Đề án Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực: Thực trạng và giải pháp phát triển

Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong tiến trình hội nhập: Thứ nhất, các biện pháp khuyến khích xuất khẩu cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Trong những năm qua, mặc dù chất lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam không ngừng được cải thiện, song sức cạnh tranh trên thị trường vẫn còn yếu kém. Điều này là do các nguyên nhân : Công nghệ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu chủ yếu hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung nay không thích hợp với nền sản xuất trong cơ chế thị trường. Các xí nghiệp kho tàng bến bãi, máy móc thiết bị lạc hậu, hiệu quả kém bởi chịu khấu hao lớn, định mức tiêu hao nguyên vật liệu cao, sản phẩm làm ra chất lượng thấp và sức cạnh tranh yếu. Hơn nữa, hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dưới dạng thô, sơ chế, đồng thời được thu gom ở nhiều nơi có vị trí địa lý khác nhau nên chất lượng không đều, chưa chú trọng việc qui hoạch vùng sản xuất hàng xuất khẩu lớn và đồng bộ, chưa có mặt hàng xuất khẩu chủ lực có giá trị kinh tế cao. Từ thực tế ấy, trong thời gian tới, để nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cần tập trung vốn vào đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu. Mấy năm gần đây, một số doanh nghiệp đã tích cực đổi mới công nghệ hiện đại nhưng việc đầu tư không đồng bộ và còn chắp vá do không đủ vốn đầu tư, tổ chức bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều bất cập. Do vậy, trong điều kiện hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam cần liên doanh, liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài để tranh thủ công nghệ hiện đại tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh cao, đồng thời chú trọng hợp lý hoá qui trình sản xuất, kinh doanh, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động, coi trọng việc áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến để được cấp chứng chỉ chất lượng ISO – 9000 đối với hàng xuất khẩu lớn như nông sản, dệt may, đồ điện, đồ điện tử để vừa thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ ( đặc biệt là công nghệ sạch ), vừa nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới.

doc76 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực: Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh: Nếu năm 1986, diện tích chè mới có 58,2 nghìn ha sản lượng 135 nghìn tấn thì đến năm 1989 đã lên tới 84,6 nghìn ha và 291,2 nghìn tấn, năm 2000 tăng lên gần 100 nghìn ha và trên 300 nghìn tấn –sản lượng chè xuất khẩu cũng ngày càng tăng 1986=11,1; 1987=11,5; 1988=14,7; 1989=15; 1990=16,1; 1995=18,8; 1996=20,8; 1997=32,9; 1998=33;1999=36 và năm 2000=45 ngàn. Giá xuất khẩu chè đã vượt lên trên lạc và trở thành một nông sản xuất khẩu có triển vọng trong những năm tới. Sự tham gia của các thành phần vào sản xuất , chế biến và xuất khẩu chè đã và đang làm cho ngành chè khởi sắc trong những năm đổi mới và gấn liền với sự phát triển và hoàn thiện cơ chế quản lý và tổ chức sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước, trong đó tổng công ty chè Việt Nam có vai trò quyết định cả về sản xuất, chế biến và xuất khẩu. Tuy nhiên, vừa dành được những kết quả đáng khích lệ của những năm đầu đổi mới thì cuối năm 1991, ngành chè lại đứng trước thách thức to lớn do biến động chính trị trên thế giới: mất thị trường Liên Xô, thị phần giảm 60%. Khẩu hiệu của ngành chè lúc đó là “chất lượng hay là chết”, “ nguyên liệu là cốt tử”, “chất lượng là ưu tiên hàng đầu”… Các năm 1992, 1999, toàn ngành vật lộn tìm kiếm thị trường mới ở Vương quốc Anh, I rắc, ixraen. Bằng nhiều biện pháp thích hợp đến đầu năm 1996, ngành chè lại khởi sắc lợi nhuận tăng 5,34 lần; nộp ngan sách tăng 1,4 lần; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 2,24 lần trong vòng 4 năm 1996- 2000 tăng 21 triệu USD, riêng kim ngạch xuất khẩu đạt 19740 tấn. Tất cả chỉ tiêu về chất lượng biểu hiện mức độ tiết kiệm và trình độ quản lý đều tăng. Giá thu mua chè búp tươi hiện nay đã tăng gấp đôi so với năm 1995, bình quân từ 1.900 đồng- 2.200 đồng/kg. Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên chức toàn ngành tăng 3 lần từ 190.000 đồng thánh lên 560.000 đồng tháng. Nhờ hiệu quả xuất lên đứng hàng thứ chín trong 32 quốc gia sản xuất chè trên thế giới. 2.2 Thị trường, chính sách và tổ chức. 2.2.1 Về thị trường . Trước hết ở thị trường trong nước. Do mạng lưới tư thương đóng vai trò không nhỏ trong hoạt động thu mua, thúc đẩy việc lưu thông lúa gạo phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu nên đã nảy sinh những biểu hiện tiêu cực không nhỏ. Vì lợi nhuận, hoạt động của các tư thương thường diễn ra tình trạng cạnh trạnh mua và cạnh tranh bán, đầu cơ thao túng thị trường diễn ra tình trạng cạnh tranh mua và cạnh tranh bán, đầu cơ thao túng thị trường giá cả. Trong khi đó nông dân cần đầu ra tin cậy để đảm bảo tiêu thụ ổn định sản phẩm với mức giá thoả đáng cho quyền lợi của mình. Như vậy việc bảo đảm trật tự trong toàn bộ hệ thống lưu thông lúa gạo, cà phê, thuỷ sản … vẫn đang là một đòi hỏi khách quan của thị trường nội địa. Thứ hai, ở khâu xuất khẩu, chúng ta vẫn chưa thiết lập dược hệ thống thị trường thực sự ổn định, với mạng lưới khách hàng thực sự tin cậy. Cho đến nay phương thức xuất khẩu qua trung gian vẫn còn chiếm tỷ trọng khá lớn mặc dù chúng ta đã có nhiều cố gắng để tăng cường xuất khẩu trực tiếp. Đặc biệt việc xuất khẩu thông qua trung gian vào các nước Châu Phi vẫn còn diễn ra khá phổ biến. Tình hình ấy chúng ra cần phải có những hiệp định lớn, buôn bán dài hạn cấp Nhà nước để mở ra các hợp động xuất khẩu ổn định. Thứ ba, việc nghiên cứu thị trường thế giới cần phải được tăng cường hơn nữa để nắm bắt kịp thời những thông tin cập nhật, chính xác nhàm đảm vảo hơn nữa cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Nhiều năm qua các nhuồn tài liệu về các thị trường thế giới phục vụ hoạt động kinh doanh quản lý và nghiên cứu nhìn chung còn ít ỏi. Trong khi đó hoạt động xuất khẩu đòi hỏi phải có những thông tin sâu rộng về thị trường để theo dõi kịp thời và chưa ứng xử kịp những diễn biến của thị trường. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình xuất khẩu gạo, cà phê, thuỷ sản, may mặc… của Việt Nam ra thị trường thế giới. 2.2.2 Về tổ chức. Một trong những nội dung nổi bật hiện nay vẫn là hệ thống lưu thông phân phối đảm bảo tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Trong những năm gần đây Nhà nước đã cố gắng tổ chức và sắp đặt lại hệ thông lưu thông phân phối, qui tụ các đầu mối xuất khẩu. Nhà nước chủ trương tự do hoá lưu thông phân phối, mở rộng quyền tự chủ cho tư nhân mua bán lương thực ở thị trường nội địa trong đó có mạng lưới tư nhân mua bán gạo, cà phê phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu vẫn còn được tập trung vào các doanh nghiệp Nhà nước có đủ sức cạnh tranh uy tín trên thị trường thế giới. Bước chấn chỉnh về mặt tổ chức đó tuy có thông thoáng hơn nhưng không phải là đã đảm bảo được mọi trật tự cần thiết cho hệ thống phân phối lúa gạo, cà phê hay thuỷ sản…Các cơ sở kho tàng, xay xát, chế biến, bảo quản vừa thừa lại vừa thiếu và chưa có hiệu quả cao. Các tư thương và doanh nghiệp Nhà nước chưa có sự phối hợp hài hoà trong dòng chảy lúa gạo từ người sản xuất đến người tiêu dùng trong nước và các nhà xuất khẩu. Giữa tư nhân với nhau thường xảy ra tranh bán, tranh mua và mạnh ai nấy làm vì chưa có quy định cụ thể về phạm vi hoạt động theo cấp làng, xã, huyện, tỉnh. Điều này góp phần gây mật trật tự trong hệ thống phân phối ở nước ta. 2.2.3. Về chính sách. Chính sách đầu tư cho khoa học cần được chú trọng một cách toàn diện hơn. Hiện nay việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu đòi hỏi Nhà nước cần có những chính sách tăng cường đầu tư cho một loạt khoa học công nghệ. Vậy mà thời gian qua, ngân sách đầu tư cho khoa học vẫn chưa được quan tâm đúng mức (chỉ khoảng 1% vốn tổng chi ngân sách). Với chỉ tiêu này công nghệ sản xuất và chế biến của nước ta lạc hậu, máy móc đã đến thời bỏ đi so với các nước láng giềng và thế giới là điều tất yếu. Về chính sách giá cả nội địa. Nhà nước chủ trương không áp đặt giá mà hoàn toàn do quan hệ cung cầu của thị trường lương thực điều tiết giá. Tuy nhiên, Nhà nước giữ giá sao cho nông dân được đảm bảo mức lợi nhuận 25-40%. Nếu không đạt được mức đó, Nhà nước điều tiết giá bằng cách cho các đơn vị quốc doanh vay tiền để nhanh chóng thu mua hàng hoá dư thừa của nông dân để điều chỉnh lại quan hệ cung cầu và giá cả có lợi cho người nông dân. 3. Đánh giá chung về thị trường xuất khẩu hàng chủ lực. 3.1. Những tồn tại. Thị trường xuất khẩu ở Việt Nam còn rất nhiều mặt hạn chế, nhưng nổi bật nên ba vấn đề cơ bản. Một là, Nhà nước chưa tạo ra một môi trường thật sự thuận lợi để kích thích xuất khẩu, chưa có những động lực thúc đẩy xuất khẩu, thiếu một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau tham gia hoạt động xuất khẩu, nhất là các quy chế phi thuế quan. Mặt khác, nhiều quy chế và thủ tục thương mại chậm được sửa đổi; sự phức tạp của biểu thuế quan, thủ tục hạnh chính rườm rà, quan liêu, tham nhũng. Hoạt động xuất nhập khẩu không chính ngạch ngày càng gia tăng, đặc biệt là các hoạt động buôn lậu qua biên giới một số mặt hàng xuất khẩu như các loại động thực vật và khoáng sản quý hiếm, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái. Hai là, quy mô xuất khẩu còn rất nhỏ bé nếu tính theo đầu người chỉ vào khoản 175USD, trong khi Thái Lan năm 1996 là 933USD/người. Cơ cấu xuất khẩu thay đổi chậm, còn lạc hậu, tỷ trọng khu vực chế biến, chế tạo trong tổng giá trị xuất khẩu vẫn ở mức thấp so với một số nước. Nhất là các hoạt động dịch vụ sản phẩm chế tạo có hàm lượng công nghệ cao, phục vụ xuất khẩu tăng chậm. Các loại sản phẩm thô vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp chưa đầu tư đúng mức vào những ngành có thế mạnh xuất khẩu như chế biến gạo, thuỷ sản. Những ngành trực tiếp khai thác và chế biến nông sản nhiệt đới như cao su, chè, cà phê có lợi thế nhưng công nghệ kỹ thuật của ta quá lạc hậu, nên chất lượng sản phẩm còn yếu kém do giá thành cao, chất lượng thấp, mẫu mã chưa đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng, một số sản phẩm không phù hợp với thị trường. Ba là, thị trường xuất khẩu còn nhiều hạn chế, hàng hoá, dịch vụ của nước ta chưa chiếm được thị phần đáng kể tại các thị trường ta có quan hệ buôn bán; việc tìm kiếm, mở rộng thị trường còn có phần thụ động, hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư để xâm nhập thị trường chưa được quan tâm đúng mức. Tóm lại, chủ trương “hướng mạnh về xuất khẩu” với một loạt các chính sách khuyến khích xuất khẩu đã đem lại sự gia tăng nhanh chóng của kim ngạch xuất khẩu cho Việt Nam, góp phần tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói rằng, thành tựu xuất khẩu là một trong những kết quả nổi bật nhất của chính sách đổi mới và mở cửa nền kinh tế, cũng tức là sự thay đổi tư duy chiến lược thực hiện công nghiệp hoá của Đảng ta trong giai đoạn vừa qua. Ngày nay, thế giới đang bước vào kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức, với đà phát triển của khoa học – công nghệ , cơ cấu xuất khẩu sẽ chuyển sang lĩnh vực dịch vụ, các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, thương mại điện tử phát triển mạnh. Trong nước đã xuất hiện những điều kiện mới cơ hội đan xen thuận lợi và khó khăn ẩn chứa nhiều nhân tố khó lường có thể ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế và hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta. Với mục tiêu phấn đấu đưa nền kinh tế thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu và đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu và coi đây là mội định hướng quan trọng. 3.2. Những thách thức mới. Chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2001 đã được Quốc hội khoá 10 thông qua tại kỳ họp thứ 8 với mưc hính sách tăng 16% so với năm 2000. đây là một mức tăng trưởng cần thiết để đảm bảo đưa tăng trưởng GDP tăng 7,5%, công nghiệp tăng 14% đồng thời đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nếu chỉ nhìn vào mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của 5 năm gần đây (1996 tăng 33,2%; 1997 tăng 26,6%; 1998 tăng 1,9%; 1999 tăng 23,1% ; 2000 tăng 24%) thì chỉ tiêu tăng trưởng 16% của năm 2001 không phải là quá cao, song xét trên nhiều khía cạnh kinh tế và thương mại ở đầu thế kỷ. Bởi với mức tăng 24% năm 2000 đưa kim ngạch xuất khẩu lên 14,3 tỷ USD là một đỉnh mốc mới, từ đỉnh mốc này đã vượt lên 16% đòi hỏi cả một quá trình nỗ lực không ngừng của cả nền kinh tế nói chung và ngành thương mại từng doanh nghiệp nói riêng. Trong khi đó mức tăng trưởng của năm 2000 không hẳn dựa vào những yếu tố bền vững như sự đột phá của nhiều mặt hàng chủ lực về lượng lẫn chất, về thị trường … mà phụ thuộc khá nhiều vào các yếu tố thị trường ngẫu nhiên với một vài mặt hàng, cụ thể là dầu thô. Trong hơn 2,7 tỷ USD tổng kim nghạch tăng thêm của năm 2000 có đến 1,4 tỷ USD là do giá dầu thô tăng đột biến trên thị trường thế giới. Nếu đem loại bỏ yếu tố này, mức tăng kim ngạch xuất khẩu năm qua chỉ ở mức trên 11% còn việc giá dầu năm 2001 này có giữ được mức cao như năm qua hay không hiện đang rất khó nhận định, song những diễn biến thị trường cho thấy đây là điều khó xảy ra. Hai mặt hang mang tính đột biến trông năm qua là thủ công mỹ nghệ và rau quả, nhưng đột phá này chưa cho thấy các yếu tố bền vững và cả chất lượng hàng hoá lẫn thị trường, đồng thời chưa đủ sức kéo căng sợi dây tăng trưởng của tổng kim ngạch xuất khẩu. Về cơ cấu ngành hàng xuất khẩu những năm gần đây, dù đã có chuyển nhượng tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng chế biến, song đến nay xuất khẩu hàng thô và sơ chế vẫn chiếm chủ yếu, tới trên 60%. Việc xuất khẩu hàng thô, sơ chế không những tạo ra khả năng tăng vượt bậc kim ngạch mà ngay việc tạo ra những yếu tố bền vững trong tăng trưởng cũng rất khó do phụ thuộc vào ngành chế biến của các nước nhập khẩu, chưa kể xã hội sẽ không tận dụng được cơ hội giải quyết nạn thất nghiệp trong điều kiện thiếu việc làm găy gắt. Ttuy nhiên, việc tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến sâu trong xuất khẩu cũng không phải dễ, đòi hỏi một lượng vốn lớn, một chiến lược chỉnh chu hợp với thực trạng kinh tế đất nước …có nghĩa không thể làm ngày một ngày hai. Bằng chứng là trong suốt thập niên qua, mức chuyển biến này rất chậm. Một thách thức liên quan đến chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu, nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đến sức kéo của xuất khẩu với nền kinh tế, đó là làm sao nâng cao tỷ trọng giá trị gia tăng trong kim ngạch xuất khẩu để tái đầu tư phát triển. Hiện nay do chủ yếu xuất hàng thô nên tỷ trọng giá trị gia tăng trong kim ngạch rất thấp. Một số mặt hàng như thuỷ sản, dệt may giầy dép là nhóm hàng chủ lực, Việt Nam có ưu thế trong sản xuất nhưng vẫn chưa có sự đầu tư khép kín quy trình sản xuất- chế biến- xuất khẩu để thu lợi nhuận cao, mà vẫn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu từ nước ngoài, trở thành ngành chủ yếu làm gia công xuất khẩu (dệt may, giầy dép) lợi nhuận không đáng kể. chưa kể ngay nhiều ngànhcông nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong như ô tô xe máy, sắt thép. Cũng được phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên liệu từ nước ngoài. Thực tế này giải thích tại sao trong tổng kim ngạchhơn 15 tỷ USD hàng nhập khẩu, nhóm hàng nguyên liệu chiếm khoảng 70% và tỷ trọng giá trị răng của ngành công nghiệp chế biến nước ta chỉ đạt 28.9% trong tổng gía trị sản xuất ( Thái Lan đạt 40,2%; Philipin 39,1%; Inđônêxia 38,8%) Đạt được đỉnh cao mới, tạo được vị thế mới, nhưng ngành xuất khẩu của nước ta cần phải vượt qua những thách thức trên để vượt lên tầm cao mới ổn định hơn trong một vị thế sánh vai với các cường quốc năm châu. Song song đó chúng ta cần sử dụng thoáng hơn công tác điều hành xuất khẩu, các công cụ tài chính và thông tin, kỹ thuật giao dịch điện tử để không chỉ chuyển biến về lượng, mà cả về chất trong xuất khẩu, đưa nền ngoại thương nước ta lên một tầm cao tương xứng hơn. Chương III: Giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu mặt hàng chủ lực ở Việt Nam Mục tiêu và quan điểm về xuất khẩu 1.1 Mục tiêu Đại hội IX đã xác định mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm ( 2001 – 2010 ) là “ Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”. Về kinh tế, phải phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng sản phẩm trong nước (GDP) giai đoạn 2001 – 2005 bình quân 7,5% năm, trong suốt 10 năm ( 2001 – 2010 ) tăng bình quân 7,2%/năm để đến năm 2010 GDP tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000, đảm bảo GDP bình quân đầu người vào khoảng 700 – 750 USD đạt tiêu chuẩn vượt ngưỡng nước nghèo và kém phát triển (theo Ngân hàng thế giới, các nước kém phát triển có mức GDP bình quân dưới 730 USD/người; các nước đang phát triển có mức 730 – 950 USD/người). ổn định kinh tế vĩ mô, cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Tỷ trọng GDP của nông nghiệp16 – 17%, công nghiệp 40 – 41%, dịch vụ 42 – 43 %. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%. Về mục tiêu con người và xã hội: Tuy tiêu chí GDP bình quân đầu người là rất quan trọng, song theo Ngân hàng thế giới và các tổ chức quốc tế khác thì đó không phải là tiêu chí duy nhất để đánh giá một quốc gia thuộc nhóm nước kém phát triển, đang phát triển hay phát triển mà còn cần xem xét các tiêu chí về chỉ số phát triển con người (HDI). Tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại là mục tiêu được cả 2 kỳ Đại hội (VIII và IX ) của Đảng khẳng định. Để trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 thì việc tập trung xây dựng nền tảng cho nó trở thành yêu cầu cấp thiết và là nhiệm vụ trọng tâm thời kỳ chiến lược 10 năm ( 2001 – 2010) với nội dung chủ yếu sau: Xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá gần kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nền công nghiệp trong đó có công nghiệp sản xuất quan trọng, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng. Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao. Hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Thực hiện mục tiêu trên sẽ đánh dấu một chặng đường phát triển quan trọng trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sau 10 năm nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế và khoa học – công nghệ có bước tiến quan trọng, tăng được năng lực nội sinh cho sự phát triển mạnh hơn trong thập kỷ tiếp theo và có thể hợp tác, cạnh tranh bình đẳng trong khu vực, khai thác được mặt tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Từ mục tiêu của chiến lược 10 năm, Đại hội IX xác định nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 là: “ Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu theo đúng hướng tăng giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp, sản phẩm qua chế biến, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ dự kiến 19,2 tỷ USD bao gồm: Xuất khẩu hàng hoá 16,6 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2000, trong đó các doanh nghiệp 100% vốn trong nước là 9,3 tỷ USD, chiếm 56%, tăng gần 23% so với năm 2000, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 7,3 tỷ USD, chiếm 44%, tăng 8,5% so với năm 2000. Dự kiến một số mặt hàng chủ yếu như sau: Thuỷ sản 1570 triệu USD Gạo 840 triệu USD Cà phê 440 triệu USD Cao su 220 triệu USD Rau quả 220 triệu USD Hạt tiêu 180 triệu USD Hạt điều nhân 135 triệu USD Lạc nhân 50 triệu USD Chè các loại 52 triệu USD Dệt may mặc 2250 triệu USD Giầy dép 1850 triệu USD Điện tử 900 triệu USD Thủ công mỹ nghệ 310 triệu USD Dầu thô 2765 triệu USD Than đá 94 triệu USD Hàng hoá khác 4724 triệu USD Xuất khẩu dịch vụ dự kiến đạt 2,6 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2000, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng dịch vụ và xuất khẩu lao động. Những chỉ tiêu ở trên là rất cao nếu tính tới mặt bằng cao của năm 2000 và những nhân tố khó lường, nhất là về giá cả, trong năm 2001 sẽ phải tăng kim ngạch lên trên 2,3 tỷ USD, mỗi tháng phải tăng thêm 191 triệu USD, đòi hỏi có những cố gắng lớn lao từ mọi ngành, mọi cấp, nhất là các doanh nghiệp. * Thị trường xuất khẩu dự kiến Khu vực châu á - Thái Bình Dương với kim ngạch 9700 triệu USD, chiếm 57,4% so với kim ngạch xuất khẩu, gồm các mặt hàng chủ yếu như gạo (1500 – 1600 tấn ), cao su (225.000 tấn ), dầu thô (14 triệu tấn ), thuỷ hải sản (830 triệu USD ), cà phê ( 200 triệu USD ), dệt may ( 1000 triệu USD), giầy dép ( 500 triệu USD). Khu vực Âu – Mỹ với kim ngạch 6140 triệu USD, chiếm 37% so với tổng kim ngạch, gồm các mặt hàng chủ yếu như gạo (208.000 tấn), cà phê (561000 tấn ), thuỷ hải sản (491 triệu USD ), dệt may (1155 triệu USD), giầy dép (1585 triệu USD), dầu thô (130.000 tấn), tổng kim ngạch xuất khẩu sang khu vực thị trường này thì xuất khẩu sang EU là 3700 triệu USD, các nước Tây Âu khác (430 triệu USD); Nga và Đông Âu (400 triệu USD), Bắc Mỹ (1030 triệu USD), Mỹ latinh (120 triệu USD). Khu vực Châu Phi – Tây Nam á với kim ngạch 760 triệu USD, chiếm 4,6% so với tổng kim ngạch bao gồm các mặt hàng chủ yếu như gạo (1500 tấn), cà phê ( 90.000 tấn ), chè các loại ( 24.000 tấn ), thuỷ hải sản (25 triệu USD), hàng dệt may ( 50 triệu USD ), giầy dép ( 45 triệu USD). 1.2 Quan điểm Xuất khẩu chủ yếu ở nước ta bao gồm nhiều mặt hàng nhưng chỉ đi sâu vào phân tích một số mặt hàng: Gạo, cà phê, thuỷ hải sản, giầy dép, may mặc … 1.2.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước. Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước chúng ta cần làm tốt những việc quan trọng sau đây: 1. Vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đầy đủ các quan điểm chủ yếu trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế mở. Vượt qua khó khăn, thách thức trong quá trình hội nhập và khắc phục ảnh hưởng xuất của khủng hoảng kinh tế châu á để mở rộng thị trường xuất khẩu. Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ( CNH – HĐH ) đất nước hội nhập quốc tế, trùng hợp với thời điểm trên thế giới đang diễn ra những thay đổi lớn về chính trị và kinh tế. Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá cao độ. Để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, tất cả các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam phải phấn đấu nỗ lực hội nhập vào xu thế chung theo nguyên tắc phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà nước chúng ta gia nhập vào các tổ chức Thương mại tự do khu vực ( AFTA ), gia nhập ASEAN, chuẩn bị điều kiện để gia nhập tổ chức thương mại thế giới ( WTO ), trước hết là ký hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương ( APEC ) cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF ), Ngân hàng thế giới ( WB), Ngân hàng phát triển châu á ( ADB) … để thực hiện được chủ trương hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy nội lực, nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chúng ta phải vượt qua những thách thức lớn: Giảm và tiến tới tìm biện pháp để bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật giữa nước ta và các nước ngày càng thông thoáng hơn. Yêu cầu đó đòi hỏi chúng ta vừa phải phấn đấu tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hạ giá thành hàng hoá, nâng cao hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh vừa có biện pháp chủ động bảo hộ hợp ký hàng hoá trong nước. Như vậy có thể khẳng định rằng quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam cũng là quá trình hội làm xuất hiện những thách thức lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới. Cần quán triệt và thực hiện đầy đủ những quan điểm chủ yếu sau trong việc xây dựng các luận cứ và giải pháp đồng bộ để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đảm bảo quan điểm toàn diện đồng bộ và có trọng điểm trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, vùng và thành phần kinh tế; Bảo đảm quan điểm phát huy tối đa nội lực và chính sách nhất quán lâu dài về thu hút các nguồn lực bên ngoài, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; Bảo đảm quan điểm phát triển kinh tế – xã hội dựa trên nền tảng của CNH – HĐH thông qua các quá trình cơ khí hoá, tự động hoá, hoá học hoá, sinh học hoá và tin học hoá; Bảo đảm quan điểm mở cửa, hội nhập để hướng mạnh về xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, phát huy nội lực và bảo hộ lợp lý hàng hoá trong nước có kỳ hạn; Bảo đảm quan điểm dân chủ và công bằng xã hội trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là dân chủ trong việc quyết định sản xuất cái gì để có lợi cho quốc tế dân sinh và nhân sinh, có lợi cho sự công bằng xã hội; Đảm bảo quan điểm tổng hợp và cao nhất trong chuyển dịch cơ cấu là nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập trên cơ sở phát huy nội lực. Xây dựng đồng bộ cấu thành cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao khi đảm bảo đồng bộ về: cơ cấu các ngành kinh tế và cơ cấu kinh tế vùng. Trong đó cơ cấu các ngành kinh tế có vai trò quyết định. Cơ cấu ngành kinh tế phải xác định rõ vị trí của từng ngành và mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành; phải xác định cụ thể phải sản xuất những sản phẩm nào, bao nhiêu, chất lượng như thế nào, do ngành nào thực hiện. Tổ chức thực hiện đồng bộ các giai đoạn của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế mở có hiệu quả theo yêu cầu hội nhập. 2. Hướng mạnh vào thị trường xuất khẩu và mở rộng thị trường trong nước. Đòi hỏi của quá trình gia nhập và hội nhập, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, là đòi hỏi của việc thu hút vốn đầu tư để phát huy nội lực của đất nước; là đòi hỏi của việc phát huy nội lực để đẩy mạnh CNH, HĐH. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu chúng ta phải thực hiện đầy đủ chủ trương và hình thức đa dạng hoá trong việc tổ chức, phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá. Có như vậy mới luôn chủ động trong mọi tình huống, chủ động khắc phục được khó khăn, lúng túng, do thay đổi và khủng hoảng về thị trường gây ra. Tiến tới hiệp định Việt – Mỹ bắt đầu đi vào hoạt động chính thức cần hết sức chú ý khai thác thị trường Mỹ và chủ động khắc phục những điều kiện bất lợi có thể xảy ra. Chúng ta phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới, khu vực và thị trường rộng lớn, lâu dài của khoảng 78 triệu dân về hàng hoá và dịch vụ để quyết định sản xuất cái gì, bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Ngoài ra cần nâng cao chất lượng và hạ giá thành hàng tiêu dùng trong nước phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá. Quan điểm phát triển. Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến độ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và thúc đẩy xuất khẩu trong nước và nước ngoài. Tăng nhanh năng suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người đều có thể phát huy hết tài năng tham gia và quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả phát triển, đồng thời nâng cao trách nhiệm của mỗi người góp sức thực hiện dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ gìn và phát triển nền văn hoá dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân về ăn, mặc, ở đi lại, phòng và chữa bệnh, học tập, làm việc, tiếp nhận thông tin, sinh hoạt văn hoá. Coi trọng phát triển kinh tế và nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu cầu cần thiết. Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực. Tiếp tục đổi mới sâu rộng đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy Nhà nước hướng vào hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, tạo động lực và nguồn lực phát triển nhanh bền vững. Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế – xã hội với quốc phòng – an ninh. Quan điểm về một số mặt hàng. Quan điểm định hướng cho sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam cần coi việc sản xuất và xuất khẩu gạo là phát triển sản xuất và xuất khẩu mặt hàng vừa có tính truyền thống của đất nước, vừa có nhiều triển vọng về thị trường tiêu thụ nước ngoài. Nếu so với các nước đã phát triển phần lớn các sản phẩm xuất khẩu của ta đều không có lợi thế tuyệt đối. Trong sự tương quan đó sản phẩm lúa gạo là một trong những sản phẩm ít bất lợi hơn trong hầu hết các sản phẩm bất lợi của Việt Nam. Hơn nữa việc phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo là ngành sản xuất mà chỉ số vốn/ lao động tương đối thấp, sử dụng được nhiều lao động sống mà ta đang dư thừa, sử dụng ít vốn tiền tệ và vốn chất xám là yếu tố đầu vào tương đối hiếm ở nước ta. Sản xuất và xã hội gạo phải đảm bảo an ninh lực lượng quốc gia, khác với sản phẩm khác, việc xuất khẩu gạo không chỉ đạt ra mục tiêu số lượng càng nhiều càng tốt. Bởi lẽ gạo là nông sản tối cần thiết trong cuộc sống của người Việt Nam, đó là mặt hàng rất nhạy cảm với tình hình chính trị – xã hội của đất nước. Phải gắn chặt hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước trong sản xuất và xã hội gạo. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo phải đảm bảo thoả đáng lợi ích cho người nông dân. Khác với hầu hết các sản phẩm khác, lúa gạo là mặt hàng chiến lược quốc gia, là nhu cầu thiết yếu số một của mọi người dân trong toàn quốc, là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế quốc dân. Người trực tiếp một nắng hai sương trên đồng ruộng làm ra sản phẩm lúa gạo là hàng chục triệu nông dân cả nước. Quan điểm về nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu ở Việt Nam. Những năm gần đây, cà phê đã khẳng định là một mặt hàng mũi nhọn của Việt Nam. Nếu những năm 1990 – 1991 cà phê Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang khối Đông Âu thì sang năm 1993 – 1994 xuất sang 34 quốc gia và năm 1997 – 1998 xuất sang 52 quốc gia. Những thành tựu vừa qua của ngành cà phê Việt Nam là không thể phủ nhận. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu chất lượng cao và ổn định phải tiếp tục đổi mới công nghệ trong quá trình sản xuất và xuất khẩu theo các hướng: Tiếp tục thâm canh vườn cây; quản lý tốt qui trình công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm; đổi mới thiết bị chế biến để từng bước hiện đại hoá công nghệ chế biến; tổ chức quản lý chất lượng sản phẩm xuất khẩu; tăng cường thông tin đào tạo. Về thuỷ sản, tiếp tục đa dạng hoá thị trường xã hội. Thực tế thị trường hàng thuỷ sản thế giới, xét trên tổng thể là một thị trường còn có khả năng mở rộng và luôn có xu hướng cung chưa đáp ứng được cầu. Phát triển thêm nhiều mặt hàng thuỷ sảm mới; chuyển dịch cơ cấu sản phẩm có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Tăng giá thuỷ sản xuất khẩu trong điều kiện đảm bảo cạnh tranh. Qua một số quan điểm về sản xuất và xuất khẩu hàng hoá chủ lực ta thấy được Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến các mặt hàng chủ lực như thế nào. 2. Các giải pháp và chính sách xã hội năm 2001. 2.1. Cơ chế xuất nhập khẩu Tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Theo cơ chế mới thì tất cả các thương nhân đã đăng ký hoạt động kinh doanh sẽ được phép xuất khẩu nhập khẩu mọi hàng hoá trừ mặt hàng Nhà nước cấm. Các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài được xuất khẩu như các doanh nghiệp 100% vốn trong nước. Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn thực hiện theo qui định của Luật đầu tư nước ngoài, giấy phép đầu tư và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Đối với một số mặt hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu được thực hiện từ trước đến nay theo đầu mối chỉ nhằm mục đích quản lý trật tự kinh doanh thì sắp tới sẽ bãi bỏ qui định đó, vừa để phát huy các thế mạnh của các doanh nghiệp, vừa để phù hợp với các cam kết quốc tế mà ta đã sẽ ký kết trong thời gian tới. Xây dựng lộ trình giảm thiểu các biện pháp hạn chế định lượng trong thời kỳ 5 năm 2001 – 2005, áp dụng những công cụ bảo hộ mới phù hợp với thông lệ quốc tế. Định hướng cơ bảnk của cơ chế quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá trong thời kỳ 2001 – 2005 sẽ làm giảm dần các công cụ phi thuế thuộc nhóm đang áp dụng và tăng dần các công cụ mới. Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu theo giấy phép của Bộ thương mại từ năm 2001 sẽ được nêu rõ ràng, cụ thể theo hướng giảm dần. Trong đó xuất khẩu chỉ có mặt hàng dệt may sang thị trường có hạn ngạch. 2.2 Về thủ tục và chính sách hành chính, hải quan. Bỏ qua việc phải kiểm dịch, xuất xứ hàng hoá, nếu Việt Nam không có nghĩa vụ thực hiện theo các thoả thuận song phương, đa phương mà Việt Nam ký kết, bỏ qua yêu cầu về chứng minh nguồn gốc hàng hoá xuất khẩu hoặc nguồn gốc nguyên liệu sản xuất ra hàng xuất khẩu, nếu không liên quan đến việc hoàn thuế; cho phép xuất khẩu hàng hoá qua những nơi không phải là cửa khẩu quốc tế, quốc gia; không thu thuế, kể cả tạm tính, đối với hàng hoá xuất khẩu bị trả lại để tái chế rồi lại xã hội. Tiếp tục áp dụng những biện pháp mở mà ngành hải quan đã thực hiện và đem lại kết quả tốt trong thời gian qua. 2.3 Hỗ trợ Chính phủ và chính sách thuế; tín dụng liên quan đến xuất khẩu. Cần tiếp tục đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính tiền tệ, thông qua việc tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng góp phần duy trì các cân đối lớn trong nền kinh tế, vận dụng linh hoạt có hiệu quả các công cụ gián tiếp trong chính sách tiền tệ. Xác lập cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng theo xu hướng thả nổi có điều tiết lãi suất theo cung cầu trên thị trường, từng bước bãi bỏ việc khống chế lãi suất trần. Thực hiện chính sách lãi suất thấp trong thời gian ngắn. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại tệ và điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng thị trường, hạ giá trị đồng nội tệ, thực hiện chính sách tỷ giá hợp lý, nhất là khi chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung trong khuôn khổ các nước ASEAN có hiệu lực và những áp lực cạnh tranh từ bên ngoài AFTA. Tiếp tục xây dựng và kiện toàn hệ thống chính sách thuế phù hợp với điều kiện trong nước và với thông lệ quốc tế, đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thếu thống nhất, không phân biệt sắc thuế áp dụng giữa các thành phần kinh tế, đồng thời đảm bảo tính ổn định, lâu dài của chính sách thuế – trong đó: Đối với thuế xuất khẩu, cần có mức thuế ưu tiên đặc biệt cho các mặt hàng xã hội và không nên áp dụng một mức thuế cho toàn bộ các nhóm sản phẩm giúp cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong cạnh tranh trên thị trường thế giới để khuyến khích mạnh việc xuất khẩu, cần xây dựng mức bảo hộ khác nhau cho các nhóm sản phẩm khác nhau. Sẽ đề nghị Chỉnh phủ hỗ trợ trong việc đầu tư chế biến hàng xuất khẩu; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng và công tác thị trường ngoài nước, công tác xúc tiến thương mại cho hoạt động xuất khẩu. Đẩy mạnh quá trình cải cách thuế, trong đó có việc hoàn thiện thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt. Có chính sách thuế ưu đãi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu như hỗ trợ tín dụng, rủi ro, các khó khăn về tài chính thông qua quỹ hỗ trợ xuất khẩu hoặc ngân hàng xuất nhập khẩu. Tiếp tục thực hiện chính sách thưởng để khuyến khích doanh nghiệp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại; tăng cường kỷ luật hành chính và xử lý nghiêm đối với các cơ quan, công chức không thực hiện đúng luật pháp chính sách trong hoạt động xuất nhập khẩu. 2.4 Về công tác thị trường nước ngoài sẽ tập trung thực hiện những việc chủ yếu. 2.4.1 Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường nước ngoài. Song song với việc ký mới và rà soát để đàm phán ký lại Hiệp định thương mại với các nước theo yêu cầu mới, Việt Nam mỡ thoả thuận để thống nhất các tiêu chuẩn vệ sinh, kiểm dịch và chất lượng hàng hoá, nới lỏng các hàng rào phi thuế cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, tranh thủ ký cam kết “ G to G “ với các nước mà ở đó sự cam thiệp của Chính phủ có vai trò quyết định đối với việc nhập khẩu những mặt hàng xuất khẩu lớn của ta như gạo, cao su … tổ chức tốt việc phổ biến hướng dẫn và kiểm tra các hợp đồng thương mại và các cam kết về thương mại giữa Việt Nam và nước ngoài. 2.4.2. Tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu. Tổ chức tốt việc nghiên cứu, khảo sát thị trường nước ngoài. Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có trách nhiệm của Bộ thương mại ( các vụ chính sách thị trường ngoài nước, các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Viện nghiên cứu thương mại, Cục xúc tiến thương mại, Trung tâm thông tin thương mại ) trong công tác nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin và nghiên cứu kết quả cho các doanh nghiệp. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài khảo sát tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu. Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý, phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm, áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như gửi bán, thanh toán chậm, đổi hàng phù hợp với từng mặt hàng, từng thị trường, cử đại diện tại thị trường nước ngoài hoặc lập công ty pháp nhân nước sở tại để chuyên nhập khẩu hàng Việt Nam; khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhập khẩu hàng Việt Nam. Nhà nước hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi và doanh nghiệp cố gắng đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng một vài trung tâm thương mại, quảng cáo, tham gia triển lãm hội chợ đối với từng mặt hàng, từng thị trường. Các doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh về mọi mặt, xây dựng chiến lược phát triển cho từng mặt hàng xuất khẩu, trong đó có chiến lược về thị trường; bảo đảm chữ “tín” trong kinh doanh, kết hợp xuất khẩu với nhập khẩu đẩy mạnh xuất khẩu trên từng thị trường cụ thể. 2.4.3 Nâng cao trách nhiệm và năng lực của cơ quan và tổ chức làm công tác thị trường ngoài nước. Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực cán bộ và đổi mới lề lối làm việc của các vụ chính sách thị trường ngoài nước của Bộ thương maị và gắn hoạt động của các đơn vị này với các doanh nghiệp và sự tăng trưởng xuất khẩu. Gắn công tác của Viện nghiên cứu thương mại với hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu. Có chính sách và biện pháp để các doanh nghiệp đặt hàng cho viện các đề tài nghiên cứu về thị trường và mặt hàng xuất khẩu. Cùng với việc củng cố các cơ quan Thương mại Việt Nam hiện nay có ở nước ngoài, mở thêm một số cơ quan ở các địa bàn mới. Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện để Cục xúc tiến thương mại phát huy vai trò hỗ trợ và hướng dẫn các doanh nghiệp trong các hoạt động xúc tiến thương mại. 2.4.4 Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Sơm hoàn thành đề án về chủ trương và giải pháp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại phục vụ chiến lược xuất nhập khẩu. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài, kể cả việc tháp tùng các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước, để thâm nhập thị trường, phát triển kinh doanh, xuất khẩu. Phối hợp và hỗ trợ các ngành, địa phương và doanh nghiệp xây dựng và thực hiện chiến lược Marketing cho từng ngành hàng, mặt hàng quan trọng và tham gia các hội chợ, triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại khác ở nước ngoài. Có cơ chế tiếp xúc và tham vấn định kỳ giữa Bộ thương mại và cac doanh nghiệp, các hiệp hội ngành hàng về các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu. Bước đầu xây dựng cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử tổ chức đào tạo nhân lực cho lĩnh vực này. Khuyến khích, tạo điều kiện và tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng, báo chí đối ngoại và các doanh nghiệp đẩy mạnh tuyên truyền đối ngoại phục vụ mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu. 2.4.5 Tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại cho các doanh nghiệp. Tổ chức cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý các ấn phẩm về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp. Xây dựng kênh thông tin thương mại thông suốt từ các cơ quan thương mại Việt Nam ở nước ngoài, Bộ thương mại đến các Sở thương mại và các doanh nghiệp. Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hỗ trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp, cần thực hiện thương mại hoá thông tin và áp dụng các phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể, kịp thời của các doanh nghiệp. 2.4.6 Sớm xây dựng và ban hành cơ chế về công tác thị trường nước ngoài, trong đó xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước có liên quan ở Trung ương cũng như địa phương và trách nhiệm của doanh nghiệp; qui chế phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm và doanh nghiệp trong công tác thị trường ngoài nước. Đồng thời, Nhà nước có chính sách cụ thể bảo đảm các điều kiện vật chất và tài chính để thực hiện trách nhiệm được giao trong công tác thị trường ngoài nước. Cần sớm xây dựng và hoàn thành cơ chế này mới có thể làm tốt công tác thị trường nước ngoài, một mặt vừa bắt buộc khuyến khích các cơ quan, đơn vị liên quan trong công tác thị trường, mặt khác tạo điều kiện để kiểm điểm, đánh giá tình hình công tác thị trường ngoài nước. 2.5 Cơ cấu xuất khẩu. Cơ cấu xuất khẩu cần tính toán đầu tư xây dựng một cách hợp lý các cơ sở, nhà máy chế biến hiện đại để có thể ứng dụng khoa học, công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển, dịch vụ. Chú trọng đầu tư giữa khẩu sản xuất, chế biến, cung ứng nguyên liệu, hạn chế tới mức tối đa tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm thô và sơ chế nâng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến, nhất là sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao trong kim ngạch xuất khẩu tăng mặt hàng và tỷ trọng sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao. Từng bước xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, xuất khẩu những mặt hàng thị trường cần chứ không chỉ những sản phẩm ta có. Hoạt động hỗ trợ xuất khẩu cần được đầu tư một cách đúng mức, sớm có cơ chế bảo hiểm các mặt hàng xuất khẩu, ở một số trường hợp đặc biệt cần được bảo hộ trong những thời gian nhất định, để các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu có thể yên tâm đầu tư sản xuất và khai thác thị trường xuất khẩu. 2.6 Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện các cam kết hoặc đang đàm phán với các nước và tổ chức quốc tế. Triển khai có hiệu quả luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trên cơ sở xây dựng chiến lược thu hút FDI, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm thu hút nhiều hơn nguồn FDI, tranh thủ công nghệ nguồn, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho các mục tiêu kinh tế – xã hội. Từng bước xoá bỏ sự phân biệt về chính sách và Pháp luật đối với đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp và tư nhân muốn đầu tư phát triển sản xuất. Tập trung tạo ra sự chuyển dịch có tính chất đột phá trong quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước. Nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội và sức cạnh tranh của doanh nghiệp để kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Mở rộng quyền lực tự chủ cho doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý được giao. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong tiến trình hội nhập: Thứ nhất, các biện pháp khuyến khích xuất khẩu cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Trong những năm qua, mặc dù chất lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam không ngừng được cải thiện, song sức cạnh tranh trên thị trường vẫn còn yếu kém. Điều này là do các nguyên nhân : Công nghệ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu chủ yếu hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung nay không thích hợp với nền sản xuất trong cơ chế thị trường. Các xí nghiệp kho tàng bến bãi, máy móc thiết bị lạc hậu, hiệu quả kém bởi chịu khấu hao lớn, định mức tiêu hao nguyên vật liệu cao, sản phẩm làm ra chất lượng thấp và sức cạnh tranh yếu. Hơn nữa, hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dưới dạng thô, sơ chế, đồng thời được thu gom ở nhiều nơi có vị trí địa lý khác nhau nên chất lượng không đều, chưa chú trọng việc qui hoạch vùng sản xuất hàng xuất khẩu lớn và đồng bộ, chưa có mặt hàng xuất khẩu chủ lực có giá trị kinh tế cao. Từ thực tế ấy, trong thời gian tới, để nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cần tập trung vốn vào đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu. Mấy năm gần đây, một số doanh nghiệp đã tích cực đổi mới công nghệ hiện đại nhưng việc đầu tư không đồng bộ và còn chắp vá do không đủ vốn đầu tư, tổ chức bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều bất cập. Do vậy, trong điều kiện hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam cần liên doanh, liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài để tranh thủ công nghệ hiện đại tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh cao, đồng thời chú trọng hợp lý hoá qui trình sản xuất, kinh doanh, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động, coi trọng việc áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến để được cấp chứng chỉ chất lượng ISO – 9000 đối với hàng xuất khẩu lớn như nông sản, dệt may, đồ điện, đồ điện tử … để vừa thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ ( đặc biệt là công nghệ sạch ), vừa nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới. Thứ hai, trong tiến trình hội nhập, môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, nếu chỉ có sự chủ động từ phía các doanh nghiệp thì chưa đủ đòi hỏi phải tăng cường vai trò Nhà nước trong điều hành hoạt động xuất khẩu trên cơ sở phối hợp đồng bộ các biện pháp, chính sách vĩ mô. Để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu, tạo ra thị trường và mặt hàng mới, giúp họ đứng vững và vượt qua những thách thức trong quá trình hội nhập, Nhà nước cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu là đàm phán và ký kết các hiệp định, thoả thuận song phương và đa phương với Chỉnh phủ các nước và các tổ chức quốc tế tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu hàng Việt Nam ra thị trường quốc tế. Bộ thương mại cần phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan khác thúc đẩy việc trao đổi các đoàn doanh nghiệp với các nước, trao đổi thông tin thương mại và quảng cáo mặt hàng thông qua các hoạt động hội chợ, triểm lãm trong nước cũng như quốc tế. Song song với hoạt động đó, Nhà nước cần xây dựng chính sách và biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu: Qui hoạch và đầu tư cho công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ bảo hiểm xuất khẩu, quỹ khen thưởng xuất khẩu. Triệt để và nhất quán thi hành các hình thức ưu đãi dành cho sản phẩm hàng xuất khẩu đã được đề cập trong luâtj khuyến khích đầu tư trong nước. Tiếp tuc làm tốt chính sách thưởng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Giảm thiểu tối đa các thủ tục hành chính hải quan gây khó dễ; đơn giản hoá đến mức tối đa thủ tục thành lập doanh nghiệp, bỏ qua khâu kiểm dịch xuất xứ hàng hoá nếu không có yêu cầu của đối tác, bỏ qua chứng minh nguồn gốc nguyên liệu sản xuất hàng hoá nếu không liên quan tới hoàn thuế, cho phép xuất khẩu hàng qua nơi không phải là cửa khẩu quốc tế. Thứ ba, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, nới lỏng các điều kiện để các doanh nghiệp được quyền xuất khẩu trực tiếp tạo sự thống nhất và bình đẳng về pháp lý, nghĩa vụ và quyền lợi đối với các thành phần kinh tế. Kết luận Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống quan hệ mua bán trong nền thương mại có tổ chức, nó ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng của một quốc gia, Với điều kiện đất đai, khí hậu, tài nguyên con người như hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng để sản xuất trên mức đề ra và từ đó tăng lượng xuất khẩu hàng năm. Kể từ năm 2005 với những giải pháp ở trên, cùng với sự nỗ lực của Chỉnh phủ, nước ta có cơ sở thực tế để đảm bảo vượt xa sản lượng năm 2000. Hơn nữa, nhu cầu về các mặt hàng (gạo, thuỷ sản, dệt may, dầu thô …) trên thế giới trong thời gian tới vẫn tiếp tục mở rộng mà khả năng của các nước xuất khẩu khó mà đáp ứng kịp. Điều đó khẳng định rằng: xuất khẩu các mặt hàng trên vẫn mang lại những lợi thế cơ bản cho những nước xuất khẩu trên thương trường quốc tế. Với nhu cầu toàn cầu hoá hiện nay sản phẩm muốn đạt được uy tín trên thị trường thế giới thì trước hết phải được thị trường trong nước chấp nhận với một chất lượng và mẫu mã cho phép. Và theo xu hướng ngày càng nâng cao mẫu mã và chất lượng sản phẩm. Việt nam đã và sẽ tiếp tục duy trì vị trí là một quốc gia xuất khẩu lớn trên thế giới và còn có thể vươn cao hơn nữa trong tương lai. Tài liệu tham khảo Văn kiện Đại hội Đảng IX. Kinh tế thương mại (hướng dẫn ôn tập và viết luận văn ) – PGS.PTS Đặng Đình Đào – nhà xuất bản ( NXB) Thống kê - 166 trang. Chính sách biện pháp phát triển sản xuất hàng xuất khẩu và quản lý hàng xuất nhập khẩu Việt Nam. NXB Sự thật – 1984. Công nghiệp hoá và chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu. NXB Chính trị quốc gia – 1997. Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ – PGS. TS Võ Thanh Thu – 2001. Quản trị doanh nghiệp thương mại – PGS.TS Hoàng Minh Đường, PTS Nguyễn Thừa Lộc – NXB giáo dục 257 trang. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam – NXB Thống kê 1998. Thương mại dịch vụ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, PGS.TS Nguyễn Duy Bột – NXB Thống kê 1996, 310 trang. Tạp chí thương mại 13/01; 10/01; 01/01 Tạp chí kinh tế phát triển. Thời báo kinh tế Tạp chí kinh tế phát triển 46/01; 44/01; 42/01 Nghiên cứu kinh tế số 278 – tháng 7/201 Tạp chí thị trường – GC. Mục lục Trang Chương I: Những vấn đề cơ bản thị trường xuất khẩu hàng hoá nói chung và các hàng hoá chủ lực nói riêng. 1 1. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và vai trò hệ thống các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam. 1 2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu và thị trường nhập khẩu thế giới hàng hoá chủ lực 8 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu ở Việt Nam 11 Chương II: Thực trạng về thị trường xuất khẩu hàng chủ lực 18 1. Đặc điểm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 18 2. Thực trạng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực 34 3. Đánh giá chung về thị trường xuất khẩu hàng chủ lực 49 Chương III: Các giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu mặt hàng chủ lực ở Việt Nam. 54 1. Mục tiêu quan điểm về xuất khẩu 54 Các giải pháp và chính sách xuất khẩu năm 2001 – 2010. 63 Kết luận 73 Tài liệu tham khảo 74

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29597.doc
Tài liệu liên quan