Đề án Thực hiện bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp Việt Nam-Thực trạng và giải pháp

Sau 7 năm thực hiện việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH cho mọi lao động thược các thành phần kinh tế, tuy còn gặp nhiều khó khăn trở ngại nhưng cũng đã đạt được những thành công. Quyền lợi hợp pháp của người lao động đã được thực hiện. BHXH đã giúp cho người lao động và gia đình họ qua những lúc khó khăn, góp phần ổn định cuộc sống. Các chủ sử dụng lao động đã có ý thức chấp hành BHXH cho người lao động, giúp họ an tâm công tác, thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Thế nhưng, ngoài những thành công đó thì vẫn còn một số vấn đề bất cập đang tồ tại trong quá trình thực hiện BHXH cho người lao động. Nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động về các chính sách BHXH nói chung còn chưa cao, nhiều chủ doanh nghiệp tìm cách trốn tránh trách nhiệm của mình, hoặc có những hành vi gian lận như khai báo ít hơn thực tế số lao động, tiền lương của công nhân.đẻ giảm phí phải nộp. Và cả trong nội dung các chế độ của chính sách cũng còn một số vấn đề chưa hợp lý gây thiệt thòi cho người lao động.

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực hiện bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp Việt Nam-Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âng cao độ tuổi nghỉ hưu hơn những người bình thường khác. Trong vấn đề này cần tính đến yếu tố giải phóng chỗ làm việc, để thu hút lực lượng trẻ vào làm việc, nên tránh kéo dài thời gian làm việc một cách tràn lan, việc tăng độ tuổi làm việc cho đối tượng nào cần đưa ra điều kiện cụ thể. Như vậy mới kích thích người lao động có trình độ phát huy hết khả năng của mình, vì thực ra những người lao động trí thức đến độ tuổi 50-70 là chín muồi về năng lực và khả năng tư duy do quá trình làm việc nghiên cứu đã tích luỹ được và cần được đưa vào thực tế áp dụng. Do đó, độ tuổi này có thể đóng góp được nhiều ý tưởng thiết thực cho xã hội. Đối với các lao động đặc biệt như lực lượng an ninh, quốc phòng, độ tuổi nghỉ hưu cũng cần được nghiên cứu lại, có thể đối với người còn sức khoẻ thì chuyển sang lĩnh vực công tác khác phù hợp để được nghỉ hưu đúng độ tuổi quy định. + Về mức hưởng: khi giải quyết chế độ khi có tháng lẻ (từ 1 đến 11 tháng) thì không tính. Điều này không hợp lý, cần phải quy định lại cho phù hợp như cách tính thôi việc theo Nghị định 198/CP ngày 31/12/1994 và Nghị định 96/1998 NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ (từ 1 đến 7 tháng tính bằng 1/2 năm, đủ 7 tháng đến 12 tháng tính bằng 1 năm) khi giải quyết chế độ nếu hưởng hưu trí hàng tháng thì 1/2 năm được cộng thêm 1%, hưởng trợ cấp một lần 1/2 năm được nhận 1/2 tháng lương bình quân. Trợ cấp một lần cho những người đóng BHXH trên 30 năm được tính từ năm thứ 31 trở đi cứ mỗi năm được nhận 1/2 tháng lương bình quân và tối đa không quá 5 tháng. Điều này cần xem xét lại, nên áp dụng cách tính thống nhất như trường hợp trợ cấp một lần quy định tại điều 28, Nghị định 12/CP là từ năm thứ 31 trở đi mỗi năm được nhân một tháng tiền lương bình quân và không khống chế thời gian tối đa. Qua thực tế, số đối tượng này không nhiều và hầu hết là các nhà khoa học, những cán bộ chủ chốt đầu nghành đã có quá trình cống hiến rất lớn cho đất nước trong kháng chiến cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 5. Chế độ tử tuất Đây là chế độ BHXH mang tính nhân đạo nhất. Chế độ này giúp cho thân nhân người chết có được khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị chết. Chế độ này áp dụng cho trường hợp người lao động bị chết trong thời gian đi làm hoặc đang trong thời gian nghỉ hưu hoặc chờ nghỉ hưu. Đối với trường hợp người lao động đang trong thời gian đi làm không may bị chết, trong đó có một phần không nhỏ là do tai nạn lao động đặc biệt là trong các nghành xây dựng từ năm 1992 đến 1998 chiếm 4% tổng số người chết so với tổng số người thiệt mạng trong các nghành nghề khác nhau gây ra. Những doanh nghiệp đóng BHXH cho công nhân đầy đủ thì việc chi trả chế độ này cho người lao động nói chung là đầy đủ vì đây là phần trách nhiệm của bên BHXH, phía doanh nghiệp chỉ có trách nhiệm đóng phí BHXH và làm các thủ tục có liên quan cho người lao động. Nhưng các doanh nghiệp cũng cần phải các giải pháp giảm số người lao động bị thiệt mạng do tai nạn lao đông, đại đa số gia đình những người này rất khó khăn do đó họ chấp nhận làm những công việc có độ rủi ro cao. Còn đối với các doanh nghiệp không thực hiện quyền lợi BHXH cho người lao động, khi người lao động bị chết, gia đình họ chỉ nhận được một phần trợ cấp nhỏ từ phía người lao động do đó gia đình họ đã khó khăn, nay lại càng khó khăn hơn. Về phía BHXH, việc chi trả chế độ này còn nhiều điểm chưa hợp lý. Thực tế cho thấy rằng, chi phí mai táng khá tốn kém, để giảm bớt phần nào khó khăn cho gia đình nhất thiết phải tăng thêm tiền mai táng. So với quy định hiện nay mức đề nghị ít nhất là 10 tháng lương tối thiểu. Đối với con còn nhỏ đề nghị trả trợ cấp thống nhấp cho đến khi đủ 18 tuổi không nên quy định còn đi học hay không đi học. Theo cách tính hiện nay, nếu con đủ 15 tuổi đến 18 tuổi, hàng năm phải yêu cầu gia đình bổ sung giấy xác nhận cho con đi học, nếu không sẽ bị cắt trợ cấp. Thực điều này có hai vấn đề phát sinh cần xem xét: Một là, về chuyên môn việc theo dõi đối tượng gặp không ít khó khăn vì khi vượt qua tuổi 15 mà chưa bổ sung giấy xác nhận thì phải cắt trợ cấp. Sau đó khi có giấy xác nhận của nhà trường thì phải giải quyết và truy lĩnh lại. Ngoài ra, nếu đối tượng xin giấy xác nhận nhà trường bổ sung vào hồ sơ sau đó nghỉ học thì trong năm đó đối tượng vẫn hưởng bình thường, do cơ quan BHXH không thể kiểm tra hết đối tượng. Hai là, về mặt xã hội, dư luận cho rằng Nhà nước không công bằng còn phân biệt đối xử. Gia đình giàu có tiền cho con ăn học thì được ưu ái cho hưởng đến 18 tuổi, gia đình nghèo phải cho con nghỉ học sớm để kiếm tiền phụ giúp gia đình thì bị cắt trợ cấp khi mới đủ 15 tuổi. + Đối với thân nhân hết tuổi lao động: Căn cứ vào thực tế thu nhập của họ nếu dưới mức lương tối thiểu thì mới được hưởng trợ cấp hàng tháng. Điều này thiếu tính khả thi và thiếu tính công bằng trong việc giải quyết giữa các đối tượng, khi giải quyết chế độ tử tuất chỉ căn cứ vào bản đề nghị hoặc tờ khai hoàn cảnh gia đình để xem xét. BHXH không có chức năng và không thể tổ chức điều tra thu thập của từng đối tượng được. Vì vậy cuối cùng chỉ có những người thuộc diện đang hưởng chế độ chính sách như: hưu trí, mất sức, tai nan lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng phải chịu thiệt thòi vì có mức lương, trợ cấp cụ thể mà cơ qua BHXH nắm được.Còn lại những đối tượng nằm ngoài xã hội không ít người thu nhập rất cao mà vẫn được trợ cấp hàng tháng. Ngoài ra, cần xem xét giải quyết cho các trường hợp thân nhân người chết trên 18 tuổi bị tâm thần, tàn phế hoặc bị dị tật bẩm sinh không có khả năng lao động tự nuôi sống mình thì cho hưởng trợ cấp hàng tháng nhưng vẫn đảm bảo tối đa không quá 4 định suất theo quy định. + Tuất một lần: Đối với người đang làm việc hoặc đang trờ hưu tháng mà chết thì ngoài tiền mai táng, gia đình được hưởng trợ cấp tuất một lần, cứ mỗi năm đóng BHXH được tính bằng một tháng lương bình quân và khống chế thời gian tối đa (như trợ cấp một lần theo Điều 28, Nghị định 12/CP). Đối với người đang hưởng lương hưu, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng, bị chết thì gia đình được nhận thêm 3 tháng lương hưu hoặc trợ cấp. Đây là khoảng thời gian cần thiết để gia đình vơi bớt nỗi buồn mất người thân, ổn định cuộc sống và cũng là khoảng thời gian hoàn thành hồ sơ hưởng chế độ tử tuất. III. các hình thức trốn tránh thực hiện BHXH cho người lao động của các chủ sử dụng lao động Những quy định về BHXH trong chương XII của Bộ luật lao động đã được cụ thể hoá qua Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ. Cho đến nay việc thực hiện chế độ BHXH cho người lao động thông qua điều lệ BHXH đã được 7 năm và ngày càng thể hiện tính ưu việt của chế độ BHXH: góp phần đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ trong trường hợp tai nạn rủi ro, ốm đau, hết độ tuổi lao động... BHXH đã áp dụng cho hầu hết các thành phần kinh tế, chứ không chỉ cho công nhân viên chức Nhà nước như trong thời kỳ bao cấp. Với những ưu việt như vậy, nhưng nhiều chủ sử dụng lao động vẫn chưa nhận thức đầy đủ về BHXH, đẫn đến tham gia BHXH chỉ là đối phó. Nhiều đơn vị còn chiếm dụng quỹ BHXH khong muốn nộp BHXH trong khi có đủ khả năng thanh toán. Những hành động như vậy không những gây thiệt thòi cho người lao động mà còn ảnh hưởng tới tính ưu việt của chế độ XHCN. Có thể liệt kê ra sau đây một vài hình thức trốn tránh thực hiện BHXH của một số chủ sử dụng lao động. - Với lý do: dưới 10 lao động, và hợp đồng dưới 3 tháng(!) thì không thuộc đối tượng tham gia. Có doanh nghiệp không ký hợp đồng lao động hoặc có ký thì với tỷ lệ rất thấp cho nên không có căn cứ, cơ sở để thu BHXH hoặc khai báo tiền lương thấp hơn so với thực tế để giảm tiền đóng BHXH, cá biệt có đơn vị liên doanh nộp BHXH dưới mức lương tối thiểu trái với Quyết định số 708 của Bộ LĐ-TBXH. Hiện tượng này xuất hiện này xuất hiện ở hầu hết các tỉnh như Hà Tây, Hà Nội, Đồng Tháp, Thanh Hoá... - Nhiều đơn vị lợi dụng kẽ hở để lách luật, bỏ ngoài danh sách tham gia BHXH, hợp đồng miệng, hợp đồng ngắn hạn nhưng thực chất là hợp đồng dài hạn. Khi kiểm tra có đơn vị không xuất trình hợp đồng lao động, cá biệt có những đơn vị số lao động bỏ ngoài danh sách tham gia BHXH nhiều hơn số tham gia BHXH. Hiện tượng này xảy ra ở các đơn vị doanh nghiệp Nhà nước và cả doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đáng tiếc là ở những đơn vị này vai trò của tổ chức công đoàn đã bị vô hiệu hoá, thậm chí còn về hùa với lãnh đạo đơn vị, bỏ mặc quyền lợi người lao động. Như ở Đắc Lắc có nhiều doanh nghiệp sử dụng thường xuyên từ 200 đến 500 lao động nhưng chỉ ký kết hợp đồng lao động với vài chục cán bộ chủ chốt còn lại người lao động chỉ hợp đồng miệng với lý lẽ “hợp đồng theo thời vụ” hoặc “không đủ việc làm”. Mặt khác, người lao động nhận thức không đầy đủ về BHXH nên không thấy rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình trong việc tham gia, chỉ khi cần giải quyết chế độ thì mới hiểu rằng có tham gia BHXH thì mới được hưởng quyền lợi BHXH. Như vậy là cả nước có hàng triệu người lao động thiệt thòi do không hiểu biết chính sách và sự thiếu trách nhiệm của một số chủ sử dụng lao động trong việc thực hiện chính sách BHXH. Đó là chưa nói tới có đơn vị không đưa phụ cấp khu vực vào danh sách nộp BHXH, hàng năm không tổ chức thi tay nghề để nâng bậc cho công nhân viên chức và khi nâng lương, nâng bậc cũng không nộp BHXH theo mức lương mới... * Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có thể là do: + Quy định phạt hai triệu đồng đối với doanh nghiệp vi phạm Điều lệ BHXH là quá ít. Các doanh nghiệp sẵn sàng “nộp phạt” thay cho hàng trăm triệu mà đáng ra họ phải nộp. + Tại một số khu vực tình trạng các doanh nghiệp hiện chưa ổn định, nay còn mai mất dẫn đến quan hệ lao động còn lỏng lẻo. Một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lãi ít, thu nhập của người lao động thấp...Và một nguyên nhân nữa không thể không kể đến đó là do sức ép về việc làm, nên các cơ quan chức năng nhiều khi rất lúng túng trong việc thực hiện các biện pháp chế tài của pháp luật. Người ta sợ rằng nếu quá gò ép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thực hiện nghiêm chỉnh Luật lao động sẽ khiến các doanh nghiệp này không thu hút lao động và giải quyết việc làm. + Sự phối hợp giữa các cơ quan liên ngành LĐLĐ tỉnh, sở TB-LĐXH, thanh tra, kiểm sát...Với BHXH chỉ mới đồng bộ ở cấp tỉnh, còn ở cơ sở thì chưa. Bản chất của ngành BHXH là đảm bảo quyền lợi cho người lao động, cho những đoàn viên công đoàn...Thay vì kiểm tra, kiểm soát, yêu cầu giới chủ phải nộp BHXH cho công nhân, thì lâu nay công đoàn chưa thực sự làm hết chức năng của mình. Thực tế, công đoàn chưa đến được với các đơn vị ngoài quốc doanh; mà có đến được, họ cũng nằm im theo kiểu “ăn cây nào rào cây ấy” và chính họ cũng đang hưởng lương của giới chủ. Cuối cùng, chỉ có công nhân lao động là bị tước mất quyền lợi BXHX và chịu thiệt thòi. + Việc tuyên truyền pháp luật trong xã hội chưa đến nơi, đến chốn; người lao động chưa hiểu và chưa mạnh dạn đấu tranh đòi hỏi quyền lợi chính đáng cho mình. Để thoát khỏi tình trạng trên, Nhà nước cần phải có những chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với những trường hợp cố tình chốn tránh, đối với những trường hợp cố tình trốn tránh thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động. Cần có quy địng rõ để giải quyết vấn đề đóng BHXH của người nhận hợp đồng lao động, giao khoán trong các doanh nghiệp ngoài việc tăng cường rà soát đối tượng thu ngoài quốc doanh kịp thời cấp sổ để người lao động phấn khởi tham gia, đẩy mạnh đôn đốc, kiểm tra, cần phải chủ động xác định chương trình hoạt động cùng với các nghành LĐLĐ, LĐ-TBXH, Thanh tra... nhằm mở rộng đối tượng và cuối cùng phải phát huy thật hiệu quả chức năng của tổ chức công đoàn nhằm bảo vệ người lao động cho họ thấy rõ được quyền lợi được tham gia BHXH của mình. IV. Tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp Việt Nam Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện cả nước có trên 37.800 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong đó, có hơn 23.900 doanh nghiệp tư nhân, 10.000 công ty TNHH, 223 công ty cổ phần, 2.930 Hợp tác xã công nghiệp, xây dựng, giao thông, vận tải; 1.754 công ty liên doanh 100% vốn nước ngoài đang hợp đồng; 1.700 văn phòng đại diện các hãng, Công ty nước ngoài... thu hút khoảng 2,8 triệu lao động (46% lao động là nữ), trong số đó 30 vạn lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thế nhưng, cả khu vực này chỉ có 6020 công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn, hội nghề với khoảng 468.400 người lao động là đoàn viên, hội viên. Chương 13, khoản 1, Điều 153 Bộ luật Lao động quy định: “...chậm nhất sau 6 tháng kể từ ngày doanh nghiệp bắt đầu hoạt động, Liên đoàn lao động tỉnh phải thành lập tổ chức Công đoàn lâm thời tại doanh nghiệp...”. Nhưng trên thực tế, chủ doanh nghiệp có 1001 lý do để trì hoãn việc thành lập công đoàn. Mà Bộ luật Lao động lại không quy định không thành lập công đoàn tại các doanh nghiệp thì xử lý ra sao? Cũng Điều 135 Bộ luật Lao động quy định: “Công đoàn là đại diện bảo vệ quyền lợi và lợi ích của người lao động và tập thể người lao động”. Những quy định về giải quyết tranh chấp lao động trong Bộ luật đã đặt tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp vào thế bí. Bước sang nền kinh tế thị trường, tại nhiều tỉnh, thành phố đã xảy ra một số vụ đình công. Nguyên nhân của hầu hết những vụ đình công này là chủ doanh nghiệp không thực hiện đúng pháp luật lao động về tiền lương, về quyền lợi tham gia BHXH, trả lương không đúng thời hạn, đối xử thô bạo xúc phạm nhân phẩm của người lao động... Và phần lớn xảy ra ở các doanh nghiệp có động lao động nữ như: ngành may mặc, ngành da giầy... Nhất là ở các khu công nghiệp lớn của các tỉnh phía Nam. Lý do đình công của người lao động là hoàn toàn chính đáng. Nhưng Bộ luật lao động quy định quy trình, thủ tục để người lao động được đình công là quá rườm rà trong khi tranh chấp về lao động, về quyền lợi của người lao động lại quá bức xúc đòi hỏi phải được giải quyết ngay. Thế là, đình công tự phát nổ ra và 100% vụ đình công nổ ra đều được coi là không đúng luật!!! Trong những trường hợp này, tổ chức công đoàn không ủng hộ người lao động thì không làm tròn nhiệm vụ “bảo vệ quyền lợi của người lao động”, mà ủng hộ thì vi phạm luật. Nhưng thực tế cho thấy những doanh nghiệp đã thành lập được tổ chức công đoàn thì phần lớn hoạt động hiệu quả chưa cao, chưa phát huy hết chức năng của mình. Cũng là lẽ đương nhiên vì ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, cán bộ công đoàn đều kiêm nhiệm. Họ cũng như những người lao động khác trong doanh nghiệp, lệ thuộc vào chủ doanh nghiệp về việc làm, thu nhập. Nếu không vì lợi ích chung của doanh nghiệp, chịu sự chỉ đạo của chủ doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tìm mọi cách chấm dứt hợp đồng lao động. Trong các công ty TNHH và doanh nghịêp tư nhân sử dụng số lao động ít lực lượng chủ chốt (kể cả chủ tịch công đoàn) hầu hết là người trong gia đình, họ hàng hoặc bạn bè thân thuộc, nên vai trò của tổ chức công đoàn đã mờ nhạt lại càng mờ nhạt hơn. Thực tế vừa nói đã và đang diễn ra trên khắp đất nước càng kéo dài càng nảy sinh vấn đề bất cập trong tổ chức điều hành quản lý, trong sản xuấ kinh doanh và cuối cùng dẫn đến thiệt thòi quyền lợi cho người lao động. Tất cả những mắc mớ khó gỡ nói trên ở tầm vĩ mô, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và nhiều cơ quan liên quan đă thấy rõ song để có được một lối ra khả thi thì ngày 20/6/2000 bằng văn bản số 76/TB-VPCP Văn phòng Chính phủ đã thông báo ý kiến của Thủ tướng Phan Văn Khải tại buổi làm việc với đoàn Chủ tịch tổng liên đoàn lao động Việt Nam: “để bảo vệ quyền lợi người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhất thiết phải thành lập tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp. Đây là tổ chức hợp pháp duy nhất đại diện cho người lao động tại các cơ sở này. Về nguyên tắc chi phí hoạt động của tổ chức công đoàn do tập thể người lao động tự nguyện đóng góp và đề nghị các doanh nghiệp hỗ trợ. Đồng ý cho mỗi doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và mỗi doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn một định biên làm công tác công đoàn”. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho sự phát triển công đoàn ngoài quốc doanh. Còn những doanh nghiệp nhỏ sử dụng ít lao động thì nên thành lập tổ chức công đoàn theo cụm với Chủ tịch công đoàn chuyên trách và các uỷ viên Ban chấp hành nằm tại cơ sở. Khi ấy mới hi vọng mọi người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có chỗ dựa và quyền lợi BHXH của họ mới được quan tâm đến. Chương III Các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác thực hiện BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. I. để người lao động tham gia BHXH ngày càng tăng. 1. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Theo quy định của mục 1 Điều 141 Bộ luật Lao động thì đối tượng tham gia BHXH bắt buộc chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp sử dụng 10 lao động trở lên và hợp đồng trên 3 tháng. Tại mục 2 của Điều này có nêu vấn đề thực hiện BHXH tự nguyện hoặc doanh nghiệp tự lo liệu đối với người lao động làm việc ở những nơi có sử dụng dưới 10 lao động hoặc làm những công việc thời vụ dưới 3 tháng, theo mùa vụ, hoặc làm các công việc có tính tạm thời khác. Những quy định tại mục 2 của Điều 141 Bộ luật lao động mới được nêu ra, mà chưa hướng dẫn cụ thể cách thực hiện. Ngoài ra, còn một số đối tượng trong độ tuổi lao động khác cũng có nhu cầu tham gia BHXH để được hưởng chế độ lúc tuổi già, ốm đau... như : lao động nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phục vụ tại các hộ gia đình, những người nội trợ. Các đối tượng này muốn tham gia BHXHphải có những điều kiện riêng phù hợp với mức thu nhập, hoàn cảnh của từng loại hình lao động cụ thể và phải dựa trên cơ sở đặc điểm chính của hoạt động BHXH. Từ những quy định tại điều 141 của Bộ luật Lao động, Chính phủ đã cụ thể hoá các đối tượng tham gia tại một số Nghị định: Nghị định số 12/CP ngày 26/1 1995, Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995, Nghị định 07/CP ngày 20/1/1995 và Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998. Tuy nhiên, các đối tượng này mới chiếm một phần nhỏ người trong độ tuổi lao động của nước ta. Nhu cầu của người lao động muốn dược tham gia BHXH còn rất lớn, chiếm gần 50% dân số. Số liệu điều tra dân số1998 của Tổng cục thống kê cho thấy số người trong độ tuổi lao động (từ 15 đến 59 tuổi) năm 1999 có gần 45,5 triệu người, nhưng BHXH Việt Nam, năm 1999 mới chỉ có 3,45 triệu người tham gia BHXH (chiếm 1/2 tổng số người trong độ tuổi lao động). Theo quy định của ILO, đặc điểm chính của BHXH bao gồm các yếu tố: Quỹ BHXH hình thành từ các khoản đóng góp và có một hệ thống hoạt động nhằm đảm bảo lợi ích cho người tham gia đóng góp vào quỹ. Đôi khi Nhà nước tham gia vào hoạt động BHXH thông qua việc đóng góp bổ sung hoặc cấp một khoản trợ cấp từ ngân sách Nhà nước cho quỹ BHXH. Riêng hệ thống trợ cấp tai nạn lao động thường do chủ sử dụng lao động phải tài trợ toàn bộ. Hình thức BHXH là hình thức chia xẻ rủi ro và bắt buộc mọi người phải tham gia đóng góp vào quỹ với rất ít trường hợp ngoại lệ khác. Thu nhập từ các khoản đóng góp được gửi vào các Quỹ đặc biệt mà từ các Quỹ đó được lấy ra để chi cho các khoản chi các chế độ BHXH cũng như các khoản chi quản lý hành chính. Số dư Quỹ hàng năm tạm thời chưa sử dụng hết được đầu tư để tăng thu cho quỹ BHXH. Quyền được hưởng trợ cấp BHXHđược bảo đảm bằng chính việc đóng góp vào Quỹ BHXH. Tỷ lệ đóng góp và mức hưởng trợ cấp thường có mối quan hệ với thu nhập của người được bảo hiểm. Và như vậy, căn cứ vào thực tiễn của Việt Nam và những đặc điểm chính của hoạt động BHXH, có thể nêu lên những điều kiện để các đối tượngtham gia vào quỹ BHXH ở nước ta là: Đối tượng tham gia là những người trong độ tuổi lao động có thu nhập tối thiểu theo quy định của Nhà nước không tính đến thu nhập từ nguồn nào, trừ trường hợp lao động khu vực sản xuất nông nghiệp; Đối tượng tham gia có thể phải đóng góp một dóng góp một khoản tiền nhất định theo quy định của Nhà nước, trong một thời gian quy định tối thiểu; Tỷ lệ đóng góp, thời gian đóng góp, đảm bảo đủ điều kiện để hưởng các chế độ BHXH theo luật định; Mức hưởng thường là phải phù hợp với tỷ lệ đóng góp và quy định về mức lương tối thiểu của Nhà nước từ một số trường hợp ngoại lệ (như lao động khu vực sản xuất nông nghiệp). Như trên đã nêu: “Hình thức BHXH là một hình thức chia sẻ rủi ro và bắt buộc mọi người phải tham gia đóng góp vào Quỹ, với rất ít trường hợp ngoại lệ khác”. Rất ít trường hợp ngoại lệ khác ở đây có nghĩa là việc tiến hành BHXH theo hình thức tự nguyện chỉ thực hiện trong những trường hợp hãn hữu, đó là những đối tượng chiếm tỷ lệ nhỏ trong số những đối tượng có thể tham gia như : lao động làm những công việc thời hạn dưới 3 tháng, theo mùa vụ, hoặc các công việc có tính chất tạm thời và các đối tượng có thu nhập quá thấp và không thường xuyên. Còn các đối tượng khác thì nên đưa hết vào đối tượng bắt buộc, kể cả những đối tượng là lao động trong các doanh nghiệp có dưới 10 lao động. ở một số nước, loại doanh nghiệp có dưới 5 lao động mới thuộc diện bắt buộc không tham gia BHXH, nhưng một số nước khác lại không phân biệt doanh nghiệp có số lượng lao động nhiều hay ít, miễn là có thu nhập ổn định. Như vậy, đối tượng tham gia BHXH của các nước khá rộng rãi và khá linh hoạt. Điều đó giúp cho người lao động có đủ điều kiện đóng góp trong điều kiện làm việc tự do vẫn có thể tham gia BHXH một cách bình thường. Một số đối tượng ở Việt Nam hiện nay chưa biết sắp xếp vào khu vực kinh tế nào cho phù hợp như: những giáo viên, nghệ sĩ, hướng dẫn viên du lịch làm việc cho các tổ chức dân lập, bán công. Hoạt động của những người lao động dạng này vẫn có thể tính là đối tượng làm công ăn lương như các lao động khác, vì vậy mức đóng góp BHXH dựa vào mức thu nhập thực tế để thu vào quỹ. Ngoài ra, đối tượng tham gia lúc này không chỉ là những người lao động làm công ăn lương nữa mà còn có cả những người lao động không đi làm (lao động tại nhà, người nội trợ gia đình...). 2. Nguyện vọng tham gia BHXH của người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp Nhu cầu được tham gia BHXH của xã viên và người lao động trong các hợp tác xã phi nông nghiệp đã xuất hiện từ những năm đầu của thập niên 60. Nhưng do điều kiện kinh tế của đất nước ta còn nhiều khó khăn nên chưa thực hiện được. Đến năm 1982, được sự chấp thuận của HĐBT (nay là Chính phủ) và sự giúp đỡ của các Bộ hữu quan, Liên hiệp xã thủ công nghiệp Trung ương đã ban hành “Điều lệ tạm thời về chế độ BHXH đối với xã viên các hợp tác xã và các tổ hợp tiểu thủ công nghiệp”. Thực hiện theo điều lệ này, người lao động trong các hợp tác xã được hưởng các chế độ BHXH tương tự như những người làm việc trong khu vực Nhà nước lúc đó. Chế độ BHXH đối với xã viên hợp tác xã thủ công nghiệp vừa thực hiện được 6 năm thì ngừng hoạt động vì lúc đó gặp rất nhiều khó khăn như: tổ chức liên hiệp xã các cấp bị giải thể, tình hình kinh tế đất nước có nhiều biến động, đồng tiền mất giá, việc làm của xã viên không ổn định, thu nhập của hợp tác xã giảm sút, một số hợp tác xã ngừng hoạt động. Chế độ đóng góp và hưởng thụ lại vận dụng máy móc thiếu cơ sở khoa học, quản lý thu, chi chưa chặt chẽ... mặc dù việc thực hiện chế độ BHXH đối với xã viên hợp tác xã thủ công nghiệp chưa được lâu dài, nhưng đã giải quyết được phần nào khó khăn cho đời sống của người lao động khi già yếu hoặc khi gặp rủi ro trong cuộc sống, tạo cho người lao động có ý thức tham gia BHXH; đồng thời rút ra được bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng và thực hiện chế độ BHXH sau này. Trong bối cảnh hiện nay, sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã phi nông nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn, thu nhập của người lao động ở một số hợp tác xã còn thấp và chưa ổn định. Hiện có khoảng 25% số hợp tác xã có khả năng tham gia BHXH theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ (như công nhân viên chức Nhà nước và các doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên). Những hợp tác xã này đang mong mỏi Nhà nước có văn bản hướng dẫn để được tham gia chế độ BHXH bắt buộc như các doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên. Theo số liệu thống kê năm 1999, 42% số hợp tác xã là những đơn vị sản xuất kinh doanh chưa mạnh, thu nhập của người lao động chưa cao, họ có thể tham gia chế độ BHXH tự nguyện với mức đóng góp thấp hơn, cơ chế thu linh hoạt hơn. Còn lại 33% số hợp tác xã đang gặp khó khăn chưa đủ khả năng tham gia BHXH nhưng trong tương lai, tình hình sản xuất kinh doanh phát triển sẽ có 100% số hợp tác xã đủ khả năng tham gia BHXH. Còn hiện tại, đó là một khó khăn thực tế do phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của đất nước ta, nhiều người lao động thu nhập thấp. Cụ thể có tới 30% số lao động trong các hợp tác xã phi nông nghiệp có thu nhập dưới 250.000 đồng/tháng. Những người lao động này đang gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, họ chưa có diều kiện dành dụm cho cuộc sống lâu dài (mặc dù họ rất muốn). Hơn nữa, họ lại đang làm việc trong các hợp tác xã kinh doanh yếu kém, nhiều khi kết quả kinh doanh chỉ đảm bảo hoà hoặc có lãi chút ít, có nơi còn bị lỗ. Do vậy, họ chưa đủ điều kiện trích kinh phí đóng BHXH cho xã viên và người lao động của họ. Ngoài ra cũng còn một nguyên nhân khác nữa, đó là người lao động chưa nhận thức hết tầm quan trọng và sự cần thiết của việc tham gia đóng BHXH là để đảm bảo cuộc sống lâu dài cho chính mình. Để nguyện vọng chính đáng của người lao động ở khu vực kinh tế này thành hiện thực thì cần phải có những yếu tố sau: Trước hết, là sự cố gắng vươn lên của từng người lao động để có thu nhập cao. Bên cạnh đó, các hợp tác xã phải tạo được việc là ổn định và thu nhập ngày càng cao cho xã viên và người lao động; đièu quan trọng, Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ thoả đáng để giúp cho khu vực kinh tế hợp tác xã phát triển. Bởi vì, hợp tác xã là Tổ chức tập hợp đông đảo người lao động mà đa phần là những người lao động nghèo, có điển xuất phát thấp, vốn ít, kỹ thuật thủ công, trình độ tổ chức quản lý yếu. Do đó cần sự hỗ trợ của Nhà nước để tạo đà cho các hợp tác xã tiến dần, kịp các loại hình sản xuất kinh doanh khác. Còn về phần Hội đồng Trung ương liên minh các hợp tác xã Việt Nam có chức năng đại diện và hỗ trợ cho các hợp tác xã, có trách nhiệm giúp đỡ các hợp tác xã tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ thích hợp để nâng cao năng suất lao động, tăng cường công tác đào tạo, nâng cao trình độ quản lý và kỹ thuật cho khu vực hợp tác xã... Mở rộng quan hệ với các ngành và hợp tác quốc tế để tranh thủ sự giúp đỡ mọi mặt, tạo điều kiện cho các hợp tác xã phát triển. Chủ động phối hợp với các Bộ, Ngành có liên quan sớm hoàn thiện khung pháp lý về chế độ BHXH cho khu vực hợp tác xã để những người lao động ở khu vực này được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ như những người lao động ở các thành phần kinh tế khác. 3. Nhu cầu BHXH của người lao động trong kinh tế trang trại. Sự chuyển hướng của nển kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và với những kết quả đã đạt được đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra. Nhờ đường lối đổi mới này, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã có những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế hàng hoá. Điều nổi bật là trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta vừa có xu hướng đa dạng hoá, vưa có xu hướng tập trung, chuyên môn hoá. Đó là xu hướng kinh tế trang trại. Đến nay, cả nước có trên 113.000 trang trại các loại chuyên doanh hoặc kinh doanh tổng hợp. Kinh tế trang trại đang và sẽ phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. Điều này đã được khẳng định từ chủ trương của Đảng (trong các Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV cuả Ban chấp hành Trung ương tháng 12/1997 và Nghị quyết VI ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị) đến các nghị quyết để thực hiện của Chính phủ (Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP tháng 2/2000). Kinh tế trang trại phát triển dẫn đến xuất hiện nhu cầu tham gia BHXH của chủ trang trại và người lao động trong các trang trại. Nhu cầu này xuất phát từ một số điểm sau: - Thứ nhất, kinh tế trang trại là một bộ phận của kinh tế nông nghệp và nông thôn. Người lao động nông thôn nói chung và các chủ trang trại và người lao động trong các trang trại nói riêng, sau quá trình lao đông sản xuất, sau khi trừ đi các chi phí cho sản xuất, họ đã có những khoản thu nhập do bán sản phẩm trên thị trường và thu nhập này ngày càng tăng lên. Theo kết quả của cuộc điều tra mức sống dân cư Việt Nam do tổng cục thống kê tién hành 2 năm 1997- 1998 thì thu nhập của 1 hộ gia đình nôn thôn là 13,589 triệu đồng/năm (nghĩa là bằng 1,13 triệu đồng/ tháng). Nếu tính bình quân đầu người thì mức thu nhập là 212.000 đồng/tháng/người. Trong cơ cấu thu nhập, thu từ các hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 48,61% trong tổng thu nhập; thu từ các hoạt động phi nông nghiệp chiếm 15,09% và từ các hoạt động khác chiếm 36,3% (bao gồm tiền đi làm thuê, tiền lương hưu...). Sự đa dạng hoá ngành nghề trong nông thôn đã dẫn đến sự đa dạng hoá trong thu nhập của người lao động ở nông thôn. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân của 1 lao động ở một cơ sở sản xuất chuyên ngành nghề là 430.000 đồng/tháng; ở các hộ chuyên là 236.000 đồng /tháng. Thu nhập này gấp từ 1,7- 3,9 lần so với thu nhập bình quân của 1 lao động nông nghiệp thuần tuý (khoảng 110.000 đồng/tháng). Thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tổng thu nhập của người dân nông thôn. Riêng đối với các hộ làm kinh tế trang trại, kết quả điều tra của Trường Đại học Kinh tế quốc dân năm 1999 cho thấy, bình quân thu nhập của 1 trang trại, sau khi đã trừ đi các chi phí sản xuất (gồm cả trả công lao động) là 46,112 triệu đồng/năm từ trang trại. Nếu tính bình quân 1 lao động thì thu nhập này là 1,343 triệu đồng/tháng và bình quân nhân khẩu là 660.000 đồng/tháng. Thu nhập này của hộ gia đình làm kinh tế trang trại gấp 3,1 lần thu nhập bình quân của 1 hộ gia đình nông thôn. Cá biệt có trang trại có thu nhập khá cao như ở Khánh Hoà là 1,286 triệu đồng/người/tháng; ở Lâm Đồng là 934.000 đồng/người/tháng; ở Đồng Nai là 925.000 đồng/người/tháng ... Với mức thu nhập như vậy, bình quân 1 năm, 1 hộ gia đình nông thôn chi tiêu cho sinh hoạt hàng ngày hết 10,584 triệu đồng (tính bình quân đầu người là 2,205 triệu đồng/năm hay 183.000 đồng/tháng). So sánh giữa thu nhập và chi tiêu cho thấy, sau khi đã trừ đi các chi phí sản xuất và chi phí cho sinh hoạt hàng ngày, người dân nông thôn nói chung và người làm kinh tế trang trại nói riêng đã có tích luỹ ở mức độ nhất định, tạo cho họ có điều kiện tham gia BHXH. - Thứ hai, như đã nêu ở trên các chủ trang trại khi đã mở rộng quy mô sản xuất đã có sự thuê mướn lao động và xu hướng này ngày càng tăng. Theo Tiến sĩ Nguyễn Sinh Cúc (Tổng cục Thống kê), bình quân mỗi năm các chủ trang trại đã tạo việc làm cho khoảng 60 vạn lao động, chủ yếu là lao động tại chỗ. Mức tiền công lao động dao động từ 10.000 đến 15.000 đồng/ngày ở miền Bắc và từ 15.000 đến 20.000 đồng/ngày ở miền Nam. Kinh tế trang trại đã góp phần rất to lớn trong việc giải quyết việc làm cho lao đông nông thôn, đặc biệt là vào thời kì nông nhàn. Hơn nữa, khi người lao động đi làm việc được trả công đã làm đa dạng hoá thu nhập cho gia đình họ; đồng thời tạo điều kiện cho người lao động làm thuê cũng có khả năng tham gia BHXH khi Nhà nước ban hành chính sách BHXH đối với họ. Mặt khác, khi đã xuất hiện quan hệ lao động, người chủ lao động (người thuê mướn lao động) phải có trách nhiệm đối với người lao động mà mình thuê mướn theo các quy định của Bộ Luật lao động (như hợp đồng lao động, trả công lao động, bảo hộ lao động, BHXH...). - Thứ ba, kinh tế trang trại càng phát triển thì sự da dạng hoá trong sản xuất kinh doanh ở nông thôn ngày càng cao; đồng thời sự chuyên môn hoá cũng cao hơn. Khi đó người chủ trang trại và người lao động làm thuê có cơ hội cao để tăng thu nhập, nhưng đồng thời cũng xuất hiện rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập. Điều này, đòi hỏi cần có chính sách BHXH để bảo vệ họ khi bị rủi ro xảy ra. Hơn nữa, thực hiện BHXH đối với lao động nông thôn nói chung và lao động làm việc trong các trang trại nói riêng còn góp phần thực hiện việc bình đẳng giữa người lao động thuộc các thành phần kinh tế. Có một số ý kiến cho rằng chưa nên thực hiện BHXH đối với khu vực kinh tế trang trại hoặc nếu thực hiện thì chỉ nên thực hiện BHXH đối với những trang trại có thuê mướn từ 10 lao động trở lên và cho rằng nếu làm khác đi sẽ vi phạm luật lao động. Thực ra không phải như vậy, cần hiểu luật thế nào cho đúng. Hơn nữa, nếu luật lao động chưa phù hợp thì phải sửa đổi, bổ sung các quy định trong Luật. Vì trên hết, Hiến pháp nước ta đã quy định: Nhà nước thực hiện chính sách BHXH đối với mọi người lao đọng trong các thành phần kinh tế. Mặt khác, qua ý kiến của nhiều người lao động, trong nông nghiệp và nông thôn, trong đó có các chủ trang trại và người lao động thì họ mong muốn được tham gia BHXH và đã có khả năng để tham gia BHXH. Vấn đề đặt ra là phải tổ chức BHXH như thế nào cho phù hợp với đặc điểm và tính chất tổ chức lao động của các thành phần kinh tế, của các loại hình lao động. Vì vậy cần phải sớm có chính sách BHXH đối với đông đảo người lao động trong nông nghiệp và nông thôn, trong đó có người lao động trong các trang trại. II. Nâng cao nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động. Hiện nay, mức độ nhận thức, hiểu biết và kiến thức về các chính sách BHXH trong người lao động và chủ sử lao động ngoài khu vực Nhà nước được coi là còn rất thấp. Mức độ tuân thủ thấp trong khu vực tư nhân, liên doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ước tính thấp hơn 15% đã xảy ra vì nhiều nguyên nhân, bao gồm việc thiếu sự thanh tra, kiểm tra, trốn tránh pháp lật lao động thông qua báo cáo thấp số lượng lao động trong doanh nghiệp và phớt lờ luật pháp và chính sách. Các tư liệu về BHXH là những công cụ quan trọng để nâng cao kiến thức và hỗ trợ các hoạt động tuân thủ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước. 1. Đối với chủ sử dụng lao động BHXH là một chính sách mang tính xã hội và nhân đạo cao cả của Đảng và Nhà nước ta. Trong quá trình hình thành và phát triển chính sách, chế độ BHXH đã có nhiều thay đổi, bổ sung phù hợp với từng thời kì, ngày càng thể hiện tính ưu việt. Nhưng không phải chủ sử dụng lao động nào cũng nhận thức được điều này do đó quyền lợi được tham gia BHXH của người lao động không được thực hiện. Chính vì vậy việc thông tin tuyên truyền cho người sử dụng lao động thấy được tính ưu việt của chế độ này là rất quan trọng tạo cơ sở cho quyền lợi của người lao động được đảm bảo. Những người sử dụng lao động chưa tin tưởng vào chế độ BHXH chủ yếu là những người không qua đào tạo chính quy, do đó trình độ hiểu biết về các chính sách BHXH còn hạn chế. Họ có vốn, tự tổ chức kinh doanh sản xuất và thuê lao động. Những đối tượng này cần phải được giải thích một cách tường tận, tỉ mỉ về chế độ BHXH. Khi hiểu ra vấn đề thì chủ sử dụng lao động sẽ tự giác tham gia. Giám đốc một doanh nghiệp cho biết: “Còn vài trăm triệu để dành mua vật tư, thấy cán bộ BHXH đến vận động “lọt tai” quá, bèn mang ra nộp BHXH”. Do đó không phải bỗng dưng mà hàng triệu lao động mang đến nộp cho ngành BHXH hàng trăm ngàn tỷ đồng và không phải bỗng dưng mà BHXH tỉnh này; BHXH huyện nọ hoàn thành kế hoạch được giao, đó chính là hiệu quả to lớn do công tác tuyên truyền vận động đem lại. Nhiều đơn vị đã tự giác thực hiện nghiêm chỉnh việc nộp BHXH cho người lao động, song cũng không ít doanh nghiệp dây dưa, thậm chí chây ỳ, trốn tránh tham gia BHXH... Các đối tượng này tuyên truyền vận động thôi chưa đủ mà phải có các biện pháp cụ thể tác động tới ý thức của người sử dụng lao động: Phát triển các Hiệp hội ngành nghề nhằm tập hợp giáo dục, thuyết phục các chủ sử dụng lao động có ý thức chấp hành pháp luật tôn trọng giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản của Cách mạng XHCN. Doanh nghiệp gia nhập Hiệp hội cũng được các quyền lợi như được cung cấp các thông tin kinh tế, được bảo vệ khi các quyền lợi chính đáng bị xâm phạm, trong đó có quyền được giữ người lao động qua đào tạo, tránh tình trạng như hiện nay doanh nghiệp quảng cáo níu lao động từ nơi này sang nơi khác, ảnh hưởng lớn tới việc tổ chức sản xuất, thực hiên kế hoạch hợp đồng. Định kỳ, trước khi thay đổi giấy phép hành nghề, các cơ quan qản lý Nhà nước có quyền nhận xét việc chấp hành các nghĩa vụ theo luật pháp của doanh nghiệp như: nộp thuế, nộp BHXH, nộp BH Y tế... tuỳ theo mức độ chấp hành và có thời hạn cấp giấy phép hoạt động tiếp. Nếu doanh nghiệp có nhiếu năm chấp hành tốt nghĩa vụ, nên cấp giấy chứng nhận có giá trị theo từng cấp. Giấy chứng nhận này là tiêu chuẩn để tạo điều kiện ưu tiên cho doanh nghiệp như vay vốn, ưu đãi khi sử dụng nhiều lao động nữ, phong tặng danh hiệu thi đua cho tập thể. Cá nhân chủ doanh nghiệp chấp hành tốt chủ trương, chính sách, pháp luật thì tuỳ theo thành tích cũng có thể đạt các danh hiệu thi đua cho cá nhân. Trong điều kiện Nhà nước ta mở rộng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nếu chỉ nhìn kinh tế ngoài quốc doanh qua những mặt tiêu cực thì dễ giao động, buông xuôi. Tuy một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh ý thức chấp hành pháp luật còn chưa tốt nhưng nếu được “đãi cát tìm vàng” song song với xây dựng hành lang pháp lý, thì việc định hướng XHCN cho các thành phần kinh tế bằng biện pháp giáo dục công nhận những cố gắng của những anh, chị em này theo kiểu “mưa dầm thấm lâu” nhất định sẽ có tác dụng. Chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng là người Việt Nam, ta nên lấy đạo lý, pháp luật, có chính sách nhìn nhận đúng vai trò, vị trí của họ, nhân mặt tích cực để họ phải tự suy nghĩ đẩy lùi tiêu cực, tự hoàn thiện mình. Chừng nào chính những chủ sử dụng lao động này thấy BHXH là chế độ thiết thân thì chính sách BHXH mới được thực hiện có hiệu quả. 2. Đối với người lao động Còn đối với người lao động, vẫn biết BHXH là quyền lợi thiết thực nhằm đảm bảo cuộc sống về sau cho họ, song để người lao động hiểu rõ được cái “quyền” này lại là chuyện không hề đơn giản và càng không phải một sớm, một chiều. Người lao động, nhất là làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh, mối quan tâm hàng đầu của họ chỉ là có việc làm và mức lương. Hơn nữa người lao động chưa hiểu biết về pháp luật lao động, về chính sách BHXH, hoặc do chưa thấy được lợi ích lâu dài mà chỉ thấy phải đóng 5% tiền lương để đóng BHXH nên họ chưa thiết tha với chế độ BHXH hoặc cũng có thể họ sợ “nộp vào thì dễ, nhận trợ cấp các chế độ thì khó”. Chính vì vậy phải luôn đặt vấn đề tuyên truyền, vận động lên hàng đầu. Công tác tuyên truyền vận động không chỉ qua phương tiện thông tin đại chúng, mà còn có hiệu quả thông qua cán bộ BHXH lăn lộn dưới cơ sở, kiên trì tuyên truyền, vận động thuyết phục... đối tượng tham gia. BHXH Việt Nam cần xây dựng các sản phẩm thông tin tuyên truyền để đáp ứng các nhu cầu về thông tin của khu vực tư nhân, của cả người sử dụng lao động và người lao động, những thông tin về chương trình BHXH bắt buộc hiện hành. Những mục tiêu của các sản phẩm thông tin tuyên truyền này là cải thiện mức độ tuân thủ của ngươì sử dụng lao động và người lao động. Hơn nữa, BHXH Việt Nam nên đảm bảo các thông tin được phổ biến rộng rãi đến người sử dụng lao động và người lao động quan tâm đến các loại hình chế độ bảo hiểm và các quy trình để thực hiện đăng ký, thu các khoản đóng góp, thủ tục đề nghị hưởng chế độ BHXH và chi trả bảo hiểm. Trong khi Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội có một số trách nhiệm đối với việc tuyên truyền các thông tin liên quan đến chính sách, BHXH Việt Nam cũng có một vai trò quan trọng trong việc giải thích chính sách và các quy trình đối với những nhóm đối tượng mới của chương trình BHXH. Các sản phẩm thông tin tuyên truyền nên được phân phát rộng rãi như vậy chúng sẽ hỗ trợ cho việc mở rộng đối tượng của chương trình BHXH. Cả hai cơ quan nên phối hợp những nỗ lực của họ vì những lý do hiệu lực nhưng quan trọng hơn cả là làm rõ một điều là các nhóm mục tiêu sẽ không bị bối rối bởi những thông điệp trái ngược và khác nhau. III. đẩy mạnh hơn nữa sự tuân thủ của các chủ sử dụng lao động ở Việt Nam, tỷ lệ đóng góp hiện nay là 20% được phân bổ giữa người sử dụng lao động và người lao động có nghĩa là người sử dụng lao động chịu phần lớn gánh nặng đóng góp cho người lao động. Người sử dụng lao động cũng phải chịu các chi phí về quản lý công tác này thay mặt cơ quan quản lý BHXH. Các cải cách chính sách được đề xuất đối với việc mở rộng đối tượng có thể ảnh hưởng nhiều hơn lên các doanh nghiệp nhỏ hơn với các nguồn lực hạn chế. Trong giai đoạn chuẩn bị để thực hiện luật BHXH mới, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và BHXH Việt Nam nên cung cấp những thông tin đến cho người sử dụng lao động về quyền lợi và nghĩa vụ của họ trong chương trình BHXH mới. Tất cả mọi người sử dụng lao đọng nên nhận được những thông tin tuyên truyền nhiều hơn để họ nhận thức được và có đầy đủ thông tin. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Trung ương các hợp tác xã Việt Nam và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cũng có trách nhiệm đối với việc thông tin cho các thnhà viên của mình về luật mới. Đặc biệt BHXH Việt Nam cần phải xây dựng mối quan hệ tốt đối với các chủ sử dụng lao động để các hệ thông và quy trình không quá phức tạp và gây tốn kém thời gian. Hệ thống hiện hành về thanh tra đóng một vai trò quan trọng. Luật pháp rõ ràng và toàn diện là yêu cầu đối với luật mới. Những thanh tra viên nên hoạt động ở cấp địa phương và hợp tác chặt chẽ với các bộ phận thu đóng góp của cơ quan BHXH. Thanh tra viên là những điểm tiếp xúc chủ yếu giữa người sử dụng lao động và cơ quan BHXH. Các thanh tra viên nên thực hiện một chức năng sống còn như là những người cưỡng chế thực hiện luật pháp đối với luật BHXH. Họ đồng thời đại diện cho BHXH, như vậy có thể nâng cao vai trò của họ trong việc giáo dục và tuyên truyền thông tin. Những thanh tra viên cần được lựa chọn và đào tạo một cách cẩn thận. Họ hiểu luật pháp và các quy trình BHXH một cách thấu đáo. Những thanh tra viên có kinh nghiệm nên thực hiện các trường hợp phức tạp và khó khăn hơn và hỗ trợ các nhân viên có ít kinh nghiệm hơn. Các vấn đề về tuân thủ nên được giải quyết một cách nhanh gọn để tránh làm cho tình hình ngày càng xấu đi. Sự tuân thủ của người sử dụng lao động và người lao động làm giảm số lượng người sử dụng lao động “được phép” không đóng góp hoặc đáng bị phạt lại không phạt. Một số cơ quan BHXH đã bị thất bại trong điều tra đối với mối đe doạ bị bắt buộc đóng cửa của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều này cần phải được cân bằng với trách nhiệm đối với tất cả các thành viên của chương trình- những người phải tuân thủ luật pháp. Sẽ không công bằng đối với những người sử dụng lao động và các thành viên khác khi họ đóng góp đầy đủ. ảnh hưởng của việc không tuân thủ là các thành viên không được nhận bảo hiểm khi nghỉ hưu do người sử dụng lao động đã trốn tránh đóng góp BHXH. Đây là khó khăn thường gặp khi luật pháp bị bỏ qua, tuy nhiên tình hình tài chính của doanh nghiệp nếu quá kém có nghĩa là doanh nghiệp sẽ không trả được cả các khoản đóng góp hiện hành và các khoản khất nợ trước đó. Một số chương trình BHXH cho phép hoàn trả dần đối với các khoản khất nợ đóng góp (10% tổng số khất nợ cùng với số đóng góp hàng tháng) như là cách thức để tránh cho các doanh nghiệp có thể bị phá sản mà vẫn có thể trả dần các khoản đóng góp cho các thành viên. Các vi phạm nghiêm trọng và nhiều lần có thể bị khởi tố và có thể bao gồm các quy trính pháp lý như quyền được tịch thu và bán hàng hoá cũng như tài sản của người thiếu nợ để thu được nợ của mình. Khi phá sản xảy ra, luật pháp nên quy định những ưu tiên giải quyết đối với các món nợ đối với BHXH vì lợi ích BHXH của người lao động. Khởi tố sẽ được tiến hành trên cơ sở triển vọng cao của việc khởi tố thành công. Lợi thế của việc khởi tố thành công có tác dụng cản trở những người vi phạm khác trong tương lai. BHXH Việt Nam nên có những nhân viên có trình độ pháp lý có thể đại diện cho cơ quan BHXH trước toà án và đại diện quyền lợi cho các thành viên và có thể giám định các bằng chứng và đánh giá các yếu tố thành công cần thiết để đưa vụ việc ra toà. Các quy trình để đòi lại các khoản nợ đóng góp nên rất cụ thể chi tiết. Chi phí áp dụng nên bao gồm cả chi phí cho tuyên truyền thông tin. IV. Cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho đối tượng thụ hưởng Để các đối tượng tham gia thêm tin tưởng vào chế độ BHXH thì việc làm cần thiết đó là phải cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt các thủ tục không cần thiết, từng bước cải cách thủ tục hành chính khi thực thi nhiệm vụ. BHXH các cấp phải lấy phương châm thu đúng, thu đủ, chi trả kịp thời đến tận tay đối tượng, giải quyết hưởng các chế độ BHXH chặt chẽ, đúng quy định làm mục tiêu phục vụ. Trước đây, khi giải quyết các chế độ BHXH do hồ sơ không đầy đủ nên người sử dụng lao động phải đi lại nhiều lần để bổ sung và làm việc với nhiều phòng chức năng. Việc chi trả BHXH một số nơi còn chậm và gây phiền toái cho người lao động. Về phía đơn vị sử dụng lao động thường lập hồ sơ hưởng BHXH cho người lao động chậm và không đầy đủ thủ tục theo quy định, nhưng khi người lao động thắc mắc thì đổ lỗi cho cơ quan BHXH. Cơ chế bao cấp còn ăn sâu vào tiềm thức người lao động và việc giải quyết các chế độ thời đó quá dễ dãi, nhiều kẽ hở, dễ phát sinh tiêu cực. Khi chuyển sang cơ chế mới, cơ quan BHXH thực hiện đúng quy định của Bộ Tài chính thì họ kêu ca cho rằng quá khắt khe, nhiều thủ tục rườm rà (nhất là khi giải quyết chế độ ốm đau thai sản). Hiện nay, trên cả nước có một số địa phương đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tạo thuận lợi cho các đối tượng thụ hưởng. Thực chất của cơ chế một cửa đó là giao cho bộ phận chính sách BHXH huyện, thị xã và phòng chế độ chính sách BHXH tỉnh đảm trách tiếp các đối tượng hoặc đơn vị sử dụng lao động đến giải quyết các chế độ BHXH với quy trình như sau: Hướng dẫn hồ sơ chứng từ, thanh toán BHXH cho cán bộ phụ trách công tác BHXH, các đơn vị sử dụng lao động và các đối tượng trực tiếp. Tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ, nếu thấy đầy đủ thì làm phiếu hẹn ngày nhận tiền. Chuyển hồ sơ cho bộ phận thu BHXH để đối chiếu thời gian và mức nộp BHXH. Căn cứ vào phiếu hẹn, đến ngày người lao động hoặc đơn vị sử dụng lao động cử người đến nhận tiền hưởng chế độ của đối tượng, riêng tiền chi 2 chế độ: ốm đau, thai sản, BHXH chuyển về tài khoản của đơn vị sử dụng lao động tại kho bạc hoặc Ngân hàng để đơn vị tự chi trả. Theo quy định này, người lao động hoặc đơn vị sử dụng lao động chỉ cần nộp hồ sơ tại BHXH các huyện, thị xã hay phòng chế độ chính sách BHXH tỉnh thì không quá 7 ngày sau, đơn vị sẽ nhận tiền chi ốm đau, thai sản cho người lao động. Và không quá 30 ngày đối với trợ cấp hưởng BHXH 1 lần và hưu trí hưởng thường xuyên. Hàng quý, BHXH tỉnh sơ kết rút kinh nghiệm bàn biện pháp tháo gỡ những khó khăn nhằm hoàn thiện thủ tục hành chính đảm bảo phục vụ nhanh, thuận lợi cho đối tượng tham gia BHXH. Đây là một cơ chế thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, BHXH các tỉnh khác nên xem xét áp dụng phù hợp với điều kiện địa phương mình. Thực hiện cơ chế “một cửa”, trong quản lý và giải quyết chế độ BHXH cho người lao động là hết sức cần thiết để đưa công tác quản lý BHXH đi vào nề nếp. Với cơ chế mới này, chắc chắn sẽ mang lại niềm tin cho người lao động, góp phần đảm bảo tính công bằng nhân văn và tiến bộ xã hội. PHầN KếT LUậN Sau 7 năm thực hiện việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH cho mọi lao động thược các thành phần kinh tế, tuy còn gặp nhiều khó khăn trở ngại nhưng cũng đã đạt được những thành công. Quyền lợi hợp pháp của người lao động đã được thực hiện. BHXH đã giúp cho người lao động và gia đình họ qua những lúc khó khăn, góp phần ổn định cuộc sống. Các chủ sử dụng lao động đã có ý thức chấp hành BHXH cho người lao động, giúp họ an tâm công tác, thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Thế nhưng, ngoài những thành công đó thì vẫn còn một số vấn đề bất cập đang tồ tại trong quá trình thực hiện BHXH cho người lao động. Nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động về các chính sách BHXH nói chung còn chưa cao, nhiều chủ doanh nghiệp tìm cách trốn tránh trách nhiệm của mình, hoặc có những hành vi gian lận như khai báo ít hơn thực tế số lao động, tiền lương của công nhân...đẻ giảm phí phải nộp. Và cả trong nội dung các chế độ của chính sách cũng còn một số vấn đề chưa hợp lý gây thiệt thòi cho người lao động. Thực trạng trên cần sớm được giải quyết, nhất là khi Luật BHXH sắp ra đời hi vọng quyền lợi của người lao động sẽ được bảo vệ tốt hơn nữa. Với đề án này, em mong muốn sẽ góp một phần nhỏ bé trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động trong các thành phần kinh tế. Hà Nội tháng 12-2002 tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế Bảo hiểm 2. Tạp chí Bảo hiểm xã hội 3. Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm 4. Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế 5. Báo Lao động 6. Thời báo kinh tế Và một số tài liệu có liên quan khác. mục lục ChươngI: BHXH cho người lao động một nhu cầu tất yếu khách quan I. Sự cần thiết của BHXH đối với người lao động II. BHXH ở Việt Nam Chương II: Thực trạng BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam I. Tổng quan về tình hình thực hiện BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam 1. Trong khối doanh nghiệp quốc doanh 2. Trong khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh 2.1. Trong các doanh nghiệp trong nước 2.2. Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài II. Vấn đề hưởng trợ cấp BHXH của người lao động 1. Chế độ trợ cấp ốm đau 2. Chế độ trợ cấp thai sản 3. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp 4. Chế độ hưu trí 5. Chế độ tử tuất III. Các hình thức trốn tránh thực hiện BHXH cho người lao động của chủ sử dụng lao động IV. Tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp Việt Nam Chương III. Các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác thực hiện BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay I. Để người lao động tham gia BHXH ngày càng đông 1. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH 2. Nguyện vọng tham gia BHXH của người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp 3. Nhu cầu BHXH của người lao động của người lao động trong kinh tế trang trại II. Nâng cao nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động 1. Đối với chủ sử dụng lao động 2. Đối với người lao động III. Đẩy mạnh hơn nữa sự tuân thủ của các chủ sử dụng lao động IV. Cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho đối tượng thụ hưởng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35338.doc
Tài liệu liên quan