Đề án Quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước

LỜI MỞ ĐẦU Để đắp ứng nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tài chính nhằm nâng cao chất lượng quản lý kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, vấn đề kiểm tra kiểm soát chất lượng làm lành mạnh hóa các thông tin tài chính trong nền kinh tế quốc dân là một nhu cầu cấp thiết. Giúp cho nền kinh tế thị trường có thể đứng vững và có thể phát triển toàn diện về mọi mặt. Nó điều tiết nền kinh tế đi đúng hướng và hạn chế được những khủng hoảng có thể xảy ra trong nền kinh tế đi đúng hướng và hạn chế được những khủng hoảng có thể xảy ra trong nền kinh tế thị trường, chính vì vậy mà kiểm toán ra đời như một sự tất yếu. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế đang phát triển, sự ra đời của các doanh nghiệp trẻ và đày triển vọng khiến cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt. Các doanh nghiệp cần mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư mới máy móc, trang thiết bị hiện đại cho sản xuất do vậy doanh nghiệp cần phải huy động vốn từ các nhà đầu tư bên ngoài. Các nhà đầu tư cần có những tài liệu tin cậy để có sự đầu tư đúng đắn, ngoài ra; các cơ quan Nhà nước cần thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế; người lao động cần thông tin đáng tin cậy về kết quả kinh doanh, thực hiện chính sách tiền lương ; khách hàng, nhà cung cấp cần hiểu rõ thực chất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp để cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Chính vì vậy, kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính ra đời với vai trò, chức năng xác minh và tư vấn không chỉ giúp cho sự quản lý vĩ mô của Nhà nước mà còn ý nghĩa chi bản thân doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm. Nếu như Báo cáo tài chính chỉ cung cấp và trình bày cho người đọc thực trạng của doanh nghiệp tại một thời gian nhất định thì kiểm toán các Báo cáo tài chính sẽ gây dựng lòng tin cho người sử dụng đối với Báo cáo tài chính đó. Được sự giúp đỡ và sự hướng dẫn tận tình của thầy Phan Trung Kiên, em đã tiến hành tìm hiểu và chọn đề tài: “Quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước”. Bài đề án của em được trình bày với kết cấu như sau: Chương I: Kiểm toán nhà nước và mô hình tổ chức bộ máy Chương II: Thực trạng và mô hình kiểm toán nhà nước tại Việt Nam Chương III: Đánh giá và ý kiến nhằm hoàn thiện Do trình độ và nhận thức còn hạn chế nên bài đề án của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo của thầy Phan Trung Kiên để em hoàn thiện hơn nữa đề án này. LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC BỘ MÁY 3 I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC 3 II. NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI – BÀI HỌC KINH NGHIỆM 4 1.Các mô hình 4 1.1. Mô hình trực thuộc Quốc hội (Liên bang Nga) 4 1.2. Mô hình độc lập với Quốc hội và Chính phủ (Liên bang Đức) 7 1.3. Mô hình trực thuộc Chính phủ (Trung Quốc) 10 2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 12 2.1. Tính độc lập của cơ quan KTNN 12 2.2. Mối quan hệ với Chính phủ và Quốc hội 12 2.3. Hình thức Tổ chức 14 2.4. Cơ chế hoạt động 14 CHƯƠNG II: MÔ HÌNH KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 16 I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 16 II. MÔ HÌNH TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 21 1. Hình thức tổ chức 21 2. Cơ cấu, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận trong bộ máy 22 2.1. Giai đoạn từ khi thành lập đến trước khi có Luật KTNN 22 2.2. Giai đoạn từ khi có Luật KTNN đến nay 23 3. Phân công, phân cấp trong tổ chức quản lý kiểm toán 27 CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ VÀ Ý KIẾN NHẰM HOÀN THIỆN 31 I. Đánh giá 31 II. Một số ý kiến hoàn thiện 32 KẾT LUẬN 36

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1626 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kiểm toán Liên bang Nga, Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra Hàn Quốc, Uỷ ban Kiểm toán và Kiểm soát Ấn Độ; Uỷ ban Kiểm toán Nhật Bản; v.v.. Phần lớn các khu vực trên thế giới đều thành lập Tổ chức các cơ quan kiểm toán tối cao của khu vực. Đồng thời các quốc gia cũng gia nhập Tổ chức Quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (International Organization of Supreme Audit Institutions-INTOSAI). Cơ quan này gồm có 178 thành viên. II. Nghiên cứu mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của một số nước trên thế giới – Bài học kinh nghiệm 1.Các mô hình 1.1. Mô hình trực thuộc Quốc hội (Liên bang Nga) Vị trí: Kiểm toán nhà nước liên bang Nga (KTNNLB) là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nước, được lập ra bởi Hội nghị Liên bang và trực thuộc Hội nghị. KTNNLB Nga trong hoạt động của mình tuân thủ theo Hiến pháp Liên bang, Đạo luật KTNN và các Đạo luật khác của Liên bang Nga. Trong khuôn khổ các nhiệm vụ do luật định, KTNNLB Nga độc lập về tổ chức và chức năng. KTNNLB Nga là một pháp nhân, có con dấu khắc hình Quốc huy Liên bang. Nhiệm vụ: Tổ chức và thực hiện kiểm tra việc hoàn thành đúng thời hạn các khoản thu, khoản chi của Ngân sách Liên bang và ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang, cả về số lượng, cơ cấu và mục tiêu. Đánh giá cơ sở lý giải của các khoản thu, khoản chi trong các dự toán ngân sách Liên bang và ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang. Thẩm định về mặt tài chính các dự thảo Luật Liên bang, các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực Nhà nước Liên bang khác có dự kiến các khoản chi lấy từ ngân sách Liên bang hoặc ảnh hưởng đến việc thành lập và sử dụng ngân sách Liên bang cũng như ngân sách của các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang. Phân tích việc không thực hiện đúng các chỉ tiêu đã xác định của ngân sách Liên bang và của ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang, cũng như chuẩn bị các kiến nghị nhằm khắc phục các sai sót đó và hoàn thiện ngân sách Liên bang. Kiểm tra tính hợp pháp và tính kịp thời của việc chuyển ngân sách Liên bang và ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang trong Ngân hàng Trung ương Nga, trong các Ngân hàng được uỷ nhiệm và các tổ chức tín dụng khác của Liên bang. Đệ trình thường xuyên các thông tin về việc thực hiện ngân sách Liên bang cũng như kết quả các hoạt động kiểm toán lên Hội đồng Liên bang và Viện Duma quốc gia. Tổ chức bộ máy: KTNNLB bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Kiểm toán trưởng và bộ máy giúp việc của KTNNLB. Chủ tịch KTNNLB do Viện Duma quốc gia bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 6 năm. Nghị quyết về việc bổ nhiệm Chủ tịch KTNNLB được Viện Duma quốc gia thông qua với đa số phiếu cuả tất cả đại biểu Viện Duma quốc gia. Mọi công dân Liên bang Nga đã tốt nghiệp Đại học tổng hợp, có kinh nghiệm trong lĩnh vực hành chính Nhà nước, kiểm tra Nhà nước, kinh tế và tài chính đều có thể được bổ nhiệm làm Chủ tịch KTNNLB. Chủ tịch KTNNLB không được có quan hệ họ hàng với Tổng thống Liên bang Nga, Chủ tịch Hội đồng Liên bang, Chủ tịch Viện Duma quốc gia, Chủ tịch Chính phủ Liên bang, Thủ trưởng Phủ Tổng thống Liên bang, Chánh Toà án tối cao Liên bang và Chủ tịch Hội đồng trọng tài tối cao Liên bang. Chủ tịch KTNNLB có quyền tham dự các phiên họp của Hội đồng Liên bang, Viện Duma quốc gia, các Uỷ ban và tiểu ban của Nghị viện, các phiên họp của Chính phủ Liên bang và của Đoàn Chủ tịch Chính phủ Liên bang. Chủ tịch KTNNLB không được phép là Đại biểu của Viện Duma quốc gia, là thành viên của Chính phủ Liên bang, không được làm bất kỳ công việc nào có tính chất sinh lợi, trừ công tác giảng dạy khoa học nghệ thuật... Phó Chủ tịch KTNNLB do Hội đồng Liên bang bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 6 năm. Nghị quyết bổ nhiệm Phó Chủ tịch KTNNLB được thông qua bởi đa số tất cả các đại biểu Hội đồng Liên bang. Đánh giá kết quả kiểm toán: KTNNLB đánh giá một cách có hệ thống các kết quả thu được từ các biện pháp kiểm tra, khái quát chúng và nghiên cứu các nguyên nhân và hậu quả của các việc sai trái và vi phạm trong khi tạo các nguồn thu và chi từ ngân sách Liên bang. Trên cơ sở các dữ liệu có được, KTNNLB xây dựng các kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật Ngân sách và tiếp tục phát triển hệ thống tài chính và ngân sách của Liên bang, trình lên Viện Duma quốc gia. Các kiến nghị của KTNNLB: Dựa vào các kết quả do các biện pháp kiểm tra đưa lại, KTNNLB kiến nghị với các cơ quan Nhà nước Liên bang, Thủ trưởng các cơ quan, doanh nghiệp được kiểm toán về các biện pháp để khắc phục các thiếu sót, truy cứu trách nhiệm của các quan chức đã vi phạm các Đạo luật của Liên bang và gây ra bê bối. Kiến nghị của KTNNLB phải được xem xét trong thời hạn được ấn định, nếu không có thời hạn thì là 20 ngày kể từ ngày nhận được chúng. Các biện pháp được đưa ra để thực hiện kiến nghị phải được thông báo ngay cho KTNNLB. Nếu trong khi tiến hành kiểm toán mà phát hiện việc biển thủ phương tiện tài chính hoặc tài sản Nhà nước cũng như các vụ việc lạm dụng chức vụ khác thì KTNNLB chuyển ngay lập tức các hồ sơ, tài liệu cho các cơ quan bảo vệ pháp luật. 1.2. Mô hình độc lập với Quốc hội và Chính phủ (Liên bang Đức) Vị trí: KTNN Liên bang là cơ quan tối cao của Liên bang, với tư cách một cơ quan kiểm tra tài chính độc lập chỉ tuân thủ pháp luật. Trong khuôn khổ những nhiệm vụ theo luật định, KTNN Liên bang hỗ trợ Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang trong việc ra quyết định của các cơ quan này. Địa vị pháp lý của KTNN Liên bang và các thành viên cũng như những nhiệm vụ cơ bản được đảm bảo bằng Hiến pháp. Những vấn đề cụ thể được quy định trong các đạo luật riêng (Luật KTNN Liên bang, Luật Ngân sách Liên bang). Nhiệm vụ: (1) Toàn bộ công tác quản lý ngân sách và kinh tế của Liên bang, kể cả các tài sản đặc biệt và xí nghiệp của Liên bang đều được KTNN Liên bang kiểm toán theo chuẩn mực. (2) Trên cơ sở kinh nghiệm kiểm toán, KTNN Liên bang có thể tư vấn cho Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang, Chính phủ Liên bang và cho từng Bộ của Liên bang về những vấn đề có liên quan. Khi KTNN Liên bang tư vấn cho Quốc hội hoặc Hội đồng Liên bang thì đồng thời cũng thông báo cho Chính phủ Liên bang. (3) KTNN Liên bang tổng hợp những kết luận kiểm toán của mình vào những Báo cáo kiểm toán gửi cho các đơn vị được kiểm toán, để đơn vị này trình bày quan điểm. (4) Hàng năm, KTNN Liên bang báo cáo những kết quả kiểm toán quan trọng cho Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang dưới hình thức những "Báo cáo tổng hợp" (Báo cáo năm). Nó là cơ sở để Quốc hội Liên bang vãn hồi trách nhiệm cho Chính phủ Liên bang. Báo cáo này cũng được giới thiệu trước công luận trong một cuộc họp báo Liên bang. (5) KTNN Liên bang có thể thông báo bất kể lúc nào về những vấn đề có ý nghĩa quan trọng cho Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang (Báo cáo đặc biệt). (6) KTNN Liên bang chẳng những tư vấn cho các cơ quan hành pháp và lập pháp thông qua những kiến nghị trong Báo cáo kiểm toán và Báo cáo năm, mà trước hết thông qua các bài tham luận (bằng văn bản hoặc bằng miệng) về những chủ đề thời sự (như những dự án mua sắm với lượng tài chính lớn) hoặc trong khuôn khổ xây dựng dự toán ngân sách. Phạm vi hoạt động: KTNN Liên bang kiểm tra: - Các khoản thu, các khoản chi, các nghĩa vụ chi tài sản và các khoản nợ. - Các chương trình có ảnh hưởng tới tài chính. - Các khoản lưu giữ và tạm ứng. - Việc sử dụng các kinh phí được bổ sung nhằm tự tạo vốn. Theo Điều 88, Quy chế Ngân sách Liên bang ban hành ngày 19/8/1969, KTNN Liên bang có thể giới hạn phạm vi kiểm toán và cho phép miễn kiểm tra các hoạt động kế toán. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động: - 9 Vụ kiểm toán, mỗi Vụ có 6 Phòng kiểm toán, bao gồm khoảng 600 kiểm toán viên. - 9 KTNN Khu vực gồm 500 Kiểm toán viên. - Khoảng 1.500 kiểm toán viên trong các cơ quan của Liên bang. - Kế hoạch ngân sách KTNN Liên bang được 78 triệu DM. - Kế hoạch ngân sách KTNN Khu vực được 92 triệu DM. Những quyết định của KTNN Liên bang được biểu quyết tập thể. Trong trường hợp bình thường thì 2 thành viên hữu trách ra quyết định (Vụ trưởng và Trưởng Phòng kiểm toán). Trong một số trường hợp nhất định thì Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch sẽ tham gia vào Hội đồng (Hội đồng 3 thành viên). Những quyết định trong Hội đồng 2 hoặc 3 thành viên chỉ có thể thông qua với sự nhất trí của tất cả các thành viên. Đại hội đồng của KTNN Liên bang chỉ quyết nghị về những vấn đề vợt ra ngoài khuôn khổ 1 Vụ hoặc đặc biệt quan trọng. 1.3. Mô hình trực thuộc Chính phủ (Trung Quốc) Luật kiểm toán Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ban hành ngày 31/8/1994 quy định cơ sở pháp lý của hoạt động kiểm toán nhà nước. Mục đích của hoạt động kiểm toán: Nhằm tăng cường sự kiểm tra Nhà nước về tài chính, bảo đảm trật tự Nhà nước về kinh tế và tài chính, khuyến khích xây dựng chính sách cởi mở và bảo đảm sự phát triển kinh tế quốc dân lành mạnh. Các lĩnh vực chịu kiểm toán: - Việc thực hiện ngân sách thuộc các ngành của Quốc vụ viện và chính quyền nhân dân địa phương các cấp. - Các khoản thu, khoản chi của các cơ quan tài chính Nhà nước, các doanh nghiệp và tổ chức. Cơ quan kiểm toán hoạt động theo luật, nhằm kiểm tra tính đúng đắn, tính hợp pháp và tính kinh tế của việc thực hiện ngân sách và các khoản thu, khoản chi của các cơ quan nói trên. Quốc vụ viện và chính quyền địa phương từ cấp huyện trở lên hàng năm phải trình lên Uỷ ban thường vụ Đại hội nhân dân cấp mình báo cáo hoạt động của Cơ quan Kiểm toán đối với việc thực hiện ngân sách và các khoản thu, khoản chi khác. - Các cơ quan Kiểm toán thực hiện sự kiểm toán theo pháp luật một cách độc lập, không có sự can thiệp của cơ quan hành chính, tổ chức và cá nhân khác. - Quốc vụ viện lập ra KTNN để lãnh đạo hoạt động kiểm toán trong toàn quốc dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Quốc vụ viện. Tổng Kiểm toán là người lãnh đạo KTNN. - Các Cơ quan kiểm toán địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo với chính quyền nhân dân cùng cấp và Cơ quan kiểm toán cấp trên. Về mặt chuyên môn thì trước hết Cơ quan Kiểm toán cấp trên chịu trách nhiệm. - Các Cơ quan Kiểm toán kiểm tra việc thực hiện ngân sách và việc quyết toán ngân sách cũng như việc quản lý và sử dụng các phương tiện nằm ngoài ngân sách cùng cấp (kể cả các đơn vị cấp dưới trực thuộc trực tiếp) và của cả chính quyền nhân dân cấp dưới. KTNN kiểm toán và kiểm tra: + Các khoản thu và các khoản chi của Ngân hàng TW. Các Cơ quan Kiểm toán kiểm toán và kiểm tra các tài sản, các khoản nợ, lợi nhuận và thua lỗ của các tổ chức tài chính Nhà nước. + Các khoản thu và các khoản chi của các cơ quan Nhà nước được lập ra theo Luật định. + Các tài sản, nợ, lợi nhuận và thua lỗ của các DNNN. + Việc thực hiện ngân sách và các khoản thu, khoản chi của các công trình xây dựng Nhà nước. + Các khoản thu, khoản chi của các quỹ bảo hiểm xã hội, các khoản tài chính được quyên góp trong xã hội và các quỹ có liên quan do các tổ chức được cơ quan Nhà nước hoặc Chính phủ giao cho quản lý. + Các khoản thu, khoản chi, các khoản trợ giúp tài chính và khoản vay của các tổ chức tài chính quốc tế và Chính phủ nước ngoài. 2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 2.1. Tính độc lập của cơ quan KTNN Các quy định về một cơ quan KTNN tại cả ba nước đều được đề cập đến trong Hiến pháp và coi đó như là một cơ quan có thẩm quyền cao trong kiểm tra tài chính nhà nước, tuy nhiên chỉ có Hiến pháp của Liên bang Đức có những quy định đề cập rõ đến tính độc lập của cơ quan KTNN, trong Hiến pháp của Trung Quốc cũng có một điều nói đến tính độc lập này và tại cả ba nước tính độc lập của cơ quan này đều được nói rõ hơn trong các đạo luật về kiểm toán. Sự độc lập về tài chính là tiền đề cơ bản cho những phương thức làm việc mang tính tự chủ, do vậy trong khuyến cáo của tuyên bố Lima nói rất rõ điều này. Trong ba nước được giới thiệu ở trên chỉ có Đức là sự độc lập về tài chính được nói rõ trong các luật về kiểm toán; tại Nga, trong luật về cơ bản kiểm toán chỉ dừng lại ở việc lưu ý rằng phải tôn trọng tối đa tính độc lập của KTNN trong việc lập dự toán ngân sách, qua đó hạn chế sự tác động của các cơ quan khác; tại Trung Quốc, trong luật về cơ quan KTNN chỉ quy định rằng kinh phí để trang trải cho hoạt động của cơ quan này được cấp từ ngân sách mà không quy định rõ là cơ quan nào phê duyệt kinh phí này và ai là người xác định mức kinh phí đó. Qua đó ta có thể thấy rõ các quy định về tính độc lập của cơ quan KTNN ở Đức rất chặt chẽ và rõ ràng hơn so với ở Nga và Trung Quốc. 2.2. Mối quan hệ với Chính phủ và Quốc hội Tại Đức như đã phân tích ở trên cho thấy cơ quan KTNN thực sự được xây dựng như là những cơ quan nhà nước độc lập, bằng việc tách cơ quan kiểm tra tài chính khỏi các cơ quan hành pháp hay lập pháp về mặt tổ chức sẽ đảm bảo sự tách rời và không đồng nhất giữa ngừời kiểm tra với người bị kiểm tra và giữ được một khoảng cách tối thiểu cần thiết - điều này đảm bảo tính độc lập về mặt nghiệp vụ nhưng có sự phối hợp rất chặt chẽ với nhau, ngoài ra KTNN liên bang còn thành lập một số kiểm toán khu vực nhưng không trực thuộc về mặt hành chính với các bang, điều này cho thấy tính độc lập cao của KTNN khu vực. Điều này tương đối giống với tại Nga khi mà KTNN Trung ương chỉ thành lập các KTNN khu vực để không bị các địa phương chi phối. Trái lại, ở Trung Quốc do việc thành lập các cơ quan kiểm toán cùng cấp với các chính quyền từ cấp huyện trở lên và chịu sự chỉ đạo song trùng từ 2 cơ quan là chính quyền cùng cấp và KTNN cấp trên do đó hạn chế nhiều đến tính độc lập của cơ quan này. Đương nhiên ở đây không thể đi tới chỗ hoàn toàn tách rời cơ quan KTNN khỏi Quốc hội và Chính phủ được, bởi vì việc lập ra cơ quan này cũng nhằm để báo cáo cho Quốc hội và Chính phủ biết rõ việc quản lý công quỹ và tài sản quốc gia đã được thực hiện như thế nào; mặt khác có nhiều lĩnh vực khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán rất cần sự hợp tác chặt chẽ từ chính hai cơ quan này đặc biệt trong việc tư vấn các dự luật cho Quốc hội hay kiến nghị Chính phủ phải sửa chữa và khắc phục các yếu kém trong quản lý và điều hành ngân sách. Một trong những quan hệ cần sự độc lập của cơ quan KTNN trước Quốc hội và Chính phủ là việc cơ quan KTNN được quyền tự lựa chọn chương trình và mục tiêu kiểm toán hàng năm, được độc lập thực hiện các chương trình xây dựng mà không phụ thuộc vào sự ngăn trở hay giao nhiệm vụ từ cơ quan lập pháp hay tư pháp. Điều này thực sự đã được các cơ quan KTNN tại Đức và Nga tiến hành kể từ khi thành lập tới nay. Trái lại ở Trung Quốc, Chính phủ (Quốc vụ viện) giao nhiệm vụ cho cơ quan KTNN thực hiện hàng năm, đặc biệt đối với các DNNN giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, trên cơ sở đó KTNN mới tiến hành lập kế hoạch và chương trình kiểm toán, lựa chọn các đơn vị được kiểm toán phù hợp với nhiệm vụ được giao. 2.3. Hình thức Tổ chức Hình thức tổ chức của các nước được nghiên cứu ở trên cho thấy sự khác nhau, mỗi nước một kiểu từ hình thức có nhiều cơ quan KTNN độc lập nhau như ở Đức, đến hình thức có một cơ quan KTNN nhưng lại được tổ chức theo mô hình tập trung thống nhất như kiểu Nga hay một cách thức là các cơ quan KTNN trực thuộc cả vào chính quyền địa phương như tại Trung Quốc. Tuy nhiên các mô hình này đều có sự thích ứng với hình thức tổ chức NSNN và các quy định trong Hiến pháp và Luật về tổ chức bộ máy nhà nước của từng nước. Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan KTNN thường được sự phê chuẩn của Quốc hội và người đề cử thường dành quyền cho Chính phủ. Nhiệm kỳ công tác của người đứng đầu và các uỷ viên của nó thường kéo dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc hội, họ chỉ bị miễn nhiệm khi không đủ sức khoẻ, về hưu hoặc vi phạm các quy định nghề nghiệp. 2.4. Cơ chế hoạt động Như đã phân tích ở trên, đứng đầu các cơ quan này ở các ba nước đều có một chủ tịch Cơ quan KTNN, trong luật kiểm toán của Đức và Nga thể hiện rõ một cơ cấu tổ chức mang tính đồng sự, tức là các vấn đề, kết luận của cơ quan kiểm toán được quyết định bởi một hội đồng có nhiều thành viên (còn gọi là các uỷ viên) và thông qua quyết định theo nguyên tắc đa số. Các quyền quyết định được phân cấp xuống dưới theo từng lĩnh vực nhất định. Riêng tại Đức còn có các hội đồng cấp vụ hay phòng để quyết định những vấn đề riêng phụ thuộc trách nhiệm của Vụ hay phòng đó. Tuy nhiên tại Trung Quốc không có quy định rõ về cơ cấu tổ chức nội bộ của cơ quan KTNN, tại điều 39 của luật kiểm toán chỉ quy định rằng các nhóm, đoàn kiểm toán phải báo cáo với KTNN và các báo cáo này sẽ được kiểm tra lại trước khi phát hành cho đơn vị được kiểm toán biết. Như vậy ở đây có thể nhận thấy một số yếu tố của một cơ cấu đồng sự trong vấn đề quyết định. Trong các luật kiểm toán đề nghiên cứu đều đòi hỏi năng lực, trình độ của các uỷ viên cũng như nhân viên kiểm toán phải đáp ứng được yêu cầu của những công việc phức tạp, kinh nghiệm và trình độ chuyên sâu trong lĩnh vực kiểm tra tài chính. Trong luật và các quy định mang tính nội bộ đều yêu cầu một chương trình bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ và được sát hạch qua các kỳ thi hàng năm để đảm bảo nhân viên của KTNN luôn được trang bị những kiến thức, kỹ năng mới nhất đáp ứng yêu cầu của công việc ngày càng khó khăn hơn. Đây là điều kiện tất yếu để có được các báo cáo kiểm toán với chất lượng cao. CHƯƠNG II: MÔ HÌNH KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM I. Quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước tại Việt Nam Trên thế giới, tổ chức quốc tế các cơ quan KTNN (INTOSAI) được thành lập từ năm 1953 với 34 thành viên, đến nay bao gồm 178 nước thành viên; ở Châu á, tổ chức các cơ quan kiểm toán Châu á (ASOSAI) cũng đã được thành lập vào năm 1978 cho đến nay đã có gần 35 nước th_nh viên, KTNN Việt Nam là thành viên chính thức của INTOSAI từ tháng 4/1996 và là thành viên của ASOSAI từ tháng 1/1997. Hầu hết các cơ quan KTNN trên thế giới đều là thành viên của INTOSAI, song mỗi cơ quan KTNN ở mỗi nước lại ra đời trong những điều kiện kinh tế, chính trị và thời điểm lịch sử khác nhau. KTNN tại một số nước ra đời từ rất sớm: KTNN Pháp ra đời năm 1807, KTNN tại Anh được thiết lập năm 1834, KTNN Thái Lan Năm 1875,… Hoàn cảnh cụ thể ra đời mỗi cơ quan KTNN tại mỗi nước trên thế giới không hoàn toàn giống nhau nhưng đều dựa trên những điều kiện phát triển nhất định của Nhà nước, những điều kiện về kinh tế – chính trị chín muồi. Ở nước ta, KTNN ra đời cũng dựa trên những điều kiện đó, cụ thể: * Yêu cầu của quản lý tài chính nhà nước - điều kiện kinh tế Bản thân hoạt động tài chính nhà nước luôn gắn với sự phát triển của Nhà nước và của nền kinh tế. Nhà nước tập trung được những nguồn lực khổng lồ trong xã hội và được sử dụng cho nhiều mục tiêu khác nhau với các quan hệ tài chính tiền tệ rất phức tạp. Vai trò của tài chính nhà nước được thể hiện rõ hơn trong việc đưa ra những chính sách mang tầm chiến lược, những giải pháp động viên mọi nguồn lực của quốc gia, đảm nhận chức năng quản lý ngân quỹ của Nhà nước, thu đúng, thu đủ theo đúng chính sách của Nhà nước. Đồng thời tổ chức phân phối và đầu tư các nguồn lực đó sao cho có hiệu quả; việc phân phối các nguồn lực này vừa đảm bảo cho an ninh quốc gia vừa đảm bảo sự phát triển kinh tế và sự công bằng. Như vậy đòi hỏi phải có sự kiểm tra việc quản lý và sử dụng NSNN, Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhân dân – chủ thể sở hữu, phải thực hiện quyền quyết định về tài chính nhà nước. Do vậy cần phải kiểm tra, giám sát đối với các chủ thể được giao quản lý và sử dụng tài chính nhà nước, mặt khác Chính phủ với tư cách là chủ thể quản lý tài chính nhà nước cũng cần phải kiểm tra việc sử dụng các khoản tài chính này. Xuất phát từ nhu cầu đó đã hình thành nên một hệ thống các cơ quan kiểm tra, kiểm soát, trong quá trình phát triển của hệ thống ấy tất yếu hình thành nên một tổ chức độc lập từ bên ngoài và hoạt động mang tính chuyên môn cao nhằm kiểm tra, đánh giá mọi hoạt động quản lý và sử dụng tài chính nhà nước - đó chính là cơ quan KTNN. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế hết sức quan trọng. Do vậy, việc đề ra những giải pháp kinh tế, đầu tư hạ tầng kinh tế, đầu tư cho những tổ chức kinh tế của Nhà nước, cho khoa học – giáo dục, công nghệ… ngày càng lớn. Mặt khác, các biện pháp kinh tế của Nhà nước lại tác động lớn đến những cân đối của nền kinh tế, sự ổn định và tăng trưởng kinh tế làm xuất hiện nhu cầu kiểm tra tài chính nhà nước - đòi hỏi KTNN phải ra đời và hoạt động có hiệu quả để đáp ứng yêu cầu đó. * Đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền - điều kiện chính trị Đặc tính cơ bản của Nhà nuớc pháp quyền là pháp luật có vai trò quyết định Về tổ chức Nhà nước và mọi hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước; nó được hình thành dựa trên sự phát triển của nền dân chủ phát triển cao. Chính đặc tính đó của Nhà nước đòi hỏi Nhà nứớc với tư cách là đại diện cho nhân dân, tập trung quyền lực của nhân dân phải quản lý và sử dụng đúng mục đích, đúng pháp luật, hiệu quả, tiết kiệm mọi nguồn lực kinh tế của xã hội. Trong điều kiện đó, cần có KTNN với tư cách là một tổ chức hoạt động độc lập để đánh giá quá trình quản lý và sử dụng các nguồn lực kinh tế của Nhà nước. Như vậy, chính Nhà nước pháp quyền là nhân tố môi trường chính trị- pháp luật của sự ra đời KTNN. Trong điều kiện kinh tế – chính trị của các nước trong hệ thống CNXH trước đây không tồn tại một cơ quan KTNN bởi Nhà nước quản lý xã hội mang tính “mệnh lệnh, hành chính, bao cấp”, chỉ đến khi nước ta thực hiện đổi mới nền kinh tế theo hướng tôn trọng nền kinh tế thị trường với các quan hệ kinh tế hàng hoá, bộ máy nhà nước được phân chia lại chức năng, nhiệm vụ cụ thể theo hướng cải cách hành chính tạo nên Nhà nước pháp quyền nhằm tập trung quyền lực về tay nhân dân thì KTNN mới được ra đời để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế. Chính vì những yêu cầu trên, ngày 11/7/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 70/CP về việc thành lập cơ quan KTNN và Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước nhằm "giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp" (Điều 1); đánh giá sự tuân thủ pháp luật và hiệu quả hoạt động của các đơn vị được kiểm toán. Với tinh thần đó, hàng năm các số liệu, báo cáo quyết toán ngân sách của các địa phương trước khi trình ra Hội đồng nhân dân; Tổng quyết toán NSNN trước khi trình ra Quốc hội; báo cáo quyết toán của các cơ quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách, các chương trình, dự án, công trình đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước, các DNNN cần phải được KTNN tiến hành kiểm toán và xác nhận. Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước thực hiện nhiệm vụ được giao gồm: 4 tổ chức KTNN chuyên ngành (Kiểm toán Ngân sách Nhà nước; Kiểm toán Đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình, dự án, vay nợ, viện trợ Chính phủ; Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nước; Kiểm toán Chương trình đặc biệt: an ninh, quốc phòng, dự trữ quốc gia)...; Văn phòng Kiểm toán Nhà nước; Trung tâm Khoa học và bồi dưỡng cán bộ; Phòng Thanh tra và kiểm tra nội bộ và 4 tổ chức KTNN khu vực (KTNN khu vực phía Bắc, KTNN khu vực miền Trung, KTNN khu vực phía Nam và KTNN khu vực miền Tây Nam Bộ). Đứng đầu KTNN là Tổng Kiểm toán Nhà nước, giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước phụ trách từng lĩnh vực công tác của KTNN có các Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước. Tổng Kiểm toán Nhà nước và các Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Đứng đầu các Kiểm toán chuyên ngành và KTNN khu vực là Kiểm toán trưởng (Vụ trưởng); giúp việc Kiểm toán trưởng có các Phó Kiểm toán trưởng. Kiểm toán trưởng và Phó Kiểm toán trưởng do Tổng Kiểm toán Nhà nước bổ nhiệm và miễn nhiệm. Kinh phí hoạt động của hệ thống KTNN do NSNN cấp. Biên chế của hệ thống KTNN thuộc biên chế quản lý Nhà nước. Tổng Kiểm toán Nhà nước xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt biên chế và kinh phí hoạt động của hệ thống kiểm toán. Hiện nay, KTNN có 460 cán bộ, kiểm toán viên và nhân viên. Qua hơn 10 năm hoạt động từ 1994 tới 2010, KTNN đã khẳng định được sự cần thiết và vai trò quan trọng của mình; góp phần tăng cường quản lý làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia. Trong quá trình hoạt động, vai trò của KTNN không ngừng được củng cố và tăng cường thông qua kết quả kiểm toán đã đạt được, thể hiện trên một số mặt chủ yếu sau: Thứ nhất, góp phần kiểm tra việc chấp hành những quy định hiện hành về nghĩa vụ nộp NSNN, thực hiện nộp đúng, nộp đủ theo quy định của pháp luật. Kết quả kiểm toán ở các đơn vị và địa phương trong hơn 10 năm qua, KTNN đã phát hiện và kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi cho NSNN gần 4000 tỷ đồng, trong đó tăng thu về thuế trên 2000 tỷ đồng, tiết kiệm chi NSNN gần 1000 tỷ đồng và đưa vào quản lý qua NSNN trên 800 tỷ đồng. Thứ hai, kiểm soát việc sử dụng NSNN, chống thất thoát, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản Nhà nước. Trong điều kiện nhu cầu chi NSNN rất lớn, khả năng đáp ứng các nhu cầu này còn hết sức hạn hẹp thì việc tăng cường quản lý NSNN, hạn chế thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội đã được hoạch định. Ngoài việc phát hiện và xuất toán, bồi hoàn NSNN hàng ngàn tỷ đồng do chi sai chính sách chế độ, lập quỹ trái phép... KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý những sai phạm về quản lý kinh tế- tài chính góp phần tăng cường kỷ luật tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước. Thứ ba, cung cấp dữ liệu phục vụ các cơ quan quản lý tài chính và NSNN sát thực và có hiệu quả hơn. Thông qua việc kiểm tra tài chính, KTNN đã chỉ ra những điểm bất hợp lý trong việc xác định những chỉ tiêu thu, nhiệm vụ chi NSNN và tình hình chấp hành dự toán thu-chi ngân sách; góp phần tạo lập căn cứ để xây dựng dự toán NSNN cho những năm sau nhằm thu đúng, thu đủ, chống thất thu cho NSNN; đồng thời kiến nghị việc phân bổ NSNN cho các ngành, lĩnh vực, địa phương một cách hợp lý, thực hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực tài chính. Thứ tư, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã đề xuất kiến nghị một số giải pháp, nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách về tài chính, kế toán Nhà nước phù hợp với tình hình thực tiễn của các ngành, các lĩnh vực hoạt động. II. Mô hình tổ chức kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam 1. Hình thức tổ chức KTNN là một bộ máy tổ chức thống nhất bao gồm KTNN trung ương và các KTNN khu vực trực thuộc. Đứng đầu là Tổng KTNN, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của cơ quan KTNN, chỉ đạo toàn bộ KTNN trung ương và địa phương thực hiện theo một nhiệm vụ và kế hoạch thống nhất. Các KTNN khu vực có trụ sở tại một số địa phương có vị trí trung tâm của từng vùng theo địa giới hành chính làm nhiệm vụ kiểm toán trên địa bàn được phân công, nhưng không phụ thuộc về mặt tổ chức cũng như hoạt động vào các chính quyền địa phương. Mô hình tổ chức nội bộ KTNN Tổng kiểm toán nhà nước Các bộ phận tham mưu Các KTNN khu vực Các đơn vị hành chính Các KTNN chuyên ngành Trong mỗi bộ phận tổ chức ở trên lại có các bộ phận trực thuộc quyền quản lý của mình được tổ chức theo hình thức trực tuyến. 2. Cơ cấu, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận trong bộ máy 2.1. Giai đoạn từ khi thành lập đến trước khi có Luật KTNN Theo quy định tại Nghị định số 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ, KTNN được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất. Tại KTNN. Trung ương có các bộ phận tham mưu giúp Tổng KTNN thực hiện chức năng kiểm toán, các bộ phận này tương đương cấp vụ hoặc phòng; các bộ phận kiểm toán chuyên ngành thuộc KTNN, giúp Tổng KTNN thực hiện chức năng kiểm toán các tài liệu, số liệu kế toán, Báo cáo quyết toán của các đối tượng thuộc phạm vi của KTNN. Đứng đầu mỗi tổ chức kiểm toán chuyên ngành là Kiểm toán trưởng (cấp Vụ trưởng), giúp việc cho Kiểm toán trưởng có các Phó Kiểm toán trưởng (cấp Phó vụ trưởng). Kiểm toán trưởng và các Phó Kiểm toán trưởng do Tổng KTNN bổ nhiệm và miễn nhiệm; tại các khu vực thành lập KTNN khu vực trực thuộc KTNN trung ương, làm nhiệm vụ kiểm toán trên địa bàn nhưng không phụ thuộc về mặt tổ chức vào chính quyền trên địa bàn; ngoài ra còn có các đơn vị hành chính trực thuộc KTNN. Người đứng đầu các bộ phận này tương đương với người đứng đầu các kiểm toán chuyên ngành. Cụ thể có các đơn vị sau: Văn phòng KTNN; Vụ Tổ chức Cán bộ; Vụ kiểm toán NSNN; Vụ kiểm toán DNNN; Vụ kiểm toán Đầu tư xây dựng cơ bản, các chương trình dự án, vay nợ viện trợ Chính phủ; Vụ kiểm toán Chương trình đặc biệt; Phòng Thanh tra, kiểm tra nội bộ; Trung Tâm khoa học và Bồi dưỡng cán bộ; Trung tâm Tin học; Tạp chí KTNN. Các đơn vị trực thuộc KTNN là: KTNN khu vực phía Bắc; KTNN khu vực phía Nam; KTNN khu vực Miền Trung; KTNN khu vực miền Tây Nam bộ;KTNN khu vực Bắc Trung bộ. Theo quy định của Nghị định số 93/2003/NĐ-CP, ngoài các bộ phận hiện có, thành lập thêm, giải thể phòng Thanh tra, kiểm tra nội bộ, đó là: Vụ Giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán ; Vụ pháp chế ; Kiểm toán NSNN II; Kiểm toán đầu tư - dự án II; Kiểm toán các tổ chức tài chính - tín dụng. Cơ cấu tổ chức các đơn vị kiểm toán chuyên ngành và KTNN khu vực đều có 5 phòng, trong đó, kiểm toán chuyên ngành có phòng tổng hợp và 4 phòng nghiệp vụ; KTNN khu vực có Văn phòng và 4 phòng nghiệp vụ. 2.2. Giai đoạn từ khi có Luật KTNN đến nay Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật KTNN và chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2006, theo đó, KTNN là cơ quan chuyên môn về kiểm tra tài chính nhà nước, do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; thực hiện chức năng: kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động đối với mọi cơ quan, đơn vị có sử dụng NSNN, tiền và tài sản nhà nước. Theo Nghị quyết số 916/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 15/9/2005 của uỷ ban Thường vụ Quốc hội về cơ cấu tổ chức của KTNN gồm 6 Vụ tham mưu chức năng, 7 Kiểm toán chuyên ngành, 5 Kiểm toán khu vực và 3 đơn vị hành chính sự nghiệp. Theo Nghị quyết số 1123/NQ-UBTVQH11 ngày 28/5/2007 của uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập thêm 4 Kiểm toán khu vực trực thuộc KTNN, do đó đến nay có tổng cộng 9 Kiểm toán khu vực, các đơn vị có chức năng như sau: Chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị tham mưu Văn phòng KTNN là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của KTNN có chức năng tham mưu cho Tổng KTNN; tổ chức thực hiện công tác hành chính, quản trị, hợp tác quốc tế, tài chính – kế toán, thi đua và thông tin tuyên truyền. Vụ Tổ chức cán bộ là đơn vị thuộc KTNN có chức năng giúp Tổng KTNN quản lý về lĩnh vực tổ chức bộ máy của KTNN; quản lý cán bộ, công chức; quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Vụ Tổng hợp là đơn vị thuộc KTNN có chức năng tham mưu cho Tổng KTNN về công tác tổng hợp, điều hành kế hoạch công tác chung của toàn ngành; lập kế hoạch kiểm toán, quản lý hoạt động kiểm toán, thẩm định và xét duyệt báo cáo kiểm toán trước khi trình Tổng KTNN ký công bố, tổng hợp và lập báo cáo kết quả kiểm toán năm của toàn ngành, tổ chức công bố công khai báo cáo kiểm toán; là đầu mối quan hệ công tác giữa KTNN với Quốc hội và Chính phủ. Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán là đơn vị thuộc KTNN có chức năng tham mưu cho Tổng KTNN về công tác xây dựng và ban hành các văn bản về quy trình, chuẩn mực và phương pháp chuyên môn nghiệp vụ KTNN và chỉ đạo triển khai áp dụng trong hoạt động KTNN. Vụ Pháp chế là đơn vị thuộc KTNN có chức năng tham mưu giúp Tổng KTNN về công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật trong tổ chức và hoạt động của KTNN; tổ chức thực hiện công tác xây dựng pháp luật; thẩm định, rà soát, hệ thống hoá văn bản quy pháp pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật và kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về KTNN; thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý của KTNN theo quy định của pháp luật về thanh tra. Vụ Quan hệ quốc tế là đơn vị thuộc KTNN có chức năng tham mưu cho Tổng KTNN quản lý thống nhất các hoạt động quan hệ hợp tác quốc tế về lĩnh vực KTNN; thực hiện hợp tác quốc tế về lĩnh vực KTNN của KTNN; tổ chức thực hiện công tác đối ngoại của KTNN; quản lý các chương trình, dự án hợp tác quốc tế do KTNN thực hiện. Chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị kiểm toán chuyên ngành KTNN chuyên ngành I là đơn vị KTNN chuyên ngành thuộc KTNN có chức năng giúp Tổng KTNN thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách, báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; các công trình, dự án đầu tư do Bộ Quốc phòng và Bộ Công an hoặc các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an làm chủ đầu tư; các DNNN thuộc các đơn vị trên. KTNN chuyên ngành II là đơn vị KTNN chuyên ngành thuộc KTNN có chức năng giúp Tổng KTNN thẩm định dự toán NSNN, kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN, báo cáo quyết toán ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan trung ương khác thuộc khối tổng hợp, kinh tế, nội chính; KTNN chuyên ngành III là đơn vị KTNN chuyên ngành thuộc KTNN có chức năng giúp Tổng KTNN kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan trung ương khác thuộc khối khoa học – công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá - xã hội, thể dục thể thao, thông tin - tuyên truyền; khối tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; KTNN chuyên ngành IV là đơn vị KTNN chuyên ngành thuộc KTNN có chức năng giúp Tổng KTNN kiểm toán các công trình, dự án đầu tư do các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý ngành, lĩnh vực: giao thông - vận tải, công nghiệp, bưu chính - viễn thông, thương mại, du lịch là chủ đầu tư hoặc các đơn vị do các cơ quan nhà nước kể trên quản lý là chủ đầu tư; thẩm định các dự án, công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định thuộc phạm vi kiểm toán của đơn vị; chủ trì kiểm toán các chương trình mục tiêu quốc gia thuộc phạm vi kiểm toán của đơn vị; kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước của các đối tượng kiểm toán. KTNN chuyên ngành V là đơn vị KTNN chuyên ngành thuộc KTNN có chức năng giúp Tổng KTNN kiểm toán các công trình, dự án đầu tư do các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý ngành, lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, xây dựng, thông tin, tuyên truyền, y tế, giáo dục, văn hoá - xã hội, thể dục – thể thao, khoa học – công nghệ, tài nguyên – môi trường là chủ đầu tư hoặc các đơn vị do các cơ quan nhà nước kể trên quản lý là chủ đầu tư; thẩm định các dự án, công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định thuộc phạm vi kiểm toán của đơn vị; chủ trì kiểm toán các chương trình mục tiêu quốc gia và các khoản vay nợ, viện trợ Chính phủ thuộc phạm vi kiểm toán của đơn vị. KTNN chuyên ngành VI là đơn vị KTNN chuyên ngành thuộc KTNN có chức năng giúp Tổng KTNN kiểm toán, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo tài chính của các DNNN do Thủ tướng Chính phủ thành lập và các DNNN do các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương là đại diện chủ sở hữu vốn tại doanh nghiệp (trừ các DNNN trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, bảo hiểm, dịch vụ tư vấn tài chính – kế toán - kiểm toán). KTNN chuyên ngành VII là đơn vị KTNN chuyên ngành thuộc KTNN có chức năng giúp Tổng KTNN kiểm toán, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán ngân sách, báo cáo tài chính của Ngân hàng Nhà nước, các quỹ tài chính tập trung của Nhà nước, các tổ chức tài chính, tín dụng, các DNNN. 3. Phân công, phân cấp trong tổ chức quản lý kiểm toán Các cấp quản lý của KTNN Thông qua mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động hiện nay có thể chia bộ máy quản lý nói chung thành 3 cấp: Cấp thứ nhất là cấp Tổng KTNN, cấp này có Tổng KTNN và các phó Tổng KTNN làm nhiệm vụ giúp việc cho Tổng KTNN. Cấp thứ 2 là cấp Vụ, người lãnh đạo là Vụ trưởng, Kiểm toán trưởng và các Phó Kiểm toán trưởng làm nhiệm vụ giúp việc thuộc các vụ tham mưu chức năng, các KTNN chuyên ngành, khu vực. Cấp thứ 3 là cấp Phòng, gồm có các Trưởng phòng và các Phó phòng làm nhiệm vụ giúp việc cho Trưởng phòng. Tại mỗi cấp có các quy định cụ thể về quyền hạn, nhiệm vụ của mỗi cấp, mỗi người trong hoạt động quản lý thường ngày; sự phối hợp giữa việc giao nhiệm vụ, triển khai thực hiện, trao đổi và phản hồi ý kiến, báo cáo kết quả. Tất cả các hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ và chế độ thủ trưởng; Thủ trưởng bộ phận nào chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt động của bộ phận đó, Tổng KTNN chịu trách nhiệm cuối cùng về toàn bộ hoạt động của KTNN. Phân công, phân cấp giữa các cấp quản lý Hiện nay mô hình tổ chức bộ máy hệ thống KTNN thể hiện các quan hệ quản lý hoạt động kiểm toán từ Tổng KTNN đến các bộ phận tham mưu và các kiểm toán chuyên ngành, kiểm toán khu vực thường theo mô hình hai cấp. Theo mô hình này hệ thống quản lý chuyên môn trực tuyến sẽ gồm hai cấp là: KTNN (Tổng KTNN) và các kiểm toán chuyên ngành, kiểm toán khu vực (các Kiểm toán trưởng); Các phòng kiểm toán thuộc KTCN, KTKV cùng với các phòng, bộ phận tham mưu sẽ hình thành các bộ phận tham mưu cho Kiểm toán trưởng (tham mưu chức năng và tham mưu trực tuyến). Kiểm toán trưởng tập trung mọi trách nhiệm và quyền hạn quản lý kiểm toán trong lĩnh vực được Tổng KTNN giao. Trong điều kiện bộ máy tổ chức của KTNN còn nhỏ và số lượng các cuộc kiểm toán không nhiều thì mô hình này tỏ ra có hiệu quả do số cấp trong quản lý hoạt động kiểm toán ít, quyết định quản lý được truyền đạt nhanh, chính xác; phát huy được các ý kiến tham mưu của các bộ phận chức năng trong việc thẩm định và kiểm tra, kiểm soát báo cáo kiểm toán. Quá trình phân công thực hiện nhiệm vụ hàng năm trong nội bộ cơ quan KTNN thường diễn ra theo hai loại: • Giữa các bộ phận quản lý thuộc các cấp khác nhau. • Giữa các bộ phận quản lý cùng cấp. Ở đây chúng ta tập trung đi sâu phân tích một số loại mối quan hệ sau: Một là, giữa kiểm toán chuyên ngành và khu vực Theo quy định hiện hành thì các kiểm toán chuyên ngành được giao nhiệm vụ kiểm toán các đơn vị, cơ quan, tổ chức do Trung ương quản lý: kiểm toán khu vực thực hiện kiểm toán các đối tượng trên nhưng do địa phương quản lý. Sự phân công này phù hợp với sự phân cấp về quản lý kinh tế và ngân sách hiện nay. Trong thực tế khi hoạt động kiểm toán chuyên ngành vẫn phải thực hiện thêm nhiệm vụ kiểm toán một số cơ quan địa phương do kiểm toán khu vực chưa đủ mạnh về lực lượng, trong khi địa bàn các địa phương rất rộng lớn do vậy để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, Tổng KTNN phải phân công thêm nhiệm vụ cho kiểm toán chuyên ngành. Kiểm toán chuyên ngành có nhiệm vụ tham gia xây dựng các quy trình kiểm toán, phương pháp nghiệp vụ và phương pháp kiểm toán theo các loại hình kiểm toán, theo lĩnh vực và đối tượng kiểm toán đã phân công. Các kiểm toán khu vực cùng với các kiểm toán chuyên ngành có trách nhiệm tham gia trong việc xây dựng các quy trình và phương pháp kiểm toán. Hai là, giữa các kiểm toán chuyên ngành Hiện nay theo quy định tại Nghị định 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ, KTNN có 7 kiểm toán chuyên ngành (như đã đề cập ở phần trước) phân chia các lĩnh vực hoạt động theo 3 nhóm ngành chính là: lĩnh vực các đơn vị thụ hưởng ngân sách; các đơn vị xây dựng dự án, viện trợ, chương trình mục tiêu quốc gia... các DNNN khác. Sự phân công này trên nghĩa tổng thể rõ ràng, nhưng thực tế có nhiều nhầm lẫn giữa các lĩnh vực trên, có những đơn vị là DNNN nhưng lại là đơn vị xây dựng cơ bản hoặc là đơn vị trực thuộc của bộ phận chi ngân ngân sách... Ba là, giữa các KTNN khu vực Các nhiệm vụ được phân công là giống nhau, chỉ khác nhau là địa bàn kiểm toán khác nhau, tuỳ thuộc vào năng lực của từng kiểm toán khu vực. Bốn là, giữa các bộ phận tham mưu, giúp việc Mỗi đơn vị thuộc các bộ phận này được giao những nhiệm vụ khác nhau theo các văn bản phân công nhiệm vụ rõ ràng: từ các nhiệm vụ như chuẩn bị về chương trình hoạch kiểm toán năm sau, thẩm định các kế hoạch kiểm toán hay báo cáo kiểm toán, chuẩn bị các văn bản quy định trong nội bộ ngành, chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất cho các đoàn kiểm toán... Năm là, giữa các phòng trong cùng cấp quản lý Tại các kiểm toán chuyên ngành, kiểm toán khu vực cũng như là các đơn vị tham mưu đều có chia nhân lực và nhiệm vụ theo các phòng khác nhau mang tính chuyên môn hoá sâu hơn. sự phân định nhiệm vụ có khác nhau về phạm vi, khối lượng công việc. Ví dụ: như một phòng kiểm toán tại kiểm toán khu vực có phạm vi kiểm toán như một kiểm toán chuyên ngành nhưng nhỏ hơn. CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ VÀ Ý KIẾN NHẰM HOÀN THIỆN I. Đánh giá Từ khi ra đời, KTNN đã góp phần không nhỏ vào việc kiểm soát NSNN, thể hiện vai trò tích cực của mình trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, hoạt động KTNN trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế cần phải có biện pháp khắc phục, đó là: Thứ nhất, hiệu lực hoạt động kiểm toán còn hạn chế, chưa đủ mạnh để đi sâu làm rõ sai phạm trong quản lí, điều hành, phân phối và sử dụng NSNN. Mặc dù KTNN đã phát hiện, tiết kiệm chi tiêu cho nhà nước hàng nghìn tỉ đồng nhưng đó vẫn là một con số rất nhỏ so với thực tế. Vẫn còn tệ nạn tham nhũng, tham ô NSNN, mà chỉ đến khi nó là một con số quá lớn thì KTNN mới có thể phát hiện được . Thứ hai, phạm vi hoạt động của KTNN còn hẹp, khối lượng thu chi ngân sách được kiểm toán hàng năm còn chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng thu chi ngân sách, chất lượng kiểm toán chưa cao, mới chỉ dừng lại ở việc xem xét, xử lí những vấn đề riêng lẻ của từng đối tượng kiểm toán mà chưa đi sâu phân tích tổng hợp để đưa ra các giải pháp có tính chất vĩ mô. Yêu cầu đối với KTNN, đó là KTNN phải trở thành một công cụ đắc lực của nhà nước để quản lí nền kinh tế vĩ mô, do đó, KTNN phải phát huy hết vai trò của mình, hoạt động tích cực hơn, có hiệu quả hơn để đạt được chất lượng tốt nhất . Thứ ba, đội ngũ KTV nhìn chung có phẩm chất tốt, cần cù, chịu khó trong công việc nhưng trình độ chưa tương xứng với đòi hỏi của nhiệm vụ được giao. Đây đó đã xuất hiện một vài hiện tượng cá biệt phản ánh sự thiếu trong sáng trong công việc và trong sinh hoạt làm ảnh hưởng đến thanh danh của KTNN. Đối với công việc kiểm toán, KTV giữ một vai trò hết sức quan trọng, nhưng KTV nhà nước Việt Nam, cũng như KTV độc lập, vẫn chưa có những khoá đào tạo về nghiệp vụ mang tính chất chuyên sâu và có tầm cỡ quốc tế trong nước. Mặc dù nguồn lực về nhân viên kiểm toán của nước ta khá cao, nhưng tỉ lệ những người có trình độ chuyên môn mang tính chất quốc tế lại thấp. Đây là một trong những bất lợi mà kiểm toán Việt Nam phải đương đầu. II. Một số ý kiến hoàn thiện Để khắc phục những hạn chế trên của 3 bộ máy tổ chức kiểm toán Việt Nam, ta thấy cần xúc tiến việc phát triển, tăng cường hệ thống kiểm toán, bao gồm KTNN, KTĐL, KTNB, phải có những giải pháp sau: Thứ nhất, cần nâng cao chất lượng của KTV. Các công ty kiểm toán nhà nước cần thay đổi phong cách làm việc, không quan liêu, làm việc năng động và có hiệu quả. Cần đổi mới, có những chương trình đào tạo và huấn luyện nhân viên kiểm toán một cách chuyên môn và mang tầm cỡ quốc tế. Trước mắt nên chú trọng vào việc đào tạo cho các thế hệ trẻ. Nhà nước cần có chính sách tài trợ thiết thực như: giúp đỡ về mặt tài chính, thành lập các chương trình đào tạo KTV ở nước ngoài....nhằm giúp đỡ các công ty kiểm toán nhà nước thực hiện giải pháp này một cách có hiệu quả. Nhà nước cũng cần nhanh chóng công nhận chức danh chuyên gia kế toán và chuyên gia kiểm toán (một chức danh nghề nghiệp thông dụng và được thừa nhận rộng rãi trên thế giới ), tiến hành thực hiện khẩn trương Đề án đào tạo chuyên gia kế toán, kiểm toán đã được hội đồng khoa học ngành tài chính nghiệm thu trong khuôn khổ dự án kế toán-kiểm toán EURO TAPVIET. Để quản lí được đội ngũ KTV, nhà nước cần thực hiện cơ chế sát hạch trình độ và cấp phép hoạt động đối với KTV người nước ngoài, quản lí danh sách và công khai danh sách các KTV được cấp bằng. Đối với hoạt động kiểm toán của KTNN, yếu tố con người có vai trò đặc biệt quan trọng quyết định chất lượng kiểm toán và sự phát triển của KTNN. Muốn ổn định và phát triển, KTNN cần phải xây dựng và thực hiện một chiến lược về con người. Trước hết, tiến hành xây dựng hệ thống chức danh tiêu chuẩn KTV nhà nước . Thường xuyên kiểm tra sát hạch, đánh giá phân loại KTV để sắp xếp bố trí công việc phù hợp năng lực trình độ. Cần có quy hoạch cán bộ để có kế hoạch đào tao bồi dưỡng dài hạn đáp ứng yêu cầu cán bộ của ngành. Vận hành chặt chẽ cơ chế thi tuyển, sát hạch để nâng cấp, nâng bậc và cấp chứng chỉ hành nghề KTV nhà nước. Kiến nghị chính phủ xây dựng và áp dụng chế độ lương, chế độ đãi ngộ tương xứng với nhiệm vụ và yêu cầu công việc của KTV để vừa thu hút được người có năng lực trình độ, vừa đảm bảo tu thế người thay mặt nhà nước làm công tác kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng ngân quỹ, công sản quốc gia, bảo vệ lợi ích kinh tế của đất nước, đồng thời tránh sự mua chuộc cám dỗ. Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kế toán và kiểm toán Việt Nam. Cùng với việc ban hành hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, nhà nước đã ban hành thêm 4 chuẩn mực về kế toán Việt Nam. Việc luật hoá các chuẩn mực kế toán kiểm toán sẽ giúp cho các cơ quan kiểm toán có cơ sỏ pháp lí vững chắc khi làm việc với khách hàng, hạn chế những rủi ro đáng tiếc do luật định không rõ ràng. Thứ ba, tăng cường đổi mới công tác tổ chức hoạt động kiểm toán và nâng cao hiệu lực của hoạt động KTNN. Nhanh chóng áp dụng phương pháp kỹ thuật kiểm toán tiên tiến và hiện đại hoá công tác kiểm toán. Những bài học kinh nghiệm thu được qua kiểm toán và kiến thức học tập tiếp thu của các nước trên thế giới cần khẩn trương áp dụng để đổi mới công tác tổ chức hoạt động kiểm toán, tạo đà cho hoạt động kiểm toán của KTNN có sự biến đổi về chất. + Lập kế hoạch định hướng xây dựng và phát triển dài hạn ngày KTNN. Xây dựng định hướng công tác kiểm toán mục tiêu cho công tác kiểm toán cho từng thời kỳ và lâu dài. Cải tiến công tác khảo sát lập kế hoạch kiểm toán hàng năm và lập kế hoạch kiểm toán cho từng cuộc kiểm toán phù hợp điều kiện của KTNN và khả năng trình độ KTV. + Khắc phục những yếu điểm trong công tác kiểm toán, chấn chỉnh công tác tổ chức điều hành của các đoàn kiểm toán; nâng cao kỹ năng kiểm toán và thu thập bằng chứng kiểm toán của KTV. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra sổ sách chứng từ và kiểm tra thực tế. Chuẩn hoá quá trình xử lý kết quả, tổng hợp viết báo cáo kiểm toán. Nâng cao chất lượng kiểm toán, báo cáo kiểm toán và chất lượng báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán hàng năm của KTNN. áp dụng thử nghiệm và từng bước đưa kiểm toán trước, kiểm toán hoạt động vào thực hiện tại KTNN. + Khẩn trương xây dựng đề án chiến lược về ứng dụng kỹ thuật tin học làm căn cứ định hướng cho việc thực hiện chương trình trang bị kỹ thuật và ứng dụng tin học, từng bước hiện đại hóa công tác kiểm toán. Xây dựng chương trình kiểm toán việc ứng dụng tin học ở các cơ quan đơn vị để hạn chế lãng phí thiệt hại và tăng cường tính kinh tế hiệu quả. + Mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức và KTNN, tiến tới mở cửa hội nhập khu vực và thế giới về kiểm toán. Tăng cường tuyên truyền để quảng đại quần chúng nhận thức được vai trò vị trí và tác dụng của hoạt động kiểm toán. + Thực hiện công khai hoá kết quả kiểm toán và báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán hàng năm trên các phương tiện thông tin đại chúng để tăng cường quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức ép của dư luận xã hội đối với các hành vi làm trái do KTNN phát hiện ra, làm tăng tính hiệu lực của những phát hiện và kiến nghị của KTNN. Thứ tư, Củng cố và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy KTNN trung ương theo hướng chuyên môn hoá kiểm toán theo chuyên ngành hẹp; tăng cường năng lực cho các bộ phận có chức năng tham mưu chuyên môn nghiệp vụ. Củng cố tổ chức các phòng kiểm toán, kết hợp giữa quản lý hành chính với quản lý chuyên môn nghiệp vụ, xem trọng công tác kiểm tra đạo đức hành nghề. Thứ năm, cùng với việc sớm ban hành luật kế toán mới thay cho pháp lệnh hiện hành (vì ban hành từ năm 1988, nay đã có nhiều nội dung không phù hợp), củng cố phòng Tài chính - Kế toán của các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, cần sớm tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp lớn. Trước mắt cần làm ngay đối với các tổng công ty 90, 91 và các doanh nghiệp độc lập có qui mô lớn, quan trọng trong nền kinh tế. Bộ phận kiểm toán nội bộ doanh nghiệp hoạt động độc lập với phòng Tài chính - Kế toán của doanh nghiệp, theo pháp luật, dưới sự đào tạo, hướng dẫn và kiểm tra về nghiệp vụ chuyên môn kiểm toán của kiểm toán nhà nước. Nó phải được giao một quyền hạn rộng rãi để có thể kiểm toán toàn bộ hoạt động của đơn vị. Trong mỗi cuộc kiểm toán KTNB được hoàn toàn độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, truy nhập thông tin không giới hạn trong phạm vi đơn vị đó. KẾT LUẬN Nước ta với xuất phát điểm còn thấp xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới về kế hoạch kiểm toán, thêm vào đó nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế trong nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực kiểm toán - kế toán đặc biệt việc nước ta ra nhập AFTA là một động thái hết sức quan trọng nhằm tạo ra cho các ngành nghề ở nước ta những chuyển biến mới đầy tích cực, đó là các bài học kinh tế, kinh nghiệm thực tiễn về đào tạo, triển khai tổ chức cũng như việc quản lý nguồn nhân lực ...trong bối cảnh như vậy việc nâng cao trình độ kiểm toán – kế toán ở nước ta nhằm đáp ứng những thách thức mới trong một nền kinh tế mở giờ đây lại càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Để nâng cao chất lượng kiểm toán nhà nước chúng ta cần phải có một giải pháp đồng bộ, có hệ thống đi từ mức tổng quan đến mức chi tiết nhất để có thể nhanh chóng tiếp cận được với trình độ kiểm toán trên thế giới. Điều này cần sự trợ giúp cấp thiết của Đảng và Nhà nước cũng như các ban ngành có liên quan. Em xin chân thành cảm ơn thầy đã tận tình hướng dẫn em để em có thể hoàn thành đề án môn học này. Do hạn chế về trình độ cũng như thời gian nên trong tài liệu này chắc chắn không thể tránh được thiếu sót. Em mong muốn nhận được sự góp ý của thầy để có điều kiện hoàn thiện hơn nữa vào thời gian tới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_an_mon_hoc_7956.doc
Tài liệu liên quan