Đề án Thuế Giá trị gia tăng và vấn đề kế toán thuế GTGT đầu vào trong các doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu trừ thuế ở Việt Nam hiện nay

Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới , chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian qua chúng ta đã và đang giành được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong đó thuế GTGT đóng góp một phần rất quan trọng.Chúng ta có thể khẳng định rằng sự ban hành Luật thuế GTGT thay thế cho Luật thuế doanh thu ở Việt Nam là một tất yếu khách quan phù hợp sự phát triển của nền kinh tế và trình độ xã hội ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được luật thuế GTGT đang có nhiều vấn đề bất cập cần những giải pháp hoàn thiện . Trong đó , vấn đề kế toán thuế GTGT đầu vào trong các doanh nghiệp hiện nay đang là vấn đề rất bức xúc , thu hút sự quan tâm của nhiều nghành , nhiều người . Bên cạnh những tác dụng tích cực như : thúc đẩy khuyến khích xuất khẩu , giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp , thu hút vốn đầu tư nước ngoài .v.v.Vấn đề thuế GTGT đầu vào còn nhiều lỗ hổng, nhiều bất cập , đang cần những giải pháp hoàn thiện . Với việc thực hiện đề tài ”Thuế GTGT và vấn đề kế toán thuế GTGT đầu vào trong các doanh nghiệp việt nam hiện nay “ này em hy vọng đã góp phần vào việc giải quyết những yêu cầu đặt ra nhằm hoàn thiện kế toán thuế GTGT phù hợp với cơ chế quản lý nền kinh tế ở nước ta hiện nay.

doc35 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 737 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thuế Giá trị gia tăng và vấn đề kế toán thuế GTGT đầu vào trong các doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu trừ thuế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế chính sách nên tổng giá trị xuất khẩu của nước tài sản cố định năm 1999 vẫn tăng so với năm 1998 là 23.18%. Trong đó những mặt hàng được hoàn thuế đầu vào nhiều, xuất khẩu tăng so với năm 1998 như : Cao su 37.7%; cà phê 27.6%; gạo 21.4%; thuỷ sản 14.1%; rau quả 39.6%; dệt may 16%; giày dép 36.4%; thủ công mỹ nghệ 48.6%; điện tử 17.5%.* * Tạo điều kiện cho chống thất thu thuế hiệu quả hơn. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã buộc người mua đòi hỏi người bán phải xuất hoá đơn, ghi đúng doanh thu với giá trị thực của hoạt động mua bán, khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế. ở khâu bán lẻ thường xảy ra trốn lậu thuế vì người tiêu dùng cuối cùng khi mua hàng không yêu cầu có hoá đơn. Do đó, thay vì quản lý một số lượng lớn đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế chỉ cần quản lý một số đối tượng nộp thuế trong khâu bán lẻ. Hơn nữa, ở khâu bán lẻ giá trị tăng thêm thường không lớn nên số thuế thu ở khâu này cũng không nhiều. * Giảm giá thành công trình xây dựng,công trình xây lắp. Việc thực hiện cơ chế khấu trừ và hoàn thuế GTGT của Luật thuế GTGT đã tạo điều kiện cho giá thành công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10% so với trước đây, khi áp dụng thuế doanh thu. Toàn bộ thuế GTGT của công trình đầu tư xây dựng cơ bản được hạch toán riêng, không tính vào giá thành công trình như thuế Doanh thu, vì vậy, chi phí khấu hao tài sản cố định cũng được giảm thấp hơn. Các doanh nghiệp xây dựng mua sắm tài sản cố định có thuế GTGT đều được khấu trừ hoặc hoàn thuế; mặt khác, thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp không phải chịu thuế GTGT cũng làm cho giá thành đầu tư giảm. Từ khi thực hiên Nghị định số 78/NĐ-CP giảm khoảng 50% mức thuế GTGT đối với sản phẩm XDCB thì mức thuế GTGT các doanh nghiệp xây lắp còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào thấp hơn 4% so với mức khi nộp thuế doanh thu, thậm chí còn được hoàn thuế. Đối với các công trình đầu tư bằng nguồn vốn ODA không hoàn lại thì không phải chịu thuế GTGT; nếu sử dụng nguồn vốn ODA vay thuộc diện được NSNN đầu tư không hoàn trả thì được hoàn thuế GTGT đầu vào. 3. Những bất cập trong việc hạch toán thuế GTGT đầu vào 3.1.Về tài khoản sử dụng Theo quy định, tài khoản(TK) 133-thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, dùng để phản ánh thuế GTGT đầu vào được khấu trừ , đã khấu trừ và còn được khấu trừ của doanh nghiệp Tài khoản 133 chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, không áp dụng đối với doang nghiệp áp dụng theo phương pháp trực tiếp và hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Tài khoản 133- thuế GTGT được khấu trừ có 2 tài khoản cấp 2 : TK 1331- thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá , dịch vụ: phản ánh thuế GTGT được khấu trừ của vật tư , hàng hoá , dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. TK 1332 – thuế GTGT được khấu trừ của tài sản cố định: phản ánh thuế GTGT đấu vào của quá trình đầu tư , mua sắm tài sản cố định dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá , dịch vụ chịu thuế theo phương pháp khấu trừ . Doanh nghiệp không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào của những hàng hoá ,dịch vụ mua vào dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh những hàng hoá dịch vụ không chịu thuế GTGT, theo thông tư số 122/2000/TT-BTC ngay 29/12/2000:” đối với hàng hoá dịch vụ mua vào dùng đồng thời cho hàng hoá , dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì doanh nghiệp phải hạch toán riêng thuế GTGT được khấu trừ và thuế GTGT không được khấu trừ”. Cũng theo thông tư này quy định :”trường hợp không thể hạch toán riêng được thì toàn bộ số thuế GTGT của hàng hoá , dịch vụ mua vào dùng chung cho hoạt đông sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT được hạch toán vào tài khoản 1331. Cuối kỳ, kế toán phải xác định số thuế GTGT được khấu trừ theo tỉ lệ (%) giữa doanh thu chịu thuế GTGT so với tổng doanh thu bán ra. Số thuế GTGT không được khấu trừ sẽ được tính vào giá vốn hàng bán ra hoặc ttính vào chi phí sản xuất kinh doanh tuỳ vào từng trường hợp cụ thể “. Như vậy , trong trường hợp này , người kế toán phải hạch toán vào bên nợ TK 1331 cả phần thuế GTGT được khấu trừ và không được khấu trừ , việc hạch toán như vậy làm cho thông tin cung cấp sẽ khó chính xác và sẽ gây khó khăn cho việc lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. 3.2 về văn bản quy phạm pháp luật về khấu trừ thuế GTGT đầu vào Như theo quy định tại tiểu c, tiết 1.2 điểm 1, Mục III, phần B Thông tư 122/2000/thị trường-BTC ngày 29/12/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật thuế GTGT thì: “ Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay còn để trong kho. Trường hợp hoá đơn GTGT hoặc chứng từ nộp thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh trong tháng, nhưng chưa kê khai kịp trong tháng thì được kê khai khấu trừ vào các tháng tiếp sau, trường hợp vì lý do khách quan thì được khấu trừ trong thời gian tối đa là 3 tháng tiếp sau”. Với quy định chưa rõ ràng này đã tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau ở các địa phương, do vậy cũng có nhiều cách xử lý khác nhau: Có thể hiểu: Về nguyên tắc đầu vào của tháng nào thì kê khai ngay trong tháng. Trường hợp chưa kê khai kịp thời với nguyên nhân khách quan thì được khấu trừ trong thời hạn tối đa là 3 tháng, còn đối với trường hợp chậm kê khai vì lý do chủ quan thì được kê khai khấu trừ vào các tháng tiếp sau - không hạn chế thời gian. Hay cũng có thể hiểu là: Chỉ trường hợp vì nguyên nhân khách quan mới được khấu trừ trong thời hạn 3 tháng và 3 tháng là kể từ ngày phát sinh hoá đơn GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào. .v.v... + Đặc biệt là vấn đề khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào. Với điều kiện thực tế hiện nay thì việc Luật thuế GTGT cho phép các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào là cần thiết. Thứ nhất, đại đa số các sản phẩm nguyên vật liệu đầu vào dùng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở sản xuất trong nước hiện nay đều có nguồn gốc từ khu vực sản xuất nông nghiệp, có thể chiếm đến 80%. Nhưng theo Luật thuế GTGT thì các sản phẩm này không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, nếu không cho khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào thì các doanh nghiệp sẽ phải nộp thuế GTGT trên toàn bộ thuế GTGT đầu ra, con số này là không nhỏ. Hơn nữa trong điều kiện hiện nay, giá nông, lâm, thuỷ sản đang xuống giá liên tục, chính sách khấu trừ khống thuế GTGT có tác dụng rất lớn trong thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, ngư dân. Thứ hai, do tồn tại hai phương pháp tính thuế, nếu không có các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được khấu trừ được khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào thì sự chênh lệch giữa hai phương pháp là rất lớn, không công bằng giữa hai đối tượng nộp thuế theo hai phương pháp khác nhau. Nhưng việc khấu trừ khống đối với một số trường hợp cũng là một bất cập trong quá trình áp dụng thuế GTGT, nó không khuyến khích việc thực hiện hoá đơn chứng từ đối với một số đối tượng. Trước hết, là những hạn chế ngay trong các văn bản pháp quy. Mua nông sản, vật liệu ở thị trường tự do chỉ cần bản kê thu mua nhưng mua nông lâm sản của đối tượng nào thì được áp dụng bản kê thu mua. Điều 10 Luật thuế GTGT quy định rõ là mua của đối tượng thoả mãn hai điều kiện: là người trực tiếp sản xuất bán ra và họ không có hoá đơn tài chính. Tuy nhiên, khái niệm “người sản xuất không có hoá đơn“ đã được cụ thể hoá bằng nhiều thuật ngữ khác nhau hoặc là ghi chung chung. Hay sự thiếu đồng bộ của chính sách dẫn đến sự chênh lệch giữa số thuế mà doanh nghiệp được khấu trừ khống với số thuế GTGT mà doanh nghiệp bán hàng hoá cho doanh nghiệp đó nộp. Và thực tế là số thuế phải nộp là nhỏ hơn số thuế được khấu trừ, mức chênh lệch đó chính là số tiền NSNN bị mất, thiệt hại trong quá trình thực hiện việc khấu trừ khống. Hai là những quy định về hoá đơn, chứng từ liên quan đến việc khấu trừ khống theo thông tư 122 chưa được chặt chẽ, dẫn đến nhiều đối tượng nộp thuế đã lợi dụng làm thất thoát tiền thuế của Nhà nước từ các hành động kê khai sai lệch, khống trên hoá đơn, bảng kê... Điều này được thể hiện ở hai dạng: Từ hoá đơn bán hàng: đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ móc nối với các đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp để lập hoá đơn với số lượng hàng hoá, doanh thu rất lớn, kể cả lập hoá đơn khống, nhưng số thuế GTGT phải nộp vào ngân sách với đối tượng này rất thấp. Từ bảng kê 04/GTGT: do chế độ cho phép được lập bảng kê nên các đối tượng tự ý kê khai không rõ tên, địa chỉ người bán, kê khai tăng cao về số lượng, về giá cả hàng hoá, đặc biệt là giá mua vào. Ngoài việc làm giảm thuế GTGT phải nộp, được khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT, điều này còn làm giảm thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Đây cũng là một bước lùi tình thế của thuế GTGT so với mục đích đề ra và về lâu dài thì theo khẳng định của Phó Tổng cục trưởng Tổng cục thuế Nhà nước - Nguyễn Đức Quế, Nhà nước sẽ sớm bãi bỏ khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào theo bảng kê số 04/GTGT đi đôi với việc giảm tỷ lệ thuế suất ở đầu ra đối với các mặt hàng trên. 3.3 Về quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Hiện tại, đại bộ phận các đối tượng nộp thuế đều đã chấp hành tốt chế độ quản lý, sử dụng hoá đơn chứng từ. Tuy nhiên, vẫn còn số ít đối tượng thực hiện chưa tốt. Do cơ chế xác định số thuế GTGT phải nộp bằng số thuế GTGT đầu ra trừ số thuế GTGT đầu vào, số thuế GTGT đầu vào lớn hơn số thuế GTGT đầu ra thì được hoàn thuế; vì vậy, thực tế vẫn còn hiện tượng trốn lậu thuế. Việc không kiểm soát được hoá đơn, chứng từ, có thể là: không sử dụng hoá đơn, hay sử dụng hoá đơn nhưng ghi không chính xác, hoặc sử dụng hoá đơn giả. Đây là một trong những hạn chế căn bản và là vấn đề cần khắc phục ngay để tránh gây cản trở việc áp dụng thuế GTGT ở nước ta. Theo các quy định hiện hành, hoá đơn hợp pháp phải là hoá đơn do Tổng cục thuế phát hành hoặc được Tổng cụ thuế uỷ quyền phát hành theo quy định. Hoá đơn phải do người bán hàng lập và giao cho người mua hàng hoá, dịch vụ và phải là bản gốc của liên số 2 (liên giao cho khách hàng). Theo đó, các nội dung quy định phải được ghi đầy đủ, không được tẩy xoá, sửa chữa; tờ hoá đơn phải nguyên vẹn không bị rách hoặc nhàu nát. Trong thực tế đã xuất hiện các thủ đoạn gian lận như sau: + Khai khống hoá đơn đầu vào: Một số doanh nghiệp đã lợi dụng hoá đơn thật để ghi khống các khoản thuế và chi phí hàng hoá, dịch vụ hợp lý để khấu trừ thuế đầu ra hoặc tăng chi phí nhằm trốn thuế, hoàn thuế. Kết quả kiểm tra của một số địa phương cho thấy, một số cửa hàng kinh doanh xăng dầu, bán lẻ cho người tiêu dùng không cần hoá đơn sau đó thoả thuận với một số doanh nghiệp có nhu cầu để xuất hoá đơn khống. Doanh nghiệp này sử dụng hoá đơn khống để hợp lý hoá chi phí đầu vào, khấu trừ thuế đầu ra nhằm trốn thuế chia nhau. Hay cụ thể: Cục thuế Tp. HCM phát hiện CTy TNHH Phước Bình (quận 8) sử dụng 5 hoá đơn khống của CTy TNHH Việt Vạn Đại (quận Tân Bình) chiếm dụng 78 triệu đồng tiền thuế và trả hoa hồng cho công ty Việt Vạn Đại 30% số thuế chiếm dụng Những hoá đơn khống này do đâu mà có? Ngoài nguồn hoá đơn chính thức mà các doanh nghiệp được mua thì hiện tượng hàng loạt các doanh nghiệp báo mất hoá đơn, các công ty TNHH bỏ trốn sau khi mua hàng trăm quyển hoá đơn. Trong 9 tháng đầu năm 1999, Cục thuế Tp HCM đã thống kê khoảng 110 công ty TNHH bỏ trốn khỏi địa chỉ kinh doanh sau khi mua hàng trăm quyển hoá đơn sử dụng bất hợp pháp, truy thu hàng chục tỷ đồng tiền thuế. + Không xuất hoá đơn khi bán hàng làm giảm giá thanh toán đầu ra để trốn thuế hoặc hoàn thuế. Một căn cứ để xác định số thuế GTGT là giá thanh toán (hoặc giá tính thuế) của hàng hoá, dịch vụ đầu ra. Giả định đầu vào không đổi, muốn giảm số thuế phải nộp, các doanh nghiệp có thể sử dụng biện pháp làm giảm giá đầu ra bằng cách bán hàng không xuất hoá đơn rồi khai báo là hàng tồn kho để trốn thuê. Chẳng hạn, CTy xà phòng Hà Nội nhập một lượng hoá chất lớn rồi bí mật giao cho liên doanh LeverHaso, hàng chuyển đi xong không xuất hoá đơn mà báo cáo là hàng bị tồn kho. Do số thuế GTGT đầu vào lớn nên công ty đã nhận được 1,8 tỷ đồng tiền hoàn thuế trong 6 tháng đầu năm 1999. + Ghi giá trong hoá đơn bán hàng thấp hơn giá thực tế để trốn thuế GTGT. Do người tiêu dùng trực tiếp không cần hoá đơn khi mua hàng nên một số doanh nghiệp đã lợi dụng, lấy hoá đơn này ghi khống giá bán hàng thấp hơn giá thực tế để giảm giá thanh toán đầu ra (hoặc giá tính thuế) nhằm trốn thuế GTGT. Hay ghi tổng số giá trị hàng hoá không khớp giữa các liên của hoá đơn, liên giao cho khách hàng cao hơn liên lưu rất nhiều hoặc để trống để khách hàng tự ghi. Nhờ đó giúp đơn vị bán hàng phải nộp thuế ít hơn và đơn vị mua hàng lại được khấu trừ thuế nhiều so với giá trị thật của hàng hoá, dịch vụ. + In và sử dụng hoá đơn giả. Hiện nay trên thị trường tồn tại nhiều hoá đơn in lậu lưu hành mà bằng mắt thường rất khó phân biệt. + Một số đơn vị được tự in hoá đơn đặc thù đã in hai hoá đơn cùng một seri để trốn thuế đầu ra. Việc không sử dụng hoặc sử dụng hoá đơn bất hợp pháp trên thực tế có thể gây ra tác hại sau: + Đối với Ngân sách Nhà nước: Ngân sách Nhà nước sẽ bị thất thu thuế do không thu được thuế hoặc thu số thuế it hơn so với thực tế và hậu quả còn nặng nề hơn khi phải trả tiền hoàn thuế cho các hoá đơn không hợp pháp này. + Đối với các doanh nghiệp: Tạo nên sự không bình đẳng trong hoạt động của các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp sẻ dụng hoá đơn giả sẽ có lợi thế trong cạnh tranh do trốn thuế đầu ra, thuế đầu vào được khấu trừ nhiều cho nên họ có thể hạ thấp giá bán. Điều đó làm cho các đơn vị thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán hoá đơn chứng từ gặp không ít khó khăn. + Đối với nền kinh tế xã hội: Tình hình trên kéo dài có thể gây phản ứng dây chuyền làm cho hoạt động kinh tế xã hội vô cùng lộn xộn. Khi hoá đơn thật giả lẫn lộn, tồn tại song song một cách phổ biến sẽ làm mất lòng tin của dân chúng. Điều đó gắn liền với tệ nạn tham ô, móc ngoặc .v.v... gây hậu quả vô cùng nghiêm trọng. 3.4 Vấn đề hoàn thuế GTGT Hầu hết các nước áp dụng thuế GTGT đều sử dụng phương pháp khấu trừ. Do vậy khi thuế đầu vào nhiều hơn thuế đầu ra có nghĩa là được hoàn thuế. ở nước ta, việc hoàn thuế thực sự là một khó khăn đang đặt ra cho Nhà nước. + Sự bất hợp lý trong việc quy định thời gian hoàn thuế Theo quy định tại điểm 1a, Thông tư số 93/1999/thị trường-BTC ngày 28/07/1999 của Bộ Tài chính, các cơ sở sản xuất, kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ nếu luỹ kế 3 tháng liên tục mà số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế GTGT đầu ra thì thuộc đối tượng được hoàn thuế. Nhưng với những quy định thời gian hoàn thuế hiện nay phần nào đã làm giảm tác dụng của công tác hoàn thuế: Theo quy định hiện nay, đơn vị phải kê khai thuế GTGT với cơ quan thuế chậm nhất là 10 ngày đầu của tháng tiếp theo. Sau khi nhận được tờ khai thuế GTGT của đơn vị cơ quan thuế kiểm tra xác nhận sau đó tiến hành thông báo nộp thuế đến cho cơ sở. Kể từ khi doanh nghiệp gửi tờ khai đên khi nhận được thông báo nộp thuế sau do bưu điện chuyển đến cũng phải mất 5 ngày. Như vậy là tối thiểu vào ngày 15 của tháng đơn vị mới có số liệu chính thức của cơ quan thuế thông báo số thuế GTGT phải nộp. Thông báo này chính là một trong những cơ sở vững chắc nhất cho đơn vị thiết lập hồ sơ đề nghị hoàn thuế. Cũng giả sử doanh nghiệp thiết lập ngay thủ tục hoàn thuế gửi cho cơ quan thuế trong ngày 15 và hồ sơ hoàn toàn hợp lệ, bảo đảm tính chính xác thì theo quy định hiện nay cơ quan thuế tiến hành hoàn thuế trong 15 ngày làm việc (19-21 ngày thực tế). Và như vậy, nếu tính hết thời gian cho phép là 15 ngày thì cơ quan thuế có thể ra quyết định hoàn thuế vào ngày 4-6 của tháng tiếp theo. Sau khi ra quyết định hoàn thuế, cơ quan thuế gửi quyết định qua cơ quan kho bạc, cơ quan kho bạc thực hiện việc chi hoàn thuế trong vòng 3 ngày làm việc (3-5 ngày thực tế) kể từ khi nhận quyết định. Vậy đối với đơn vị khi nhận số tiền hoàn thuế là ngày 7-11 (chưa tính ngày đi đường theo đường công văn) và đây cũng chính là thời điểm đơn vị kê khai và nộp thuế GTGT cho tháng tiếp theo. Tóm lại, là với quy trình quản lý thu thuế và hoàn thuế như hiện nay thì việc xảy ra tình trạng số thuế GTGT vừa được hoàn ngay lập tức phải nộp thuế phát sinh dương của kỳ tiếp theo. Nếu chậm có thể nộp thuế phát sinh dương trước khi kịp nhận số thuế được hoàn. Và trường hợp xảy ra là nếu số thuế GTGT phải nộp tháng tiếp theo của kỳ hoàn thuế lớn hơn hoặc bằng số thuế được hoàn thì đơn vị đề nghị hoàn thuế không được lợi gì trong việc hoàn thuế, ngoài ra còn chịu chi phí phát sinh cho việc thực hiện các bước của việc hoàn thuế. Cơ quan thuế, kho bạc cũng phát sinh chi phí quản lý cho công việc này dẫn đến tốn kém cho xã hội. + Hoàn thuế còn chậm so với thời gian quy định. Công việc hoàn thuế hiện nay không phải được diễn ra suôn sẻ, mà còn nhiều nhân tố làm cho việc hoàn thuế chậm hơn so với quy định . Đặc biệt, đối với hàng nhập khẩu. theo một nguồn tài liệu đã công bố, số thuế GTGT của hàng nhạp khẩu dự kiến phải hoàn cho các doanh nghiệp trong năm 1999 là khoảng 5000 tỷ đồng . nhưng đến hết tháng 6/1999 số thuế đã được xét hoàn mới chỉ được 350 tỷ đồng . điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp đã và đang bị chiếm dụng một số vốn quá lớn . hậu quả tất yếu là kinh doanh của các doanh nghiệp bị lỗ vì phải trả lãi tiền vay để nộp thuế GTGT. Thủ tục hoàn thuế còn rất phức tạp. Hồ sơ hoàn thuế tưởng chừng như đơn giản nhưng các doanh nghiệp phải chạy đi chạy lại nhiều lần mới có thể hoàn tất được hồ sơ (do thông báo bổ sung hoặc trả hồ sơ không ghi rõ lý do mà chủ yếu do cán bộ thuế hướng dẫn bằng miệng không đầy đủ, chính xác và không đồng nhất, nay thế này mai thế khác) Hiện nay có nhiều loại hoá đơn bất hợp pháp đang lưu hành nên cơ quan thuế phải mất nhiều thời gian để xác minh tính trung thực của các hoá đơn với số lượng lớn mà lại bằng phương pháp “thủ công”. Do trình độ của một số cán bộ thuế còn nhiều hạn chế nên hướng dẫn các đơn vị chưa đầy đủ, chính xác; xuất hiện vấn đề “ trên thông dưới không thoáng” do cán bộ thi hành công vụ chưa đáp ứng được yêu cầu công việc; cơ quan thuế còn dè dặt trong hoàn thuế, các quan chức chưa mạnh dan giải quyết theo thẩm quyền do sợ trách nhiệm... Do bản thân doanh nghiệp chưa hiểu rõ chính sách thuế, trình tự , thủ tục hoàn thuế... nên phải mất nhiều thời gian kê khai hoàn tất thủ tục + Việc xử lý hoàn thuế GTGT được thực hiện theo trình tự “hoàn thuế trước kiểm tra sau” đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đồng thời nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong kê khai hoàn thuế nhưng đây cũng là “cơ hội vàng” cho đối tượng nộp thuế gian dối để có thể chiếm đoạt tiền của Nhà nước. Qua hơn 4 năm thực hiện, số thuế Nhà nước tiến hành hoàn lại cho các doanh nghiệp lên đến 12.660 tỉ đồng, tuy nhiên số tiền này đã bị không ít doanh nghiệp dùng các thủ đoạn tinh vi lách luật cũng như thông đồng với cán bộ thuế làm thất thoát NSNN hàng chục tỷ đồng. Và tình hình này có xu hướng ngày càng tăng. Chỉ đến tháng 04/2002, Lực lượng cảnh sát kinh tế đã phát hiện 203 vụ vi phạm hoàn thuế với tổng số tiền trên 300 tỷ đồng cần phải thu hồi. Năm 2001, số tiền hoàn không đúng là 39,908 tỷ đồng chiếm 0,87% số tiền đã hoàn, tương ứng với năm 2000 là 8,532 tỷ đồng chiếm 0,2% và năm 1999 là 679 triệu đồng chỉ chiếm 0,038%. Trên thực tế đã xảy ra những trường hợp sau: + Cơ sở kinh doanh xuất khẩu hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản dưới hình thức mua bán qua đường biên giới đã lập thủ tục, hồ sơ khống về hàng hoá xuất khẩu để xin hoàn thuế thông qua sự kiểm tra không chặt chẽ của Hải quan, hoặc thông đồng với cán bộ Hải quan làm thủ tục xác nhận khống hoặc sử dụng hoá đơn giả, hoá đơn ghi không đúng giá trị để lập hoá đơn xuất khẩu khống về số lượng và giá trị. + Cơ sở kinh doanh xuất khẩu lợi dụng quy định cho phép các cơ sở kinh doanh được khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ % trên giá mua các loại hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến mua của người bán không có hoá đơn để xuất khẩu, đã lập bảng kê khai khống về số lượng, giá mua để kê khai, hoàn thuế GTGT. + Đặc biệt, lợi dụng qui định của Luật doanh nghiệp, một số người thành lập doanh nghiệp nhằm đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế để mua hoá đơn bán lại cho các cơ sở khác sử dụng để lập hồ sơ xin hoàn thuế khống. Hoàn thuế GTGT còn có những vấn đề như: những quy định của luật Ngoài những tồn tại về nội dung của chính sách hoàn thuế GTGT và một số quy định của các văn bản dưới luật chưa thống nhất; một số quy định còn chưa rõ ràng, gây khó khăn khi áp dụng; một số nguyên tắc chưa quán triệt đầy đủ trong pháp luật thuế GTGT... Những vướng mắc, tồn tại trên đây có thể do các nguyên nhân khách quan, nhưng cũng có thể do nguyên nhân chủ quan, vấn đề đặt ra trong giai đoạn tới là cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế GTGT theo hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của đời sống kinh tế, xã hội nhưng phải bảo đảm tính khoa học, hiện đại và sự phù hợp của thuế GTGT với các sắc thuế khác ở nước ta hiện nay. Với vấn đề khấu trừ thuế đầu vào cho hàng hoá xuất khẩu Khấu trừ thuế đầu vào là cách gọi theo phương pháp tính thuế , thực ra đó là việc hoàn thuế cho hàng xuất khẩu vì thuế xuất cho hàng xuất khẩu là 0% Thông tư số 106/1999/TT-BTC đã hướng dẫn cụ thể bổ sung 3 trường hợp được khấu trừ thuế đầu vào , nhưng những trường hợp này chỉ áp dụng khấu trừ cho hàng tiêu thụ trong nước mà không áp dụng đối với hàng hoá mua vào làm nguyên liệu mua vào làm nguyên liệu sản xuất chế biến hàng xuất khẩu hoặc mua để xuất khẩu Theo quy định này, nếu doanh nghiệp mua của các cơ sở nộp thuế theo phương pháp khấu trừ (có hoá đơn GTGT) thì sẽ được hoàn thuế đầu vào khi xuất khẩu hàng hoá, nhưng néu mua của các cơ sở nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT chỉ có hoá đơn thông thường thì không được hoàn thuế đầu vào khi xuất khẩu hàng hoá . trong khi đó , vẫn trường hợp này , nếu doanh nghiệp không xuất khẩu mà bán ra thị trường trong nước thì lại được khấu trừ thuế đầu vào với tỷ lệ 3% trên giá trị hàng hoá mua vào . trong khi chúng ta còn duy trì hai phương pháp tính thuế GTGT , với việc sử dụng hai loại hoá đơn khác nhau thì quy định này vẫn còn tạo ra một sự phân biệt đối xử giữa các khu vực kinh tế khác nhau, hơn nữa cũng hạn chế tác dụng khuyến khích xuất khẩu hàng hoá của luật thuế GTGT 3.6. Với vấn đề khấu trừ thuế GTGT của hàng hoá nhập khẩu Theo quy định hiện nay, thuế GTGT của hàng nhập khẩu đã nộp được xem là thuế GTGT đầu vào và sẽ được khấu trừ khi xác định thuế GTGT phải nộp ( hoặc được hoàn lại ).Tuy nhiên ,đây là việc làm mâu thuẫn ngay với bản thân về khái niệm thuế GTGT. Bởi lẽ, luật thuế GTGT đã khẳng định :’thuế GTGT là loại thuế đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng “. Trong khi đó, chưa một nhà kinh tế nào của việt nam và trên thế giới chứng minh được rằng , toàn bộ giá CIF cộng thuế NK của hàng NK là giá trị tăng thêm của hàng hoá đó. Đồng thời, việc tính thuế GTGT đối với hàng NK với giá tính thuế giá trị gia tăng bằng giá mua cộng thuế nhập khẩu làm phát sinh hiện tượng thuế đánh lên thuế , một nhược điểm cơ bản của thuế doanh thu trước đây . Hơn nữa , trong thực tế , việc thu thuế như vậy cũng không đưa lại hiệu quả gì lớn cho việc tăng nguồn thu ngân sách nhà nước , ngoại trừ việc ngân sách nhà nước có thể chiếm dụng được của một số doanh nghiệp một số tiền nhất định trước khi cho hoàn thuế gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp . Tóm lại : ta có thể thấy bên cạnh những thành công , Luật thuế GTGT và vấn đề hạch toán thuế GTGT đầu vào còn chứa đựng nhiều bất cập đòi hỏi các cơ quan lập phát và hành pháp nỗ lực hoàn thiện, khắc phục những hạn chế xuất hiện trong hơn 4 năm đưa Luật thuế GTGT vào cuộc sống, luật thuế lần đầu tiên áp dụng tại Việt Nam. Trong phần sau ta sẽ nghiên cứu một số giải pháp khắc phục những hạn chế ở trên. Phần III một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện vấn đề kế toán thuế GTGT đầu vào 1. về tài khoản và phương pháp hạch toán 1.1. Về tài khoản sử dụng Để có thông tin kế toán chính xác và cung cấp thông tin kịp thời cho việc lập các báo cáo tài chính, nên có một tài khoản theo dõi riêng số thuế GTGT đầu vào: Tài khoản sử dụng Tài khoản 1331- thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá dịch vụ- cần được mở thêm các tài khoản cấp ba với tên gọi và số hiệu như sau : Tài khoản 13311- thuế GTGT đầu vào TK 13312- thuế GTGT được trừ TK13313- thuế GTGT được hoàn lại Kết cấu và nội dung các tài khoản này như sau : Tài kkhoản 13311- thuế GTGT đầu vào Bên nợ : số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá , dịch vụ mua vào dùng cho hoạt động xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế trong kỳ Bên có: thuế GTGT đầu vào của hàng hoá , dịch vụ dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT mà doanh nghiệp đã mua đã trả lại hoặc được giảm giá. Kết chuyển thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Kết chuyển thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ . TK này cuối kì không có số dư Tài khoản 13312- thuế GTGT được trừ Bên nợ : thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá , dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh hàng hoá , dịch vụ chịu thuế GTGT phát sinh trong kỳ. Thuế GTGT đầu vào phân bổ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ . Bên Có: kết chuyển thuế GTGT được khấu trừ bù trừ thuế GTGT đầu ra. Kết chuyển thuế GTGT được khấu trừ được cơ quan thuế hoàn lại . Thuế GTGT của hàng hoá dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mà doanh nghiệp mua nhưng đã trả lại hoặc được giảm giá. Số dư nợ: thuế GTGT còn được khấu trừ. TK13313- thuế GTGT được hoàn lại . Bên nợ : thuế GTGT được khấu trừ được cơ quan thuế cho hoàn thuế phát sinh trong kỳ . Bên có : thuế GTGT được hoàn lại đã được cơ quan thuế hoàn lại bằng tiền hoặc được phép khấu trừ tiếp vaò kỳ kế toán sau . Số dư nợ : thuế GTGT được khấu trừ đã được thông báo được phép hoàn thuế nhưng cơ quan nhà nước chưa hoàn. 1.2 Về phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ chủ yếu Khi mua vật tư, hàng hoá, dịch vụ dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá chịu thuế GTGT , căn cứ vào chứng từ liên quan, kế toán ghi: Nợ TK 152, 153, 156giá mua chưa thuế GTGT Nợ TK 133(13312) thuế GTGT được kghấu trừ Có TK 111,112 331 tổng giá thanh toán Khi mua vật tư , hàng hoá , dịch vụ dùng chung cho hoạt động sản xuất kinh doanh chịu htuế GTGT và không chịu thuế GTGT nhưng không hạch toán riêng được , căn cứ vào chứng từ , kế toán ghi : Nợ TK 152, 153, 156, giá mua chưa thuế GTGT Nợ TK 133(13311) thuế GTGT đầu vào Có TK111, 112, 331 tổng giá thanh toán Trường hợp vật tư hàng hoá, dịch vụ đã mua đã trả lại hoặc hàng dã mua được giảm giá, căn cứ vào chứng từ xuất hàng trả lại hoặc chứng từ có liên quan , kế toán ghi: Nếu dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT: Nợ TK 111,112,331 tổng giá thanh toán Có TK 152, 153, 156 giá trị hàng trả lại hoặc hàng giảm chưa có thuế GTGT Có TK 13312: thuế GTGT được trừ Nếu dùng đồng thời cho việc kinh doanh chịu thuế và không chịu thuế : Nợ TK 111,112,331.. tổng gía thanh toán Có TK 152, 153 156 giá trị hàng giảm giá hoặc hàng trả lại chưa có thuế GTGT Có TK 13311 thuế GTGT đầu vào Cuối tháng kế toán tính tỷ lệ phần trăm (%) giữa doanh thu chịu thuế GTGT so với tổng doanh thu trong tháng để xác định ssố thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ , kế toán kết chuyển : Nợ TK 11312: thuế GTGT được khấu trừ ( phần thuế GTGT đầu vào được khấu trừ ) Nợ TK 632: số thuế GTGT không được khấu trừ Hoặc nợ TK 142 chi phí trả trước (nếu số thuế GTGT không được khấu trừ lớn) Có TK 13311 thuế GTGT đầu vào Cuối tháng kết chuyển thuế GTGT được khấu trừ bù trừ với số thuế GTGT đầu ra: Nợ TK33311: thuế GTGT phảI nộp Có TK 13312 : thuế GTGT được khấu trừ Số thuế GTGT được khấu trừ nếu được cơ quan thuế thông báo hoàn lại kế toán ghi: Nợ TK 13313 thuế GTGT được hoàn lại Có TK13312 thuế GTGT được khấu trừ Khi cơ quan thuế hoàn lại bằng tiền kế toán ghi: Nợ TK 111,112 : số tiền nhận được Có TK 13313 : thuế GTGT được hoàn lại Nếu cơ quan hoàn thuế quyết định số thuế được hoàn lại được phép tiếp tục khấu trừ vào tháng sau, kế toán ghi: Nợ TK 13312 : thuế GTGT được kháu trrừ Có TK 13313 : thuế GTGT được hoàn lại. 2. Bổ sung việc khấu trừ thuế GTGT với hàng xuất nhập khẩu Đối với hàng xuất khẩu, nhà nước nên xem xét và thực hiện hoàn thuế đối với những sản phẩm thuộc đối tượng hàng chịu thuế GTGT mà doanh nghiệp mua vào có hoá đơn thông thường để sản xuất hàng xuất khẩu hoặc mua để xuất khẩu . mức tính hoàn trả cho doanh nghiệp xuất khẩu cũng tính bằng 3% so với giá trị hàng mua vào theo hoá đơn thông thường giống như mức khấu trừ cho doanh nghiệp sản xuất hàng để bán trên thị truờng trong nước . việc hoàn thuế với trường hợp này sẽ có tác dụng giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, khuyến khích sản xuất và xuất khẩu hàng hoá , đồng thời đảm bảo sự công bằng giữa các doanh nghiẹp xuất khẩu với các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ trong nước . Đối với hàng nhập khẩu từ những phân tích về những bất cập đã nêu ở phần trên . Thiết nghĩ nhà nước nên xoá bỏ việc thu thuế GTGT đối với hàng NK ngay tại cửa khẩu như hiện nay để giải quyết khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp NK. 3. Quy định lại việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Để khuyến khích việc sử dụng hoá đơn chứng từ, khuyến khích xuất khẩu, đảm bảo công bằng giữa hàng hoá chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT, cần sửa đổi, bổ sung như sau: Khi mà hơn 80% dân số nước ta sống bằng sản xuất nông nghiệp, giá thành sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi còn cao nên cần phải ưu đãi về thuê bằng cách chưa đưa vào đối tượng chịu thuế GTGT; chưa thực hiện một phương pháp tính thuế nên cần tiếp tục giải quyết khấu trừ thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT và hàng hoá dịch vụ đầu vào đã chịu thuế GTGT theo phương pháp khoán. Trong tình hình điều kiện ở nước ta hiện nay, thì việc cho phép khấu trừ khống trong trường hợp không có hoá đơn mua, bán hàng hợp lệ như hiện nay là vẫn cần thiết, nhưng cần có quy định chặt chẽ về thủ tục hoá đơn, chứng từ liên quan đến việc khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào: Đối với hoá đơn bán hàng do đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp sử dụng hai loại: hộ nộp thuế theo kê khai thì có thể không cho phép nộp thuế trực tiếp trên GTGT mà nộp theo doanh số, tránh sự lợi dụng, móc ngoặc trong lập bảng kê 04/GTGT ; còn các hộ thuộc diện ấn định doanh số tính thuế thì cần quy định cụ thể, nếu doanh số bán hàng cao hơn doanh số đã ấn định thì phải truy thu số trên hoá đơn phần doanh số chênh lệch này. Việc quy định truy thu theo thông tư 122 chưa rõ ràng, đầy đủ, khó thực hiện trong thực tế vì cơ sở pháp lý không cao. Đối với bảng kê 04/GTGT thì cần chỉ rõ đối tượng nào không có hoá đơn. Có quan điểm cho rằng chỉ người nông dân trực tiếp sản xuất ra sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản đem đi tiêu thụ, còn toàn bộ các đối tượng khác không được xem là “người bán không có hoá đơn” như đối tượng thu gom, cơ sở kinh doanh khác bán hàng không lập hoá đơn... Đồng thời quy định chặt chẽ khi lập bảng kê phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người sản xuất trực tiếp sản xuất bán ra. Về tỷ lệ khấu trừ khống thuế đầu vào theo tỷ lệ 3% trên giá mua theo hoá đơn đối với doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ cũng cần nghiên cứu lại. Có thể quy định một số tỷ lệ khấu trừ khống cho phù hợp với từng ngành nghề đảm bảo nguyên tắc của thuế GTGT. Nhưng về lâu dài, phải bãi bỏ quy định cho phép khấu trừ khống đối với tất cả các hình thức, các hoạt động kinh tế đi đôi với việc giảm tỷ lệ thuế suất ở đầu ra đối với những mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản. 4. Nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác hoàn thuế Để rút ngắn thời gian hoàn thuế cần phải nghiên cứu lại quy đinh về thời gian hoàn thuế như rút ngắn còn 3 ngày thống nhất chứ không phải là 15 ngày như cũ. Đây sẽ là một phương án khả thi khi chúng ta tiến tới hoàn thuế theo đề nghị của doanh nghiệp, sau đó tiến hành hậu kiểm. Doanh nghiệp có quyền đề nghị hoàn thuế với số thuế đề nghị nhỏ hơn hay bằng số thuế phát sinh âm của đơn vị và chịu hoàn toàn trách nhiệm với việc đề nghị hoàn thuế của mình. Đồng thời cơ quan chức năng cần thực hiện triệt để công tác hậu kiểm sau hoàn thuế. Để thực hiện điều này thì cần tiến hành các bước sau: + Đơn giản hoá thủ tục hoàn thuế, cho phép người kinh doanh tự kê khai và tự chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Cơ quan thuế đảm bảo thời gian hoàn thuế, rút ngắn thời gian thực hiện chi trả của kho bạc bằng cách thực hiện nối mạng thông tin giữa cơ quan thuế và cơ quan kho bạc nhằm giảm bớt thời gian luân chuyển chứng từ theo đường công văn. + Thành lập ban thanh tra, kiểm tra với nhiệm vụ kiểm tra lại toàn bộ các hồ sơ đã được hoàn thuế, đặc biệt là những hồ sơ có số thuế được hoàn lớn. Việc thanh tra kiểm tra này dưới một góc độ rộng thì là một bộ phận của ngành Luật chịu sự giám sát của các cơ quan bảo vệ pháp luật hiện hành, vì vậy, các cơ quan như Thanh tra Nhà nước, Viện kiểm soát, Công an... cũng đều có chức năng này. Nhưng một trong những công tác quan trọng của quá trình thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế là công tác kiểm tra, đối chiếu, xác minh hoá đơn đầu vào, đầu ra của cơ sở. Do vậy, việc hậu kiểm chỉ có thể thực hiện tốt nhất bởi cơ quan thuế với cơ cấu bộ máy chặt chẽ, có sự hỗ trợ trong xác minh hoá đơn trong toàn quốc. Sự chỉ đạo của Tổng cục Thuế đối với công tác thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế là một giải pháp tối ưu trong giai đoạn hiện nay bên cạnh việc đề cao trách nhiệm của người xin hoàn thuế. + Sửa đổi quy trình kiểm tra sau hoàn thuế, chỉ tiến hành kiểm tra khi cần thiết và quy định xử lý thật nặng đối với những doanh nghiệp gian dối không thực hiện đúng các quy định của Nhà nước. + Thực hiện công khai hoá quy trình, thủ tục và hồ sơ hoàn thuế, niêm yết công khai tại cơ quan thuế, qua đài báo phương tiện thông tin... Cơ quan thuế cần tăng cường hướng dẫn, giải thích chi tiết cho đối tượng xin hoàn thuế nhằm giúp họ chuẩn bị các thủ tục đúng quy đinh, tránh hiện tượng phải làm đi làm lại nhiều lần. 5. Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn. Để Luật thuế GTGT được thực hiện có hiệu quả cần phải có hệ thống các văn bản hướng dẫn dưới luạt để tạo hành lang, môi trường cho Luật thuế GTGT phát huy tác dụng. Trong thời gian triển khai, chúng ta đã có nhiều văn bản dưới luật nhằm sửa chữa, sửa đổi bổ sung, điều đó gây khó khăn không ít cho việc chấp hành luật, văn bản dưới luật và từ đó cũng tạo ra các khe hở làm thất thu NSNN, hạn chế vai trò tích cực của thuế. Để giải quyết nhưng vướng mắc trên cần rà soát lại các văn bản, nếu thấy cần thiết cần phải thay thế các văn bản cũ bằng các văn bản mới trên cơ sở: + Ngoài luật thuế, tuỳ theo tình hình cụ thể mà chỉ nên có một vài văn bản hướng dẫn thực hiện. + Các văn bản phải dựa trên nền tảng của Luật thuế cũng như quy định hiện hành. + Hệ thống văn bản không được mâu thuẫn với nhau. 6. Cải tiến công tác hoá đơn chứng từ. Cơ chế quản lý hoá đơn hiện nay đã không khuyến khích các doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật cũng như xây dựng chiến lược quản lý hoá đơn phù hơp. Công tác tổ chức quản lý hoá đơn phức tạp, chồng chéo ngay trong Cục thuế, Chi cục thuế... Việc tạo điều kiện và cho phép các doanh nghiệp thực hiện tự quản hoá đơn có thể hạn chế khả năng sử dụng hoá đơn giả, gian lận thuế, chống thất thu, rút ngắn thời gian hoàn thuế. Nên việc quản lý hoá đơn theo hướng giao cho doanh nghiệp tự quản là nên làm. Nhưng để thực hiện điều này phải quy định rõ một số điểm sau: + Chất liệu hoá đơn phải thuận tiện cho cả việc viết tay, đánh máy hoặc in từ máy vi tính. + Trên hoá đơn phải ghi rõ mã số thuế, địa chỉ, biểu tượng của doanh nghiệp. + Sau khi xét duyệt hồ sơ đã khấu trừ hay hoàn thuế của doanh nghiệp, các hoá đơn phải được đóng dấu “ đã khấu trừ”, “đã hoàn thuế”. Thực tế, Tổng cục thuế đã vận dụng nguyên tắc đề cao trách nhiệm và quyền chủ động của doanh nghiệp trong quản lý sử dụng hoá đơn, đã cho phép một số ít doanh nghiệp đăng ký sử dụng hoá đơn tự in, tự phát hành, tự quản lý sử dụng. Việc quản lý sử dụng hoá đơn ở các đối tượng này rất chặt chẽ và hiếm xảy ra sai phạm. Hướng hoàn thiện đối với vấn đề hoá đơn GTGT là nhanh chóng nhân rộng cơ chế doanh nghiệp sử dụng hóa đơn tự in để trao lại trách nhiệm và quyền quản lý chủ yếu đối với hoá đơn GTGT cho doanh nghiệp; các cơ quan quản lý nhà nước (trực tiếp là cơ quan thuế) chỉ nhận trách nhiệm cho phức doanh nghiệp phát hành theo hoá đơn mẫu đăng ký và thực hiện công tác giám sát, kiểm tra quá trình quản lý sử dụng hoá đơn của doanh nghiệp. Đồng thời cơ quan thuế chỉ phát hành một số it hoá đơn GTGT cho các đơn vị chưa có điều kiện tự in hoá đơn. Tổng cục thuế cần nhanh chóng hoàn thiện chương trình quản lý đối chiếu hoá đơn chứng từ qua mạng máy tính với yêu cầu mọi phát sinh chi tiết của đối tượng nộp thuế phải được nhập vào mạng, từ đó các cơ quan quản lý nhà nước, nhất là cơ quan thuế sử dụng để đối chiếu, phát hiện ngay các sai phạm. 7. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục. Để các đối tượng nộp thuế tự giác thi hành và thi hành đúng, đủ các quy định về lĩnh vực thuế, ngoài việc các đối tượng nộp thuế tự tìm hiểu và nghiêm túc thực hiện thì ngành Thuế cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền về thuế. Công tác tuyên truyền không chỉ có tác dụng đối với đối tượng nộp thuế, nhằm ngăn ngừa giảm dần các sai phạm mà các đối tượng nộp thuế thường mắc phải, mà còn thuận lợi ngay cả cho cơ quan thuế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Thực tế cho thấy những hành vi sai phạm về thuế của các đối tượng nộp thuế không phải đều là cố ý, mà một phần là do các đối tượng nộp thuế không được truyền tải đầy đủ thông tin về chính sách thuế; không hiểu rõ về nội dung chính sách thuế cùng quy trình kê khai, nộp thuế... Thuế GTGT là một chính sách thuế mới, còn trong quá trình hoàn thiện nên có nhiều văn bản bổ sung, sửa đổi, vì vậy công tác tuyên truyền lại cần thiết hơn bao giờ hết. Nhằm hạn chế những sai sót này, công tác tuyên truyền cần được đẩy mạnh hơn nữa với nhiều hình thức đa dạng, đảm bảo tính thuyết phục cao. Có thể sử dụng kết hợp một số hình thức sau: + Ngành thuế phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng để tổ chức tuyên truyền, giải thích, giáo dục về thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng (như hệ thống phát thanh truyền hình trong chương trình Khoa học giáo dục, các chuyên mục hỏi đáp chính sách thuế và phát sóng định kỳ trong tuần hay trong tháng). + In, phát hành các ấn phẩm về thuế GTGT cũng như các luật thuế khác đặt tại trụ sở cơ quan thuế, các cơ quan chính quyền... + Đặt những panô, áp phích ở những nơi công cộng có nhiều người qua lại để tuyên truyền về nghĩa vụ nộp thuế. + Phát hành các báo, tạp chí chuyên ngành với trang mục: tìm hiểu pháp luật thuế, thông báo các văn bản chính sách thuế mới ban hành trên các số báo hàng tuần để các đối tượng nộp thuế nắm bắt chính sách kịp thời. + Duy trì thường xuyên các cuộc hội thảo, gặp gỡ các doanh nghiệp trên địa bàn, trong nội bộ ngành hoặc liên ngành và bao gồm nhiều thành phần như cơ quan thuế, các nhà khoa học, các nhà kinh doanh ... để nghe phản ánh các vướng mắc khó khăn nhằm kịp thời tháo gỡ cho doanh nghiệp. + Tập trung công tác tuyên truyền trực tiếp ở cấp cơ sở thông qua mỗi cán bộ thuế làm công tác trực thu nhằm từng bước hoàn thành mục tiêu “mỗi cán bộ thuế là một tuyên truyền viên” 8.Hình thành và phát triển dịch vụ tư vấn thuế. Các dịch vụ tư vấn ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội. Dịch vụ tư vấn thuế là dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, cách xử lý các mối quan hệ liên quan đến đối tượng nộp thuế, phương pháp tính thuế, thuế suất, thủ tục kê khai, thời hạn nộp thuế, điều kiện miễn giảm thuế, hoàn thuế... cho các đối tượng phải nộp thuế có nhu cầu tư vấn thuế. Với sự phát triển của cơ chế thị trường, xuất phát từ yêu cầu quản lý cũng như yêu cầu khách quan của các đối tượng nộp thuế, dịch vụ tư vấn thuế được phát triển dưới hai hình thức: - Thứ nhất, là một dịch vụ công do các cơ quan thuế cung cấp nhằm thông tin kịp thời về các văn bản pháp luật cho các đối tượng nộp thuế để họ thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước. Nhà nước cần truyền tải những kiến thức về thuế đến mọi thành viên trong xã hội, mà tư vấn thuế là một khâu quan trọng để thực hiện nhiệm vụ đó. Đối với đối tượng nộp thuế thì có quyền đòi hỏi cơ quan thuế cung cấp các dịch vụ như: giải đáp các vướng mắc về thuế, được tham gia vào các buổi phổ biến về các luật thuế cũng như các chính sách mới của Nhà nước. - Thứ hai, là một dịch vụ tư do các tổ chức, nhà tư vấn cung cấp cho khách hàng theo hợp đồng. Xuất phát từ đối tượng nộp thuế, từ hệ thống pháp luật về thuế và chính các cơ quan thuế tạo nên nhu cầu tư vấn thuế. Trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển, sự chuyêm môn hoá ngày càng cao thì sự phát triển của các hình thức dịch vụ tu vấn ngày càng phong phú, đa dạng. Theo đó tất yếu dẫn đến sự hình thành các tổ chức dịch vụ tư vấn thuế. Đặc biệt đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ, không cần bộ máy kế toán hoàn chỉnh, vì số lượng chứng từ kinh tế phát sinh không nhiều thì việc thuê các tổ chức Tư vấn thuế sẽ tiết kiệm chi phí, bảo đảm thực hiện đúng các luật thuế. Các tổ chức này là các tổ chức kinh doanh, họ thu phí cung cấp dịch vụ nhưng có hoá đơn nên các doanh nghiệp thuê họ có chứng từ hoạch toán chi phí. Và tuy phải trả phí nhưng với thời gian nghiên cứu để kê khai thuế thì họ dành để làm công việc chuyên môn có thu nhập cao hơn so với chi phí bỏ ra. Việc tổ chức dịch vụ Tư vấn thuế không chỉ tiết kiệm chi phi cho doanh nghiệp mà còn tiết kiệm chi phí cho bộ máy quản lý thuế. Bởi đối với doanh nghiệp, kế toán là công cụ quan trọng để điều hành quản lý, kế toán cung cấp các thông tin cần thiết cho các nhà quản lý và những ngừời có liên quan. Khi hệ thống chứng từ sổ sách chuẩn mực hơn, tăng cường tính tuân thủ pháp luật sẽ giúp cho cơ quan thuế hoàn thanh tốt công tác quản lý, thu nộp thuế. Phát triển mạng lưới tư vấn thuế và những vấn đề có liên quan đến thuế, sẽ giúp cho ngành Thuế và Chính phủ có thêm những thông tin cần thiết dể nắm bắt thực tiễn và trên cơ sở đó để hoàn thiện luật thuế và các văn bản hướng dẫn. Như vậy, tư vấn thuế là một dịch vụ quan trọng và cần thiết góp phần tích cực vào việc tuyên truyền các chính sách thuế, thực sự là cầu nối giữa chính sách thuế với cơ sở kinh doanh. Để thúc đẩy dịch vụ tư vấn thuế phát triển trong điều kiện hiện nay, xin kiến nghi một số giải pháp: + Thể chế hoá bằng văn bản các dịch vụ tư vấn nói chung, tư vấn thuế nói riêng. Cho phép thành lập dịch vụ tư vấn thuế hành nghề độc lập giống như các dịch vụ tư vấn khác như tư vấn luật, tư vấn đầu tư xây dựng... dưới hai hình thức: Trung tâm dịch vụ tư vấn thuế Nhà nước: Trung tâm này có thể cung cấp mọi dịch vụ về thuế bao gồm cả mở các lớp học bồi dưỡng cơ bản, bồi dưỡng nâng cao nhận thức về thuế, cách tính thuế và ghi chép sổ sách kế toán liên quan. Dịch vụ tư vấn thuế tư nhân: Đây là dịch vụ do các công ty tư vấn, các nhà tư vấn độc lập cung cấp. Họ cung cấp những thông tin cụ thể cho các tổ chức và người dân. Nhưng để hình thức này phát triển thì Chính phủ và ngành Thuế cần có những quy định chi tiêt và cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ, về trách nhiệm, quyền hạn của họ trước pháp luật. + Khuyến khích và có cơ chế ưu đãi phát triển các tổ chức tư vấn thuế. + Hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng lực cho các chuyên gia, cán bộ công tác tư vấn thuế. + Cải thiện điều kiện tiếp cận thông tin cho các tổ chức, các nhà tư vấn. + Đẩy mạnh hội nhập trong lĩnh vực tư vấn bằng việc tạo điều kiện cho các tổ chức tư vấn trong việc thuê chuyên gia nước ngoài. + Tăng cường công tác tuyên truyền cho các doanh nghiệp sử dụng tư vấn thuế trong hoạt động của mình. 9. xử lý nghiêm khắc những doanh nghiệp, cá nhân có các hành vi vi phạm các quy định, những cán bộ thuế , hải quan tiếp tay cho các hành vi vi phạm. Các hành vi vi phạm ở đây cần được hiểu là những hành vi vi phạm các quy định về chế độ kế toán , hoá đơn, chứng từ , là những hành vi gây thất thu cho ngân sách nhà nước . Đối với những hành vi này cần xử phạt thật nặng . trốn thuế thì phạt truy thu gấp nhiều lần số thuế định trốn. Thậm chí phải quy định hành vi trốn thuế là hành vi vi phạm luật hình sự phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Hành vi tiếp tay cho việc trốn thuế, lợi dụng việc hoàn thuế để rút tiền ngân sách nhà nước của các cán bộ ngành thuế , ngành hải quan lại cực kì nguy hiểm . nó không những gây thất thoát ngân sách nhà nước với số lượng lớn mà còn gây thoái hoá biến chất những cán bộ nhà nước. Vì vậy, cần nghiêm trị những cán bộ thoái hoá biến chất này. Bên cạnh những biện pháp cần làm nêu trên thực hiện nhiều biện pháp kết hợp như phải tăng cường công tác thanh tra kiểm tra đặc biệt đối với hồ sơ xin hoàn thuế , bổ sung lý lịch người muốn thầnh lập doanh nghiệp , hiện đại hoá công tác thu thuế , yêu cầu các đơn vị xuất khẩu phải thanh toán qua ngân hàng .....v.v... Đồng thời, phải tiếp tục hoàn thiện các luật thuế khác như: luật thuế xuât – nhập khẩu, luật thuế thu nhập doanh nghiệp.... để việc khấu trừ đầu vào thuế GTGT mang đúng tác dụng tích cực của nó đối với nền kinh tế nước ta hiện nay . Tóm tắt : Trong phần này ta đã nghiên cứu một số hướng hoàn thiện vấn đề kế toán thuế GTGT đầu vào trong các doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu trừ thuế, tính khả thi của những đề xuất, kiến nghị trên là có cơ sở vì phần lớn những đề xuất đều nhằm khắc phục những thiếu sót, hạn chế của vấn đề kế toán thuế GTGT đầu vào đã được trình bày ở phần II. Kết luận Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới , chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian qua chúng ta đã và đang giành được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong đó thuế GTGT đóng góp một phần rất quan trọng.Chúng ta có thể khẳng định rằng sự ban hành Luật thuế GTGT thay thế cho Luật thuế doanh thu ở Việt Nam là một tất yếu khách quan phù hợp sự phát triển của nền kinh tế và trình độ xã hội ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được luật thuế GTGT đang có nhiều vấn đề bất cập cần những giải pháp hoàn thiện . Trong đó , vấn đề kế toán thuế GTGT đầu vào trong các doanh nghiệp hiện nay đang là vấn đề rất bức xúc , thu hút sự quan tâm của nhiều nghành , nhiều người . Bên cạnh những tác dụng tích cực như : thúc đẩy khuyến khích xuất khẩu , giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp , thu hút vốn đầu tư nước ngoài .....v.v..Vấn đề thuế GTGT đầu vào còn nhiều lỗ hổng, nhiều bất cập , đang cần những giải pháp hoàn thiện . Với việc thực hiện đề tài ”Thuế GTGT và vấn đề kế toán thuế GTGT đầu vào trong các doanh nghiệp việt nam hiện nay “ này em hy vọng đã góp phần vào việc giải quyết những yêu cầu đặt ra nhằm hoàn thiện kế toán thuế GTGT phù hợp với cơ chế quản lý nền kinh tế ở nước ta hiện nay. danh mục tài liệu tham khảo Bùi Ngọc Chấn - Trần Văn Thục - Nguyễn Ngọc Tú, Ngăn chặn gian lận trong hoàn thuế GTGT, Tạp chí Thuế Nhà nước, số 5/2002. PGS.PTS Ngô Thế Chi, PTS Vũ Công Ty, Thuế và kế toán Thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà nội, 1998. Hệ thống hoá các văn bản pháp luật về thuế GTGT đã được sửa đổi bổ sung, NXB Tài chính, Hà nội, 2001. Lê Quang Hưng, Hoàn thuế GTGT - Hướng hoàn thiện, Tạp chí Tài chính, số 9/2000. Giáo trình kế toán tài chính trong các doanh nghiệp – trường ĐH Kinh tế quốc dân –2001 Giáo trình Quản lý thuế, Trường ĐH Kinh tế quốc dân Hà nội, 2002. Đức Hà , lỗ hổng trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT : nguyên nhân và giải pháp , tạp chí pháp luật - an ninh thương mại Số 23,24/2002 Tạp chí kế toán số 23 , 27,30/ 2000 Hệ thống hoá các văn bản Luật thuế GTGT - Bộ Tài Chính 2001 10. Tạp chí Kinh tế và phát triển, Số 1, 2/ 2002 11.Website : www.worldbank.org.vn 12.Website : mục lục Nội dung Trang Lời nói đầu 1 Phần I. Tổng quan về thuế GTGT 2 1. Những vấn đề chung về thuế GTGT 2 1.1. Các khái niệm chung 2 1.2. Căn cứ và phương pháp tính thuế 3 2. Đặc điểm của thuế GTGT 4 3. Vai trò của thuế GTGT 5 4. Những ưu, nhược điểm của thuế GTGT so với thuế doanh thu ở Việt Nam 6 5. Vấn đề thuế GTGT đầu vào 9 5.1. Khấu trừ thuế GTGT đầu vào 9 5.2. Hoàn thuế GTGT 10 5.3. Kế toán thuế GTGT đầu vào trong các doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu trừ 11 Phần II. thực trạng vấn đề thuế GTGT đầu vào ở việt nam trong thời gian qua 15 1. Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT ở việt nam 15 2. Những thành công của việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào trong thời gian qua 16 3. Những bất cập trong việc hạch toán thuế GTGT đầu vào 17 3.1. Về tài khoản sử dụng 17 3.2. Về văn bản quy phạm pháp luật về khấu trừ thuế GTGT đầu vào 18 3.3. Về quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ 20 3.4. Vấn đề hoàn thuế GTGT 21 3.5. Với vấn đề khấu trừ thuế đầu vào cho hàng hoá xuất khẩu 24 3.6. Với vấn đề khấu trừ thuế GTGT của hàng nhập khẩu 24 Phần III. Một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện vấn đề kế toán thuế GTGT đầu vào 25 1. Về tài khoản sử dụng và phương pháp hạch toán 25 1.1. Về tài khoản sử dụng 25 1.2. Về phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ chủ yếu 26 2. Bổ sung việc khấu trừ thuế GTGT đối với hàng xuất nhập khẩu 27 3. Quy định lại việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào 27 4. Nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác hoàn thuế 28 5. Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn 29 6. Cải tiến công tác hoá đơn chứng từ 29 7. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục 30 8. Hình thành và phát triển dịch vụ tư vấn thuế 30 9. Xử lý nghiêm khắc những doanh nghiệp, cá nhân có các hành vi vi phạm các quy định, những cán bộ thuế, hải quan tiếp tay cho các hành vi vi phạm 32 Kết luận 33 Danh mục tài liệu tham khảo 34

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV192.doc
Tài liệu liên quan