trên tổng khoản vay là 30 tỷ đồng. Còn đối với Ngân hàng Indovina Hà Nội, do đây là một ngân hàng liên doanh, có yếu tố nước ngoài nên các yêu cầu khắt khe hơn rất nhiều so với Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn, vì thế mà cho đến nay, công ty vẫn phải thế chấp 100% tài sản cho toàn bộ khoản vay. Khi thực hiện nghĩa vị thanh toán đối với một hợp đồng nhập khẩu thì đương nhiên công ty phải thanh toán bằng ngoại tệ. Để thông qua ngân hàng thanh toán, doanh nghiệp phải viết một đơn xin mua ngoại tệ để yêu cầu thanh toán xuất ngoại tệ thanh toán cho mình. Thủ tục này là do quy định riêng của từng ngân hàng. Các ngân hàng thương mại Nhà nước như Ngân hàng Nông nghiệp thì cơ cấu của nó thường có phòng thanh toán riêng và phòng ngoại tệ riêng, vì thế cần có đơn xin mua ngoại tệ của người yêu cầu thanh toán để phòng ngoại tệ chuyển tiền lên cho phòng thanh toán thực hiện yêu cầu của công ty. Còn những ngân hàng liên doanh như Ngân hàng Indovina thì chỉ có một phòng thanh toán nên không cần qua thủ tục này. 3.3.2. Các tranh chấp thường xảy ra trong hoạt động nhập khẩu và biện pháp giải quyết của công ty Tranh chấp trong mua bán hàng hóa Quốc tế hay trong kinh doanh xuất nhập khẩu có thể hiểu là sự giành giật, bất đồng về lợi ích kinh tế giữa các bên liên quan tham gia vào hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế (xuất nhập khẩu). Các tranh chấp phát sinh luên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu thường rất đa dạng, phức tạp, có thể là tranh chấp giữa người nhập khẩu với người xuất khẩu, giữa người nhập khẩu hay xuất khẩu với người chuyên chở hàng hóa, giữa người nhập khẩu với người bảo hiểm hàng hóa… Các tranh chấp này có thể phát sinh trực tiếp từ hợp đồng xuất nhập khẩu, nhưng cũng có thể phát sinh từ các quan hệ hợp đồng khác liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế như hợp đồng chuyên chở hàng hóa, hợp đồng bảo hiển hàng hóa xuất nhập khẩu… Tranh chấp có thể phát sinh ngay trong quá trình ký kết hợp đồng mà chủ yếu là về nội dung hợp đồng. Luật Quốc gia của các nước cũng như các Điều ước Quốc tế đều khẳng định tính hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế khi nó có đầy đủ các điều khoản chủ yếu, nếu thiếu một trong các điều khoản đó thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực cho dù các bên đã ký kết. Nhưng vấn đề là các điều khoản chủ yếu này lại được quy định không thống nhất ở các Quốc gia khác nhau. Vì thế, trong các hợp đồng xuất nhập khẩu, có trường hợp hợp đồng được coi là đã ký kết theo luật của nước này nhưng lại chưa được ký kết theo luật của nước khác. Trong những trường hợp như vậy mà các bên không có cách giải quyết thích hợp thì tranh chấp về nội dung hợp đồng là điều khó tránh khỏi. Hình thức hợp đồng cũng là vấn đề có thể làm phát sinh tranh chấp. Trong tập quán thương mại Quốc tế, hầu hết các hợp đồng đều được lập thành văn bản. Hợp đồng được thiết lập khi các bên đồng thuận ký vào văn bản. Nhưng Công ước Viên 1980- một căn cứ pháp lí vô cùng quan trọng được áp dụng nhiều nhất trong hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế thì lại chấp nhận cả một hợp đồng được giao kết bằng lời nói, và có thể được chứng minh thông qua lời khai của nhân chứng. Do đó, đối với trường hợp của Công ty Thắng lợi, khi mà họ thường ký kết hợp đồng với các đối tác quen thuộc và hợp đồng luôn chỉ mang những nội dung rất đơn giản và sơ lược thì cũng cần lưu ý đến vấn đề này. Qua hơn 10 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu, cộng tác với rất nhiều bạn hàng ở nhiều Quốc gia khác nhau thuộc nhiều khu vực trên Thế giới, những vi phạm thường xảy ra nhất trong quá trình thực hiện các hợp đồng nhập khẩu của công ty Thắng Lợi là vi phạm về nghĩa vụ giao hàng của người bán mà cụ thể là về thời gian giao hàng và chất lượng hàng hóa. Đây cũng là những vi phạm phổ biến nhất trong quan hệ thương mại Quốc tế nói chung. Về chất lượng, người bán (nhà xuất khẩu) phải có nghĩa vụ giao hàng phù hợp với phẩm chất đã quy định trong hợp đồng. Nếu đối tượng trong hợp đồng là hàng đặc định thì người bán phải giao hàng có phẩm chất hoàn toàn phù hợp với quy định của hợp đồng. Mọi sự khác biệt về phẩm chất đều bị coi là vi phạm hợp đồng. Trong trường hợp người bán giao hàng có khuyết tật thì người mua có quyền đòi bồi thường bằng hiện vật bằng cách thay thế hàng hóa mới hoặc sửa chữa khuyết tật. Nếu đối tượng hợp đồng là hàng đồng loại thì tùy thuộc các chỉ tiêu chất lượng trong hợp đồng để xét xem người bán có giao hàng đúng chất lượng hay không. Thông thường, các công ty khi tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế thì đều có thiện chí thực hiện Hợp đồng để đạt được mục đích của mình về lợi nhuận và uy tín. Khi tranh chấp phát sinh thì một mặt bắt buộc các bên phải tìm cách giải quyết để điều hòa quyền lợi của mình, nhưng mặt khác, các bên lại muốn làm sao cho sự việc được giải quyết một cách êm thấm, tránh ồn ào. Vì thế, đối với hợp đồng nhập khẩu của Công ty Thắng Lợi, khi tranh chấp xảy ra, các bên thường cố gắng tự thỏa thuận, dàn xếp với nhau theo các phương pháp tiền khởi kiện. Trong số các phương pháp tiền khởi kiện thì phương pháp thương lượng trực tiếp (khiếu nại) được áp dụng nhiều hơn cả. Giải quyết tranh chấp bằng khiếu nại là phương pháp giải quyết tranh chấp vừa nhanh chóng, vừa đỡ tốn kém mà vẫn có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Bởi vậy, khi có tranh chấp phát sinh, các doanh nghiệp Việt nam thường đề nghị phía đối tác trực tiếp bàn bạc để tìm ra cách giải quyết ôn hòa nhất. Trường hợp hàng không phù hợp với hợp đồng mua bán về số lượng và chất lượng thì bộ hồ sơ khiếu nại người bán thường bao gồm thư khiếu nại, hợp đồng mua bán và các chứng từ quan trọng như biên bản giám định, vận đơn, giấy chứng nhận trọng lượng hay phẩm chất, biên bản quyết toán nhận hàng với tàu. Việc xác định mức độ vi phạm về phẩm chất trong nhiều trường hợp là rất phức tạp nhưng người mua vẫn phải dựa vào biên bản giám định để đánh giá mức độ này. Nếu trong đơn khiếu nại mà người mua không nêu rõ mức độ tổn thất thì đơn khiếu nại có thể coi là không hợp lệ. Trong quá trình khiếu nại người bán về việc vi phạm số lượng và phẩm chất so với hợp đồng, biên bản giám định phẩm chất có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Vì thế, khi nhận hàng, người nhập khẩu luôn đặc biệt chú ý đến việc lập biên bản giám định kịp thời và chính xác để bảo vệ quyền lợi của mình sau này. Tuy nhiên, về nguyên tắc, biên bản giám định do người mua lập tại nơi hàng đến có giá trị pháp lí như thế nào thì còn tùy thuộc vào thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu hợp đồng quy định rằng việc giám định hàng hóa được tiến hành tại nơi đến và biên bản giám định hàng tại nơi đến có tính chất cuối cùng thì biên bản này sẽ có tác động ràng buộc người bán, người bán khó có thể bác bỏ kết quả này. Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý rằng, khi khiếu nại, người mua phải có trách nhiệm bảo quản hàng hóa để giữ nguyên tình trạng về số lượng và phẩm chất như khi nhận, không được để hàng hóa bị tổn thất thêm, để bên bán có thể cử người sang tiến hành lập biên bản giám định đối tịch. Vì có không ít trường hợp, do sơ xuất mà bên mua không giữ được hàng hóa ở trạng thái khi lập biên bản giám định dẫn đến việc người bán có thể từ chối khiếu nại. Trong trường hợp hợp đồng không quy định về biên bản giám định cuối cùng như trên thì thông thường, nếu muốn chứng minh tổn thất, người mua phải mời cơ quan giám định chuyên môn có uy tín hoặc mời đại diện của người bán đến để làm biên bản giám định xác định mức độ thiếu hụt, kém phẩm chất của hàng hóa. Trong những trường hợp này, người mua thường đưa ra các phương án giải quyết: Người bán phải nhận lại lô hàng và hoàn trả tiền hàng nếu chất lượng hàng thực giao thấp tới mức người mua không thể sử dụng theo mục đích ban đầu khi giao kết hợp đồng; Giảm giá lô hàng cho phù hợp với số lượng và phẩm chất hàng thực giao; Thay thế bằng lô hàng mới nếu những khuyết tật là không thể khắc phục được; Giao thêm cho đủ số lượng hàng theo đúng phẩm chất đã thỏa thuận trong hợp đồng. Như đã đề cập, một vấn đề rất hay xảy ra tranh chấp nữa là thời hạn giao hàng. Theo quy định của hầu hết các Quốc gia, điều khoản thời hạn giao hàng là một trong những điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế. Mặt khác, thời hạn giao hàng còn liên quan đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của các bên, đặc biệt là đối với người nhập khẩu. Vì thế, việc giao hàng không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lí mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của bên mua. Trong trường hợp này, người mua thường khiếu nại đòi tiền phạt hoặc đòi người bán bồi thường thiệt hại nếu việc chậm giao hàng của người bán gây thiệt hại cho người mua. Khi khiếu nại trong trường hợp người bán chậm giao hàng, hồ sơ thường gồm: Hợp đồng mua bán hàng hóa: là cơ sở thể hiện nghĩa vụ giao hàng của người bán mà hai bên đã thỏa thuân và thống nhất; Thư tín dụng (nếu có thỏa thuận L/C) do người mua mở: đây là chứng từ thể hiện người mua đã thực hiện nghĩa vụ trả tiền của mình theo hợp đồng. Nếu hợp đồng quy định thời gian giao hàng có liên quan đến ngày mở L/C (ví dụ: giao hàng trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày mở L/C) thì rõ ràng L/C là chứng từ không thể thiếu trong hồ sơ khiếu nại; Vận đơn B/L: là chứng từ thể hiện ngày giao hàng thực tế của người bán, đây là cơ sở xác định số ngày chậm giao hàng Ngoài ra, có thể khiếu nại do người bán mắc lỗi thương mại, không thực hiện tốt nghĩa vụ bao gói, bảo quản hàng hóa,… CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐỂ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU VÀ ĐỂ ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA PHÍA VIỆT NAM 4.1. Điều chỉnh các công cụ quản lí kinh tế 4.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện các công cụ kinh tế trong quản lí hoạt động nhập khẩu Xuất nhập khẩu hàng hóa là một lĩnh vực quan trọng trong hoạt động kinh tế của một Quốc gia, đồng thời cũng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và phức tạp, có liên quan đến các quy định của Thế giới về quản lí xuất nhập khẩu hàng hóa. Vì vậy, cụ thể hóa các chế định pháp luật thông qua các công cụ kinh tế để điều hòa các hoạt động kinh tế đối ngoại là điều mà Chính phủ của các Quốc gia luôn phải quan tâm hàng đầu, đặc biệt là đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, khi mà hệ thống pháp luật cũng như hệ thống các công cụ kinh tế điều tiết hoạt động thương mại Quốc tế còn rất non kém và cần nhanh chóng được hoàn thiện nhằm theo kịp những biến động phức tạp của thị trường Thế giới. Theo tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta đang ngày càng có sự quan tâm đúng mức đến các công cụ kinh tế này và đã thể hiện rõ quan điểm trong các kỳ đại hội Đảng. Trong đó có các quan điểm về hoàn thiện các công cụ kinh tế nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu như sau: Hoàn thiện các công cụ kinh tế nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu phải gắn chặt với chiến lược về hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường. Trong đó, hoàn thiện mỗi công cụ phải đặt trong sự tương thích với các công cụ khác nhằm bảo đảm tính đồng bộ trong định hướng tác động của các công cụ. Hoàn thiện các công cụ phải theo định hướng lâu dài, khắc phục tình trạng thường xuyên thay đổi trong thời gian qua gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Hoàn thiện công cụ kinh tế thúc đẩy hoạt động nhập khẩu theo hướng tương thích với các thể chế Quốc tế và khu vức mà Việt nam tham gia cam kết. Theo đó, việc hoàn thiện từng công cụ kinh tế của Nhà nước phải phù hợp với “luật chơi chung”, các “thước đo chung” của Thế giới, đặc biệt là của WTO. Hoàn thiện các công cụ kinh tế thúc đẩy hoạt động nhập khẩu phải tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt giữa khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân, kinh tế trong nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện công cụ kinh tế theo hướng thúc đẩy cải cách doanh nghiệp Nhà nước để hoạt động có hiệu quả hơn, phát triển và hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tham gia hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế. 4.1.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm từng bước hoàn thiện các công cụ kinh tế thúc đẩy hoạt động nhập khẩu 4.1.2.1. Đối với công cụ thuế quan Việc cần thiết cho tiến trình hoàn thiện thuế quan trong thời kỳ tới là thực hiện đầy đủ việc cắt giảm hàng rào thuế quan theo các lộ trình đã cam kết với các Tổ chức Quốc tế và trong các Hiệp định Thương mại, đặc biệt là cam kết với WTO; khắc phục quan điểm chỉ chú trọng hỗ trợ đầu ra, ít chú trọng hỗ trợ đầu vào. Xu hướng chung của Thế giới là các nước sửa đổi thuế nhập khẩu theo hướng hạ thấp mức thuế, đơn giản hóa cơ cấu thuế quan, ít thuế suất và các thuế suất chênh lệch nhau nhưng không lớn. Cần tiến hành thuế hóa các biện pháp phi thuế quan, vì việc sử dụng thuế quan vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước vừa cải thiện tính minh bạch của chính sách thương mại, và quan trọng hơn là phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Các quy định của WTO không xác định cụ thể các nước buộc phải dụng loại thuế nào nhưng trên thực tế, hầu hết các biểu thuế quan nhập khẩu của các nước được xác lập trên cơ sở thuế phần trăm. Trong một số trường hợp, thuế cố định và thuế tuyệt đối thay thế cũng có thể được cam kết, xuất phát từ thực tiễn thuế quan của từng nước và trong từng thời kỳ phát triển kinh tế cụ thể. Đồng thời, Nhà nước cũng cần từng bước xây dựng và sử dụng thuế đối kháng, thuế chống bán phá giá, chống độc quyền; hạn chế sự phức tạp của các thủ tục Hải quan, đơn giản hóa và mẫu hóa thống nhất các loại hóa đơn, chứng từ. Áp dụng định hướng chung đó cho vấn đề hoàn thiện chính sách thuế, Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện biểu thuế nhập khẩu một cách cụ thể, chi tiết và nhất quán theo hướng minh bạch hóa, đơn giản hóa, hội nhập hệ thống thuế quan khu vực và Thế giới, phù hợp với những quy định của WTO. Để đảm bảo tính thống nhất trong toàn bộ hệ thống thuế quan, mức thuế suất của biểu thuế nhập khẩu cũng cần được điều chỉnh cho phù hợp với việc áp dụng với việc áp dụng Luật thuế GTGT đối với hàng Nhập khẩu. Trong điều kiện phải giảm thuế nhập khẩu, để đảm bảo nguồn thu ngân sách và định hướng tiêu dùng, cần sửa đổi bổ sung Luật thuế GTGT theo hướng áp dụng thuế GTGT đối với cả hàng tiêu dùng nhập khẩu đã nộp thuế Tiêu thụ đặc biệt; giảm thuế suất thuế GTGT đối với các sản phẩm thuộc các ngành có ý nghĩa chiến lược như nhập khẩu máy móc, thiết bị, nhằm giảm chi phí đầu vào cho một số ngành sản xuất chủ yếu và để doanh nghiệp không phải ứng trước tiền thuế, khuyến khích hoạt động nhập khẩu các sản phẩm này. Các ưu đãi, miễn giảm thuế để khuyến khích nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại là những biện pháp thuế quan cần thiết trong giai đoạn đầu của chiến lược Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa Đất nước. Song, các biện pháp này cũng chỉ nên áp dụng trong một thời gian nhất định, phù hợp với trình độ phát triển và từng giai đoạn của lộ trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa , sau đó cần giảm dần và chuyển sang các hình thức ưu đãi khác phù hợp với tình hình chung. Với sự tác động của quy luật lợi thế so sánh, trên phạm vi toàn cầu, khi đánh thuế nhập khẩu làm cho giá cả trong nước cao hơn giá cả Quốc tế, tức là thuế quan gây thiệt hại cho Thế giới nói chung. Khi chính phủ một nước đánh thuế nhập khẩu quá cao thì nước đó phải chịu thiệt hại về sản xuất và tiêu dùng, đồng thời dễ dẫn đến tình trạng buôn lậu, lẩn tránh hàng rào thuế quan. Như vậy, thuế quan nhập khẩu có nhiều mặt ưu nhược điểm, tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của từng nước. Trong hầu hết các nền kinh tế đang phát triển, cơ cấu thuế xuất nhập khẩu được chia theo những mức khác nhau: Thuế suất cao nhất thường đánh vào các mặt hàng tiêu dùng cao cấp, đặc biệt là hàng xa xỉ; Thuế suất trung bình đánh vào các loại hàng bán thành phẩm; Thuế suất thấp nhất, thậm chí bằng 0 thường đánh vào các loại là Tư liệu sản xuất và các loại máy móc, thiết bị, công nghệ cao. Một hoạt động quan trọng hơn cả là Nhà nước cần tăng cường việc kiểm tra, kiểm soát và xử lý các trường hợp vi phạm về thu thuế, hoàn thuế, thoái thuế… Đối với các trường hợp miễn thuế quan, cần sớm chuyển sang hệ thống miễn thuế tự động dựa trên các yếu tố đầu vào- đầu ra và có thể áp dụng cho công tác hoàn thuế. Để ngăn ngừa và xử lí các hành vi trốn lậu thuế, cần tăng cường phối hợp hoạt động giữa cơ quan thanh tra liên ngành, hải quan, công an kinh tế và ngành Tòa án, nhất là trong việc xử lí các hành vi lợi dụng Chính sách hoàn thuế, thoái thuế, miễn thuế của Nhà nước để gian lận, trốn thuế. Đồng thời cũng phải tiến hành cải cách cơ chế và thủ tục khai nộp thuế theo hướng đơn giản, nhanh gọn, minh bạch và đúng pháp luật. 4.1.2.2. Đối với công cụ tỷ giá hối đoái Trong điều kiện hiện nay, Nhà nước cần tiếp tục duy trì tỷ giá hối đoái hợp lí theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, tiếp tục áp dụng tỉ giá thả nổi có quản lí, góp phần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Theo đó, Nhà nước có thể sử dụng mềm dẻo công cụ tỉ giá, điều chỉnh linh hoạt theo tín hiệu thị trường, song vẫn phải đạt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô vào vị trí ưu tiên hàng đầu. Gần đây, có nhiều nước thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt có quản lí, đề phòng suy thoái kinh tế và lạm phát. Vì nếu để đồng tiền mất giá quá lớn, xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm, có thể sẽ tạo thêm nhiều công ăn việc làm trong nước, song nguy cơ bùng nổ lạm phát lại tăng. Ngược lại, nếu để đồng tiền trong nước tăng giá quá cao thì tuy lạm phát có thể giảm, nhưng cán cân ngoại thương sẽ xấu đi, xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng, kéo theo gia tăng chi phí sản xuất trong nước và thu hẹp công ăn việc làm, dẫn đến nguy cơ suy thoái kinh tế. Như vậy, Nhà nước cần tìm ra một cơ chế hối đoái thích hợp, xét đến những đặc điểm có tính quyết định của nền kinh tế, bối cảnh kinh tế khu vực và thế giới, mức độ tập trung thương mại, nhịp độ tăng trưởng kinh tế, tình trạng lạm phát… Từ đó lựa chọn và giải quyết chính sách tỷ giá hôi đoái hợp lí nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu theo đúng xu hướng của thời đại. Cùng với việc thực hiện mục tiêu ổn định giá, việc sử dụng công cụ tỉ giá phải góp phần từng bước nâng cao uy tín của đồng Việt Nam, tạo những tiền đề cần thiết để đồng tiền Việt Nam trở thành đồng tiền chuyển đổi. Cần từng bước xóa bỏ sự bất hợp lí về việc gắn quá chặt đồng Việt nam vào đôla Mỹ trong khi ta có quan hệ kinh tế với hơn 170 nước mà rất nhiều trong số đó đồng tiền của họ không phải là đôla. Vì vậy cần nhanh chóng xúc tiến chuyển sang điều hành tỉ giá đa phương qua một số đồng ngoại tệ mạnh gồm đôla Mỹ, Yên Nhật, và EUR. Mục tiêu trước nhất của việc sử dụng tỉ giá trong thời kỳ tới là tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt nam, của doanh nghiệp Việt Nam và của nền kinh tế. 4.1.2.3. Đối với công cụ tín dụng Các công cụ tín dụng cần được điều chỉnh theo hướng góp phần làm giảm chi phí đầu vào cho sản xuất. Cụ thể là giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nhập khẩu các sản phẩm cung cấp đầu vào cho sản xuất để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hạ giá bán các yếu tố sản xuất mà vẫn đảm bảo được lợi ích cho họ. Chính phủ cũng cần nhanh chóng thành lập các ngân hàng hỗ trợ phát triển và tín dụng, hoạt động với tính chất là một ngân hàng chuyên phục vụ xuất nhập khẩu với mục tiêu tập trung toàn bộ các công cụ hỗ trợ tín dụng, ưu đãi tín dụng vào một kênh duy nhất. Qua đó, Nhà nước tập trung tín dụng trung và dài hạn cho đầu tư phát triển công nghệ, nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại, phát triển vùng nguyên liệu phục vụ xuất khẩu. Để hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam có đủ sức cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, cần tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại của Nhà nước theo hướng cổ phần hóa, tăng vốn cho các ngân hàng thương mại bằng cách chào bán cổ phần, cổ phiếu cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu để cùng tham gia góp vốn và chịu trách nhiệm. Ngoài ra, Nhà nước cũng nên thiết lập và củng cố các công cụ kinh tế khác để hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu nói chung cũng như hoạt động nhập khẩu nói riêng, điển hình như hệ thống bảo hiểm. Nhà nước cần sớm ban hành và hỗ trợ một khoản kinh phí để phát triển các loại hình doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm trong xuất nhập khẩu hàng hóa, hỗ trợ các Hiệp hội ngành hàng thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro cho riêng ngành hàng của mình, đặc biệt là các ngành hàng quan trọng tức là các ngành có yếu tố công nghệ hiện đại. 4.2. Một số khuyến nghị nhằm đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp hoạt động nhập khẩu 4.2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước vê phát triển hoạt động nhập khẩu Theo chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2000- 2010 do Bộ thương mại đề ra, phương châm hoạt động đối với hàng nhập khẩu là: - Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, năng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu. - Cố gắng sử dụng vật tư, thiết bị mà trong nước có thể sản xuất được để tiết kiệm ngoại tệ, nâng cao trình độ sản xuất. - Hạn chế tới mức tối đa có thể được việc nhập khẩu hàng tiêu dùng. - Tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn (Mỹ, Nhật, Tây Âu); giảm nhanh tiến tới hạn chế nhập thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian. Nhu cầu nhập khẩu tăng năm 2010 dự kiến như sau: Nhóm hàng Kim ngạch 2010 (triệu USD) Tỷ trọng (%) 2000 2010 1. Máy móc thiết bị 18.000 27 36 2. Nguyên nhiên vật liệu 30.000 69 60 3. Hàng tiêu dùng 2.000 4 4 Tổng kim ngạch NK 50.000 100 100 Nguồn: Bộ Thương mại (2000) Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2000- 2010 Cơ cấu nhập khẩu sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng máy, thiết bị công nghiệp và công nghệ từ 27% năm 2000 lên 36% 2010, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ 69% năm 2000 xuống 60% năm 2010, giữ nguyên tỷ trọng hàng tiêu dùng ở mức 4% như hiện nay. Khả năng này có tính hiện thực vì trong những năm tới ta sẽ giảm nhập khẩu xăng dầu, một số đồ dùng lâu bền, phân bón và các loại vật liệu xây dựng..., hàng tiêu dùng nhập khẩu đang được thay thế dần bằng hàng sản xuất trong nước, nhất là vào những năm cuối thời kỳ 2001-2010. Nước ta còn đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, trình độ phát triển kinh tế còn thấp, do đó chưa thể xóa bỏ được tình trạng nhập siêu. Mức nhập siêu cao hay thấp còn tùy thuộc kết quả thực hiện các chính sách đẩy mạnh xuất khẩu và sử dụng hợp lý các nguồn vốn nhập khẩu. Đồng thời, cần tính tới nhân tố khi mở cửa thị trường theo cam kết quốc tế, hàng rào quan thuế và phi quan thuế sẽ giảm dần do đó hàng nước ngoài sẽ dễ xâm nhập thị trường nước ta hơn. Do đó ta cần ra sức nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nội địa, chủ động đi vào thị trường nước khác, đổi mới cơ bản phương thức quản lý nhập khẩu. Phương án khả thi là kiềm chế nhập khẩu, giảm dần tỷ lệ nhập siêu, khống chế nhập siêu hàng năm ở mức không quá 10% kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập và xuất siêu vào cuối thời kỳ của chiến lược 2001-2010. 4.2.2. Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp Trong thương mại Quốc tế, tranh chấp là điều khó có thể tránh được vì giữa các bên tham gia hợp đồng thường có sự xa cách về mặt địa lí, khác biệt về truyền thống pháp luật và tập quán thương mại, có thể còn do sự thiếu hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Hơn nữa, điều kiện ngoại cảnh ở mỗi nước đều có thể gây ra những khó khăn khó lường trước, đôi khi là bất khả kháng cho mỗi bên khi thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Trong bối cảnh hội nhập và xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các nền kinh tế đều đã và đang phát triển theo hướng tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh, tự do hợp đồng, từ đó kéo theo các tranh chấp thương mại nói chung và các tranh chấp thương mại Quốc tế nói riêng diễn ra ngày càng nhiều với tính chất ngày càng phức tạp hơn. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu Việt nam, tranh chấp xảy ra thường do nguyên nhân chủ yếu là nền kinh tế mở, số lượng hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế tăng nhanh trong khi hệ thống pháp luật điều chỉnh chưa phát triển tương thích, sự hiểu biết về luật pháp trong lĩnh vực thương mại Quốc tế cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các thương nhân Việt Nam còn chưa bắt nhịp kịp với điều kiện kinh doanh của cơ chế đã kéo theo sự gia tăng các vụ tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu hoặc từ các hoạt động có liên quan đến hợp đồng này. Vì thế các doanh nghiệp cần đặc biệt lưu tâm đến vấn đề bồi dưỡng kiến thức pháp luật về Thương mại Quốc tế cho các cán bộ, nhân viên, đặc biệt là những người thường xuyên trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán và ký kết hợp đồng để có thể đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp Việt nam ngay trong việc xác lập hợp đồng cũng như để họ có thể tự bảo vệ mình nếu xảy ra tranh chấp về sự vi phạm nghĩa vụ của các bên, nhất là từ phía đối tác nước ngoài. Trong quá trình đàm phán và ký kết hợp đồng, rất nhiều doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam vì lí do này hay lí do khác như thiếu hiểu biêt pháp luật hoặc có hiểu biết nhưng vì quá tin tưởng và dựa vào lí do giữa các bên đã có mối quan hệ làm ăn lâu dài, mà họ trở nên mất cảnh giác, dẫn đến viêc hợp đồng ký kết có nội dung quá sơ sài. Những trường hợp như thế bình thường thì các doanh nghiệp nhận thấy không có trở ngại gì, thậm chí họ còn thấy thuận tiện vì quá trình xác lập hợp đồng rất đơn giản và gọn nhẹ, nhưng nếu vì một lí do không thể lường trước nào đó (nhà xuất khẩu muốn thay đổi đối tác, doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn không thể thực hiện hợp đồng gây ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của nhà nhập khẩu,…) mà hợp đồng không thể được thực hiện một cách trọn vẹn thì doanh nghiệp rất khó có thể có đủ bằng chứng để đấu tranh cho lợi ích của mình, vì hợp đồng thường thiếu rất nhiều nội dung có ý nghĩa trong việc giải quyết tranh chấp sau này như: chọn luật áp dụng, thỏa thuận nơi kiểm tra hàng, lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp. Một hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế, như đã đề cập, có thể được điều chỉnh bằng nhiều nguồn luật khác nhau. Việc các bên thỏa thuận để lựa chọn ra một văn bản pháp quy hay một Điều ước Quốc tế để thống nhất điều chỉnh hành vi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng là một việc vô cùng quan trọng vì đây có thể coi như một thước đo để xác định được trong quá trình thực hiện hợp đồng, hành vi của các bên có bị coi là sai phạm hay không và nếu có thì ở mức độ nào. Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán Quốc tế là công ước được áp dụng rộng rãi nhất trong số các điều ước quốc tế đa phương về mua bán hàng hoá quốc tế. Cho đến thời điểm hiện nay, đã có 66 quốc gia là thành viên Công ước này . Tuy Việt Nam chưa phải là thành viên của Công ước này, nhưng khi tham gia vào hoạt động thương mại Quốc tế, các thương nhân Việt Nam vẫn có thể lựa chọn Công ước Viên 1980 làm luật áp dụng theo 3 trường hợp sau: Hợp đồng nhập khẩu được ký kết giữa một bên là doanh nghiệp Việt Nam với một bên là thương nhân có trụ sở thương mại tại Quốc gia đã là thành viên của Công ước; Khi các bên trong hợp đồng lựa chọn Công ước viên 1980 là luật áp dụng cho hợp đồng của mình; Khi trong hợp đồng, các bên không lựa chọn luật áp dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp lựa chọn Công ước Viên 1980 để giải quyết tranh chấp. Cơ quan giải quyết tranh chấp có thể là toà án VN, toà án nước ngoài, trọng tài VN hay trọng tài nước ngoài. DN cần nghiên cứu để nắm được tinh thần và nội dung của Công ước Viên1980 vì theo xu hướng chung của thế giới ngày nay, sẽ còn có nhiều tranh chấp nữa về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế giữa doanh ngiệp Việt Nam và các đối tác nước ngoài sẽ được giải quyết bằng CISG bởi các tòa án Việt Nam, tòa án nước ngoài và đặc biệt là các trọng tài quốc tế.Vì vậy, trước hết đến cần nhanh chóng có kế hoạch phổ biến Công ước này cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận và nắm được tinh thần và nội dung của Công ước này. Bộ Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI có thể tổ chức các khoá học cho doanh nghiệp nhằm mục đích này. Lựa chọn luật áp dụng luôn là một vấn đề quan trọng và khó khăn đối với các nhà đàm phán hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế của Việt Nam. Họ có sự lựa chọn giữa luật Việt Nam, luật quốc gia của đối tác, luật quốc gia của nước thứ ba, điều ước quốc tế như Công ước Viên 1980 hay tập quán thương mại quốc tế… Hiện tại Việt Nam chưa gia nhập Công ước Viên nhưng các nhà nhập khẩu Việt Nam có thể lựa chọn Công ước Viên 1980 làm nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và nên lựa chọn vì ba lý do sau: - Thứ nhất, tránh được những khó khăn khi phải đàm phán lựa chọn luật quốc gia làm luật áp dụng cho hợp đồng. Trên thực tế, việc lựa chọn luật quốc gia thường gặp phải rất nhiều khó khăn. Nếu như các nhà đàm phán nước ngoài thường có xu hướng lựa chọn luật quốc gia của mình thì điều này lại không hoàn toàn thuân lợi với các nhà đàm phán Việt Nam. Họ hiểu rằng việc dẫn chiếu đến luật Việt Nam đôi khi không phải là giải pháp tối ưu, vì pháp luật về hợp đồng nói chung và về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng của Việt Nam còn hàm chứa nhiều quy định chưa phù hợp với điều kiện quốc tế, với pháp luật, tập quán thương mại quốc tế và như vậy, chưa thể bảo vệ một cách hiệu quả lợi ích của các bên trong hợp đồng quốc tế. Việc lựa chọn luật quốc gia của nước ngoài có thể đem lại những rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp Việt Nam do thiếu sự hiểu biết đầy đủ về luật đó. - Thứ hai, đây là nguồn luật phổ biến nhất điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hiện nay. Công ước Viên 1980 đã được phê chuẩn bởi 66 quốc gia, trong đó có rất nhiều quốc gia là các nhà cung cấp công nghệ nguồn lớn và lâu dài của cac doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam như Pháp, Mỹ, Italia, Liên bang Nga, Canada, Đức, Hà Lan, Australia, Trung Quốc... Thương nhân của các nước này đã áp dụng và đã quen áp dụng Công ước Viên cho các hợp đồng mua bán hàng hoá ký với các đối tác nước ngoài. Vì vậy, nếu phía Việt Nam đề xuất việc áp dụng Công ước này thì sẽ dễ dàng được đối tác chấp nhận. - Thứ ba, có được sự an toàn về mặt pháp lý, vì các quy định của Công ước Viên là phù hợp với thực tiễn thương mại quốc tế, thường được các thương nhân lựa chọn áp dụng cũng như được các toà án, đặc biệt là các trọng tài quốc tế dẫn chiếu đến khi giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, với tư cách là một văn bản luật thực chất nhằm giải quyết các xung đột trong kinh doanh quốc tế, các quy định trong Công ước được coi là rất hợp lý, đã thống nhất được nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới, tạo được sự bình đẳng giữa người bán và người mua trong quan hệ hợp đồng, giúp các bên bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Qua đó, lại thêm một vấn đề hoàn thiện pháp luật được đặt ra đối với Chính phủ Việt Nam là chúng ta phải nhanh chóng xúc tiến gia nhập Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán Quốc tế để việc vận dụng công ước đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu được dễ dàng và thuận tiện hơn. Ngoài việc chú trọng tìn hiểu Công ước Viên 1980 như vậy thì các nhà nhập khẩu Việt Nam cũng cần lưu tâm đến các tập quán thương mại Quốc tế, điển hình và phổ biến nhất là hai hệ thống Incoterms và UCP. Hai hệ thống tập quán thương mại quốc tế này có rất nhiều phiên bản được thiết lập qua mội kỳ sửa đổi, nên các thương nhân cần chú ý xác định phiên bản cụ thể để dẫn chiếu vào hợp đồng, tránh tình trạng gây ra những cách hiểu khác nhau dẫn đến vi phạm hợp đồng, gây thiệt hại cho cả hai bên do sự thỏa thuận không rõ ràng. Như ở chương 3 đã đề cập, trong hoạt động nhập khẩu của Việt Nam, những vi phạm hợp đồng mà đối tác nước ngoài hay mắc phải nhất là vi phạm về số lượng và chất lượng hàng hóa. Vì thế, khi tham gia hợp đồng nhập khẩu, dù muốn hay không thì doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam cũng nên và cần phải chuẩn bị phản xạ trước những vi phạm như thế để nếu vi phạm xảy ra, nhà nhập khẩu sẽ không bị bối rối và không phải quá nhiều rắc rối vì một sai phạm hoàn toàn có thể được dự báo trước như vậy. Cụ thể, khi xảy ra vi phạm về số lượng hay chất lượng hàng hóa, người nhập khẩu phải tiến hành ngay các công việc: Kịp thời mời cơ quan giám định có thẩm quyền đến giám định và xác nhận số lượng, trọng lượng hay tình trạng chất lượng hàng hóa thực giao tại thời điểm người mua nhận hàng; Thông báo ngay cho người bán để bên bán có thể cử người sang làm biên bản giám định đối tịch; Áp dụng ngay các biện pháp bảo quản, bảo vệ để giữ nguyên tình trạng của hàng hóa khi nhận hàng; Thu thập chứng cứ và hoàn chỉnh hồ sơ khiếu nại. Những hiểu biết ban đầu như vậy trước mắt sẽ giúp các nhà nhập khẩu Việt nam khỏi bỡ ngỡ trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng. Còn đối với những doanh nghiệp đã có thâm niên trong lĩnh vực này thì những kiến thức trên đây cũng có thể phần nào giúp họ củng cố thêm sự bảo đảm cho quyền lợi của các nhà nhập khẩu Việt nam trong hoạt động kinh doanh Quốc tế. KẾT LUẬN Như vậy, xét trên tổng thể, mặc dù vẫn còn một số hạn chế trong hoạt động nhập khẩu của nước ta thời gian qua, nhưng về cơ bản nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển hoạt động nhập khẩu trên cả phương diện tăng trưởng kim ngạch, mở rộng thị trường, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa nhập khẩu. Những thành tựu đó đã góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích các nước đến hợp tác làm ăn và đầu tư vào Việt nam, từng bước nâng cao vị thế của Việt nam trên trường quốc tế. Để thực hiện các chiến lược,chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các chính sách kinh tế, cơ chế quản lí và sử dụng đồng bộ các công cụ, biện pháp quản lí và điều tiết kinh tế vĩ mô, trước hết là các công cụ kinh tế. Trong đó, việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ kinh tế nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu là rất cấp bách. Nhà nước cần có những biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam vươn tới các thị trường có “nền công nghệ nguồn” để nhập khẩu các máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại, giảm nhanh tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng và máy móc thiết bị từ các nước có “nền công nghệ trung gian” và “nền công nghệ thấp”. Kinh nghiệm của những nước và cùng lãnh thổ Châu Á đã thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu hay còn gọi là Chiến lược hướng về xuất khẩu như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Trung Quốc, cho thấy, hầu hết các nước đều chú trọng hoàn thiện để sử dụng hiệu quả các công cụ kinh tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại từ các nước công nghiệp phát triển. Qua đó, có thể khẳng định lĩnh vực hoạt động của công ty Cổ phần thiết bị Thắng Lợi là lĩnh vực vẫn còn rất nhiều điều hứa hẹn cho sự phát triển lâu dài và bền vững, đặc biệt là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Hoạt động của công ty đã đi hoàn toàn đúng hướng với phương châm thay đổi cơ cấu nhập khẩu theo hướng hiện đại của Chính phủ Việt nam. Đó là nhập khẩu các thiết bị công nghệ cao từ các “nền công nghệ nguồn” như Nhật, Mỹ, Đức, Anh, Thụy Điển… Nối tiếp theo những thành công trong hơn 10 năm trưởng thành và phát triển, công ty nên tiếp tục khai thác các lĩnh vực kinh doanh vô cùng hấp dẫn này, và tin rằng cùng với các chính sách ưu đãi của Nhà nước nhằm khuyến khích nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị thì hoạt động kinh doanh của công ty sẽ ngày càng gặp nhiều thuận lợi, tạo đà cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO Các văn bản pháp luật Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán Quốc tế Incoterms 2000 Bộ luật dân sự 2005 Luật thương mại 2005 Các tài liệu khác Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, TS. Trần Thị Hòa Bình, TS. Trần Văn Nam (2005), Giáo trình Luật Thương mại Quốc tế. TS. Đậu Thị Thuần (2003), Giải pháp hoàn thiện các công cụ kinh tế nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, Thư viện Quốc gia. TS. Nguyễn Minh Hằng, Giải quyết hợp đồng mua bán Quốc tế, Diễn đàn doanh nghiệp. website www.mpi.gov.vn website www.viettrade.gov.vn MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 1 LỜI CẢM ƠN 3 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU 4 1.1. Khái niệm hoạt động nhập khẩu 4 1.2. Tính tất yếu của sự phát triển hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam 5 CHƯƠNG 2: CHẾ ĐỘ PHÁP LÍ QUY ĐỊNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU 9 2.1. Những quy định của Luật Quốc tế và Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng nhập khẩu 9 2.1.1. Các điều khoản cơ bản của một hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế 12 2.1.2. Các quy định về chào hàng trong Thương mại Quốc tế 21 2.2. Các phương thức thanh toán thông dụng trong Thương mại Quốc tế 22 2.3. Các điều kiện giao hàng theo Incoterms 26 2.4. Các công cụ kinh tế chủ yếu trong quản lí hoạt động nhập khẩu 28 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM VÀ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ THẮNG LỢI 34 3.1. Những thành tựu chủ yếu về nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam những năm vừa qua 34 3.2. Thực trạng sử dụng các công cụ kinh tế quản lí hoạt động nhập khẩu 37 3.3. Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi 40 CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐỂ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU VÀ ĐỂ ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA PHÍA VIỆT NAM 51 4.1. Điều chỉnh các công cụ quản lí kinh tế 51 4.1.1. Quản điểm của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện các công cụ trong quản lí hoạt động nhập khẩu 51 4.1.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm từng bước hoàn thiện các công cụ kinh tế thúc đẩy hoạt động nhập khẩu 52 4.2. Một số khuyến nghị nhằm đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp trong hoạt động nhập khẩu 57 4.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển hoạt động nhập khẩu 57 4.2.2. Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp 58 KẾT LUẬN 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO 66

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36707.doc
Tài liệu liên quan