Đề án Thực trạng và một số giải pháp đầu tư phát triển ngành thủy sản Việt Nam

Thuỷ sản là một ngành kinh tế- kỹ thuật đặc thù gồm các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ và thương mại; là một trong những ngành kinh tế biển quan trọng. Trong nhưng năm qua, do năm vững đặc điểm cơ bản của tự nhiên xã hội trong tổ chức quản lý, ngành thuỷ sản đã đạt tốc độ tăng trưởng cao. Nghị quyết Hội Nghị TW Đảng Lần thư 5 khoá VII đã xác định Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế cuae đất nước. Nhưng hiện nay, ngành Thuỷ sản đang đứng trước nhưng thử thách lớn : Nguồn lợi hải sản ven bờ cạn kiệt, nguồn lợi xa bờ chưa nắm chắc, do phát triển ồ ạt diện tích nuôi trồng thuỷ sản ở vùng bãi triều cửa sông ven biển đã thu hẹp diện tích rừng nghập mặn làm mất cân bằng sinh thái, các cơ sở chế biến thuỷ sản tuy nhiều nhưng trình độ công nghệ còn lạc hậu, sản phẩm kém sức cạnh tranh trên thị trường. Cơ sở hạ tầng yếu kém chưa đồng bộ. Tuy nhiên ngành Thuỷ sản Việt Nam cũng đã từng bước đã khẳng định được vị trí quan trọng của mình đối với nền kinh tế trong nước trong khu vực và trên thế Sgiới. Với nguồn lợi tự nhiên dồi dào, phong phú chúng ta có đủ điều kiện để xây dựng một ngành thuỷ sản phát triển, trở thành một trung tâm của khu vực. Để đạt được điều này chúng ta cần nhận thức rõ được hạn chế và yếu kém trong từng lĩnh vực cụ thể từ đó có biện phát giải quyết thoả đáng và triệt để. Cũng như bất kỳ ngành kinh tế nào, đầu tư phát triển đóng vai trò quan trọng trong quá trình đi lên của ngành. Giải pháp nâng cao hiệu quả đâù tư cúng chính là giải pháp phảp triển ngành.

doc66 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1517 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và một số giải pháp đầu tư phát triển ngành thủy sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vốn làm tăng liên tục tổng giá trị sản lượng thuỷ sản. Tuy nhiên tốc độ đầu tư vốn tăng nhanh nhưng tốc độ tăng tổng giá trị sản lượng thuỷ sản chậm lại. Tốc độ đầu tư vấn cho nuôi trồng thuỷ sản tăng chậm hơn nhưng tổng sản lượng thuỷ sản tăng nhanh hơn, ngược lại trong khai thác hải sản tốc độ đầu tư vốn tăng nhanh nhưng giá trị hải sản tăng chậm lại. Như vậy có thể nói hiệu quả đầu tư trong nhành nuôi trồng thuỷ sản hiện nay cao hơn so với ngành khai thác hải sản. Năng lực sản xuất tăng thêm tạo tiền đề cho sản xuất, kinh doanh của ngành phát triển mạnh, đạt hiệu quả cao. Tổng sản lượng thuỷ sản qua 5 năm tăng 45,88%, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng 109,28%; bình quân năm tăng 21,86%. Một số tồn tại trong đầu tư XDCB cần được khắc phục 1. Công tác quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch thực hiện chậm lên các địa phương lúng túng trong việc lựa chọn danh mục các dự án đầu tư. Nhiều vùng dân đầu tư tự phát, phá đê, cống ngăn mặn gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và phát triển bền vững. 2. Việc đầu tư không theo kịp yêu cầu của thực tế phát sinh, chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư chuyển đổi từ trồng lúa sang nuôi trồng thuỷ sản, nhất là tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long như Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang. 3. Việc lựa chọn địa điểm đầu tư chưa xuất phát từ nhu cầu , có khi trên một địa bàn đầu tư 2 cảng (Cửa Hội –Xuân Phổ). Có nơi đầu tư xong lại thay đổi mục đích sử dụng như cảng cá Cà Mau… 4. Chất lượng tư vấn lập dư án và thiết kế, xây lắp chưa cao do chưa làm đủ quy trình và công việc khảo sát. Nhiều công trình tăng khối lượng đầu tư và hiệu quả đầu tư kém do thiếu nước ngọt (cảng cá Hòn Khoai, Hòn Mê-Lạch Bạng), chất lượng công trình không được đảm bảo (cảng Cù Lao xanh đầu tư xong thì bờ phía Đông bị sụt lở), cảng cá Cồn Cỏ chưathống nhất về diện tích dùng đất cho cảng với quốc phòng lên cảng đang thi công phải dừng lại.. 5. Việc thẩm định các dự án đầu tư chưa làm tốt, dẫn đến báo cáo nghiên cứu khả thi chất lượng thấp, nhiều dự án tổng dự toán duyệt cao hơn tổng mức đầu tư (Hòn Khoai 25,01 tỷ/ 19,3 tỷ, Cù Lao xanh 19,05tỷ/ 18,87 tỷ. Tổng mức đầu tư được duyệt không phù hợp với tình hình thi công thực tế nên đến nay các dự án chuẩn bị đầu tư không tốt nên quá trình thực hiện phảiđiều chỉnh nhiều lần (Dự án Trạm Cửa Lò, dự án xây dựng Nafiqucen VI. Công tác lập kế hoạch còn trùng lặp có dự án cuùng sử dụng vốn ngân sách nhưng Ngân sách Trung ương và Biển Đông đều ghi kế hoạch (Cảng cá Bến Đầm, Côn Đảo). 6. Việc triển khai các dự án thực hiện chậm, 22 dự án nuôi tôm công nghiệp được cấp vốn lập báo cáo nghiên cứu khả thi từ tháng 7 năm 1999 mà đến hết năm 2000 chưa duyệt xong thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán. Vì vậy, chậm khởi công công trình. 7. Việc đầu tư còn dàn trải: Theo quy định các dự án nhóm C đầu tư không quá 2 năm. Các dự án phát triển nuôi trồng thuỷ sản Chương trình 773 đều là dư án nhóm C. Phần vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư cho các dư án đến hết năm 2000 mới đạt 58,7% số vốn được duyệt phải đưa vào thực hiện tiếp năm 2001 Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản. dự án Trường Trung học kỹ thuật và nghiệp vụ thuỷ sản II là dư án nhóm C, khởi công từ năm 1997 nhưng đầu tư đến nay vẫn chưa xong. 8. Công tác đấu thầu còn nhiều tồn tại: - Các dự án của ngành chưa có kế hoạch đấu thầu đự án mà chỉ có kế hoạch đấu thầu riêng lẻ cho từng gói thầu. Việc phân chia gói thầu không phù hợp với tính chất công nghệ, kỹ thuật dẫn đến việc thực hiện dự án không đồng bộ. - Tồn tại phía các nhà thầu: + Một số nhà thầu không đủ năng lực tài chính để tham gia đấu thầu nhưng vẫn được ngân hàng xác nhận, bảo lãnh thự hiện hợp đồng. Trong quá trình thi công nhà thầu bị phong toả tài khoản gây ra rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện dự án (Công ty xây dựng Nghệ An thi công cảng cá Xuân Phổ). + Một số nhà thầu có nghiệp vụ lập hồ sơ dự thầu nhưng khả năng thi công không đúng hồ sơ dự thầu, không đáp ứng được những yêu cầu kỹ thuật thi công cần thiết nên cũng gây trở ngại cho đầu tư. Có công trình nhà thầu đấu thầu được trúng thầu lại bán lại cho nhà thầu phụ nên việc thi công chậm, không đảm bảo chất lượng (Dự án cảng cá đảoMê-Lạch Bạng). + Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư, có dự án do sức ép phải giải ngân trong năm, chủ đầu tư đã tạm ứng trước cho nhà thầu, nhà thầu nhận tiền sử dụng vào việc khác nên tiến độ thực hiện dự án bị chậm và kéo dài một năm vẫn chưa xong (dự án Trạm Cửa Lò) - Tồn tại giữa chủ đầu tư và cơ quan tư vấn: + Nhiều chủ đầu tư còn lúng túng trong việc lập hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu. Nhiều dự án bổ sung sửa đổi thiết kế và dự toán sau khi đấu thầu. + Việc giải phóng mặt bằng, bàn giao mặt bằng thi công cho các nhà thầu triển khai chậm cũng làm chậm tiến độ thực hiện các dự án đầu tư. + Cơ quan tư vấn còn yếu, thiếu, giải pháp công trình đưa ra tại một số dự án đầu tư chưa hợp lý dẫn đến suất đầu tư còn cao. - Tồn tại phía cơ quan quản lý: + Việc thụ lý các thủ tục để thẩm định, xét duyệt dự án và thủ tục phê duyệt các văn bản đấu thầu còn chậm dẫn đến chậm tiến độ thực hiện dự án. +Chậm có văn bản hướng dẫn thực hiện các khâu của quá trình đầu tư phát triển. 9. Đầu tư nước ngoài vẫn chỉ có ở lĩnh vực nuôi trồng, chế biến và hậu cần nghề cá và vẫn theo chiều hướng giảm sút và rất thấp. 10. Hiệu quả đầu tư thấp: Những tồn tại nêu trên đều ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Nhưng thể hiện rõ nhất về hiệu quả đầu tư thâp đó là đầu tư đóng mới và cải hoán tàu khai thác hải sản xa bờ. Đến nay số vốn vay đã ký hợp đồng tín dụng ở Quỹ hỗ trợ phát triển và ngân hàng đầu tư phát triển là1.283.409 triệu đồng (trong đó của Quỹ hỗ trợ phát triển 957.000 triệu đồng). Số giải ngân được 1.223.983 triệu đồng, bằng 95.37%. Số lãi vay chưa trả đã lên đến 105.152 triệu đồng, trong đó nợ quá hạn 51,480 triệu đồng và tỷ lệ trả nợ mới đạt bình quân 18,03% so với kế hoạch. Vì vậy, theo quy định của quỹ hỗ trợ phát triển, năm 2000 Quỹ chỉ cho các địa phương trả được 50% kế hoạch phải trả nợ được vay vốn tiếp và vốn tự có của các chủ đầu tư bắt buộc phải có đủ 15% mới được vay tiếp. Chỉ có 3 địa phương thoả mãn yêu cầu này là Quảng Ngãi, Trà Vinh, và Long An. Vốn vay khắc phục khắc phục hậu quả cơn bão số 5/1997 hiệu quả thấp, nhiều tàu hải sản khai thác xa bờ được đóng bằng nguồn vốn này, sau khi hoàn công phải năm bờ không ra khơi, điển hình là tại Cà Mau có lúc có tới 146 tàu nằm bờ. 11. Phân cấp quản lý chư rõ ràng. Với cơ chế điều hành kế hoạch đầu tư như hiện nay, các địa phương còn nặng về việc lập các dự án xin vốn từ Trung ương và còn tuỳ tiện trong việc phân bố vốn đầu tư cho các dư án khi được giao tổng số vốn Ngân sách theo chương trình. 12. Thiếu vốn đầu tư, nhất là vốn tín dụng đầu tư. Nhu cầu đầu tư rất lớn. Các dự án Chương trình 773 rất khó khăn triển khai vốn tín dụng, chỉ có hỗ trợ nhỏ từ vốn ngân sách nhà nước. Những năm từ 1996-1999 mỗi năm chỉ cân đối dược 40-50 tỷ đồng, riêng năm 2001 cân đối được 150 tỷ đồng vốn Ngân sách nhà nước. Số vốn này tuy ít nhưng có vai trò lớn trong việc làm vốn mồi huy động các nguồn vốn khác cho đàu tư phát triển. Nguồn vốn tín dụng thương mại triển khai còn hạn chế , số dư tín dụng đến hết năm 2000 là 2.676,5 tỷ đồng, trong đó 1.992,0 tỷ đầu tư cho khai thác hải sản, 980,4% cho nuôi trồng thuỷ sản và 504,1 tỷ đầu tư cho hậu cần dịch vụ. Nguồn vốn vay ưu đãi đầu tư phát triển của nhà nước cũng gặp khó khăn vì các dự án thuỷ sản không tiếp cận được điều kiện vay của Quỹ về đảm bảo tiền vay, quyền sử dụng đất để thế châp vay vốn và việc xử lý rủi ro cục bộ. Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM 1. Những cơ hội và thách thức trong những năm tới đối với phát triển sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam 1.1. Những cơ hội phát triển sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam Thứ nhất: đó là cơ hội để Việt Nam tiếp tục khai thác và phát huy lợi thế về tài nguyên thiên nhiên (các nguồn lợi thuỷ sản). Theo đánh giá tiềm năng nguồn taì nguyên thuỷ sản của Việt Nam vẫn còn khá phong phú cả trong lĩnh vực đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản. So với các nước khác, tài nguyên thuỷ sản Việt Nam được xem là ở mức tương đương, thậm chí có phần vượt trội hơn so với Thái Lan- nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới hiện nay. Thứ hai: đó là cơ hội để Việt Nam tận dụng và phát huy lợi thế về tiềm năng lao động, đặc biệt là lao động nông nghiệp, nông thôn không có kỹ năng nhưng với chi phí tiền công thấp. Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời cũng yếu tố quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, hầu như tuyệt đại bộ phận lao động trong nghề cá vốn là lao động giản đơn, chưa được đào tạo nghề phù hợp với yêu cầu phát triển mới, do vậy đây cũng chính là một thách thức trong quá trình thực hiện CNH, HĐH của chính ngành thuỷ sản Việt Nam. Thứ ba: đó là cơ hội để phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam. Trên thị trường thế giới, hàng thuỷ sản được xếp vào nhóm sản phẩm cơ bản. Khác với mặt hàng nông sản xuất khẩu khác, hàng thuỷ sản xuất khẩu thường trong tình trạng cung không đáp ứng được cầu ở quy mô thế giớí. Hơn nữa, với sự năng động trong xuất khẩu thuỷ sản thế giới của các nước đang phát triển, xu hướng mở rộng thị trường là một đặc điểm riêng có của thị trường này. Nhiều cơ hội thị trường mới mở ra cho các sản phẩm thuỷ sản chế biến sâu, thuỷ sản ăn liền và thuỷ sản tươi sống có giá trị cao. Có thể nói rằng, thuỷ sản là một trong những ngành hàng triển vọng thị trường nhất trong những mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam hiện nay. Thứ tư: đó là cơ hội tiếp cận công nghệ mới, phương thức quản lý tiên tiến để đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản. Là nước đi sau, Việt Nam đã và đang tận dụng được cơ hội đi tắt, đón đầu để rút ngắn thời kỳ CNH, HĐH và thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung và ngành thuỷ sản nói riêng. Việt Nam có khả năng đầu tư công nghệ tiên tiến, đặc bịêt trong công nghệ khai thác xa bờ, công nghệ sinh học phục vụ nuôi thuỷ sản, nhất là nuôi cá biển và nuôi giáp xác, công nghệ chế biến xuất khẩu…Cùng với cơ hội tiếp cận công nghệ mới, Việt Nam cũng rút ra được những bài học kinh nghiệm quản lý từ những nước thành công và thất bại trong chế biến và xuất khẩu hàng thuỷ sản, cũng như tiếp cận các phương thức quản lý kinh doanh hiện đại trên thế giới. 1.2.Những thách thức đối với phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam Mặc dù, những điều kiện thị trường thuận lợi cùng với xu hướng tự do hoá thương mại toàn cầu nói chung và đối với các sản phẩm nông nghiệp, thuỷ sản nói riêng đã tạo thuận lợi để thương mại hàng thuỷ sản thế giới ngày càng phát triển. Tuy nhiên, những thất bại tại các vòng đàm phán Seatle, Doha và nhất là tại hội nghị Cancun gần đây đã cho thấy những cản trở khó vượt qua để đạt tới mục tiêu tự do thương mại toàn cầu về các sản phẩm nông nghiệp, thuỷ sản. Do vậy, tuy đã đạt những thành tựu cơ bản trong chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, nhưng trong những năm tiếp theo, Việt Nam vẫn sẽ gặp phải những thách thức lớn, như: Thứ nhất, tính cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu thuỷ sản giữa các nước đang phát triển sẽ càng tăng lên dưới tác động của xu hướng tự do hoá thương mại và xu hướng tham gia thị trường thuỷ sản thế giới của các nước kém phát triển cũng tăng lên. Trong khi đó, năng lực nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản xuất khẩu bộc lộ những yếu kém nghiêm trọng. Mặc dù, đã đạt được những kết quả tăng trưởng sản lượng đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, nhưng thời gian qua sản xuất, xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam vẫn bộc lộ những tồn tại và yếu kém trong khai thác thuỷ sản xa bờ, trong nuôi thâm canh thuỷ sản. Đồng thời, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và hậu cần nghề cá còn lạc hậu và thiếu thốn, ngành thuỷ sản chưa rhực sự có nền tảng vững chắc để tiếp tục phát triển bền vững. Hiệu quả đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản thấp do phụ thuộc vào sự thay đổi của điều kiện tự nhiên. Trong ngành chế biến thuỷ sản xuất khẩu, phần lớn các xí nghiệp có thiết bị đơn giản, tỷ trọng cơ giới hoá, tự động hoá sản xuất còn thấp, giá thành sản phẩm chưa ổn định và chưa có sức cạnh tranh so với mặt hàng cùng loại của các nước. Trong điều kiện thị trường cạnh tranh, việc xuất khẩu các sản phẩm dưới dạng sơ chế, đông lạnh sẽ khó có hiệu quả và chắc chắn sẽ gây khó khăn đáng kể cho các cơ sở chế biến vừa và nhỏ. Theo đánh giá chung, ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản của Việt Nam còn manh mún, thiếu những công ty lớn và có quá nhiều công ty nhỏ dẫn đến việc bán hàng không theo tổ chức, chất lượng sản phẩm của Việt Nam vì thế chưa ổn định. Hơn nữa, thuỷ sản Việt Nam còn thiếu nhãn hàng có uy tín và thường bán với giá thấp hơn so với các nguồn hàng của Thái Lan và Inđônêxia. Thứ hai, dưới tác động của xu hướng tự do thương mại, các nước phát triển ( những nước nhập khẩu thuỷ sản chính trên thị trường thế giới) một mặt, thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, các hàng rào thương mại, nhưng mặt khác, các nước này cũng đưa ra các quy định chặt chẽ về an toàn thực phẩm, cũng như các biện pháp phòng vệ thương mại tạm thời. Các sản phẩm “sạch” sẽ có khả năng thâm nhập thị truờng thế giới dễ dàng hơn. Tuy nhiên, điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sức cạnh tranh của những hàng hoá nông sản, thuỷ sản xuất khẩu vốn được xem là lợi thế của các nước đang phát triển. Bởi vì, một mặt, nó làm tăng chi phí sản xuất, mặt khác, nhiều nước phát triển đưa ra những quy định nghiêm ngặt về tiêu chuẩn sản phẩm như một thứ rào cản đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước khác. Thứ ba, những khó khăn, thách thức mới nảy sinh từ các thị trường xuất khẩu thuỷ sản chính của Việt Nam. Thị trường châu Á được coi là thị trường xuất khẩu thuỷ sản trọng điểm của Việt Nam trong thời gian qua. Trên thị trường Nhật Bản, xu hướng giảm tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong thời gian gần đây cho thấy, thị trường Nhật Bản nhìn chung đã bão hoà và khó tăng nhanh doanh thu xuất khẩu. Trên thị trường các nước châu Á khác, việc duy trì thị phần của hàng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cũng sẽ rất khó khăn do phụ thuộc rất lớn vào cạnh tranh của các nước xuất khẩu khác trong vùng, đặc biệt là sự cạnh tranh từ phía Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia, Ấn Độ…Việc Trung quốc ra nhập WTO cũng tác động bất lợi đến xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam vào thị trường này. Trên thị trường các nước có thu nhập cao như Mỹ và EU, tỷ phần nhập khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam còn thấp. Trở ngại lớn nhất đối với xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường khu vực này là việc đảm bảo chất lượng và an toàn hàng thuỷ sản theo những điều kiện HACCP. Hiện nay ở Việt Nam mới có khoảng 60% doanh nghiệp chế biến đảm bảo các tiêu chuẩn HACCP và được phép xuất khẩu vào thị trường EU. Tại các thị trường có thu nhập vừa và thấp (ngoài châu Á) như Trung Đông, Bắc Phi và đặc biệt là thị trường truyền thống như Nga, Đông Âu, tỷ trọng xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam còn rất nhỏ và chưa đựơc quan tâm đúng mức trong những năm vừa qua. Thứ tư, Việt Nam đang chịu những bất lợi thế của các nước đi sau. Đó là những bất lợi về thiếu thông tin thị trường, năng lực quản lý, kinh nghiệm và kiến thức tiếp cận thị trường xuất khẩu, khả năng phát triển hệ thống kinh doanh tại các thị trường nước ngoài, phản ứng chính sách thường chậm và kém hiệu quả, thường gặp nhiều rủi ro trong các cuộc cạnh tranh khu vực và toàn cầu… Thứ năm, năng lực cạnh tranh và tính năng động của nền kinh tế Việt Nam còn yếu, cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý, cơ chế thị trường vận hành chưa thực sự thông suốt. Hệ thống tài chính tiền tệ- một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của hoạt động xuất nhập khẩu- chậm được đổi mới. Kết cấu hạ tầng còn thiếu và yếu, đặc biệt là đường xá, cảng biển và hệ thống mạng viễn thông. Trình độ công nghệ còn lạc hậu. Cải cách doanh nghiệp Nhà nước còn chậm. Thêm vào đó, tư duy kinh doanh, nghiệp vụ và phương thức kinh doanh, tiếp thị, tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam còn ở trình độ của thế giới, gây ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiếp cận, thâm nhập và mở rộng thị trường cho các sản phẩm xuất khấu có lợi thế ở Việt Nam. 2. Định hướng phát triển ngành thuỷ sản của Việt Nam đến 2010 Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 nêu rõ:”phát huy cao độ các nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực mà ta có lợi thế, đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu”. Cụ thể hoá hơn một bước, định hướng chiến lược xuất khẩu 10 năm tới là: “Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, có cơ chế bảo hiểm hàng xuất khẩu, đặt biệt là nông sản, đầu tư cho hoạt động hỗ trợ xuất khẩu.Phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá dịch vụ cao khả năng cạnh tranh, giảm mạnh xuất khẩu những sản phẩm thô sơ và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến, tăng nhanh tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Phát triển du lịch quốc tế xuất khẩu lao động và các dịch vụ ngoại tệ khác. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hoá sử dụng trong nước. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn, có thời hạn”. Về thị trường xuất khẩu, chiến lược yêu cầu “ chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới. Từng bước hiện đại hoá phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế mới của thương mại thế giới”. Các mục tiêu phát triển xuất khẩu của Việt Nam tới 2010 được đặt ra là: + Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, đặt biệt là xuất khẩu hàng hoá, đưa tỉ trọng xuất khẩu so với GDP lên 65,9 %; + Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tiếp tục gia tăng tỷ trọng của sản phẩm chế biến, chế tạo; chú trọng phát triển các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Đến năm 2010, tỷ trọng của nhóm nguyên liệu và nông lâm hải sản sẽ giảm xuống còn 19-25% so với trên 40% hiện nay; các mặt hàng chế biến, chế tạo sẽ tăng từ 30% lên khoảng 40-45%; các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, chủ yếu là hàng điện tử - tin học chiếm khoảng 12-14% kim ngạch xuất khẩu; + Mở rộng và đa dạng hoá thị trường, đặc biệt chú trọng các thị trưòng nhập khẩu lớn (Mỹ, Nhật, EU, ASEAN, NIC) và tìm kiếm các thị trường mới ở Mỹ latinh, Châu Phi. Để thực hiện các mục tiêu xuất khẩu, Đảng và nhà nước chủ trương tập trung phát triển những ngành có lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh nhằm nâng cao năng lực của hàng hoá xuất khẩu, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong đó phát triển nông nghiệp, nông thôn mở rộng thị trường tiêu thụ nông phẩm, tạo thêm nhiều việc làm, tăng thêm thu nhập cho các tầng lớp nhân dân ở khu vực này được xem là xuất phát điểm quan trọng của chiến lược. Đồng thời, để có thể phá triển kinh tế nhanh, Nhà nước chủ trương tăng cường đầu tư vào những ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao, tạo bước đi ban đầu vững chắc trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế tri thức. Việc xem xét chiến lược phát triển kinh tế tổng thể của Việt Nam thời kì 2001-2010 cho thấy, trong giai đoạn trung và dài hạn, ngành thuỷ sản là một trong những ngành đáp ứng được yêu cầu lựa chọn của các chiến lược phát triển. Rõ ràng, xét về điều kiện phát triển, ngành thuỷ sản đang có những tiềm năng và lợi thế lớn về lao động và lợi thế tài nguyên. Thuỷ sản cũng vẫn là một trong những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam trong những năm tới không chỉ dựa trên lợi thế so sánh, dựa trên xu hướng phát triển thương mại hàng thuỷ sản thế giới, mà điều quan trọng hơn thuỷ sản là một trong những ngành có điều kiện thuận lợi để thực hiện CNH, HĐH theo hướng xuất khẩu của nền kinh tế . Phù hợp với chiến lược chung của nền kinh té, ngành thuỷ sản nước ta đã xác định mục tiêu chiến lược phát triển sản xuất thuỷ sản đến năm 2010 là huy động tổng hợp mọi tiềm năng để có thể phát triển ngành thuỷ sản, nhằm đóng góp có hiệu quả vào nền kinh tế quốc dân và nâng cao các điều kiện kinh tế - xã hội của ngư dân. Trong đó, các mục tiêu cụ thể là: + Duy trì tỉ lệ đóng góp của ngành thuỷ sản trong GDP khoảng 2,85%; + Tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống của các cộng đồng dân cư sống dựa vào nghề cá. Đến năm 2005 số lao động trong nghề cá khoảng 3,9 triệu người và năm 2010 là 4,4 triệu người. Trong đó lao động nuôi trồng thuỷ sản và lao động chế biến, dịch vụ thuỷ sản sẽ tăng gấp 2 lần. Đa dạng hoá ngành nghề trong nghề cá sễ tạo điều kiện tốt nhất cho ngư dân tạo ra việc làm và tăng thêm thu nhập; + Tăng mức cung cấp sản phẩm thuỷ sản cho thị trường trong nước và tạo điều kiện thuận lợi để người dân có thể mua được các sản phẩm này, qua đó góp phần nâng caomức dinh dưỡng cho dân cư. Muc tiêu đảm bảo nhu cầu thuỷ sản cho nhân dân ở mức 25kg/người/năm vào năm 2010; + Đảm bảo toàn bộ các hoạt động của ngành thuỷ sản mang tính bền vững trên cơ sở xây dựng và áp dụng các chính sách, chiến lược bảo vệ môi trường và các phương pháp mới cho quản lý và khai thác nghề cá; + Tăng cường xuất khẩu các sản phẩm thuỷ sản và thu ngoại tệ. Gía trị xuất khẩu thuỷ sản sẽ đạt 3,5-4,5 tỉ USD vào năm 2010; + Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thuỷ sản và các ngành dịch vụ thuỷ sản để nâng cao hiệu quả kinh tế nhằm duy trì và phát huy những lợi thế so sánh của ngành thuỷ sản. 2.1. Dự báo một số chỉ tiêu phát triển thuỷ sản Việt Nam đến 2010 2.1.1 Dự báo về sản xuất và tiêu thụ thuỷ sản trong nước Dự báo lượng thuỷ sản Trên cơ sở phân tích thực trạng sản xuất thuỷ sản ở nước tahiện nay, cs thể nêu một số xu hướng phát triển sản lượng thuỷ sản đến năm 2010, như sau: Cơ cấu sản lượng thuỷ sản sẽ tiếp tục thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng sản lượng thuỷ sản nuôi trồng. Bởi vì, hiện nay còn khoảng 38% diện tích nuôi trồng thuỷ sản chưa được sử dụng và khả năng tăng năng suất nuôi trồng còn tiếp tục diễn ra. Dự báo đến năm 2010 sản lượng nuôi trồng sẽ vượt sản lượng khai thác đạt 51,25% sản lượng chung. Dự báo sản lượng thuỷ sản Việt Nam thời kỳ 2005-2010 (Đơn vị: 1000 tấn) Năm 2003 2005 2010 Tổng số 2.854,8 3.300 4.000 Cá 1.976,2 2.350 2.700 Tôm 340,5 460 610 Thuỷ sản khác 538,2 490 690 1. Sản lượng nuôi trồng 998,3 1.350 2.050 Cá 559,8 800 1.150 Tôm 237,7 350 500 2. Sản lượng khai thác 1856,5 1.950 1.950 Cá 1.416,4 1.550 1.550 Tôm 102,8 110 110 2.1. Khai thác biển 1.647,5 1.810 1.830 2.2. Khai thác nội địa 209,0 190 170 Tỷ trọng sản lượng thuỷ sản khai thác tiếp tục giảm. Từ 2005 đến 2010 sản lượng khai thác không tăng thêm chủ yếu do sản lượng đánh bắt gần bờ và khai thác nội địa giảm dần, trong khi đó khả năng tăng sản lượng thuỷ sản khai thác xa bờ không nhiều. Cơ cấu sản lượng theo sản phẩm chính cũng có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng của sản phẩm tôm, nhưng không nhiều, chiếm khoảng 15.0% vào năm 2010. Đồng thời, tỷ trọng sản lượng cá và các loại thuỷ sản khác sẽ giảm chút ít. Dự báo về tiêu thụ thuỷ sản trong nước Thu nhập bình quân đầu người và sản lượng thuỷ sản tăng trong thời kỳ 2005-2010 tạo điều kiện cho mức tiêu thụ thuỷ sản bình quân đầu người tăng lên. Tuy vậy, mức tăng sẽ chậm hơn thời kỳ trước do nhu cầu đã được tăng cường đáp ứng trong các năm trước và tập quán tiêu dùng chưa thể có sự biến động nhanh. Dự báo: mức tiêu thụ thuỷ sản quy ra sản phẩm tươi sống bình quân đầu người đạt 26 g trong năm 2010; mức tiêu thụ thuỷ sản quy ra sản phẩm tươi sống của dân cư cả nước là 2,18 triệu tấn trong năm 2010. 2.1.2. Dự báo triển vọng phát triển công nghiệp chế biến thuỷ sản ở Việt Nam Hiện nay, số nhà máy chế biến thuỷ sản cần xây dựng thêm trong “chương trình xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010” được thực hiện xong trong năm 2004. Phần lớn các cơ sở chế bíên công nghiệp đã đạt tiêu chuẩn ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm và ngành thuỷ sản đang phấn đấu đến năm 2010 toàn bộ các cơ sở chế biến công nghiệp đạt được tiêu chuẩn này. Dự báo, đến năm 2010 do sự dư thừa công suất chế biến của các cơ sở công nghiệp chế biến thuỷ sản cả nứơc, nên số nhà máy chế biến thuỷ sản xây dựng thêm sẽ rất hạn chế. Các nhà máy hiện có sẽ nâng cấp và mở rộng công suất thay thế một bộ phận lớn các cơ sở chế biến nhỏ không phải là cơ sở công nghiệp có thiết bị và công nghệ lạc hậu. Đến năm 2010 công suất chế biến của các cơ sỏ công nghiệp chế biến sẽ tăng thêm khoảng 45% so với hiện nay và đạt công suất cấp đông 2.600 tấn/ngày. 2.2.3. Dự báo về xuất- nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam Trong thời kỳ 2005-2010 tăng trưởng xuất khẩu sẽ chậm lại so với 10 nămm trước. Tốc độ tăng giá trị kim ngạch sẽ nhanh hơn tốc độ tăng khối lượng xuất khẩu do tỷ trọng hàng giá trị gia tăng trong ngành xuất khẩu, sẽ tăng 48% vào năm 2010, do giá cả thuỷ sản thế giới sẽ tăng lên và các sản phẩm thuỷ sản nuôi trồng và đánh bắt trong nước phù hợp hơn với nhu cầu thế giới. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu tôm vẫn là lớn nhất, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cá lớn thứ 2 và có xu hướng nhích dần lên. Các nước và khu vực xuất khẩu chính vẫn là Nhật, Mỹ, Châu âu, các nước NICS và Trung Quốc. Dự báo một số chỉ tiêu xuất khẩu thuỷ sản như sau: + Dự báo tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt tốc độ tăng trưởng bình quân, trong đó giai đoạn 2005-2010 là 13-20% /năm. + Trong cơ câú mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm tỷ trọng xuất khẩu hàng thô (ướp đông, đông lạnh, hàng khô…) xuống còn 46%, tăng lượng hàng có chất lượng cao, có giá trị gia tăng lên 22%; tăng sản lượng đồ hộp lên 8-11% so với của năm 2000 và hàng tươi sống cao cấp lên 24%. Sự thay đổi cơ cấu như trên là tương đối phù hợp với cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản của thế giới. Dự báo xuất khẩu thuỷ sản cụ thể cho từng chủng loại sản phẩm như sau: Giá trị xuất khẩu mặt hàng tôm đông lạnh là 1-1,2 tỷ USD vào năm 2010. Nâng cao tỷ lệ tôm nguyên đầu, tôm vỏ, tôm cỡ lớn trong cơ cấu hàng tôm đông lạnh hiện nay từ 10-15% lên 50%; Dự báo xuất khẩu các sản phẩm tươi sống đạt khoảng 0,8-1 tỷ USD vào năm 2010. Các sản phẩm chủ yếu là các loài có giá trị cao như cá song, cá cam, cá hồng, cá vược, cá bông tương, cá sấu, cá cảnh, tôm hùm, tôm càng xanh, ba ba, cá ngừ… Đối với sản phẩm thuỷ sản có giá trị gia tăng, xuất khẩu đạt 200-300 triệu USD, dự báo 500-700 triệu USD vào năm 2010. Cùng với việc hiện đại hoá công nghệ chế biến, hình thành hệ thống xí nghiệp có công nghệ kỹ thuật cao, các sản phẩm này chủ yếu bao gồm: các dạng sản phẩm làm sẵn như hả cảo, bắp cải quấn tôm, cua, nem cua, nem tôm, chạo tôm, bánh nhân tôm cua cá, tôm lăn bột, cá phi lê lăn bột, cá thỏi lăn bột…; các loại thuỷ sản ăn liền như thuỷ sản tẩm gia vị, tôm xiên, tôm luộc đóng gói nhỏ… Dự báo xuất khẩu đồ hộp đạt giá trị từ 300-500 triệu USD vào năm 2010. + Dự báo về thị trường xuất khẩu: quan điểm dự báo là giữ vững các thị trường truyền thống, tăng nhanh tỷ trọng thị trường các châu Âu, Bắc Mỹ và các thị trường thu nhập cao khác, tạo thế cân bằng thị trường truyền thống, coi trọng xuất khẩu tại chỗ và thị trường trong nước, từng bước vươn ra làm chủ một số thị trường thế giới về một số mặt hàng chủ đạo. Dự báo xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam (Đơn vị: Triệu USD) Năm 2003 2005 2010 Nhật Bản 650,9 880 1.100 Mỹ 777,6 720 1.150 Trung Quốc 67,7 70 360 Hàn Quốc+ Hồng Kông+ Đài Loan 340,4 350 400 Châu Âu 116,7 190 480 ASEAN 74,9 90 180 Các nước khác 171,4 200 330 Tổng số 2.199,6 2.500 4.000 Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai (sau Nhật Bản) do ảnh hưởng của các vụ kiện tại Mỹ, nhưng đến năm 2010 Mỹ trở lại thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Xuất khẩu vào thị trường châu Âu cũng sẽ tăng trưởng nhanh do sự chấp nhận tương đối cao của thị trường này đối với chất lượng, an toàn vệ sinh thuỷ sản của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của thị trường này tăng lên. Xuất khẩu vào Trung Quốc tăng trưởng mạnh vào năm 2007 đến năm 2010 do dịch SARS tại châu Á được khống chế tốt và Việt Nam sẽ có khả năng thích ứng nhanh được với cơ chế nhập khẩu thuỷ sản của Trung Quốc. Xuất khẩu vào ASEAN phát triển khá nhanh do sự tiến triển của quá trình hội nhập khu vực. Xuất khẩu vào Hàn Quốc, Hồng Kông và Đài Loan tăng chậm do các thị trường này nhập nhiều mực, bạch tuộc mà việc tăng sản xuất các mặt hàng này ở Việt Nam không có nhiều triển vọng. Dự báo về nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam Nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong giai đoạn 2008-2010 sẽ tiếp tục tăng do ảnh hưởng của các yếu tố, như: Một là, nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong nước sẽ ngày càng tăng cả về số lượng và chủng loại sản phẩm Hai là, nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản của các cơ sở chế biến cũng có xu hướng tăng lên. Ba là, sự gia tăng của nhu cầu thuỷ sản cho tiêu dùng và chế biến, cùng với xu thế hội nhập quốc tế trong những năm sắp tới, nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam sẽ có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn giai đoạn trước. Dự báo, nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam sẽ tăng với tốc độ bình quân 8-10% mỗi năm trong giai đoạn 2008-2010, tăng 15% vào năm 2020. Nguồn thuỷ sản nhập khẩu chủ yếu từ các nước châu Á, trong đó nhập khẩu từ khu vực ASEAN sẽ có mức tăng cao nhất. Dự báo nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam đến năm 2010 Đơn vị: Triệu USD Năm 2003 2005 2010 Ấn Độ 27 31 46 Trung Quốc 19 22 34 Hồng Kông 9 11 16 Nhật Bản 11 13 18 Mỹ 5 6 9 ASEAN 18 26 45 Đài Loan 6 7 10 Các nước khác 8 9 12 Tổng số 103 125 190 Tầm nhìn 2020 Quá trình hội nhập đang đặt ra cho ngành thuỷ sản nhiều khó khăn như: tính cạnh tranh ngày càng gay gắt; các hàng rào thương mại phi thuế quan như các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng khắt khe; các vụ kiện chống phá giá xảy ra ngày càng thường xuyên…trong khi đó, doanh nghiệp Việt Nam lại chưa chủ động nắm bắt luật lệ, quy định về thương mại quốc tế nên thường lúng túng và bị thua thiệt khi xảy ra tranh chấp. Bộ Thuỷ sản đang xây dựng “Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010 và tầm nhìn 2020”. Theo chương trình này, một số giải pháp cơ bản sẽ được áp dụng. Đó là: chủ động trong sản xuất nhân tạo các loại giống sạch bệnh, chất lượng cao; đẩy mạnh đầu tư sản xuất thức ăn công nghiệp, thuốc, hoá chất, chế biến sinh học trong nuôi trồng thuỷ sản. Bên cạnh đó, ngành cũng sẽ đẩy mạnh tổ chức sản xuất theo hướng liên kết sản xuất sạch, đầu tư công nghệ khai thác, tìm kiếm và nhập khẩu các nguồn nguyên liệu đa dạng với cơ cấu thích hợp, tăng cường các hình thức đào tạo trong và ngoài nước cho nguồn nhân lực. Một số giải pháp đầu tư phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam Trong những năm qua, sự đóng góp của ngành thuỷ sản vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam ngày càng lớn và khẳng định được thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn cuả quốc gia. Nhưng chúng ta cũng thấy rõ được những khó khăn trước mắt của ngành. Từ những quan điểm và định hướng được xây dựng và quán triệt để phát triển ngành thuỷ sản, chúng ta phải có những giải pháp cụ thể và thiết thực để đầu tư giải quyết những khâu yếu kém còn tồn tại, mở rộng phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ, đưa ngành thuỷ sản Việt Nam thành một trong những thị trường xuất khẩu lớn của thế giới, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Sau đây là một số giải pháp cơ bản mang tính tổng thể để đầu tư phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam. 1. Giải pháp đầu tư thúc đẩy công nghiệp hoá- hiện đại hoá ngành thuỷ sản. Để có thể phát triển ngành thuỷ sản theo hướng tăng trưởng bền vững và có hiệu quả cao, trong thời gian tới và đến năm 2010 ngành cần hướng vào đầu tư chuyển đổi cơ cấu kinh tế nghề cá trong mọi linh vực: khai thác, nuôi trồng, dịch vụ theo định hướng chú trọng tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, để tiến đến một nghề cá hiện đại, có sức cạnh tranh và hiệu quả cao trong kinh tế thị trường, kết hợp giữa sự phát triển phù hợp với đặc thù sinh thái và kinh tế xã hội của các vùng, các địa phương trên cơ sở lợi ích toàn cục trong các chương trình thống nhât. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thuỷ sản theo phương hướng trên cần thực hiện các giải pháp đầu tư sau: Đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả đánh bắt hải sản xa bờ, chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp và bảo vệ nguồn lợi hải sản vùng gần bờ. Khuyến khích các thành phần kinh tế có kinh nghiệm sản xuất, có năng lực tài chính, có khả năng quản lý, đóng tàu công suất lớn, hiện đại có đủ điều kiện hậu cần dịch vụ, thông tin liên lạc, neo đậu trú bão, dự báo ngư trường để bám biển dài ngày và khai thác các đối tượng có giá trị kinh tế cao để xuất khẩu, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cảng, bến cá, chợ cá đủ sức làm công tác hậu cần dịch vụ đánh bắt hải sản. Hoàn chỉnh ngành công nghiệp hỗ trợ như cơ khí điện lạnh, đóng sửa tàu thuyền, sản xuất vật liệu, ngư lưới cụ, bao bì. Phát triển mạnh mẽ ngành nuôi trồng thuỷ sản: Hình thành hợp lý các vùng nuôi công nghiệp hiện đại kết hợp với mở rộng nuôi sinh thái, đầu tư đồng bộ hệ thống kênh, cống, đê, bao cấp thoát nước, điện, giao thông vận tải. Thực hiện nuôi các loài có giá trị kinh tế cao như tôm sú, cua biển…Phát triển nghề nuôi biển để nuôi các đối tượng: cá giò, bào ngư, trai ngọc….và các đặc sản khác. Hoàn chỉnh đầu tư hệ thống giống thuỷ sản quốc gia trong cả nước, gắn sản xuất giống với các yêu cầu ưu tiên phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là nuôi phục vụ xuất khẩu. Đầu tư quy hoạch lại và phát triển các trại giống nuôi trồng thuỷ sản do dân đầu tư. Phát triển ngành công nghiệp sản xuất thức ăn cho nuôi trồng thuỷ sản, cơ sở sản xuất thuốc phục vụ sản xuất giống, phòng trừ dịch bệnh. Xây dựng các cơ sở chế biến thuỷ sản với công nghệ hiện đại, sản phẩm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu chất lượng vệ sinh và an toàn thực phẩm theo quy định quốc tế, xuất khẩu các mặt hàng có giá trị đến các thị trường trên thế giới chú trọng đến các thị trường Nhật, Mỹ, EU, Trung Quốc. Từng bước hiện đại hoá gắn với sắp xếp lại các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ, trang bị các phương tiện hiện đại để nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ cho các thành phần kinh tế phát triển ngành, nhập công nghệ và nghiên cứu phát triển công nghệ sản xuất giống để chuyển giao cho dân sản xuất đại trà các loại giống có giá trị kinh tế cao, sản lượng hàng hoá lớn. Hình thành hệ thống đào tạo lao động cho ngành Phát triển nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhiều trang trại thuỷ sản theo hướng hiện đại, có nhiều nhà quản lý giỏi, nắm bắt được thị trường tạo ra nhiều kim ngạch xuất khẩu và lợi nhuận. Giải pháp để duy trì và phát triển ngày càng nhiều sản phẩm từ thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao trong các thị trường trong nước và quốc tế, chống lại sự giảm sút của nguồn lợi biển, tăng khả năng phục hồi tự nhiên cuả các nguồn lợi biển nhưng vẫn duy trì được tốc độ phát triển cao 2.1. Trong khai thác hải sản Phương hướng chủ yếu là phân định rõ ràng các ngư truờng, khu vực và mùa vụ khai thác. Quy hoạch quy mô khai thác cho từng địa phương, quản lý chặt chẽ các ngư trường, nơi sinh sống, môi trường và các giống loài thuỷ hải sản. Để làm được điều đó cần đầu tư điều tra khảo sát xây dựng được các hồ sơ về các bãi cá và các vùng cư trú, sinh trưởng, nguồn lợi và mùa vụ khai thác thích hợp ở từng vùng biển, từng thuỷ vực để làm căn cứ ra quyết định. Bên cạnh đó đi đôi với cơ cấu lại lực lượng khai thác ven bờ một cách hợp lý, cân phải chuyền dần sang canh tác trên vùng biển ven bờ: vừa nuôi, vừa khai thác, nuôi để khai thác. Khuyến khích và hỗ trợ các cộng đồng ngư dân nuôi biển bằng mọi hình thức, giao cho các cộng đồng nhất định quyền khai thác và nghĩa vụ quản lý, bảo vệ từng vùng ven bờ nhất định. Đối với nghề cá xa bờ cần phải phát triển một cách hợp lý và thận trọng trên cơ sở lấy hiêụ quả kinh tế làm thước đo. Muốn vậy phải: Tăng cường nghiên cứu nguồn lợi để có thể đi đến quy định cụ thể, hợp lý việc phân bổ và khai thác các nguồn lợi xa bờ thuộc quyền tài phán quốc gia cho các địa phương trên cơ sở quy định hạn mức cường lực khai thác cho một địa phương. Tăng cường hỗ trợ đầu tư của Nhà nước cho các khu vực nghề cá thương mại tham gia vào phát triển nghề cá xa bờ với sự ưu đãi trong vốn vay với các điều kiện thương mại và tạo môi trường thuận lợi về đầu tư. Phát triển các cơ sở hạ tầng, các hệ thống buôn bán và tiếp thị hợp lý, tập trung. Đầu tư xây dựng hệ thống cảng cá phục vụ khai thác xa bờ tập trung quy mô lớn, tránh đầu tư lẻ tẻ. 2.2. Trong nuôi trồng thuỷ sản Với phương hướng lấy phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản, trong đó đặc biệt là nuôi biển, nước lợ phục vụ xuất khẩu làm định hướng chiến lược cơ bản đến năm 2010 chúng ta cần có giải pháp đầu tư sau: Đẩy nhanh quá trình quy hoạch, phân lập và thiết kế các khu nuôi tôm tập trung và các loài cá biển. Nghiên cứu, nhập nhanh công nghệ sản xuất giống, thức ăn và công nghệ nuôi biển. Đẩy nhanh tốc độ cải tiến, nâng cao công nghệ nuôi tôm xuất khẩu, đẩy nhanh các tiến độ xây dựng các cơ sở hạ tầng và dịch vụ cho nghề nuôi tôm, cá biển. Tiếp tục và nâng cao các công nghệ, hệ thống nuôi thuỷ sản kết hợp với canh tác nông nghiệp và nuôi thuỷ sản trong khu vực tập trung để tạo khối lượng hàng hoá lớn có thể tổ chức chế biến và thương mại thuận lợi. Thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp, tư nhân tham gia phát triển nuôi thuỷ sản, đặc biệt là nuôi công nghiệp tăng cường việc phát triển cơ sở hạ tầng cho nuôi trồng thuỷ sản. Xây dựng hệ thống thể chể và thiết chế nhằm hỗ trợ mạnh mẽ cho nuôi thuỷ sản phát triển Củng cố và phát triển mạng lưới điện, trạm nghiên cứu công nghệ và kỹ thuật một cách mạnh mẽ hơn. 2.3. Trong chế biến và thương mại thuỷ sản Mở rộng mặt hàng và thị trường nhằm đa dạng hoá các mặt hàng chế biến cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, kích thích lại tính đa dạng của sản xuất nguyên liệu và tận dụng sản phẩm của khai thác lấy chế biến làm cơ sở cho việc nâng cao giá trị các sản phẩm thuỷ sản. Do đó phải có các giải pháp đầu tư sau: Tăng cường năng lực nghiên cứu công nghệ, tiếp thu và chuyền giao công nghệ chế biến tiên tiến. Huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để nâng cấp các cơ sở chế biến và đổi mới trang thiết bị, công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm của quốc tế và nâng cao chất lượng sản phẩm. Cải tổ lại mạng lưới bán buôn, bán lẻ thuỷ sản trong thị trường nôi địa. Duy trì và giữ vững thị trường truyền thống đồng thời mở rộng quan hệ để tạo thị trường mới, đặc biệt là các thị trường lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật. Phát triển một số trung tâm chế biến công nghệ cao để tái chế biến các hành sơ chế trong mạng lưới các xí nghiệp chế biến quy mô nhỏ nằm rải rác ở các vùng nguyên liệu. Giải pháp đầu tư về vốn cho phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam. Vốn đầu tư đến nay vẫn là vấn đề quan trọng của bất cứ một ngành kinh tế nào, đối với ngành thuỷ sản vốn đầu tư đóng vai trò hết sức quan trọng, trong phần giải pháp về vốn chúng ta đề cập đến hai vấn đề là giải pháp để thu hút vốn và giải pháp từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đối với việc thu hút vốn trước tiên phải tiến hành xây dựng các chương trình đối với lĩnh vực cụ thể. Sở dĩ phải tiến hành xây dựng các chương trình vì quá trình khai thác, nuôi trồng thuỷ sản là quá trình lâu dài đòi hỏi vốn lớn, trình độ công nghệ vừa phù hợp với điều kiện nước ta, vừa không quá lạc hậu so với mức độ phát triển thuỷ sản thế giới, kèm theo đó là hệ thống cơ sở hạ tầng và đội ngũ công nhân lành nghề…Hơn nữa do tính thời vụ, các chương trình phải được xây dựng liên tiếp để đảm bảo tính kế thừa phát huy và tận dụng công suất của thiết bị. Cũng như bất cứ ngành nghề nào khác khi đã lên kế hoạch, đảm bảo đủ độ tin cậy với những minh chứng hợp lý thì sẽ thu hút các nguồn vốn ưu đãi đầu tư. Bên cạnh đó, tuỳ thuộc vào các chương trình, địa phương thực hịên chương trình mà tiến hành biện pháp khuyến khích đầu tư. Đối với nguồn vốn trong nước: Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu thuỷ sản để thúc đẩy và thu hút nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này. Nhà nước có chính sách ưu tiên, ưu đãi về vốn cho khu vực còn gặp nhiều khó khăn ở vùng ven biển, hải đảo, vùng giáp biên, khai thác vùng khơi, vùng nghèo như các tỉnh Bắc trung bộ, đầu tư mạnh vào các tỉnh trọng điểm nghề cá như đồng bằng sông Cửu Long, Nam Trung Bộ. Xây dựng các chính sách liên quan đến việc bảo lãnh tín dụng cho nuôi trồng thuỷ sản, lấy tài sản hình thành làm thế chấp và tín chấp cho vay lần đầu tạo vốn lưu động. Cần ưu tiên cho các dự án đầu tư tạo lập hạ tầng hoàn chỉnh và xây dựng khu nuôi công nghiệp để cho thuê ao nuôi. Cần khẩn trương áp dụng chính sách ưu đãi nhập công nghệ sản xuất giống một số loài thuỷ sản quý hiếm, khó cho sinh sản trong nuôi. Bên cạnh đó có chính sách ưu đãi cho việc đào tạo cán bộ có trình độ công nghệ cao, tinh nhuệ trong xây dựng và thẩm định các dự án đầu tư phát triển. Cần đầu tư phát triển các trung tâm phân tích, phổ biến thông tin và thị trường công nghệ, đẩy mạnh công tác khuyến nông hơn nữa. Cần phải chấm dứt ngay tình trạng của chính sách “mưa cho khắp” các vùng của các địa phương trong đầu tư như trong đầu tư vào lĩnh vực thuỷ sản hiện nay. Để từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đây là vấn đề mang tính thời sự, ngành thuỷ sản Việt Nam cũng có vấn đề nan giải trong việc sử dụng vốn hợp lý và có hiệu quả. Việc đầu tư ồ ạt và thiếu thận trọng vào khai thác xa bờ trong thời gian qua là một bài học kinh nghiệm trong việc sử dụng vốn hợp lý. Để thu hút vốn chúng ta cần tiến hành đầu tư theo chương trình cụ thể. Tuy nhiên, do sự phức tạp của sản phẩm thuỷ sản mà mỗi chương trình lại liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau, cần tiến hành ở những thời điểm khác nhau. Vì thế cần phân bố các chương trình lớn thành các chương trình nhỏ, lẻ hay các tổ hợp chương trình một cách hợp lý, dựa trên tính chất và đặc điểm của mỗi chương trình. Do việc khai thác nguồn lợi biển trong một thời gian dài trước đây còn nhiều bất cập, chưa có quy định cụ thể mà hiện nay dẫn đến sự khan hiếm dần buộc thuỷ sản Việt Nam phải mở ra hướng đầu tư mới và chuyển đổi cơ cấu đầu tư, đầu tư khai thác xa bờ và đầu tư mạnh vào nuôi trồng thuỷ sản, để thực hiện được định hướng này, nguồn vốn đầu tư phải được tập trung vào các cơ sở đóng tàu trọng tải lớn, có thể khai thác dài ngày trên biển với các trang thiết bị hiện đại đảm bảo chất lượng sản phẩm. Trong nuôi trồng thuỷ sản, do đặc trưng của lĩnh vực này là có thể giao cho từng cá nhân, hộ gia đình nuôi trồng hay tiến hành nuôi trồng tại các nông trường với quy mô lớn nên nguồn vốn thu hút rất phong phú, vấn đề là để đạt được hiệu quả cao cho các vụ mùa cần lựa chọn phương thức canh tác, nuôi trồng, hướng dẫn cụ thể phương thức chăn nuôi và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào nuôi trồng thuỷ sản. 4. Giải pháp đầu tư mở rộng thị trường quốc tế và nâng cấp thị trường trong nước Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đến 2010 cho đến nay còn tuỳ thuộc vào từng phương án. Trong đó, năm 2001 năm đầu của thời kỳ phấn đấu đạt 1,6 tỷ USD, đa dạng hoá các sản phẩm thuỷ sản đặc biệt cho xuất khẩu theo hướng nâng cao hàm lượng công nghệ và có sức hút với thị trường. Tiến hành đầu tư mở rộng thị trường bằng cách thăm dò nhu cầu tiêu thụ, các đối thủ cạnh tranh, ưu nhược điểm của các đối thủ cạnh tranh từ đó xác định được thế mạnh của ngành thuỷ sản Việt Nam sau đó tiến hành đấu tư sản xuất, chào hàng, thăm dò phản ứng và nhận xét của khách hàng. Hiện nay, Nhật bản là thị trường lớn, dự kiến sản phẩm xuất khẩu vào thị trường này sẽ là 34%, Mỹ 25%, EU 8%, Hồng Kông 18% và thị trường khác là 15%...Tìm kiếm lợi thê cạnh tranh trên từng thị trường cho từng chủng loại mặt hàng, lợi dụng đồng bộ các yếu tố địa lý, thương mại ngoại giao truyền thống, tuy nhiên cần phải chọn yếu tố chất lượng, giá cả là chủ yếu. Nên sắp xếp lại để phân lập các doanh nghiệp có đủ khả năng tham gia vào thị trường thuỷ sản. Đối với thị trường trong nước cần phải được nâng cấp bằng cách đầu tư hình thành và tổ chức một số chợ tôm, chợ cá theo phương thức đấu giá nhằm gắn kết giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến, tăng cường chất lượng nguyên liệu, giảm thất thoát sau thu hoạch, nâng cao tỷ trọng sản phẩm khai thác nuôi trồng và đưa vào chế biến xuất khẩu. Đồng thời hạn chế tình trạng ép giá và đưa tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản. Nâng cao uy tín về chất lượng sản phẩm cũng là một biện pháp để duy trì và mở rộng thị trường, ngành Thuỷ sản Việt Nam cần đầu tư vào vệ sinh an toàn thực phẩm đặc biệt là các sản phẩm đông lạnh và đóng hộp, tiến tới chúng ta phải đầu tư triển khai việc áp dụng an toàn vệ sinh trong các khâu sản xuất nguyên liệu, cảng cá, chợ cá. Đa dạng hoá các sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực của các nhà máy chế biến, giúp cho việc cung cấp sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu được thực hiện một cách liên tục, phong phú và chất lượng cao, quyết định vị trí của ngành Thuỷ sản Việt Nam trên thị trường quốc tế. 5. Giải pháp đầu tư phát triển khoa học công nghệ Khoa học công nghệ là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và toàn diện ngành thuỷ sản, đầu tư phát triển công nghệ sẽ tạo những thay đổi cơ bản mang tính quyết định cho sự phát triển của ngành. Chúng ta cần đầu tư triển khai các dự án nâng cấp viện nghiên cứu, các trường đào tạo của ngành có trang thiết bị hiện đại, có năng lực nghiên cứu giải quyết các vấn đề kỹ thuật, công nghệ, quản lý nguồn lợi, quản lý môi trường, an toàn vệ sinh. Đẩy nhanh việc nghiên cứu và phổ biến công nghệ sản xuất giống thuỷ sản, các tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực đánh bắt, nuôi trồng, chế biến, cơ khí và dịch vụ…Đẩy mạnh việc nghiên cứu và nhập một số công nghệ tiên tiến của nước ngoài, nhất là công nghệ sản xuất giống các loài thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao…thực hiện mới liên kết cơ sở nghiên cứu với cơ sở sản xuất kinh doanh trong việc ứng dụng khoa học công nghệ. Chú trọng phát triển công nghệ sản xuất giống thuỷ sản có giá trị xuất khẩu và phục vụ sản sinh, trong đó tập trung hoàn thiện quy trình nuôi thành thục tôm sú bố, mẹ trong điều kiện nhân tạo, tái tạo nguồn tôm bố mẹ ở vùng nước tự nhiên và công nghệ sản xuất giống các loài đặc sản có thị trường, áp dụng công nghệ tạo giống tôm sú chất lượng cao. 6. Giải pháp đầu tư đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thu hút vốn đầu tư mở rộng thị trường, tranh thủ được công nghệ mới và đào tạo cán bộ Trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay, hợp tác quốc tế thúc đẩy quá trình phát triển của bất cứ ngành nghề nào. Ngành thuỷ sản Việt nam cũng đứng trước nhu cầu hội nhập hoá, hợp tác hoá quốc tế đóng vai trò quan trọng đưa ngành thuỷ sản Việt Nam lên ngang tầm với ngành thuỷ sản thế giới. Với một loại mục tiêu là thu hút vốn đầu tư, mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ mới và đào tạo cán bộ chúng ta cần: 1. Chuẩn bị tốt các chương trình, dự án, tổ chức lực lượng để tranh thủ tối đa các cơ hội hợp tác với nước ngoài. Xây dựng quy chế trách nhiệm và phân cấp cụ thể để các địa phương cơ sở chủ động tìm kiếm các nguồn và phương thức hợp tác, tài trợ theo định hướng chung của ngành, tạo ra nguồn nhân lực rất quan trọng và công nghệ cho sự phát triển của ngành. Để tạo khả năng cạnh tranh quốc tế cao cần phải có những hành lang pháp lý hấp dẫn hơn đối với đầu tư vào các lĩnh vực thuộc ngành thuỷ sản như các ưu đãi và thuế sử dụng đất cho đầu tư vào nuôi trồng đặc biệt là vùng đất cát ven biển. Nên cấp tư cách tiên phong với nhiều ưu đãi cho các xí nghiệp đi tiên phong trong việc phát triển nuôi biển, nuôi tôm công nghiệp và đầu tư vào các ngành yểm trợ cho nuôi công nghiệp. Xúc tiến xuất khẩu lao động nghề cá theo các hiệp định chính thức với nước ngoài. KẾT LUẬN Thuỷ sản là một ngành kinh tế- kỹ thuật đặc thù gồm các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ và thương mại; là một trong những ngành kinh tế biển quan trọng. Trong nhưng năm qua, do năm vững đặc điểm cơ bản của tự nhiên xã hội trong tổ chức quản lý, ngành thuỷ sản đã đạt tốc độ tăng trưởng cao. Nghị quyết Hội Nghị TW Đảng Lần thư 5 khoá VII đã xác định Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế cuae đất nước. Nhưng hiện nay, ngành Thuỷ sản đang đứng trước nhưng thử thách lớn : Nguồn lợi hải sản ven bờ cạn kiệt, nguồn lợi xa bờ chưa nắm chắc, do phát triển ồ ạt diện tích nuôi trồng thuỷ sản ở vùng bãi triều cửa sông ven biển đã thu hẹp diện tích rừng nghập mặn làm mất cân bằng sinh thái, các cơ sở chế biến thuỷ sản tuy nhiều nhưng trình độ công nghệ còn lạc hậu, sản phẩm kém sức cạnh tranh trên thị trường. Cơ sở hạ tầng yếu kém chưa đồng bộ. Tuy nhiên ngành Thuỷ sản Việt Nam cũng đã từng bước đã khẳng định được vị trí quan trọng của mình đối với nền kinh tế trong nước trong khu vực và trên thế Sgiới. Với nguồn lợi tự nhiên dồi dào, phong phú chúng ta có đủ điều kiện để xây dựng một ngành thuỷ sản phát triển, trở thành một trung tâm của khu vực. Để đạt được điều này chúng ta cần nhận thức rõ được hạn chế và yếu kém trong từng lĩnh vực cụ thể từ đó có biện phát giải quyết thoả đáng và triệt để. Cũng như bất kỳ ngành kinh tế nào, đầu tư phát triển đóng vai trò quan trọng trong quá trình đi lên của ngành. Giải pháp nâng cao hiệu quả đâù tư cúng chính là giải pháp phảp triển ngành. Trong giới hạn về trình độ hiểu biết và thời gian, chắc chắn đề án còn có nhiều thiếu sót. Em xin được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn bề đẻ chuyên đề được hoàn thiện hơn . TÀI LIỆU THAM KHẢO. Giáo trình kinh tế đầu tư _ NXB giáo dục 2006 Chiến lược huy động vốn cho các nguồn lực trong sự nghiệp CNH-HĐH- Trần kiên NXB Hà Nội. Báo cáo tình hình đầu tư phát triển của Việt Nam 10 năm qua. Báo cáo tình hình đầu tư phát triển của ngành thuỷ sản 10 năm qua.S Qui hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản đến 2010. Qui hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế thuỷ sản- Pts Hà Xuân Thông. Ảnh hưởng của quá trình đổi mới lên sự phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam. Có một Việt Nam như thế. Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 7,8,12-2007. Tạp chí Thuỷ sản số 1,3,6- 2007 Báo Thuỷ sản số 5,6 -2006 Một số trang Web

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24986.doc