Đề án Thuế GTGT và các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế GTGT

Nhìn chung, việc tiến hành cải cách hệ thống chính sách thuế qua từng thời kỳ đã góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn lịch sử. Hướng tới việc tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, ổn định nhằm phát triển nền kinh tế đa thành phần, phát triển cân đối giữa các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ và mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới nhằm tận dụng các nguồn lực sẵn có trong nước. Trước mắt, còn nhiều việc phải làm để bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng, phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh. Vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cưú, điều chỉnh, sửa đổi những vướng mắc trong chính sách thuế cho phù hợp, nhất là đối với thuế TGGT nhằm khuyến khích sản xuất nội địa hoá sản xuất tư liệu sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, khuyến khích tiêu dùng nhằm đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá. Một số giải pháp đã đưa ra là: xoá bỏ việc thu thuế TGGT đối với hàng hoá nhập khẩu ngay tại cửa khẩu mà thu khi đã đưa vào lưu thông, phát sinh doanh thu; giảm các mức thuế suất; chỉ áp dụng thống nhất phương pháp khấu trừ thuế; quy định cụ thể thời gian hoàn thuế; tạo môi trường pháp lý đồng bộ; củng cố bộ máy công quyền, cán bộ hải quan và cán bộ thuế. Đây là những vấn đề chủ yếu và cần phải được nghiên cứu kĩ thêm.

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1905 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thuế GTGT và các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế GTGT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nó chỉ đánh vào khâu cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá với thuế suất thấp. Đến đầu năm 1920, thuế doanh thu được điều chỉnh, đánh vào từng khâu của quá trình sản xuất. Trong thực tế, cách đánh thuế này phát sinh nhược điểm về tính trùng lắp, sản phẩm càng qua nhiều khâu thì thuế càng cao và thuế chồng lên thuế. Năm 1936, Pháp lại cải tiến doanh thu qua hình thức đánh thuế 1 lần vào công đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất, tức là giai đoạn đầu của lưu thông. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, năm 1954 Chính phủ Pháp đã ban hành loại thuế mới với tên gọi là thuế TGGT (TVA). Lúc đầu TVA được ban hành để áp dụng trước đối với ngành sản xuất, chủ yếu nhằm hạn chế việc thu thuế chồng chéo qua nhiều khâu trong lĩnh vực công nghiệp. Quá trình thống nhất hoá Châu Âu được thúc đẩy vào những năm 50 đã có tác dụng thúc đẩy TVA áp dụng vào các nước khác. Đến năm 1966 TVA được ban hành chính thức để thay thế 1 số sắc thuế gián thu. Khai sinh từ nước Pháp, thuế TGGTđã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều quốc gia. Đến nay đã có trên 100 nước áp dụng thuế TGGT, chủ yếu là các nươc Châu Phi, Châu Mĩ La tinh, các nước trong khối cộng đồng Châu Âu (EEC) và một số nước Châu á. II- Xây dựng mô hình thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam 1. Tình hình áp dụng thuế doanh thu ở Việt Nam. Đại hội lần thứ VI của Đảng là một bước ngoặt lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới ở nước ta, trong đó có sự đổi mới về chính sách thuế. Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách kinh tế, luật thuế doanh thu đã được Quốc Hội thông qua ngày 30/06/1990 để thay thế chế độ thu quốc doanh, thuế doanh nghiệp, thuế buôn chuyến, thuế hàng hoá đối với một số mặt hàng trước đây chịu thuế hàng hoá. Thuế doanh thu là một thuế sắc thuế gián thu, một loại thuế thu vào các hoạt động kinh doanh thương nghiệp, kinh doanh nông nghiệp (không thuộc diện nộp thuế nông nghiệp) hoặc cung cấp dịch vụ, thuế được thu qua mỗi lần phát sinh bán hàng, bán sản phẩm hoặc dịch vụ. Thuế nằm trong giá sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ cung cấp và do người tiêu thụ phải trả khi mua sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ nhưng các cơ sở sản xuất kinh doanh có trách nhiệm phải nộp số thuế thu hộ này vào kho bạc nhà nước trong thời hạn qui định. Thuế doanh thu được áp dụng thống nhất với cả hai khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh. Ưu điểm: Khi thuế doanh thu được đưa vào áp dụng trong thực tế thì dưới con mắt các nhà phân tích kinh tế thuế này có những ưu điểm nổi bật sau: Điều dễ thấy nhất là thuế doanh thu được áp dụng thống nhất chung đối với cả thành phần quốc doanh và thành phần ngoài quốc doanh, vì vậy đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần này và tạo sự bình đẳng công bằng về cuộc sống, động viên thuế giữa những người tiêu dùng cho ngân sách nhà nước. Thêm vào đó, thuế được áp dụng rộng rãi với mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc mọi ngành nghề, hoạt động thường xuyên hoặc không thường xuyên, có địa điểm cố định hay lưu động . Vì vậy, thuế doanh thu đã trở thành một nguồn thu tương đối quan trọng, ổn định của ngân sách nhà nước từ năm 1991 đến năm 1995, thuế doanh thu đã tăng nhanh qua các năm ( từ 35% đến 45%) và chiếm từ 16,5% đến 20,3%, tổng số thuế và chi phí trong ngân sách nhà nước . Mặt khác thông qua cơ cấu thuế suất cao, thấp khác nhau (từ 0% đến 30%) giữa các ngành nghề, nhà nước thể hiện quan điểm khuyến khích hay hạn chế, nhằm hướng dẫn, điều chỉnh nền kinh tế có lợi cho quốc kế dân sinh theo hướng phát triển của đất nước. Riêng đối với khu vực kinh tế quốc doanh đã được nhà nước ưu đãi chiếu cố về miễn giảm thuế, giúp đỡ khắc phục một số khó khăn trong bước đầu chuyển đổi cơ chế sản xuất , kinh doanh, bảo đảm nộp Và cuối cùng với biện pháp tính thuế doanh thu đơn giản đã thuận tiện cho việc kiểm tra của các tổ chức. Có thể công nhận rằng, sự ra đời của thuế doanh thu là rất phù hợp với giai đoạn chuyển đổi và nó linh hoạt hơn hẳn chế độ thu quốc doanh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thuế doanh thu đã bộc lộ những nhược điểm hạn chế chủ yếu sau: -Thuế tính trên toàn bộ doanh thu (bao gồm cả thuế doanh thu) qua từng khâu lưu chuyển đã ảnh hưởng không tốt đến giá cả và sản xuất kinh doanh. Cùng một mặt hàng nếu được tổ chức sản xuất và lưu chuyển qua ít khâu, tổng số thuế phải nộp sẽ thấp hơn so với việc tổ chức qua nhiều khâu và do đó không phù hợp với cơ chế thị trường. - Do thuế doanh thu có nhiều nhóm thuế suất khác nhau, do thiếu căn cứ xác định thuế chính xác, thuế suất lại chênh lệch nhau nhiều nên đã phát sinh không ít tiêu cực, tuỳ tiện trong vận dụng luật thuế. -Thuế doanh thu chưa thu đối với mặt hàng thuộc diện đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, hàng nhập khẩu, hàng xuất khẩu nên chưa tạo được môi trường thuận lợi cho việc hoà nhập với thông lệ khu vực quốc tế, chưa hỗ trợ hàng xuất khẩu giảm giá thành để có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 2. Sự cần thiết phải đưa thuế trị giá gia tăng vào áp dụng tại Việt Nam. Từ những phân tích trên, dễ thấy là đã rất tiến bộ nhưng thuế doanh thu cũng đã bộc lộ những hạn chế gây ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế thị trường, cho tới thời điểm này, một yêu cầu đặt ra là cần phải có một loại thuế mềm dẻo hơn thay thế cho thuế doanh thu. Lúc này trên thế giới đang áp dụng một loại thuế có tên là thuế trị giá gia tăng, thuế này được khai sinh từ Pháp, có nguồn gốc từ thuế doanh thu với một số ưu điểm chủ yếu sau; - Tránh được hiện tượng đánh thuế chồng lên thuế, phù hợp với nền kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường. -Thuế trị giá gia tăng thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng, được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm, hàng hoá hoặc được cung ứng dịch vụ, nên có thể tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. - Thuế tính trên giá bán hàng hoặc giá dịch vụ nên không phải đi sâu xem xét, phân tích về tính hợp lý , hợp lệ của các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức quản lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu. - Thuế được hoàn đối với hàng xuất khẩu nên có tác dụng giảm chi phí đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế. - Thuế trị giá gia tăng kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá đối với hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất, kinh doanh hàng nội địa. -Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu trừ thuế trị giá gia tăng được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy ngươì mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán, khắc phục được tình trạng thông đồng giữa hai người mua và bán để trốn lậu thuế - Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp thuếViệc kiểm tra thuế trị giá gia tăng cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải lập và lưu trữ chứng từ hoá đơn đầy đủ, nên việc thu thuế tương đối sát thực tế hoạt động kinh doanh. - Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá chuyên môn hoá sản xuất, tích cực đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá thành sản phẩm Nhìn chung, trong các sắc thuế gián thu, thuế trị giá gia tăng được coi là phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao và đạt được mục tiêu lớn của chính sách thuế như tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, đơn giản, trung lập. Tuy nhiên, cái gì cũng có tính hai mặt của nó và nhược điểm của trị giá gia tăng cũng chính xuất phát từ loại thuế này. Nhược điểm đầu tiên dễ thấy nhất là chi phí về quản lý. Để thực hiện tốt thuế trị giá gia tăng, công tác ghi chép hoá đơn, sổ sách kế toán của người nộp thuế phải rõ ràng, minh bạch. Do đó hầu hết các nước đang thực hiện thuế trị giá gia tăng đều phải sử dụng máy tính để bảo đảm chống thất thu thuế đạt hiệu quả và quản lý thu thuế được thuận lợi. Nếu không theo dõi và quản lý chặt chẽ, dễ xảy ra tình trạng phải hoàn thuế nhiều hơn là thu thêm được thuế. -Thuế trị giá gia tăng có ít thuế suất, nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp thường phải nộp thuế giống nhau, thuế mang tính luỹ thoái. - Giữa lý luận và thực tiễn, thuế trị giá gia tăng cũng có những điểm chưa được nhất quán., cách đánh thuế và khấu trừ thuế trị giá gia tăng như thế nào là hợp lý,như thế nào là thoả đáng? - Do thiếu tính linh hoạt mềm dẻo nên thuế TGGT không thật thích hợp với nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia. -Thuế trị giá gia tăng với những ưu điểm rất lớn nhưng nhược điểm cũng không nhỏ, vì vậy đã bị phản ứng và không được chấp nhận một cách dễ dàng Ví dụ: ở Nhật Bản, thuế trị giá gia tăng mặc dù đã có đề xuất ban hành từ năm 1955, nhưng cho đến năm 1988 mới được Quốc hội Nhật Bản thông qua.Khi gia nhập khối Cộng đồng Châu Âu năm 1981, Hy Lạp đã đồng ý ban hành thuế tri giá gia tăng, nhưng lại tìm lý do để trì hoãn cho đến năm 1987 mới chính thức ban hành. Với hơn 100 nước áp dụng thuế trị giá gia tăng, đó là một con số không nhỏ nhưng rõ ràng là để đạt tới con số đó thì thuế này đã phải chịu sự phản đối gay gắt tứ các nước trên thế giới. Vì vậy nó đòi hỏi phải được nghiên cứu xem xét một cách kĩ lưỡng. 3. Điều kiện áp dụng thuế trị giá gia tăng ở Việt Nam. Một câu hỏi đặt ra là: liệu trị giá gia tăng có thể áp dụng ở Việt Nam ? Như đã nói ở trên thuế trị giá gia tăng có nhược điểm là thiếu tính linh hoạt, mềm dẻo, không thật sự thích hợp với nền kinh tế mới bước đầu bước sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Do đó điều kiện cần thiết để áp dụng thuế trị giá gia tăng ở Việt Nam là: - Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, mua bán hàng hoá lớn phải thức hiện đầy đủ chế độ chứng từ, hoá đơn thuận tiện cho việc kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng cơ sở kinh doanh. - Trình độ cán bộ quản lý thu thuế được nâng cao về chứng từ hoá đơn, sổ kế toán thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế khấu trừ thuế hoàn thuế trị giá gia tăng. Cơ quan thuế từng bước trang bị hệ thống máy vi tính, cán bộ ngày càng thông thạo về sử dụng các mạng máy tính, đạt hiệu quả cao. - Mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định doanh thu bán hàng, làm căn cứ cho việc tính thuế được chính xác. - ý thức tự nguyện tự giác chấp hành các luật thuế của các nhà doanh nghiệp từng bước được nâng lên theo phương châm tăng cường “đức trị” gắn với việc xử lý các vi phạm về thuế nghiêm minh theo phương châm “pháp trị”. - Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đưa dần việc thực hiện pháp luật vào nề nếp kỷ cương, cả trong nhận thức tư tưởng và trong hành động thực tế . Mỗi điều kiện đều có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau, đồng thời có mối quan hệ bổ sung, hổ trợ lẫn nhau để việc triển khai luật thuế trị giá gia tăng được đồng bộ đạt hiệu quả tốt. Từ những vấn đề nêu trên, liên hệ với thực tế ở Việt Nam, câu hỏi đặt ra là chúng ta đã có đủ các điều kiện để áp dụng thuế trị giá gia tăng chưa? Nếu áp dụng thuế trị giá gia tăng, thì nên theo mô hình nào cho thích hợp với tình hình trước mắt và lâu dài ở Việt Nam. Câu trả lời không thể vội vàng, chủ quan, mang tính khẳng định một chiều mà cần được phân tích, cân nhắc trên nhiều quan điểm, cả thuận lợi và khó khăn, tìm ra một phương án tối ưu có thể chấp nhận được trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, có hai quan điểm trái ngược nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, hiện nay ở Việt Nam chưa có điều kiện và chưa nên áp dụng thuế trị giá gia tăng với các lý do cơ bản là : Nền kinh tế nước ta mới chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, sản xuất hàng hoá chưa phát triển đồng đều. Với thuế doanh thu hiện nay có nhiều thuế suất khác nhau, nếu chuyển sang hình thức thu có ít thuế suất(1 hoặc 3 - 4 thuế suất) sẽ phát sinh nhiều vấn đề. Vì vậy, nếu không có biện pháp xử lý thích đáng sẽ gây nhiều tác động đến nền kinh tế xã hội. - Hiện nay, tình trạng thức hiện chế độ hoá đơn sổ kế toán còn quá lỏng lẻo. Nhược điểm này không thể khắc phục nhanh chóng trong toàn bộ nền kinh tế, do vậy khó có cơ sở xác đáng để áp dụng việc khấu trừ tiền thuế trị giá gia tăng được đúng đắn. - Hệ thống văn bản pháp quy còn chưa hoàn chỉnh, đồng bộ và thiếu ổn định. Thiếu tổ chức cưỡng chế, hiệu lực pháp chế chưa cao. Trình độ cán bộ thuế tuy đã được bồi dưỡng, nâng cao nhưng về thực chất còn yếu, chưa đủ sức bảo đảm việc quản lý, thu thuế trị giá gia tăng. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, chúng ta cần khẩn trương nâng cấp, sớm xây dựng và ban hành thuế trị giá gia tăng thay thế thuế doanh thu với các lý do: - Khắc phục các nhược điểm của thuế doanh thu, chủ yếu là tính trùng lặp và hệ thống quá phức tạp. - Thực hiện thuế trị giá gia tăng tự nó sẽ khuyến khích, thúc đẩy việc sử dụng chứng từ, hoá đơn, sổ kế toán, bảo đảm việc thu thuế ngày càng sát hơn với thực tế hoạt động của từng cơ sở, vừa khắc phục thất thu, vừa tránh lạm thu. - Thúc đẩy hoạch toán kinh tế, tứng bước loại bỏ các doanh nghiệp, các cơ sở làm ăn đạt hiệu quả thấp không đủ nộp thuế đảm bảo nền kinh tế xã hội phát triển lành mạnh nhanh chóng. - Việc xây dựng các văn bản pháp quy cần thiết và tổ chức hành chính đang từng bước triển khai và phát huy tác dụng sẽ tạo tiền đề cần thiết cho sự ra đời và phát huy tác dụng của trị giá gia tăng. Về cơ bản, loại ý kiến thứ hai phù hợp với quan điểm trong xây dựng thuế trị giá gia tăng ở nhiều nước. Nhà nước ta vẫn áp dụng và nghiên cứu đổi mới thuế trị giá gia tăng III.hạch toán thuế gtgt. 1. Chứng từ sử dụng. Chứng từ kế toán là cơ sở pháp lý của mọi số liệu ghi chép trong các sổ kế toán.Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong đơn vị kế toán đều phải lập chứng từ.Chứng từ sử dụng để hạch toán thuế GTGT bao gồm: -Hoá đơn(GTGT)-ký hiệu: 01 GTKT-3LL:là loại hoá đơn sử dụng cho các tổ chức,cá nhân tính thuế theo phương pháp chiết khấu trừ,bán hàng hoá,dịch vụ với số lượng lớn. -Hoá đơn(GTGT)-ký hiệu: 01 GTKT-2LL:là loại hoá đơn sử dụng cho các tổ chức,cá nhân tính thuế theo phương pháp khấu trừ,bán lẻ hàng goá dich vụvới số lượng nhỏ. -Hoá đơn bán hàng-ký hiêu:02 GTKT-3LL:là loại hoá đơn sử dụngcho các tổ chức,cá nhân tính thuế thoe phương pháp trực tiếp,bán hàng hoá dịch vụ với số lượng lớn. -Hoá đon bán hàng-02 GTTT-2LL:là loại hoá đơn sử dụngcho các tổ chức,cá nhân tính thuế theo phương pháp trực tiếp,bán lẻ hàng hoá,dịch vụ với số lượng nhỏ. -Mẵu tờ khai,đăng ký,nộp thuế,quyết toán thuế GTGT:Các cơ sở kinh doanh hàng hoá,dịch vụ chịu thuế GTGT phải lập và gửi cho cơ quan thuế tờ khai tính thuế GTGT từng tháng kèm theobảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra theo mẫu quy định . 2. TK sử dụng hạch toán thuế GTGT. *TK 133 –“Thuế GTGT được khấu trừ “. Bên Nợ: -Số thuế GTGT được khấu trừ Bên Có: -Số thuế GTGT đầu vào đã được khấu trừ -Kết chuyển số thuế GTGTđầu vào không được khấu trừ -Số thuế GTGT đầu vào đã hoàn lại -Số thuế GTGT của chiết khấu thương mại,giảm giá,hàng mua trả lại người bán Số dư bên Nợ: -Số thuế GTGTđầu vào còn được khấu trừ,số thuế GTGTđầu vào được hoàn lại nhưng ngân sách nhà nước chưa hoàn lại TK 133 có 2 tài khoản cấp 2: -TK 1331 - thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá ,dịch vụ -TK 1332- thuế GTGT được khấu trừ của TSCD *TK 3331-“Thuế GTGT phải nộp” Bên Nợ: Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ -Số thuế GTGT đã nộp vào ngân sách nhà nước -Số thuế GTGTđược trừ vào số thuế GTGTphải nộp -Số thuế GTGTcủa hàng bán bị trả lạ,giảm giá hàng bán và chiết khấu thương mại khi bán hàng Bên Có: -Thuế GTGT đầu ra: +Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá ,dịch vụ đã tiêu thụ +Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá,dịch vụ dùng để trao đổi biếu tặng ,sử dụng nội bộ +Số thuế GTGT phải nộp của doanh thu hoạt động TC,thu nhập hoạt động khác +Số thuế GTGTphải nộp của hàng hoá nhập khẩu Số dư bên Có: -Số thuế GTGT còn phải nộp cuối kỳ Số dư bên Nợ: -Số thuế GTGT đã nộp thừa vào ngân sách nhà nước TK 3331 có 2 TK cấp 2: -TK 33311-thuế GTGT đầu ra của hàng hoá ,dịch vụ tiêu thụ -TK 33312-thuế GTGT hàng nhập khẩu 3.Phương pháp hạch toán 3.1 Đối với doanh nghiệp hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Đầu vào Đầu ra Trị giá mua hàng hoá, dịch vụ, tài sản Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Doanh thu bán hàng hoá … Thuế GTGT đầu ra phải nộp Số thuế GTGT được khấu trừ trong kỳ Phân bổ thuế GTGT cho các đối tượng không chịu thuế Được hoàn thuế Khi nộp thuế vào NSNN 331, 111, 112 152, 153, 156, 611, 211… 511, 512 131, 111, 112 133 333 142, 632 111, 112 3.2 Đối với doanh nghiệp hạch toán thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp Mua hàng hoá sử dụng ngay vào sản xuất kinh doanh (Tổng giá thanh toán bao gồm cả thuế GTGT Mua hàng hoá, công CCDC … (tổng giá thanh toán bao gồm cả thuế GTGT) Thuế nhập khẩu Khi nộp thuế nhập khẩu Khi nộp thuế GTGT Thuế GTGT phải nộp của hàng nhập khẩu Cuối kỳ xác định số thuế GTGT của HĐSXKD, HĐTC, HĐ bất thường Doanh thu bán hàng hoá… (tổng giá thanh toán : bao gồm cả thuế GTGT) Doanh thu các hoạt động khác (tổng giá thanh toán bao gồm cả thuế GTGT) Mua hàng nhập khẩu 111, 112, 331 627, 641, 241 511, 512, 131, 111, 112 152, 153, 156 711, 712 642, 635, 811 3333 3331 4. Sổ kế toán. chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp được thực hiện theo chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 của bộ trưởng bộ tài chính và có bổ sung ba mẫu sổ sau đây: Sổ theo dõi thuế GTGT(mẫu số S01-DN): Sổ này chỉ áp dụng cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và ghi sổ kế toán đơn. Đồng thời được sử dụng để phản ánh số thuế GTGT phải nộp, đã nộp, và còn phải nộp. Sổ chi tiết thuế GTGT được hoàn lại (Mẫu số S02-DN): Sổ này áp dụng cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Đồng thời được dùng để ghi chép phản ánh số thuế GTGT được hoàn lại, đã hoàn lại, và còn được hoàn lại cuối kì báo cáo. Sổ chi tiết thuế GTGT được miễn giảm (S03-DN): Sổ này áp dụng cho các cơ sở kinh doanh thuộc các nghành và các thành phần kinh tế. Đồng thời được sử dụng để ghi chép số thuế được miễn giảm cuối kì báo cáo IV. Thực trạng áp dụng thuế giá trị gia tăng và các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế giá trị gia tăng. 1. Đánh giá kết quả thực hiện và những vấn đề rút ra Kể từ ngày luật thuế giá trị gia tăng chính thức được ban hành , đến nay luật thuế này đã chính thức đi vào cuộc sống. Điều ghi nhận đầu tiên là luật thuế giá trị gia tăng đã bảo đảm các yêu cầu của bộ chính trị đề ra là không làm ảnh hưởng lớn đến các dự toán thu chi ngân sách nhà nước, ổn định thị trường không để xảy ra biến động lớn về tình hình giá cả làm ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Những hoang mang ban đầu của người dân về ảnh hưởng thuế sẽ làm tăng giá cả hàng hoá đã dần mất đi và thay vào đó là sự tin tưởng. Đến nay hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế vẫn ổn định và phát triển. Trong bối cảnh hiện nay nước ta đang là một nước phát triển ở một trình độ thấp, chắc chắn sẽ không tránh khỏi sự thua thiệt bị chèn ép thậm chí các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước có thể bị phá sản hàng loạt. Sự tự do và công bằng của môi trường kinh doanh không cho phép nhà nước bảo hộ trực tiếp các nhà đầu tư trong nước, vì vậy thuế được xem là giải pháp quá độ giúp các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước có được sự cân bằng trong cạnh tranh Luật thuế mới đã góp phần khuyến khích và ổn định sản xuất kinh doanh đẩy mạnh xuất khẩu và bảo hộ sản xuất trong nước. Do cơ chế khấu trừ hoặc hoàn thuế giá trị gia tăng đã tạo điều kiện cho các công trình đầu tư cơ bản giảm khoảng 10% so với trước đây áp dụng thuế doanh thu. Thêm vào đó toàn bộ thuế giá trị gia tăng của công trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng, không tính vào giá thành công trình như thuế doanh thu, vì vậy chi phí khấu hao tài sản cũng giảm thấp hơn. Các doanh nghiệp mua sắm tài sản cố định có thuế giá trị gia tăng đều được khấu trừ hoặc hoàn thuế. Ngoài ra, với những thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, loại trong nước chưa sản xuất được phải nhập khẩu để đầu tư vào tài sản cố định theo dự án hay sử dụng trong doanh nghiệp thì không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng. Đối với các công trình đầu tư bằng vốn ODA không hoàn lại thì không chịu thuế giá trị gia tăng, còn nếu thuộc loại vốn ODA vay thì được hoàn thuế giá trị gia tăng trong thời gian ba ngày kể từ ngày nộp tờ khai. Từ ngày 1/1/1999 đã qui định giảm 50% mức thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm xây dựng cơ bản thì mức thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp xây lắp còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào bình quân chỉ còn 1% đến 2% thấp hơn so với mức 4% khi nộp thuế doanh thu, thậm chí còn phải hoàn thuế cũng là giải pháp tích cực phù hợp với chủ trương kích cầu, giảm khó khăn tài chính đối với các doanh nghiệp xây lắp, từ đó cũng khuyến khích đầu tư hơn. Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản giá tính thuế giá trị gia tăng được trừ giá trị đất thuộc đối tượng chịu thuế chuyển quyền sử dụng đất nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư xây dựng nhà, cơ sở hạ tầng để bán hoặc cho thuê nhà, tạo điều kiện thuận lợi cho người có việc làm, có thu nhập thấp có nhà ở. Không những thế, thuế giá trị gia tăng cùng các chính sách khác đã khuyến khích tối đa xuất khẩu do đại bộ phận đều áp dụng mức thuế giá trị gia tăng xuất khẩu là 0%, tức được hoàn toàn bộ số thuế giá trị gia tăng đã nộp ở đầu vào và không phải nộp thuế giá trị gia tăng ở đầu ra. Việc áp dụng mức thuế suất như vậy đã làm giảm chi phí và do đó hạ giá thành hàng xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp tập trung tìm nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá trên thị trường quốc tế.Chỉ riêng năm 1999 nhà nước đã hoàn gần 1.800 tỷ đồng thuế giá trị gia tăng, trong đó chủ yếu là hoàn thuế hàng hoá xuất khẩu. Đối với vật tư , nguyên liệu nhập khẩu để gia công hàng xuất khẩu cho nước ngoài không chịu thuế nhập khẩu, đồng thời cũng không chịu thuế giá trị gia tăng nên đã tạo điều kiện cho hoạt động gia công xuất khẩu phát triển.Vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng chịu thuế giá trị gia tăng xuất khẩu thì được kéo dài thời gian nộp thuế giá trị gia tăng ở khâu nhập khẩu là 9 tháng hoặc dài hơn nữa Trong thời gian đầu áp dụng những tiến bộ của thuế giá trị gia tăng đã dần phát huy và ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế nước ta, về cơ bản ta đã khắc phục được tình trạng “thuế đánh trên thuế”, tình trạng kinh doanh lỗ vẫn phải nộp thuế thay cho người tiêu dùng. Hơn nữa việc đưa thuế giá trị gia tăng vào cuộc sống còn là một điều kiện để đẩy nhanh quá trình hội nhập ngày cáng sâu sắc và toàn diện của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế khu vực và nến kinh tế thế giới, góp phần cải thiện môi trường thu hút đầu tư trực tiếp của người nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, nghiêm túc đánh giá kết quả đã đạt được trong thực hiện luật thuế giá trị gia tăng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, bản thân luật thuế giá trị gia tăng đã ban hành và gắn liền với nó là việc chỉ đạo thực hiện, đã bộc lộ những nhược điểm làm ảnh hưởng đến công tác quản lý nến kinh tế quốc dân ở những mức độ khác nhau. Trước hết, việc thu thuế giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu ngay tại cửa khẩu là việc làm mâu thuẫn ngay với bản thân khái niệm về thuế giá trị gia tăng. Bởi lẽ, luật thuế trị giá gia tăng đã khẳng định: “thuế giá trị gia tăng là loại thuế đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất lưu thông đến tiêu dùng”. Luật đã khẳng định như vậy song trên thực tế các doanh nghiệp nươc ta đang phải nộp thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng nhập khẩu ngay khi hàng mới về đến cảng, điều bất hợp lý hơn nữa là việc nộp thuế giá trị gia tăng đầu vào này được thu tính trên tổng trị giá lô hàng nhân với thuế suất chứ không phải tính trên trị giá tăng thêm như luật đã qui định. Trong khi đó, chưa một nhà kinh tế nào của Việt Nam và trên thế giới, chứng minh được rằng, toàn bộ giá CIF cộng thuế nhập khẩu của hàng nhập khẩu là giá trị tăng thêm của hàng hoá đó ! Đồng thời, trong thực tế điều này cũng không đem lại hiệu quả gì lớn cho việc tăng nguồn thu của ngân sách nhà nước, ngoại trừ ngân sách nhà nước có thể chiếm dụng được của một số doanh nghiệp số tiền nhất định trước khi hoàn thuế. Giải thích về sự vô lý này,có ý kiến cho rằng đó là chính sách bảo hộ hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng nếu sử dụng thuế như một giải pháp bảo hộ và bảo vệ tuyệt đối trước sự cạnh tranh của hàng nhập thì sẽ là sai lầm vô cùng quan trọng. Bởi vì trong trường hợp cứ duy trì các doanh nghiệp lạc hậu về thiết bị, làm ăn kém hiệu quả, tạo ra mặt hàng không thoả mãn yêu cầu lợi ích xã hội thì chính sách thuế theo hướng này được coi là giải pháp “tự sát” của nền kinh tế. Chính vì sự duy trì này sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách thậm chí nhà nước phải bù lỗ cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Sự bao cấp sẽ dẫn đến thủ tiêu cạnh tranh và có nghĩa là thủ tiêu động lực thúc đẩy xã hội phát triễn. Do đó, bảo hộ sản xuất trong nước là cần thiết và có nhiều biện pháp, chính sách thuế không phải là biện pháp duy nhất. Thứ hai, sự tồn tại song song hai phương pháp xác định thuế giá trị gia tăng là phương pháp trực tiếp và khấu trừ, tương ứng với hai phương pháp đó là hai loại hoá đơn đã làm mất tính thống nhất của luật thuế này. Quan trọng hơn là một trong những mục tiêu lớn đã được đề ra khi thực hiện luật thuế giá trị gia tăng là “bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh trong nền kinh tế", đã không thực hiên được do sự tồn tại hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng và hai loại hoá đơn nêu trên. Thứ ba, từ 11 mức thuế suất của thuế doanh thu, giảm xuống còn bốn mức thuế suất trong thuế giá trị gia tăng, không ít những doanh nghiệp trong cả nước có số thuế giá trị gia tăng phải nộp cao hơn nhiều lần so với thuế doanh thu trước đây. Do chưa thể chuyển đổi kịp, nhưng doanh nghiệp này đã bị thu lỗ, gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh.Từ đó “những giải pháp tình thế “ hay là “ những bước lùi sách lược” như giảm thuế giá trị gia tăng cho một số sản phẩm hàng hoá, mở rộng phạm vi được khấu trừ thuế đầu vào với những tỷ lệ khấu trừ khác nhau, đã được áp dụng. Các giải pháp tình thế nêu trên được giải quyết bằng các văn bản dưới luật như nghị định của chính phủ, thông tư hướng dẫn của bộ tài chính , các công văn hướng dẫn của tổng cục thuế . Do đó, cho đến nay hệ thống hướng dẫn thi hành luật thuế giá trị gia tăng đã rơi vào tình trạng chồng chéo chắp vá và khó hiểu.Trong các thông tư hướng dẫn thi hành luật thuế giá trị gia tăng, có những thông tư thiếu thực tế, gây khó khăn cho các doanh nghiệp.Trong đó thông tư số 72/1999/TT-BTC . Cũng từ chính sách chế độ thuế còn nhiều chỗ chưa hợp lý như thế suất thuế biểu quá phức tạp, chi li , không phù hợp với thực tiễn và khả năng đóng góp của các tầng lớp dân chủ chưa thực sự bảo đảm công bằng giữa các ngành , mà trên thực tế không có điều kiện phân biệt rõ ràng để vận dụng đúng thuế suất, tạo khe hở cho việc vận dụng tuỳ tiện, tiêu cực. Kinh nghiệm chung cho thấy, thuế suất càng cao càng thúc đẩy người nộp thuế dở mọi thủ đoạn trốn lậu thuế . Việc qui định miễn giảm thuế tràn lan, làm sói mòn luật thuế gây nhiều khó khăn cho việc xác định các trường hợp xem xét miễn giảm thuế, dễ tạo vận dụng tuỳ tiện, gây thất thu thuế. Thực tế đã có rất nhiều doanh nghiệp cố tình áp dụng “nhầm” tỷ suất thuế với các mặt hàng để trốn lậu thuế. Thứ tư, các quy trình tiến hành thu của thuế giá trị gia tăng hoàn toàn khác so với thuế doanh thu trước đây. Do chưa được chuẩn bị đầy đủ và việc trang bị kỹ thuật còn quá thiếu, không ít cơ quan thuế cấp tỉnh và thành phố tỏ ra lúng túng. Đặc biệt, công tác hoàn thuế trong một thời gian dài thực hiện quá chậm, tạo ra những khó khăn không đáng có về vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc và đã gây ra những phản ứng ( có lúc, có nơi khá gay gắt) của các doanh nghiệp. Thủ tục hoàn thuế và thời gian hoàn thuế không đúng theo luật. Ngành thuế còn gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, nhiều văn bản và quy định của ngành hải quan ngành thuế không tiềm hiểudo đó gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Hồ sơ hoàn thuế tưởng chừng rất đơn giản nhưng đơn vị phải chạy đi chạy lại nhiều lần mới có thể hoàn tất được bộ hồ sơ hợp lệ có đủ tám chữ ký. Tuy nhiên một tiến bộ lớn trong cải cách hành chính là ngành thuế đã thực hiên nguyên tắc”hoàn thuế trước, kiểm tra sau”. Thay đổi này là sự ưu ái đối với các nhà sản xuất kinh doanh và sự tin tưởng cao ở tính trung thực, chuẩn xác của bộ máy kế toán doanh nghiệp. Theo nhận định của các chuyên gia thuế đây là “cơ hội vàng” cho những kẻ gian lợi dụng để chiếm đoạt tiền của ngân sách nhà nước(nếu bị phát hiện sẽ hoàn lại tiền sau, còn nếu không bị phát hiện thì sẽ chiếm đoạt luôn). Thứ năm, môi trường pháp lý cho kinh doanh chưa thay đổi kịp và thực sự phù hợp với yêu cầu của việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng. Trên thực tế, vẫn còn tồn tại và phát sinh thêm các dạng sai phạm, gian lận thuế giá trị gia tăng đáng được quan tâm và cần được chỉ rõ để khắc phục. Sai phạm và thủ đoạn gian lận thuế có ở tất cả các loại hình doanh nghiệp. Dưới đây là một số vi phạm mà các ngành chức năng và nhất là hệ thống ngành thuế phát hiện được. Chẳng hạn hiện nay còn khá nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh cố tình không phát hành hoá đơn khi bán hàng, lợi dụng thuế giá trị gia tăng để nâng giá, phát hành hoá đơn khống (không có hàng bán) bán cho doanh nghiệp khác để được khấu trừ đầu vào, tình trạng mua bán hoá đơn trên thị trường không những không giảm mà còn có biểu hiện tăng so với khi thực hiện thuế doanh thu. Về mặt giá trị, một đồng tiền hôm nay có giá trị hơn một đồng tiền trong tương lai và ngược lại, bởi vì đồng tiền có khả năng tự sinh lời. Chính vì vậy mà các đối tượng nộp thuế, các nhà tư vấn khai thác thuế khai thác triệt để khía cạnh này bằng cách đi chiếm dụng vốn của khách hàng của các đối tượng khác và ngân sách nhà nước. Ngoài các lý do để dây dưa chậm nộp bằng cách này hay cách khác, đơn vị còn có các thủ thuật rất tinh vi trong nghiệp vụ hạch toán kế toán để có thể phản ánh doanh thu tính thuế không sát với thực tế, từ đó có thể chậm nộp các khoản phải nộp ngân sách của mình.. Ghi chép không trung thực giữa các liên trong cùng một số hoá đơn (liên giao cho khách hàng thì ghi đúng thực tế mua bán còn liên lưu để tính thuế thì ghi rất thấp về doanh số và mức thuế đầu ra). Chế độ tài chính hiện nay cho phép các đơn vị làm ăn có hiệu quả được tính khấu hao theo khế ước, chính việc đó tạo điều kiện cho đơn vị nhanh cải tiến kinh tế, tránh hao mòn vô hình, nhưng đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp được giảm một phần thuế lợi tức phải nộp trong hiện tại. Đặc biệt, do diện doanh nghiệp được hoàn thuế rộng( không chỉ doanh nghiệp xuất khẩu mà cả doanh nghiệp có thuế đầu vào lớn hơn thuế đầu ra trong ba tháng liền) , thì trong những trường hợp chỉ cần có sự thông đồng nhỏ giữa những cán bộ thuế và doanh nghiệp là ngân sách nhà nước có thể mất hàng tỷ đồng một cách nhanh gọn. Về khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với ngành nông, lâm, ngư nghiệp, xuất phát từ tình hình thực tiễn của Việt Nam gần 80% dân số gắn với sản xuất nông sản, lâm sản, hải sản khi bán hàng hoá không có hóa đơn. Để khuyến khích sản xuất trong lĩnh vực này, thời gian qua Chính phủ đã qui định nhiều mức khấu trừ khác nhau để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp như: khấu trừ qua hoá đơn, khấu trừ theo bảng kê, khấu trừ theo hoa đơn thông thường, nhưng lại phát sinh mâu thuẫn mới là có quá nhiều tỷ lệ khấu trừ gây phức tạp cho việc thực hiện và chưa khuyến khích việc thực hiện hoá đơn chứng từ, nhưng trường hợp xuất khẩu lại không được áp dụng khấu trừ theo tỷ lệ ấn định đã gây ra sự thiếu thống nhất.Do đó tất yếu dẫn đến tình trạng khai sai để trốn lậu thuế. Với các ngành khác, đối tượng nộp thuế khai không đúng, hiện tượng phổ biến là khai thấp gía bán và số lượng hàng bán, để ngoài sổ kế toán những khoản thu đáng lẽ phải đánh thuế. Mặt hàng, hoạt động phải chịu thuế suất cao khai sang loại chịu thuế suất thấp, để được nộp thuế thấp hơn số thuế phải nộp theo đúng luật. Những thủ thuật tinh vi hơn với trình độ hạch toán cao hơn: phân bổ thuế giá trị gia tăng của vật tư, tài sản cố định không đúng với đơn vị và sản phẩm, hạng mục công trình; nhiều trường hợp đưa hết thuế giá trị gia tăng vào giá thàmh ngay sau khi mua sắm, xây lắp xong tài sản cố định để được khấu trừ số thuế lớn ngay trong thời kỳ đó. Không ít doanh nghiệp tư nhân đưa thuế giá trị gia tăng vào tài sản, thiết bị không dùng trong sản xuất mà phục cá nhân, gia đình (như ô tô, xe máy, đồ dùng gia đình )vào số thuế yêu cầu khấu trừ trong sản xuất kinh doanh . Ngoài ra, một số doanh nghiệp đã rút tiền hoàn thuế của ngân sách nhà nướcbằng cách thông đồng với bạn hàng, cán bộ hải quan, cán bộ thuế, để khai khống số lượng hàng xuất, nhập khẩu hay tồn kho để có chênh lệch giả tạo giữa thuế đầu vào với thuế đầu ra. Tại Hà Nội, chỉ tính riêng năm 200, đã phát hiện hành vi gian lận trong kê khai của một số doanh nghiệp, thu hồi về cho nghân sách 450 triệu đồng, Đồng Nai thu hồi 32 triệu đồng, Bình Định thu hồi trên 150 triệu đồng. Các công ty không thực hiện đăng kí kinh doanh, đăng kí mã số thuế và không nộp thuế, cũng có trường hợp xin nghỉ hoạt động được miễn thuế nhưng thực tế vẫn kinh doanh bình thường. Các công ty mẹ liên tiếp thành lập chi nhánh, nhưng không phải để kinh doanh mặt hàng mới hay mở rộng sản xuất kinh doanh mà để hợp lý sử dụng hoá đơn thuế giá trị gia tăng, đòi nhà nước hoàn thuế. Trong một thời gian ngắn, số doanh nghiệp đăng ký thành lập tăng lên nhanh chóng, những tưởng kỳ vọng họ sẽ tạo nên diện mạo mới cho nền kinh tế nhưng thay vì tung hoành trên trường quốc tế họ lại kiếm lợi nhuận từ ngân sách để vào ngồi tù. Càng ngày, những con người đào tạo ấy lại càng nghĩ ra nhiều thủ đoạn tinh vi hơn để moi ngân sách nhà nước. Gần đây nhất, vào ngày 7/8/2002 vụ án Nguyễn Duy Thiện cùng đồng bọn lừa đảo chiếm dụng thuế giá trị gia tăng đã được công an Phú Thọ chuyển cho tổng cục cảnh sát tiếp tục điều tra. Thiện đã lập 30 công ty trách nhiệm hữu hạn để mua bán hoá đơn giá trị gia tăngvới doanh số 740,7 tỷ đồng cho các doanh nghiệp khác chiếm đoạt thuế nhà nước. Tại tỉnh Bình Thuận bọn chúng đã thành lập 7 công ty trách nhiệm hữu hạn đã phát hành thuế giá trị gia tăng khống 231 tỷ đồng. Tại tỉnh Long An chúng thành lập 7 công ty phát hành hoá đơn khống tới 160 tỷ đồng. Chỉ cần nhìn qua hồ sơ hoàn thuế cũng rùng mình.Vậy nên có người ước đoán rằng, doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khống hàng nông sản trị giá đến hàng tỷ USD. Con số trên 130 vụ chiếm đoạt thuế giá trị gia tăng với tổng số tiền hơn 400 tỷ đồng, thời gian qua chỉ chiếm tỷ lệ phần trăm rất nhỏ so với thực tế. Thứ sáu, cán bộ hải quan tiếp tay cho tội phạm, các doanh nghiệp ở nhiều địa phương trong cả nước liên tục bị cảnh sát phát hiện chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào cho các nông sản xuất khẩu. Lợi dụng chủ trương cho hoàn thuế này, các doanh nghiệp đã cấu kết với cán bộ hải quan cửa khẩu chứng nhận khống số lượng nông sản xuất khẩu. Một chính sách thuế đã bị bóp méo, ngân sách bị rút. Nhưng “đau” hơn, chúng ta đang bị mất dần từng mảng của bộ máy công quyền. Theo con số thống kê chưa đầy đủ về tội phạm thuế giá trị gia tăng ta có thể phân ra các loại thủ đoạn chủ yếu sau: - Tạo dựng nguồn hàng hoá khống bằng kê khai các điểm mua hàng hoá không có thật, sử dụng hoá đơn mua ở “chợ đen” lập các hợp đồng mua bán nội địa khống với các phương án thanh toán trực tiếp, không qua ngân hàng dễ bị phát hiện. - Làm giả các hợp đồng vận chuyển, thanh toán cước vận chuyển hàng hoá trong nội địa và ra cửa khẩu . -Móc nối với một số cán bộ hải quan cửa khẩu để xác nhận khống bộ hồ sơ xuất khẩu, khai tăng giá và số lượng, giá trị hàng xuất, bố trí hàng thật trên hàng giả - Hình thành các đường dây gồm một số cá nhân, các chi nhánh, văn phòng hoặc doanh nghiệp chuyển làm dịch vụ hoàn thuế bằng hồ sơ giả với tỷ lệ ăn chia 60%- 40% tuỳ thoả thuận. Khi bị phát hiện thì giải tán công ty, đốt sổ sách. Từ các thủ đoạn đó, hình thành nên bốn loại tội phạmlừa đảo thuế giá trị gia tăng: - Loại thứ nhất: Doanh nghiệp hoặc cá nhân có hàng hoá xuất khẩu thật và thông đồng với hải quan xuất khống một lượng hàng hoá nhất định. - Loại thứ hai: Doanh nghiệp hoặc cá nhân thông đồng với hải quan xuất khống hoàn toàn. - Loại thứ ba: Doanh nghiệp hoặc cá nhân khai tăng giá đầu vào để hoàn thuế giá trị gia tăng được nhiều hơn qui định . - Loại thứ tư: Doanh nghiệp và cá nhân không có hàng xuất khẩu, thông đồng với hải quan, với nhiều doanh nghiệp khác, lợi dụng xe chở hàng xuất khẩu của doanh nghiệp khác qua cửa khẩu( đơn vị có phương tiện vận tải không biết bọn tội phạm đã lợi dụng phương tiện của mình) nhằm lập một hoặc nhiều bộ hồ sơ xuất khẩu hàng hóa để xin hoàn thuế giá trị gia tăng. Sáu vấn đề được coi là nhựơc điểm đã bộc lộ rất rõ ràng trong việc thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng thời gian qua là tất yếu, khách quan. Đó cũng là những vấn đề nhạy cảm trong quản lý kinh tế. Nguyên nhân của những nhược điểm trên có rất nhiều, song bao trùm là những điều chưa phù hợp ngay trong văn bản Luật thuế giá tị gia tăng và sự đồng bộ của các luật và chính sách kinh tế khác. Những điều đó cho phép khẳng định rằng, nghiên cưú để bổ sung, sửa đổi Luật thuế giá trị gia tăng là một trong những yêu cầu khách quan và cấp bách hiện nay ở nước ta. Vậy, cần bổ sung, sửa đổi những nội dung nào trong Luật thuế giá trị gia tăng ? Đồng thời, cần áp dụng những biện pháp nào trong quản lý kinh tế để hỗ trợ cho việc thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng ? 2. Các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế giá trị gia tăng: Trong phạm vi bài viết này chưa đủ để bao quát hết các vấn đề nảy sinh, nhưng chúng tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến để tham khảo nhằm hoàn thiện hạch toán thuế giá trị gia tăng như sau: Một là, xoá bỏ việc thu thuế giá trị gia tăng đối với hàng hoá nhập khẩu ngay tại cửa khẩu như hiện nay mà thu thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu theo giá nhập khẩu và đã đưa vào lưu thông, phát sinh doanh thu, như vậy vừa đúng với tên gọi của thuế, vừa bớt sự phiền toái khâu hoàn thuế. áp dụng cách thu này thuế giá trị gia tăng đầu vào bằng 0, mặc dù thu theo cách này doanh nghiệp vẫn phải nộp thuế giá trị gia tăng trên tổng giá trị hàng bán chứ không phải nộp thuế giá trị gia tăng trên phần tăng thêm nhưng doanh nghiệp đỡ gánh nặng do không bị ngân sách chiếm dụng vốn. Chúng ta rất thông cảm với ngành Tài chính trong việc cân đối ngân sách đảm bảo nguồn thu hằng năm, song ngành Tài chính cần quan tâm hơn trong việc nuôi nguồn thu. Không nên tìm cách thu thiếu vội vã không đủ luận cứ khoa học và như vậy sẽ phản khoa học. Nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng, trong giai đoạn hiện nay chưa thể bỏ được biện pháp này vì còn phải thực hiện chính sách bảo hộ hàng sản xuất trong nước. Theo chúng tôi, việc bảo hộ sản xuất trong nước là cần thiết nhưng không thể thực hiện một cách tràn lan và vô hạn. Hơn nữa, việc bảo hộ sản xuất trong nước có nhiều biện pháp và chính sách khác nhau không nhất thiết phải qua chính sách thuế. Việc thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước qua thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu như hiện nay là “ lợi bất cập hại ”. Tất nhiên, Luật và văn bản pháp quy về quản lý nhà nướclà sản phẩm chủ quan. Song, điều ấy không có nghĩa là, chúng ta có thể đặt ra những điều vô lý, mâu thuẫn ngay với ” chính bản thân mình “ mà khi thấy cần sưả thì nên sửa ngay. Hai là, chỉ nên để tồn tại hai mức thuế suất là 5% và 10%( không kể mức 0% đối với hàng xuất khẩu). Trên cơ sở những văn bản dưới luật đã ban hành, sắp xếp lại danh mục những hàng hóa dịch vụ tương ứng với hai mức thuế suất nói trên và đưa vào văn bản luật. Đồng thời, thu hẹp những danh mục hàng hoá, dịch vụ khônng chịu thuế giá trị gia tăng. Chẳng hạn, nên hạ thuế suất tiêu thụ đặc biệt và đưa những mặt hàng này vào danh mục hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng. Ba là, xoá bỏ phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng, áp dụng thống nhất một phương pháp khấu trừ thuế và một loại hoá đơn. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng và phức tạp ở nước ta. Bởi lẽ, theo một nguồn thông tin đáng tin cậy, hiện nay cả nước có khoảng 1.2 triệu hộ kinh doanh cá thể, hoạt động kinh doanh theo Nghị định 66- HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng trước đây, nay là Nghị định số 03/ 2000/ NĐ- CP của Chính phủ, không áp dụng chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ. Sự tồn tại các hộ kinh doanh nhỏ là một tất yếu khách quan, bởi còn rất nhiều “khoảng trống“ mà các doanh nghiệp lớn không thể ”lấp kín“ được. Vì vậy, để nó tồn tại và phát huy tác dụng, chúng ta phải có cơ chế thuế phù hợp. Đến nay, có ý kiến đề nghị nên xét theo doanh thu từ 600 triệu đồng/ năm trở lên phải thực hiện tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ. Theo chúng tôi, với một “nền kinh tế tiền mặt “ như hiện nay khó có thể xác định chính xác được doanh thu của một cửa hàng, một hộ kinh doanh. Vì vậy, cần mạnh dạn kiên quyết áp dụng thống nhất một phương pháp khấu trừ thuế. Đó là biện phát nhằm bảo đảm sự công bằng trong nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp và cac hộ kinh doanh, đồng thời, cũng góp phần tác động buộc các hộ kinh doanh phải thực hành nghiêm túc chế độ kế hoạch – thống kê và hoá đơn chứng từ. Bốn là, đưa vào văn bản luật về thời hạn tối đa phải giải quyết hoàn thuế cho các doanh nghiệp có hồ sơ hoàn thuế hợp lệ. Nếu quá thời gian theo quy định của luật, ngành thuế phải trả lãi xuất tiền vay ngắn hạn cho doanh nghiệp trên số ngày chậm được hoàn thuế. Và trách nhiệm này cán bộ hoàn thuế phải chịu nhằm tránh hiện tượng thông đồng với doanh nghiệp để rút tiền lãi. Muốn làm được điều này cần phải đề cao trách nhiệm của người xin hoàn thuế, còn cục thuế thì phải trực tiếp chỉ đạo việc hoàn thuế. Cơ quan thuế cần tăng cường hướng dẫn và giải thích chi tiết về thủ tục hoàn thuế cho các đối tượng xin hoàn thuế nhằm giúp họ chuẩn bị các thủ tục xin hoàn thuế đúng qui định, tránh hiện tượng phải làm đi làm lại mới xong. Đồng thời, bản thân đối tượng xin hoàn thuế phải tự nghiên cứu kỹ về quy trình, thủ tục hoàn thuế để từ đó thực hiện đúng khỏi mất nhiều thời gian cho việc xin hoàn thuế hoặc dẫn tới những khiếu nại, tố cáo không cần thiết. Năm là, cùng với việc sửa đổi, bổ sung luật thuế giá trị gia tăng như những nội dung nêu trên cần nhanh chóng thực hiện các biện pháp hỗ trợ, tạo ra sự đồng bộ về môi trường pháp lý trong kinh doanh. Trước mắt, cần nhanh chóng ban hành luật Kế toán - Kiểm toán trong nền kinh tế quốc dân . Cho đến nay, chúng ta đã thấy thật vô lý khi nhiều lĩnh vực như: đất đai, lao động, tài nguyên, môi trường, giáo dục - đào tạo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, đã được luật hoá, nhưng kế toán, kiểm toán - những lĩnh vực rất quan trọng trong quản lý kinh tế lại chỉ được chế định bằng các pháp lệnh và nghị định. Đồng thời , cũng cần nhanh chóng trang bị cho cơ quan thuế những phương tiện hiện đại cần thiết, hình thành hệ thống mạng máy tính kết nối trong cả nước, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra thu thuế, hoàn thuế, kiểm tra và xử lý. Với những biện pháp trên cần có những quy định pháp lý nhằm hạn chế sử dụng tiền mặt trong thanh toán. Song song với việc sửa đổi, phải nghiêm khắc với các hành vi vi phạm như công bố công khai các doanh nghiệp có mua bán hoá đơn, truy tố ngay và xử phạt nặng các trường hợp trốn thuế quy định tại điều 161 và điều 165 về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng của Bộ Luật hình sự. Truy tố hình sự các trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tiền hoàn thuế, rút ruột ngân sách nhà nước. Sáu là, cần phải củng cố bộ máy công quyền, thanh tra lại toàn bộ bộ máy cán bộ hải quan. Cần có biện pháp quy định trách nhiệm chặt chẽ hơn nữa về công tác xác nhận để mỗi cán bộ hải quan có trách nhiệm về mỗi chữ ký của mình( truy tố trách nhiệm cá nhân). Đồng thời , phải thường xuyên tiến hành thanh tra công tác của hải quan để phát hiện kịp thời và xử lý ngay những vi phạm. Kể cả phải kiên quyết loại ra khỏi ngành các cán bộ thiếu phẩm chất, bị thoát hoá. Có như vậy vai trò gác cửa của hải quan mới được thực hiện nghiêm túc. Thêm vào đó, việc tiếp tục kiện toàn tổ chức và bồi dưỡng, đào tạo nâng cao tinh thần trách nhiệm và trình độ công tác cho cán bộ thuế là những yếu tố mang tính quyết định cho sự thành công trong việc nghiêm chỉnh chấp hành chính sách thuế nói chung và trong mục tiêu chống thất thu thuế nói riêng. kết luận Nhìn chung, việc tiến hành cải cách hệ thống chính sách thuế qua từng thời kỳ đã góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn lịch sử. Hướng tới việc tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, ổn định nhằm phát triển nền kinh tế đa thành phần, phát triển cân đối giữa các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ và mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới nhằm tận dụng các nguồn lực sẵn có trong nước. Trước mắt, còn nhiều việc phải làm để bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng, phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh. Vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cưú, điều chỉnh, sửa đổi những vướng mắc trong chính sách thuế cho phù hợp, nhất là đối với thuế TGGT nhằm khuyến khích sản xuất nội địa hoá sản xuất tư liệu sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, khuyến khích tiêu dùng nhằm đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá. Một số giải pháp đã đưa ra là: xoá bỏ việc thu thuế TGGT đối với hàng hoá nhập khẩu ngay tại cửa khẩu mà thu khi đã đưa vào lưu thông, phát sinh doanh thu; giảm các mức thuế suất; chỉ áp dụng thống nhất phương pháp khấu trừ thuế; quy định cụ thể thời gian hoàn thuế; tạo môi trường pháp lý đồng bộ; củng cố bộ máy công quyền, cán bộ hải quan và cán bộ thuế... Đây là những vấn đề chủ yếu và cần phải được nghiên cứu kĩ thêm. Phụ lục Hoá đơn (GTGT) Mẫu số: 01 GTKT - 3LL Liên 1: (Lưu) Ngày ….. tháng ….. năm 200.. Ký hiệu: AA/98 Số: 000001 Đơn vị bán hàng: ……………………………………………………………………………… Địa chỉ: ………………………… Số tài khoản: ……………………………………………… Điện thoại: ……………………Mã số: STT Tên hàng hoá dịch vụ Đơn vị tính Số lượng Đơn giá Thành tiền A B C 1 2 3 = 1x2 Cộng tiền hàng: ………………… Thuế suất GTGT: % Tiền thuế GTGT: ………………… Số tiền viết bằng chữ: ………………………………………………………………………….. Người mua hàng Kế toán trưởng Thủ trưởng đơn vị (Ký, ghi rõ họ, tên) (Ký, ghi rõ họ, tên) (Ký, ghi rõ họ, tên) Liên 1: Lưu Liên 2: Giao cho khách hàng Liên 3: Dùng thanh toán Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc -----o0o----- Tờ khai thuế giá trị gia tăng Tháng ………. năm ……………. (Dùng cho cơ sở tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ) Tên cơ sở : ……………………………. Mã số Địa chỉ : …………………………….. Đơn vị tính: đồng Việt Nam. STT Chỉ tiêu kê khai Doanh số (chưa có thuế GTGT) Thuế GTGT 1 Hàng hoá, dịch vụ bán ra 2 Hàng hoá, dịch vụ chụi thuế GTGT a- Hàng hoá xuất khẩu thuế xuất 0% b- Hàng hoá, dịch vụ thuế suất 5% c- Hàng hoá, dịch vụ thuế suất 10% d- Hàng hoá, dịch vụ thuế suất 20% 3 Hàng hoá, dịch vụ mua vào 4 Thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào x 5 Thuế GTGT được khấu trừ x 6 Thuế GTGT phải nộp (+) hoặc được thoái (-) trong (tiền thuế 2-5) x 7 Thuế GTGT kỳ trước chuyển qua x a- Nộp thiếu x b- Nộp thừa hoặc chưa khấu trừ x 8 Thuế GTGT đã nộp trong tháng x 9 Thuế GTGT đã được hoàn hảo trong tháng x 10 Thuế GTGT phải nộp tháng này Số tiền thuế phải nộp (ghi bằng chữ) Xin cam đoan số liệu khai trên đây là đúng, nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm xử lý theo pháp luật Ngày ….. tháng ….. năm….. Nơi gửi tờ khai TM/ cơ cở - Cơ quan thuế (ký tiên, đóng dấu) - Địa chỉ: Đơn vị: ………. Mẫu số S01 - DN Sổ theo dõi thuế giá trị giá trị gia tăng Năm…………. Chứng từ Diễn giải Số tiền thuế GTGT đã nộp Số tiền thuế GTGT phải nộp Số hiệu Ngày tháng 1 2 3 4 5 1. Số dư đầu kỳ 2. Số phát sinh trong kỳ Cộng số phát sinh 3- Số dư cuối kỳ Lập sổ ngày …. tháng …. năm….. Người ghi sổ Chủ hộ (Ký, họ tên) (Ký, họ tên) Đơn vị: ………. Mẫu số S02 - DN Sổ chi tiết thuế GTGT được hoàn lại Năm…………. Chứng từ Diễn giải thuế GTGT được hoàn lại thuế gtgt đã hoàn lại Số hiệu Ngày tháng 1 2 3 4 5 1. Số dư đầu kỳ 2. Số phát sinh trong kỳ Cộng số phát sinh 3- Số dư cuối kỳ x x Ghi chú: Chỗ có dấu (x) không có số liệu Lập sổ ngày …. tháng …. năm….. Người ghi sổ Kế toán trưởng (Ký, họ tên) (Ký, họ tên) Đơn vị: ………. Mẫu số S03 - DN sổ chi tiết thuế giá trị gia tăng được miễn giảm Năm…………. Chứng từ Diễn giải Số tiền thuế GTgt được miễn giảm thuế GTGT đã miễn giảm Số hiệu Ngày tháng 1 2 3 4 5 1. Số dư đầu kỳ 2. Số phát sinh trong kỳ Cộng số phát sinh 3- Số dư cuối kỳ x x Ghi chú: Chỗ có dấu (x) không có số liệu. Lập sổ ngày …. tháng …. năm….. Người ghi sổ Kế toán trưởng (Ký, họ tên) (Ký, họ tên) Danh mục tài liệu tham khảo 1. Thuế vụ đại cương – NXB giáo dục 1995 2. Quản lý nhà nước về kinh tế - NXB giáo dục 1995 3. Luật thuế giá trị gia tăng - NXB chính trị Quốc gia 1997 4. Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật - NXB chính trị Quốc gia 1998 5. Cải cách thuế của thế giới và Việt Nam - Bộ tài chính Viện Khoa học tài chính 6. Một số vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng – NXB tài chính 7. Việt Nam tầm nhìn đến năm 2020 - NXB Quốc gia 1995 8. Giáo trình kinh tế học 9. Tạp chí kinh tế số 178 - 180 - Thông tấn xã Việt Nam 10. Tài liệu Chính phủ và doanh nghiệp 2001 11. Tài liệu nghiên cứu và trao đổi 2001 12. Tạp chí thông tin tài chính các số 4/2000 và 1,2,3,4 /2001 13. Tạp chí tài chính số 3,9/2000; 1,5,12/2001 14. Tạp chí kế toán số 23/2000; 30/2001 15. Tạp chí kiểm toán số 4/2001 16. Tạp chí thương mại số 12/2002 17. Báo tin tức – Thông tấn xã Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28408.doc
Tài liệu liên quan