Đề án Phương hướng và giải pháp xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005

Đất nước ta từ khi giành được độc lập thống nhất, đã tập trung vào phát triển kinh tế. Đặc biệt là sau giai đoạn cải cách đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu lớn lao. Đời sống nhân dân cải thiện một cách rất rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người tăng lên. Tuy vậy những năm qua thiên tai liên tiếp xẩy ra đã gây cho chúng ta nhiều tổn thất. Tình hình đói nghèo ở nhiều nơi chưa được cải thiện, mặc dù Đảng và Nhà nước đã và đang hết sức quan tâm. Trong những năm qua kinh tế phát triển cao hơn, đi kèm với nó làtình trạng phân hoá giàu nghèo, phân hoá xã hội. Do đó khi thực thi công tác xoá đói giảm nghèo ta phải chú ý vấn đề này để thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh.

doc42 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1675 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phương hướng và giải pháp xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyên nhân của hiện tượng này là do: + Một là năng lực sản xuất và hoạt động kinh tế của mỗi bản chất cong người là tích cực. Trong qua trình sản xuất họ luôn tìm cách giảm bớt các chi tiết làm thừa, làm tăng năng suất lao động. Tuy nhiên do hạn chế về thể lực và trí tuệ mỗi nười mỗi khác nhau nên trong cùng một thời gian cung một điều kiện sản xuất… năng sứt lao động của họ lại rất khác nhau. Những người có sức khoẻ tốt, biết vận dụng sáng tạo thường có kết quả sản xuất cao hơn so với người có thể lực và trí tuệ kém. Với tình hình trên, theo thời gian của quá trình phát triển, nếu không có nhân tố chủ quan nào can thiệp, thì tất yếu xuất hiện một bộ phận dân cư có cuộc sống đầy đủ hơn bộ phận dân cư khác. +Hai là tác động thúc đẩy của kinh tế thị trường: Trong kinh tế thị trường, mọi chủ thể sản xuất không còn giới hạn việc sản xuất cho nhu cầu bản thân và hộ gia đình, nên họ đều hương vào nhu cầu thị trường, vì thế họ phải cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh làm cho hàng hoá xuất hiện ngày càng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, giá cả càng ngày càng rẻ hơn. Mặt khác cạnh tranh làm xuất hiện một số chủ thể tham gia trở nên năng động hơn, hàng hoá của họ bán chạy hơn, thu nhập cao hơn. Trong khi đó có những chủ thể kém năng động thiếu nhạy bén nên thu nhập kém hơn. Đây là xu hướng tất yếu nảy sinh một bộ phận dân cư giàu có, còn bộ phận khác nghèo. Trong kinh tế thị trường phân hoá giàu nghèo diễn ra nhanh hơn rõ rệt hơn so với kinh tế tự nhiên. + Ba là tăng trưởng nhanh và xu thế đánh đổi: Phân hoá giàu nghèo nảy sinh do đó có sự khác biệt về năng lực sản xuất của mỗi người dưới sự phát triển của kinh tế thị trường sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt hơn, đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá với mục tiêu tăng trưởng nhanh thì hiện tượng này diễn ra với tốc độ mạnh hơn, đặc biệt trong giai đoạn con người hoá với mục tiêu tăng trưởng nhanh thì hiện tượng này diễn ra với tốc độ mạnh hơn. - Thực trạng phân hoá giàu nghèo: + Trong thời kỳ đế quốc phong kiến: ngoài những nguyên nhân khách quan về năng lực sản xuất kinh doanh của mỗi hộ, điều kiện đất đai khí hậu, sự phân hóa giàu nghèo còn bị thúc đẩy bởi chế độ chính trị kinh tế xã hội. Nó đi liền với bất công, hộ giàu bốc lột họ nghèo, người có quyền lực bóc lột dân đen. + Trong thời kỳ bao cấp: Thu nhập được phân phối theo tiêu chuẩn, theo mức bình quân chung, vì thế phân hoá giàu nghèo có nhưng không rõ rệt và không cao. + Trong thời kỳ đổi mới: Kinh tế với bước phát triển mạnh vượt bậc và toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế và tăng nhanh thu nhập tốc độ phân hoá giàu nghèo cũng diễn ra nhanh hơn. Một bộ phận nhanh nhạy với thời đại trở nên giàu có hơn, bộ phận khác không theo kịp với sự biến đổi trở nên tụt hậu, nghèo hơn. Xoá đói giảm nghèo là vấn đề xã hội búc xúc ở nước ta. 3. Tiếp cận với vấn đề đói nghèo ở Việt Nam ta hiện nay. 3.1. Một số đặc điểm cơ bản cả tình trạng đói nghèo ở Việt Nam ta hiện nay. Phần lớn tập trung ở nông thôn nhất là miền núi, vùng sâu vùng xa, trong đó có 1715 xã đặc biệt khó khăn và thường rơi vào nhóm hộ gia đình thuần nông, độc canh lúa và tự cung tự cấp. Đói nghèo do hậu quả trực tiếp, thường xuyên của thiên tai, mất mùa, hậu quả do chiến tranh để lại, môi trường bị phá hoại nặng nề, các điều kiện địa lý bất lợi (kinh tế thị trường ở đó chưa phát triển), điều kiện cơ sở hạ tầng kém phát triển. Mặc dù số hộ đó nghèo ở Việt Nam vẫn còn lớn nhưng về cơ bản vẫn có tư liệu sản xuất (trước hết là ruộng, công cụ sản xuất). Đó là điều iện cực kỳ quan trọng để thực hiện chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo. Đường lối đổi mới, cùng với truyền thống tốt đẹp “lá lành đùm lá rách” tìm nghĩa hàng xóm đậm đà… là những điều kiện thuận lợi cơ bản để giải quyết nạn đói nghèo ở Việt Nam. Cả nước hiện nay còn 2,6 triệu hộ nghèo đói, 1498 xã có tỉ lệ đói nghèo trên 40%, gần 500 xã chưa có đường giao thông đến trung tâm xã, trường học, trạm y tế xã, nước sinh hoạt còn thiếu. 3.2. Chuẩn mực đói nghèo. Có nhiều tiêu chí để xác định chuẩn mực của đói nghèo: Lấy lương thực làm cơ sở. Lấy thu nhập làm cơ sở. Lấy tài sản cơ bản làm cơ sở (nhà ở, gia súc…) Lấy tài sản kết hợp với thu nhập làm cơ sở… Tổ chức Action Aid khi đánh giá tình trạng nghèo đói ở Việt Nam ngoài các tiêu chí trên còn bổ sung thêm “người nghèo là người không có khả năng tiếp cận hoặc kiểm soát nguồn lực xã hội kinh tế, chính trị và do đó khi không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người một cách có phẩm gía”. Ngân hàng thế giới dùng chỉ tiêu về số calo tiêu thụ theo đầu người để đánh giá. Hiệp hội phụ nữ Việt Nam ngoài chỉ tiêu thiếu gạo còn đánh giá sự nghèo đói thông qua tình trạng nhà cưả nghèo nàn và số gia súc trong gia đình. Tổng cục thống kê tính số thu nhập hàng tháng. Bộ lao động Thương binh và xã hội xác định tỉ lệ nghèo đói thông qua việc quy đổi thu nhập ra lương thực. Chuẩn nghèo của Việt Nam qua các thời kỳ: Thời kỳ 1996-2000: + Đói thu nhập bình quân dưới 13 kg gạo/ngừời/tháng (tương đương 45.000 đồng). + Hộ nghèo ở miền núi, hải đảo thu nhập bình quân 15kg gạo/ngừời/tháng (tương đương 55.000 đồng). + Hộ nghèo ở nông thôn đồng bằng thu nhập bình quân 20kg gạo/ngừời/tháng (tương đương 70.000 đồng). + Hộ nghèo ở thành thị thu nhập bình quân 25 kg gạo/ngừời/tháng (tương đương 90.000 đồng). Thời kỳ 2001-2005: + Nông thôn, miền núi, hải đảo: thu nhập 80.000 đồng/người/tháng. + Nông thôn, đồng bằng 100.000 đồng/người/tháng. Những hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định trên là hộ nghèo. Các thành phố có điều kiện, có thể nâng mức chuẩn hộ nghèo lên tới ba điều kiện: Thứ nhất: thu nhập bình quân đầu người của tỉnh, thành phố cao hơn thu nhập bình quân của cả nước. Thứ hai: Tỷ lệ nghèo của tỉnh, thành phố đó thấp hơn mức chuẩn nghèo của cả nước. Thứ ba: Có đủ nguồn lực hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo. Ngân hàng thế giới công bố: Năm 1993: Chuẩn nghèo chung là 1160363 đồng/người/năm. Chuẩn nghèo LTTP là 749723 đồng/người/năm. Thời kỳ 1996-2000: Chuẩn nghèo chung: 1789817 đồng/người/năm hay 149000 đồng/người/tháng. Chuẩn nghèo theo LTTP 128633 đồng/người/năm hay 107200 đồng/người/tháng. Chương ii: thực trạng xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. I- Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam. 1. Việt Nam được xếp vàp nhóm các nước nghèo của thế giới. Tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam còn khá cao. Theo kết quả điều tra mức sống sân cư (theo tiêu chuẩn chung của quốc tê), tỷ lệ đói nghèo năm 1998 là trên 37% và ước tính năm 200 là 32% (giảm khoảng 50% tỷ lệ hộ nghèo năm 1990). Nếu tính theo chuẩn đói nghèo về lương thực thực phẩm năm 1998 là 15% và năm 2000 là 13%. Theo chuẩn nghèo của chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia mới, năm 2000 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ nghèo trong cả nước. 2. Nghèo đói phổ biến những hộ có mức sống thấp, thu nhập thấp và bấp bênh. Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc giảm tỷ lệ nghèo đói, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn còn rất mong manh. Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, cũng khiến họ rơi xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo đói. Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp, với điều kiện nguồn lực rất hạn chế, thu nhập của người nghèo rất bấp bênh. Mức sống cải thiện thu nhập của người nghèo chậm so với mức sống chung và đặc biệt so với nhóm có thu nhập cao do đó càng làm tăng khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư. Những tỉnh nghèo nhất hiện nay, cũng chỉ là tỉnh xếp thứ hạng thấp nhất trong cả nước về chỉ số phát triển con người và kinh tế. 3. Nghèo đói tập trung ở các vùng điều kiện sống kém. Đa số các người nghèo sống trong vùng tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Đối với các vùng đồng bằng sông Cửu Long, miềm Trung, sự biến động của thời tiết khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất, của người dân thêm khó khăn. Đặc biết, sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở cảu các vùng nghèo làm cho cá vùng này bị tách biệt với các vùng khác, năm 2000 tình trạng của 1780 xã đặc biẹt khó khăn và xã biên giới như sau: 20%- 30% số xã chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% xã nghèo chưa có đủ phòng học, 5% số xã chưa có trạm y tế. 55% số xã chưa có nước sạch; 50% số xã chưa đủ công trình thuỷ lợi nhỏ, 40% số xã chưa có đường bưu điện đến trung tâm xã, 20% số xã chưa có chợ hoặc cụm xã. Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong diện cứu trợ đột xuất khá cao, khoảng 1- 1,5 triệu người. Bình quân hàng năm số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ thoát khỏi đói nghèo vẫn còn lớn. 4. Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn. Nghèo đói là hiện tượng phổ biến trong nông thôn với hơn 90% số người nghèo đói sinh sống ở nông thôn. Năm 1999 tỷ lệ nghèo đói về lương thực thực phẩm ở thành thị là 4,6%, nông thôn là 15,9%. Trên 80% số người nghèo là nông dân trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trông sản xuất, thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm kém. Những nông dân nghèo không có điều kiện tiếp xúc với hệ thống thông tin, khả năng chuyển đôỉ phi nông nghiệp còn hạn chế. Bảng ước tính quy mô tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn mới giữa thành thị và nông thôn năm 2000. Số hộ nghèo (nghìn hộ) So với hộ trong vùng (%) So với tổng số hộ nghèo trong cả nước (%) 1. Nông thôn - Nông thôn miền núi -Nông thôn đồng bằng 2. Thành thị 2535 785 1750 265 19,7 31,3 16,9 7,8 90,5 28.0 62.5 9.5 Tổng số 2800 17,2 100 5. Nghèo đói trong khu vực thành thị. Trong khu vục thành thị tỷ lệ nghèo đói thấp hơn, mức sống cao hơn, tuy nhiên mức độ cải thiện đời sống không đồng đều. Trong thời gian qua, tình hình cải thiện mức sống của lao động làm việc trong kinh tế Nhà nước dẫn đến sự mất việc làm của một bộ phận lao động trong khu vực này. Kết quả là điều kiện sống ngày thêm khó khăn hơn đối với bộ phận dân cư làm việc trong doanh nghiệp Nhà nước bị dôi dư, phải chuyển sang làm cho ngoài quốc doanh với mức lương thấp, và đối với những người không thể tìm được việc làm trở thành thất nghiệp. Bên cạnh đó tác động của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đã làm tăng luồng di dân tự do từ nông thôn đến các thành phố, bao ggòm cả người trong độ tuổi lao động và trẻ em. Những người dân di cư này thông thường không có hộ khẩu, không co việc làm ổn định, không có điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của nhà nước. Ngoài ra, đói nghèo còn chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm đối tượng xã hội khác như : Không nghề nghiệp, lang thang và tệ nạn xã hội . 6. Đói nghèo tập trung ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao. Đói nghèo mang tính chất vùng rõ rệt, các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới 64% số người nghèo tập trung ở các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung. Đây là những vùng có điều kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai xẩy ra thường xuyên. Ước tính qui mô và tỷ lệ nghèo đói theo tiêu chuẩn mới của Chương trình xoá đói giảm nghèo theo vùng năm 2000. Số hộ nghèo (nghìn hộ) So với tổng số hộ trong vùng (%) So với tổng số hộ nghèo cả nước (%) Tổng số Vùng Tây Bắc. Vùng Đông Bắc Vùng đồng bằng sông Hồng Vùng Bắc Trung Bộ Vùng duyên hải miền Trung Vùng Tây Nguyên Vùng Đông Nam Bộ Vùng đồng bằng sông Cửu Long 2.800 146 511 337 554 389 190 183 490 17,2 33,9 22,3 9,8 25,6 22,4 24,9 8,9 14,4 100 5,2 18,2 12,0 19,8 13,9 6,8 6,6 17,5 7. Tỷ lệ hộ đói nghèo đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc thiểu số. Trong thời gian qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực, nhưng tình trạng cuộc sống của cộng đồng dân tộc thiểu số vẫn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Mặc dù chỉ chiếm khoảng 14% trong tổng số dân cư, song các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 29% trong tổng số người nghèo. Đa số dân tộc thiểu số sinh sống trong các vùng sâu, vùng xa, bị cô lập về mặt địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã hội cơ bản. II- Nguyên nhân ảnh hưởng đến đói nghèo. 1. Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược lại, nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói. Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất của họ có xu hướng gia tăng lên, đặc biệt là ở đồng bằng sông Cửu Long. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc đảm bảo an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hoá sản xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng có giá trị vao hơn. Đa số người nghèo lựa chong phương án tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương thức sản xuất truyền thống có giá trị thấp, thiếu cơ hội hội nhập thực hiện các phương án sản xuất mang lợi nhuận cao hơn. Do vẫn theo phương án sản xuất truyền thống nên giá trị sản phẩm và năng suất thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó. Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất như khuyến nông, phòng dịch bệnh, tiếp cận các nguồn nước, hệ thống thuỷ lợi, giống mới, phân bón, thị trường… các yếu tố này đã góp phần làm tăng chi phí đầu vào và làm giamr giá trị đầu ra của họ. Người nghèo cũng rất thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng. Tín dụng à một trong những yếu tố rất quan trọng đối với sản xuất. Sư hạn chế của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, đưa công nghệ mới, thay đổi giống chất lượng cao…Mặc dù trong khuôn khổ của dự án tín dụng cho người nghèo thuộc chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia, khả năng tiếp cận tín dụng đã tăng lên rất nhiều song vẫn còn khá nhiều người nghèo, đặc biệt là người rất nghèo, không có khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng. Một mặt những người nghèo, do không có tài sản thế chấp, họ phải dựa vào tín chấp với các món vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giamr khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoách sản xuất cụ thể oặc sử dụng các nguồn vốn vay không đúng mục đích, do đó họ khó có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn và cuối cùng sẽ làm cho họ càng nghèo hơn. Kết cấu hạ tầng, trong đó kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo còn thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này con hết sức khó khăn, vốn của nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đống góp nguồn lực của dân đựoc ít, chủ yếu bằng lao động. 2. Trong điều kiện cả nước còn nghèo, có thu nhập thấp, một trong những nguyên nhân trực tiếp đầu tiên dẫn tới tình trạng nghèo khó đó là do trình độ học vấn thấp, việc làm chủ yếu trong khu vực nông nghiệp với tình trạng việc làm không ổn định. Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do đó không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo đói. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định co liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái ảnh hưởng không nhữg thế hwj hiện tại mà còn cả trong tương lai. Số liệu thống kê về rình độ học vấn của người nghèo cho thấy khoảng 90% những nông nghiệp là những người chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%, phổ thông cơ sở chiếm 37%. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên. 80% số người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp với mức độ thu nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm trong các khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn. 3. Các nguyên nhân về nhân khẩu học. Quy mô hộ gia đình có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thnàh viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao. Đông con là một trong những đặc điểm của gia đình nghèo. Năm 1998 số con bình quân/phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so với mức 2,1 con của nhóm 20% giàu nhất. Tỷ lệ phụ thuộc của nhóm nghèo nhất là 0,95 so với 0,37 của nhóm giàu nhất. Một trong những nguyên nhân tỷ lệ sinh cao trong các hộ nghèo là do họ không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khoả sinh sản. Tỷ lệ phụ nữ nghèo đặt vòng tráng thai thấp, nam giới chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm kế hoạch hoá gia đình và tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai còn thấp. Tỷ lệ phụ thuộc cao trong các họ nghèo còn có nghĩa là nguồn lực về lao động rất thiếu, và đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói của hộ. 4. Nguy cơ do ảnh hưởng của thiên tai. Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị những tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thườn xẩy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xẩy ra trong cuộc sống như mất mùa, thiên tai… Đối với khả năng kinh tế mong manh của hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống của họ Hàng năm phải cứu trợ đột xuất do thiên tai khoảng từ 1-1,2 triệu người. Bình quân hàng năm, số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo vẫn còn lớn. Các phân tích từ cuộc điều tra hộ gia đình năm 1992-1993 và năm 1997-1998 cho thấy các hộ gia ffình phải chịu nhiều thiên tai có nguy cơ dễ lún sâu vào nghèo đói. Do đó, việc tìm kiếm các giải pháp giảm nhẹ các hậu quả thiên tai được coi như là một phần quan trịng của quá trình xoá đói giảm nghèo. 5. Sức khoẻ yếu kém cũng là nhân tố nhân tố chính đẩy con người vào tình trạng nghèo đói trầm trọng. Vấn đề sức khoẻ kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo và làm họ vướng vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Họ phải gánh chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi phí cao cho việc chữa chạy (do liên quan đến thu nhập của cả gia đình). Các đột biến về chi phí y tế, là một trong những nguyên nhân khién nông nghiệp rơi vào tình trạng khốn quẫn. Không giống như công nhân và công chức nhà nước, những người có thu nhập cố định, người nghèo phần lớn là tự tự lao động và do vậy họ mất thu nhập khi mà họ không lao sđộng do ốm đau, bệnhtạt hay sức khoả yếu. Do vậy, thay vì để có thể tích cóp tài sản cho gia đình giúp họ vượt qua thời kỳ khó khăn và có thể làm việc cật lực để có thể thoát khỏi nghèo đói, người nghèo lại càng bị ngập sâu vào cảnh nợ nần, càng khó khăn hơn để thoát cảnh nghèo đói. Chi phi chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng càng có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo. Tuy có sự cải thiện về đáng kể về tình trạng sức khoẻ ở Việt Nam trong thập kỷ qua, song sự bất bình đẳng lại tăng lên. Tỷ lệ người nghèo mắc các bệnh thông thường khá cao. Theo số liệu điều tra mức sống năm 1998, số ngày ốm bình quân của nhóm người nghèo là 3,07 ngày/năm so với khoảng 2,4 ngày/năm của nhóm giàu nhất. Điều đáng chú ý là trong thời kỳ 1993-1997, tình trạng ốm đau của nhóm người giàu được cải thiện đáng kể (giảm 30%), trong khi tình trạng của nhóm người nghèo vẫn giữ nguyên. Năm 1999, số người trong độ tuổi lao động của nhóm nghèo mất nhiều ngày ốm đau hơn khoảng 55% so với nhóm không nghèo. Sự khác nhau trước đây chỉ là 16%. 6. Những tác động của chính sách vĩ mô và chính sách cải cách đến nghèo đói. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn tới mức giamt tỷ lệ nghèo. Việt Nam đã đạt được những thành tích giảm nghèo đói rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên, qúa trình phát triển và mở cửa nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực đến người nghèo. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi; mới đủ sức đầu tư các trục công nghiệp chính, chú trọng nhiều vào đầutư thay thế nhập khẩu, thu hút nhiều vốn; chưa chú trọng đầu tư các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú ý khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp khồng đúng đối tượng làm ảnh hưởng xấu đến hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa. Cải cách các doanh nghiệp nhà nước và các khó khăn về tài chính đổ lên đầu các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới việc mất đi gần 800.000 việc làm trong giai đoạn đầu cải cách doanh nghiệp. Nhiều công nhân bị mất việc đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm việc làm mới và bị rơi vào nghèo đói. Phần lớn số người này là phụ nữ, ngừơi có trình độ học vấn thấp và người lớn tuổi. Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tự do hoá thương mại tạo ra những động lực tốt cho nền kinh tế, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số những người nghèo chưa có điều kiện nắm bắt cơ hội này. Sự thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, giá thành sản xuất cao, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp và năng lực sản xuất hạn chế. Vì vậy, không ít các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản và đẩy công nhân vào cảnh thất nghiệp, họ buộc phải gia nhập đội ngũ người nghèo. Tăng trưởng kinh tế giúp xoá đói giảm nghèo trên diện rộng, song việc cải thiện tình trạng của người nghèo lại phụ thuộc vào loại hình tăng trưởng kinh tế. Việc phân phối lợi ích tăng trưởng trong các nhóm dân cư phụ thuộc vào đặc tính của tăng trưởng. Phân tích tình hình biến đổi của các nhóm dân cư cho thấy, người giàu hưởng lợi ích từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn và kết quả đã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo còn thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này còn hết sức khó khăn. Vốn đầu tư của nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn lực của nhân dân ít, chủ yếu bằng lao động. III- NHững thành tựu và thách thức. 1. Những thành tựu. 1.1. Sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến mức giảm tỷ lệ đói nghèo, trong đó phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng… Theo ước tính vào giữa những năm 80, cứ mười người dân Việt Nam thì có bảy người sống trong tình trạng nghèo đói. Sau 15 năm đổi mới và chuyển đổi, nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản về các quan hệ kinh tế và xã hội và dẫn đến một giai đoạn phát triển kinh tế, và giảm tỷ lệ nghèo đói chưa từng thấy sau hơn bốn thập kỷ của chiến tranh và khó khăn trong phát triển kinh tế. Trong lĩnh vực này, Việt Nam đã được biết đến như một tấm gương xuất sắc về về sự chuyển đổi thành công từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Cở chế kinh tế mới đã tạo ra những nhân tố mới cho tt kinh tế một kết quả đầy ấn tượng. Tốc độ tt kinh tế thời kỳ 1991-2000 đạt 7,5% năm; xuất khẩu tăng nhanh, từng bước kiềm chế lạm phát và ổn định giá cả. Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được những kết quả xuất sắc trong xoá đói giảm nghèo. Chủ trương của Chính phủ ưu tiên phát triển nông nghiệp và nông thôn, vùng sâu vùng xa đã thành công trong việc giải phóng sức sản xuất của dân cư nông thôn và khuyến khích dân cư tự mình caỉ thiện đời sống của mình. Những thành công trong lĩnh vực này nhất là về sản xuất lương thực bình quân đầu người từ 330 kg năm 1990 lên 445kg năm 2000, đã góp phần vào việc xoá đói giảm nghèo tăng thu nhập, cải thiện đời sống của nông thôn. Theo tiêu chuẩn quốc tế ,tỷ lệ đói nghèo đã giảm từ trên 70% vào năm 1990 xuống khoảng 32% vàp năm 2000 ( giảm trên 1/2 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 1990). Về điểm này, Việt Nam đã đạt được mục tiêu phát triển của thiên niên kỷ, do quốc tế đặt ra là giảm một nửa tỷ lệ đói nghèo trong giai đoạn 1990-2015. 1.2. Nguồn lực cho công tác xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm được tăng cường. Mặc dù ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, song Nhà nước đã đầu tư cho các chương trình quốc gia phục vụ xoá đói giảm nghèo thông qua chương trình 133 và chương trình 135. Từ khi có chủ trương xoá đói giảm nghèo năm1992 đến nay, Nhà nước đã đầu tư thông qua các chương trình quốc gia có liên quan đến mục tiêu xoá đói giảm nghèo khoảng 21 nghìn tỷ đồng. Riêng trong hai năm 1999 và 2000 gần 9600 tỷ đồng( ngân sách Nhà nước đầu tư trực tiếp cho chương trình 3000 tỷ đồng; lồng ghép các chương trình, dự án khác: trên 800 tỷ đồng; huy động từ cộng đồng: trên 300 tỷ đồng; nguồn vốn tín dụng cho vay ưu đãi hộ nghèo trên 5500 tỷ đồng). Ngân hàng người nghèo đã được thành lập nhằm cung cấp tín dụng ưu đãi cho người nghèo. Nguồn vốn huy động của cộng đồng dân cư, các tổ chức và cá nhân trong nước cũng tăng đáng kể. Tổng nguồn vốn cho người vay đạt 5500 tỷ đồng. Ngoài ra Nhà nước còn có sự hỗ trợ đáng kể cho đời sống đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn với số tiền khoảng 60 tỷ đồng và cho gần 90000 hộ vay vốn sản xuất không phải trả lãi. Công tác định canh, định cư, di dân kinh tế mới cũng được nhà nước quan tâm đầu tư va hỗ trợ kinh phí, trong các năm gần đây ngân sách trung ương đã trích trên 500 tỷ đồng để sắp xếp và ổn định cuộc sống cho các gia đình định canh, định cư, di dân xây dựng kinh tế mới. 1.3. Tỷ lệ các xã không có hoặc thiếu cơ sở hạ tầng thiết yếu đã giảm dần. Trong hai năm 1999 và 2000 đã đầu tư 6500 cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo ( trong đó ngân sách Nhà nước đầu tư trực tiếp cho 1200 xã năm 1999 và 1870 xã năm 2000; ngân sách địa phương đầu tư cho 650 xã; bình quân mỗi xã được xây dựng 2,5 công trình. Ngoài ra các địa phương đã huy động dược trên 17 triệu ngày công lao động của nhân dân tham gia xây dựng các công trình, huy động đóng góp bằng tiền và hiện vật trong nhân dân với giá trị hàng chục tỷ đồng. Đến tháng 4/2001 đã có trên 5000 công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. 1.4. Ngoài việc hỗ trợ về nguồn vốn cho công tác xoá đói giảm nghèo, Nhà nước còn chú trọng đào tạo nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác xáo đói giảm nghèo. Đến cuối năm 2000 đã có 1798 xã thuộc 22 tỉnh, thành phố có các bộ phận chuyên trách xoá đói giảm nghèo tại chỗ. đây là các cán bộ nòng cốt được trang bị kiến thức cơ bản để hướng dẫn người dân thực hiện chương trình trên địa bàn, góp phân thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. 1.5. Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách giải quyết việc làm, tạo cơ hội để người lao động có thể chủ động tìm hoặc tự tạo việc làm kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước và của cộng đồng. Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm được triển khai thực hiện đạt được nhiều kết quả. Các trung tâm xúc tiến việc làm, trung tâm dạy nghề, hướng nghiệp của các ngành các cấp, các đoàn thể quần chúng đã hoạt động tích cực. Chính sách xoá đói giảm nghèo được sự hưởng ứng tích cực của các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể quần chung, các tổ chức xã hội và bản thân người lao động; nhiều hoạt động cụ thể đã được triển khai giúp các hộ nghèo giảm bớt khó khăn, từng bước vươn lên thoát khỏi đói nghèo và ổn định cuộc sống. Trong khu vực nông nghiệp và nông thôn vẫn là nơi thu hút nhiều lao động nhất. Bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho khoảng 1,2 -1,3triệu lao động, trong đó khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác và hợp tác xã thu hút khoảng 90%. Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn và nagy trong những năm kinh tế bị giảm sút, Việt Nam đã thực hiện mạnh mẽ hơn các chính sách bảo đảm xã hội, nhất là vấn đề xoá đói giảm nghèo, lao động và việc làm, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, người tàn tật, trẻ em lang thang cơ nhỡ, ổn định đời sống cho các đối tượng xã hội. 1.6. Đời sống dân cư nhiều vùng được cải thiện rõ rệt, nghèo đói giảm ở cả nông thôn và thành thị; giảm cả ở người kinh và dân tộc thiểu số. Nhất là vùng nông thôn ngoại vi các thành phố, thị xã và cả những vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai phì nhiêu. Mức tiêu dùng bình quân đầu người tính theo giá hiện hành tăng từ 2,6 triệu đồng năm 1995 lên 4,3 triệu đồng năm 2000. Biểu đồ: Tỷ lệ người nghèo đói đã giảm ở cả nông thôn và thành thị và giảm cả với người Kinh và các dân tộc thiểu số 1.7. Công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam được sự quan tâm của các nhà tài trợ và các tổ chức quốctế. Công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam những năm qua đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ về nhiều mặt ( kinh nghiệm, kỹ thuật và nguồn vốn ) dưới dạng không hoàn lại và tín dụng ưu đãi.Đây là yếu tố rất quan trọng, tạo điều kiện thúc đẩy nhanh công tác xoá đói giảm nghèo. 2. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm 2.1. Nhờ kinh tế đất nước phát triển và tăng trưởng liên tục, ổn định: Lĩnh vực nông nghiệp- nông thôn được Nhà nước ưu tiên đầu tư (thuỷ lợi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế , áp dụng các tiến bộ lhoa học kỹ thuật vào sản xuất ) đã có sự chuyển biến quan trọng, đời sống của người dân nông thôn- khu vực tập trung đông người nghèo đã được cải thiện rõ rệt, đó là yếu tố đóng vai trò quyết định trong việc giảm tỷ lệ hộ nghèo đói trong cả nước. Bài học tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là tiền đề giúp cho việc xoá đói giảm nghèo nhanh và toàn diện. Thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững cần phải bảo đảm các điều kiện cho người nghèo có thể thụ hưởng các thành tựu phát triển. 2.2. Chương trình xoá đói giảm nghèo đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở chỉ đạo sát sao và triên khai thực hiện tích cực, được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Chính phủ đã cụ thể hoá thành chính sách, cơ chế, dự án và kế hoạch hàng năm nhằm tập trung phát triển nông nghiệp và nông thôn, xây dựng các công trình thuỷ lợi để phục vụ sản xuất và đời sống, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đảm bảo an ninh lương thực. Người nghèo đã bước đầu có nhận thức đúng để tự vươn lên, biết tận dụng các cơ hội và sử dụng có hiệu quả sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng. Bài học rút ra là các cấp, các nghành, các tổ chức đoàn thể trong nước từ trung ương đến cơ sở và người dân có nhận thức đúng để tự vươn lên ; sẽ giúp họ năng động hơn để tự vươn lên trên khả năng của chính mình, thoát khỏi đói nghèo. 2.3. Hệ thống chính sách, cơ chế, giải pháp xoá đói giảm nghèo bước đầu được thực hiện và đi vào cuộc sống như: tín dụng ưu đãi; hướng dẫn cách làm ăn; hỗ trợ về giáo dục, ytế; hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn; hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; định canh định cư, di dân , kinh tế mới tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho xoá đói giảm nghèo và tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các xã nghèo đẻe phát triển sản xuất và nâng coa chất lượng cuộc sống của nhân dân, đặc biệt ở những xã nghèo miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc; Các mục tiêu về xoá đói giảm nghèo đề ra phải đồng bộ , mang tầm chiến lược: xoá đói giảm nghèo không chỉ tập trung vào nâng cao mức sống của người nghèo mà còn bao gồm việc tại cơ hội để họ tham gia vào đời sông kinh tế-chính trị-xã hội. Cơ chế chính sách không chỉ dừng lại ở chống đói nghèo mà còn ngăn chặn tái đói nghèo. Chiến lược hướng về xoá đói giảm nghèo cần phải đa dạng và có mục tiêu trên cơ sở nhu cầu của dân cư. Hệ thống các cơ chế, chính sách cần linh hoạt tuỳ điều kiện cụ thể của từng vùng, từng địa phương. Để triển khai thực hiện các cơ chế chính sách có hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp và đồng thời phát động phong trào sâu rộng trong cả nước. 2.4. Hệ thống tổ chức, cán bộ đã được hình thành ở các tỉnh, thành phố bước đầu đã thực hiện tốt ở một số địa phương; đội ngũ thanh niên tình nguyện, cán bộ tỉnh, huyện tăng cường có thời hạn cho các xã nghèo đã hoạt động tích cực trong việc giúp các xã xây dựng kế hoạch, dự án, tổ chức thực hiện chương trinh xoá đói giảm nghèo ở địa phương. 2.5. Đã xuất hiện nhiều mô hình hộ gia đình, thôn, bản, xã, huyện xoá đói giảm nghèo có hiệu quả và đã được nhân rộng nhờ: mô hình tiết kiệm-tín dụng của phụ nữ; mô hình xoá đói giảm nghèo theo hướng tự cứu; mô hình xoá đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc; mô hình phát triển cộng đồng gắn với xoá đói giảm nghèo ; mô hình gắn kết các hoạt động của tổng công ty với mục tiêu xoá đói giảm nghèo. 2.6. Đa dạng hoá việc huy động nguồn lực, trước hết là huy động, phát huy nguồn lực tại chỗ, huy động nguồn lực cộng đồng kết hợp với sự đầu tư hỗ trợ của nhà nước; mở rộng hợp tác quốc tế về kinh nghiệm, kỹ thuật, tài chính cho xoá đói giảm nghèo. 3. Những thách thức Tuy những thành tựu về xoá đói giảm nghèo đã đạt được trong những năm qua, song chúng ta phải đương đầu với những khó khăn, thách thức mới. 3.1. Tỷ lệ nghèo còn cao. Theo chuẩn nghèo mới, mặc dù chuẩn này vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, vào đầu năm 2001 vẫn còn 2,8 triệu gia đình nghèo, chiếm khoảng 17% trong đó phần lớn là những hộ gặp ráthị trường nhiều khó khăn đẻ giảm nghèo. Nghèo đói phân bố không đều giữa các vùng ở Việt Nam. Tỷ lệ hộ nghèo đói ở khu vực các xã miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng thường xuyên bị thiên tai, vùng đồng bào dân tộc còn khá cao; tình trạng cơ sở hạ tầng của các xã nghèo chậm được cải thiện. Đa số người nghèo ít được tiếp cân với dịch vụ xã hội cơ bản. 3.2. Trong tiến trình mở cửa và hội nhập nền kinh tế Việt Nam đang còn nhiều khó khăn, thách thức do phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, trong khi chất lượng nền kinh tế còn thấy, hiệu quả chưa cao, sức cạnh tranh kém, nhất là giá cả nông sản không ổn định và có xu hướng giảm. 3.3. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo cần phải tiếp tục được mở rộng thêm về nội dung và thay đổi về chất, không bảo đảm nhu cầu đủ ăn mà còn thoả mãn các nhu cầu khác như: mặc ấm, nhà ở không dột nát, ốm đau được chữa bệnh, trẻ em được đi học. Để đáp ứng yêu cầu trên, bên cạnh việc giải quyết đủ lương thực, phát triển sản xuất hàng hoá và hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng xã nghèo, cần tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nâng cao dân trí, giảm thiểu nguy cơ rủi ro cho người nghèo. 3.4. Sự chênh lệch thu nhập, mức sống giữa nông thôn và đô thị, giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng có xu hướng tiếp tục gia tăng. Người nghèo còn gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Khả năng tiếp cận các dịch vụ. Lợi ích của thị trường kinh tế và thành quả do sự phát triển mang lại một khách quan và công bằng chưa cao, và có những biểu hiện xấu đi. Điều này đòi hỏi phải có những chính sách, giải pháp cụ thể để kết hợp giã tăng trưởng cao và phân bố tăng trưởng một cách cân bằng hơn. 3.5. Những thành tựu xoá đói giảm nghèo đã đạt được còn thiếu tính bền vững. Nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước những rủi rp của cuộc sống còn lớn. Đặc biệt nước ta nằm trong vùng thường xuyên xảy ra thiên tai, bão lụt và 80% người nghèo làm việc trong nông nghiệp nên có thể dẫn đến nguy cơ tái nghèo đói cao. Mặt khác có không ít hộ tuy không thuộc diện nghèo đói nhưng mức thu nhập không ổn định, nằm giáp ranh chuẩn nghèo đói cũng có nguy cơ tái đói nghèo. Địa bàn vùng nhèo như miền núi, biên giới, vùng sâu , vùng xa thường bị thiên tai đe doạ.Thành quả xây dựng các cơ sở hạ tâng có thể bị tổn thất lớn ngân sách nhà nước nếu gặp thiên tai nặng. 3.6. Nguồn lực trong nước còn quá hạn hẹp. Vừa phải đầu tư lớn cho sự phát triển chung của đất nước vừa phải đầu tư cho xoá đói giảm nghèo, trong khi đó việc khai thác các nguồn lực chưa được nhiều và chưa có hiêuụ quả. Các nguồn lực cho chương trình xoá đói giảm nghèo tuy có tăng lên qua các năm những vân chưa đáp ứng yêu cầu của các địa phương. Địa bàn để thực hiện xoá đói giảm nghèo hiện nay là những vùng cao, vùng sâu có nhiều khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và lạc hậu, chi phí lớn, khó thu hút khu vực tư nhân tham gia đầt tư. Đây thực sự là một thách thức lớn cho công tác xoá đói giảm nghèo trong thời gian tới. 3.7. Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp. Khả năng tạo việc làm và nâng cao năng suất lao động của xã hội condf hạn chế, trong khi đó, dân số và nguồn lao động vẫn tiếp tục taeng với tốc đọ cao làm cho sức ép về việc làm tăng lên. Số lao đông jchưa có và thiếu việclàm còn lớn. Trong khu vực nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm còn khoảng 25%. Trong khu vực thành thị, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng gia tăng trở lại trong các đô thị và thành phố lớn. Thực hiện lộ trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, hàng chục vạn lao động sẽ dôi ra cần phải bố trí việc làm mới. Việt nam vẫn chưa tăng được năng suất lao động từ việc phân bổ lại lao động giaưã các lĩnh vực, mà đầy là lợi ích chủ yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hơn nữa, ngay cả năng suất lao động trong ngành công nghiệp tăng nhanh khoảng 10,2% trong thập kỷ 90, nhưng tỷ trọng lao động trong nghành công nghiệp lại giảm từ 10,2% năm 1990 xuống còn 9,5% năm 1999. Việc tiếp tục và thúc đẩy cải cách nền kinh tế, cải cách doanh nghiệp Nhà nước, tự do hoá thương mại… dự kiến xẽ tạo ra những nhân tố mới để tăng trưởng và tạo nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo . Tuy nhiên nếu người nghèo không được tạo cơ hội hoặc không có khả năng tham gia vào quá trình naỳ, tình trạng thất nghiệp cũng như tình trạng nghèo đói sẽ tiếp tục gia tăng. 3.8 Người nghèo còn gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Khả năng tiếp cận các dịch vụ, lợi ích của tăng trưởng và thành quả do sự phát triển mang lại cho mọi công dân một cách khách quan và công bằng chưa cao. Nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước những rủi ro trong cuộc sống còn lớn. 3.9 Các cơ chế, chính sách để hỗ trợ cho người nghèo tuy đã được triển khai thực hiện, song chưa đồng bộ ở một số vùng và địa phương, chưa thích ứng với điều kiện của từng vùng, từng nhóm người nghèo vì vậy hiệu quả thực hiện chưa cao, việc tổ chức thực hiện các chính sách xoá đói giảm nghèo giảm nghèo còn nhiều tồn tại chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công cuộc đầu tư cho xoá đói giảm nghèo trong thời giai tới. 1. Phương hướng chung của Đảng. Trong nghị quyết Đại Hội Đảng IX vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu phát triển kinh tế xã hội từ 2001-2005 như sau “tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.. Tạo việc làm, cơ bản xoá hộ đói, giảm hộ nghèo, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân…”. Trong đó nhấn mạnh mục tiêu xoá đói giảm nghèo xuống 10% vào năm 2005. Để thực hiện mục tiêu đó cần có những kế hoạch, chính sách, cơ chế và những biện pháp cụ thể vừa đảm bảo tính đúng đắn vừa mang lại hiệu quả cao. Nhằm đạt được điều đó Đảng đã xác định một hệ thống quan chủ đạo, như sau: Xoá đói giảm nghèo gắn liền với sựu phát triển kinh tế và giữ vững sự ổn định chính trị xã hội: Đói nghèo như chúng ta biết không chỉ là sự nhức nhối về kinh tế, cản trở thách thức phát triển mà nó còn liên quan đến toàn bộ các mặt của đời sống xã hội. Đói nghèo thường làm phát sinh nhiều tệ nạn và có tính chất lây lan làm mất ổn định xã hội, ảnh hưởng xấu tới chính trị. Đặc biệt khi có sự phân hoá giàu nghèo, phân thành giai cấp, có nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa suy giảm nền tảng xã hội, chính trị. Thành công của sự xoá đói giảm nghèo sẽ là nhân tố rất quan trọng để củng cố, bảo vệ và giữ vững chế độ chính trị. Để làm được điều đó xoá đói giảm nghèo phải được nhìn nhận từ việc bảo vệ quyền làm chủ chế độ, làm xã hội của nhân dân lao động. Xoá đói giảm nghèo phải thống nhất kết hợp kinh tế với xã hội, chính sách kinh tế với chính sách xã hội: Quan điểm này cũng xuất phát từ chõ đói nghèo vừa là vấn đề kinh tế vừa là vấn đề xã hội như đã nêu trên. hơn nữa không một chính sách kinh tế nào lại không mang tính chất và ý nghĩa xã hội nên các giải pháp của nó cũng đồng thời vừa tác động vào con người vừa tác động vào xã hội. Quan điểm này của Đảng cũng là một phần xuất phát từ thực tế xoá đói giảm nghèo trong thời gian qua ở nột số địa phương, đó là vấn đề người dân tuy vay được vốn song không được các tổ chức xã hội quan tâm hướng dẫn cách làm ăn nên không thoát khỏi đói nghèo mà còn nghèo thêm nữa vì nợ. Xoá đói giảm nghèo phải là sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội: Nguyên tắc này xuất phát từ tính chất chương trình, đây là chương trình lớn mang tính quốc gia, nó đòi hỏi nguồn vốn rất lớn, đòi hỏi huy động nhiều về nguồn lực… và buộc phải có sự phối hợp hành động chung của cả cộng đồng mới mong được thành công. Xoá đói giảm nghèo phải phát huy tính cao độ, tính tự lực tự chủ, tự vươn lên để vượt qua đói nghèo của hộ nghèo, người nghèo: Có xác định như vậy mới giúp được người nghèo, hộ nghèo vươn lên vượt qua mặc cảm tự ti thụ động, ỷ lại và trông chờ vào nhà nước. Xoá đói giảm nghèo phải xuất phát từ mục tiêu phát triển,vì sự phát triển là chính: Điểm chủ chốt của nguyên tắc này là phát triển phải dựa vào con người, phải tiến tới phát triển con người là chính. Chính phủ có thể tài trợ cho các địa phương trong những điều kiện đặc biệt khó khăn song vấn đề bền vững ở đây là các địa phương này phải biết phát triển sản xuất, tiết kiệm không tham ô, không lãng phí… Mở rộng và khai thác có hiệu quả các hợp tác quốc tế: Nguồn lực này có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển nói chung trong đó đặc biệt nhấn mạnh với công tác xoá đói giảm nghèo do nó không chỉ có ý nghĩa về mặt về mặt tạo vốn mà còn giúp chúng ta tiếp cận được với khoa học công nghệ, và phương pháp sản xuất tiên tiến trên thế giới. Sáu quan điểm trên đây có mối liên hệ biện chứng tác động và chi phối lẫn nhau hợp thnàh hệ quan điểm chung ở cấp vĩ mô. Trên cơ sở đó và căn cứ vào mục tiêu của Đại Hội, tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế những thiếu sót và nâng cao hơn nữa hiệu quả của chưoưng trình trong thời gian tới. 2. Một số giải pháp trong thời gian tới. Nhóm 1: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Đây không còn là điều mới mẻ, nó đã được Đảng cụ thể hoá trong nghị quyết 5 của Ban chấp hành Trung ương khoá 7. Tuy nhiên nền kinh tế của chúng ta hiện nay cơ cấu kinh tế vẫn còn phải tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chuyển hộ kinh tế thuần nông sang kinh tế thị trường, góp phần con người hoá, hiện đại hoá đất nước. Chúng ta có thể tiến hành một số giải pháp cụ thể sau: Thứ nhất phải giúp các hộ nghèo, xã nghèo có kế hoạch sản xuất lương thực một cách hợp lý, như mở rộng phát triển nhiều loại cây trồng khác nhau, nhất là cây công nghiệp, chú trọng việc phát triển kinh tế vườn, ao, chuồng. Thứ hai: là phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống, kết hợp vừa làm nông nghiệp vừa làm các nghề phụ khi hết thời vụ. Thứ ba: phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ gắn với đô thị hoá nông thôn Đòi hỏi của nền kinh tế thị trường ngày một cao, do vậy để đáp ứng được nhu câù này chúng ta phải đầu tư cho nông sản để nâng cao sức cạnh tranh cho mặt hàng nay không chỉ là thị trường trong nước, mà còn là thị trường quốc tế. Đồng thời phát triển các dịch vụ về cung ứng vật tư, kỹ thuật sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đây là một nội dung quan trọng để chuyển dich cơ cấu kinh tế, tiến tới xoá đói giảm nghèo, tuy nhiên để thực hiện nó có hiệu quả phải có các chính sách hỗ trợ về vốn, về thuế. Nhóm 2: Các giải pháp về đất đai và tư liệu sản xuất cho các hộ nghèo. Đất với người nông dân là tư liệu quan trọng cho quá trình sản xuất, nhất là với những hộ nông dân nghèo. Chính phủ đã ban hnàh Luật đất đai từ năm 1993 đến nay đã có tác dụng đáng kể, tạo điều kiện cho các hộ không có đất được thuê mướn, các hộ có đất được đem bán hoặc cho thuê, đây là biện pháp linh hoạt giúp người dân thích nghi với kinh tế thị trường. Trong thời gian tới chúng ta cần phải bổ sung và hoàn thiện cơ chế này đực biệt là với vung núi, nơi mà người dân chưa bỏ được các tập tục về quyền sở hữu và sử dụng tài nguyên đất, rừng. Chúng ta đồng thời phải khai hoang, lấn biển, tạo ra nhiều quỹ đất hơn không những để sản xuất lấy đất cho sản xuất mà còn để xây dựng cơ sở hạ tầng. ở những nơi quỹ đất thực sự thiếu thốn chúng ta có thể đầu tư cho nông dân tư liệu lao động để kiếm sống như thuyền, lưới và các công cụ khác tuỳ thuộc vào điều kiện từng vùng. Nhóm 3: Chính sách vay vốn đối với người nghèo. Cùng với đất đai và tư liệu sản xuất, vốn là nguồn lực rất quan trọng đối với nông dân nói chung, dặc biệt là với người nghèo. Ngày nay trong quy chế vay vốn của ngân hàng đã có nhiều điểm rất thông thoáng tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận được với tín dụng phát triển sản xuất. Song trong thời gian tới chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm để chương tình thực sự là bạn của nàh nông, trợ giúp họ trong công cuôc xoá đói giảm nghèo. Các ngân hàng cần có trách nhiệm hơn trong hỗ trợ người nghèo, đặc biệt trong những khoản vay với quy mô nhỏ. Mặc dù đã có chính sách vay vốn ưu đãi nhưng để có được nó nông dân còn rất nhiều gian khổ do ngân hàng không đi xuống thực tế, không hướng dẫn với bà con. Để phát huy tính ưu việt của chính sách cho người nghèo vay vốn cần có những hoạch định và quy định rõ ràng về vấn đề tạo nguồn vốn đồng thời đưa vốn đến tay nông dân một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Thứ 4: Chính sách về chuyển giao công nghệ, đây là hình thức cao của công tác khuyến nông. Trước hết là đào tạo nghề cho thanh niên thuộc độ tuổi lao động chủ yếu là các nghề về sản xuất nông nghiệp, tăng khả năng thâm canh tăng vụ, đưa các loại cây, con có năng suất cao vào tăng gia sản xuất. Đồng thời quan tâm các nghề thủ công, nghề truyền thống phục vụ cho con người nông thôn, phù hợp với các yêu cầu cảu thị trường lao động. Việc đào tạo này có thể thông qua các trung tâm học nghề, các lớp cơ động tại các xã, các địa bàn khó khăn. Bên cạnh đó khuyến khích phát triển các hội nghề nghiệp, các tập thể kinh tế thi đua làm tốt, khuyến khích các hộ làm ăn giỏi đỡ đần hướng dẫn cho các hộ nghèo. Trong thời gian qua chúng ta còn tiến hành phổ biến kiến thức, đào tại từ xa cho nông dân thông qua các phương tiện truyền thanh truyền hình… hình thức này phù hợp với xu thế mới và có thể áp dụng như một giải pháp khuyến nông trong tương lai. Kinh phí cho các chương trình này được tài trợ bởi Nhà nước là chủ yếu, có thể trích từ quỹ xoá đói giảm nghèo hoặc được các tổ chức quốc tế tài trợ thông qua phối hợp hành động với chính phủ Việt Nam. Nhóm 5: Đầu tư cho kết cấu hạ tầng ở các xã nghèo. Đây luôn là giải pháp cần thiết để xoá đói giảm nghèo, đặc biệt với các xã vùng sâu, vùng xa nơi mà cơ sở hạ tầng yếu kém cản trở không nhỏ tới sự giao lưu kinh tế với các khu vực phát triển hơn làm cho người dân không tiếp cận được với các chương trình hỗ trợ khác. Bên cạnh đó đầu tư cho cơ sở hạ tầng phải thực hiện theo đúng nguyên tắc tránh lãng phí, tạo việc làm cho dân từ công trình để góp phần tạo nên thu nhập cho dân cư tại chỗ. Nhóm 6: Một số chính sách khuến khác nhằm hỗ trợ người nghèo sản xuất. Các chính sách này có thể là miễn giảm thuếy nông nghiệp, hạn chế thu các khoản phí địa phương, tổ chức tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, bán vâth tư cho nông dân. Nhóm 7: Các chính sách về giáo dục, y tế, xã hội. Đây là nhóm giải pháp lâu dài, chủ yếu tập trung cho công tác y tế cộng đồn, đảm bảo mọi tầng lớp người dân được tham gia khám chữa bệnh với chi phí thấp nhất có thể, công tác kế hoạch hoá gia đình, bài trừ các tệ nạn xã hội… nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng cuôcj sống cho người nghèo. Nhóm giải pháp này góp phần tạo niềm tin sự lạc quan cho các hộ nghèo tham gia quá trình sản xuất. Do đây là những giải pháp tổng hợp tác động tới bản thân từng người gnhèo, từng hộ nghèo nên nó đồng thời vai trò như một nguồn đầu tư vào nhân lực, tạo tiềm năng cho xoá đói giảm nghèo trong thời gian dài. Nhóm 8: Phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể. Do đây là trách nhiệm lớn của toàn Đảng toàn dân, của tất cả các tổ chức xã hội, không một cơ quan nào, tổ chức nào có thể tự tiến hành được. trong thời gian tới công tác này sẽ động viên, đòi hỏi sự tahm gia sâu sắc hơn tách nhiêmk hơn của chính quyền địa phương các cấp, các đoàn thể, các tổ chức xã hội… để biến các chủ trương của Đảng, Nhà nước thành hiện thực trong cuộc sống. Đồng thời cần xử lý các cán bộ làm sai một cách nghiêm khắc. Bên cạnh đó cần nâng cao ý thức trách nhiệm người dân, giúp họ nhận thức được vai trò giám sát, làm chủ cảu chính họ trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, vận động tất cả mọi ngưòi cung tham gia, giúp đỡ nhau và tự giúp mình thoát khỏi đói nghèo ổn định cuộc sống. Kết luận Đất nước ta từ khi giành được độc lập thống nhất, đã tập trung vào phát triển kinh tế. Đặc biệt là sau giai đoạn cải cách đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu lớn lao. Đời sống nhân dân cải thiện một cách rất rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người tăng lên. Tuy vậy những năm qua thiên tai liên tiếp xẩy ra đã gây cho chúng ta nhiều tổn thất. Tình hình đói nghèo ở nhiều nơi chưa được cải thiện, mặc dù Đảng và Nhà nước đã và đang hết sức quan tâm. Trong những năm qua kinh tế phát triển cao hơn, đi kèm với nó làtình trạng phân hoá giàu nghèo, phân hoá xã hội. Do đó khi thực thi công tác xoá đói giảm nghèo ta phải chú ý vấn đề này để thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh. Với tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo, em đã mạnh dạn viết bài này hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước. Một lần nữa em xin cảm ơn cô giáo GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng đã giúp em hoàn thành bài viết này ./. Tài liệu tham khảo Báo Lao động xã hội các số năm 1999, 2000. Báo Việt Nam Đông Nam á ngày nay- số 14/1999. Giáo tình Kinh tế phát triển tập 1,2. Giáo trình Chương trình và Dự án phát triển kinh tế xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng IX. Tạp chí Kinh tế phát triển các số năm 2000, 2001. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 58/2001. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 11/1999. Vấn đề tăng trưởng với xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam của GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35333.doc
Tài liệu liên quan