Đề án Tín dụng ngân hàng - Thực trạng và giải pháp

Sự nghiệp đổi mới của ngành ngân hàng luôn gắn liền với công cuộc đổi mới của nền kinh tế quốc dân; trong đó tín dụng ngân hàng trực tiếp phục vụ các mục tiêu của công nghiêp hoá, hiên đại hoá nền kinh tế quốc dân. điều này được thể hiện một phần qua luận chứng luân giải của đề tài “Tín dụng ngân hàng“. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp đã hoàn thành mục tiêu, nhiêm vụ của đề tài đặt ra. Cụ thể : - Tổng hợp và hệ thống hoá có chọn lọc những lý luận cơ bản của tín dụng ngân hàng trong quá trình phát triển kinh tế. Từ đó rút ra những cơ sở lý luận khẳng định tín dụng ngân hàng có một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá ở nước ta. - Dựa trên cơ sở lý luận cũng như vai trò của tín dụng ngân hàng với quá trình phát triển kinh tế , kết hợp với những bài học kinh nghiệm qua nghiên cứu dưới góc độ tín dụng ngân hàng về khắc phục và phát triển kinh tế của một số nước trên thế giới, đề tài đã đi vào phân tích đánh giá thực trạng một cách toàn diện, sâu sắc hoạt động tín dụng ngân hàng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở việt nam thời gian qua. Qua đó rút ra những mặt được, chưa được của công tác tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình phát triển kinh tế trong thời gian qua. - Đề tài đã đưa ra những giải pháp để xác định ý nghĩa vai trò và các phương pháp giải quyết cho tín dụng ngân hàng đóng góp tích cực , có hiệu quả vào quá trình phát triển kinh tế đất nước theo mục tiêu công nghiệp hoá nền kinh tế ở nước ta. - Có thể khẳng định rằng muốn tín dụng ngân hàng thực sự là một động lực mạnh mẽ thiết thực đóng góp cho quá trình phát triển kinh tế không phải chỉ có một phía ngân hàng, hoặc đơn vị sản xuất kinh doanh, tổ chức kinh tế xã hội trong nền kinh tế thực hiện mà phải từ nhiều phía đồng bộ thực hiện cả hai nội dung: tăng trưởng kinh tế đất nước và tín dụng ngân hàng trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định . giữa các giải pháp có mối quan hệ chặt chẽ với mnhau, nên khi triển khai thực hiện phải đồng bộ mới phát huy được hiệu quả.

doc35 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1086 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tín dụng ngân hàng - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế. Như vậy có thể coi tín dụng ngân hàng như một tác nhân chính đối với nền kinh tế. Do những vai trò, chức năng của tín dụng ngân hàng là rất quan trọng đối với nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó chính là lý do em chọn đề tài “TÍN DỤNG NGÂN HÀNG - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.” Để có thể đi sâu, nghiên cứu và học hỏi thêm những nghiệp vụ mà tín dụng ngân hàng mang lại, một phần nhằm nâng cao kiến thức và phần hiểu biết của mình. Trên cơ sở thực trạng hoạt động tín dụng hiện nay, với kiến thức được thầy cô trang bị và học tập được trong thời gian qua, em muốn đưa ra nhưng giải pháp và đánh giá cá nhân trên cơ sở những gì đã nghiên cứu và tìm hiểu. Bài viết như một bản báo cáo với thầy cô về quá trình học tập của mình. Bài viết được trình bày gồm các chương: Chương I : Lý luận chung về tín dụng ngân hàng. Chươngt II : Thực trạng của tín dụng ngân hàng hiện nay Chương III : Những giải pháp chủ yếu về tín dụng ngân hàng Bài viết sẽ là tiền đề giúp em học tập và nghiên cứu tốt hơn nữa, phục vụ cho quá trình nghiên cứu công tác sau này. Bài viết không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, lí luận có thể không sát với thực tế, văn phong không được chặt chẽ. Em rất mong sự giúp đỡ của các thầy cô. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG I- TÍN DỤNG NGÂN HÀNG Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số vốn đó sẽ được hoàn trả lại trong tương lai cùng với chi phí của khoản tín dụng đó. Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong xã hội trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Vì vậy bản thân tín dụng ngân hàng phải làm tốt hai mặt. Thứ nhất là đối với người cho ngân hàng vay và thứ hai đối với người mà ngân hàng cho vay. Chính thực hiện tốt chức năng này và với nghiệp vụ của riêng mình về việc kinh doanh tiền tệ mà tín dụng ngân hàng đã trở thành một hình thức tín dụng không thể thiếu trong mọi nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng thực chất dây là một hình thức quan hệ tín dụng gián tiếp mà người tiết kiệm thông qua vai rò trung gian của ngân hàng thực hiện đầu tư vốn vào các chủ thể có nhu cầu về vốn. Sự xuất hiện của tín dụng ngân hàng trên cơ sở là thu lợi nhuận một hình thức tín dụng sẽ không xuất hiện nếu nó không được hưởng lợi ích gì từ dịch vụ mà nó mang lại. Nhưng lợi nhuận của tín dụng ngân hàng mang lại dựa trên sự thoả mãn ngày một tốt hơn nhu cầu khách hàng. Thứ nhất là nhu cầu vốn nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế. Khi có vốn nhàn rỗi muốn đầu tư sinh lời và ngân hàng là nơi đầu tư lí tưởng và an toàn, ít gặp rủi ro. Cùng với sự đổi mới trong chiến lược phát triển của hệ thống ngân hàng, khách hàng còn được hưởng lãi theo lãi suất thoả thuận giữa họ và ngân hàng. Thứ hai nhu cầu đòi hỏi vốn của các chủ thể thiếu vốn trong nền kinh tế. Họ sẽ không có được nguồn vốn theo thời hạn và khối lượng vốn mà mình mong muốn nếu không thông qua tín dụng ngân hàng. Chỉ có ngân hàng là người đáp ứng đầy đủ dồng thời ngân hàng có thể tư vấn, có thể xem xét dự án đầu tư tránh gây thiệt hại cho nền kinh tế. Như vậy lợi nhuận mà ngân hàng thu được dựa trên sự đáp ứng đầy đủ hai mặt đối với người đi vay và ngươì cho vay. Hiện nay nghiệp vụ ngân hàng có nhiều sự pha trộn giữa nghiệp vụ truyền thống và các công ty tài chính. Nhưng tín dụng ngân hàng vẫn là hình thức tín dụng không thể thiếu trong nền kinh tế. Trong lịch sử phát triển của kinh tế hàng hoá, tín dụng ngân hàng đa trảI qua một quá trình phát triển từ đơn giản đến phức tap về kĩ thuật và nghiệp vụ, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng lớn về không gian phù hợp với quá trình phát triển của nền sản xuất hàng hoá ngày càng hoàn thiện. Trong thời kì đầu của lịch sử sản xuất và lưu thông hàng hoá, có một số người không trực tiếp sản xuất và lưu thông hàng hoá, mà đứng ra làm trung gian nối liền giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá qua đồng tiền. Chức năng ban đầu của họ là “nhận giữ hộ tiền của một số thương nhân, đồng thời tiến hành thanh toán các khoản tiền trong giao dịch mua bán hàng hoá”. Đương nhiên để làm việc đó họ phải thu về một lượng chi phí (lợi tức) nhất định từ những đối tác mà họ làm dịch vụ. Nhờ hoạt động trung gian này tạo điều kiện cho sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển thuận lơị. Đến lượt nó, sản xuất và lưu thông càng phát triển thuận lợi, lại càng làm cho những người hoạt động trung gian cũng tích luỹ ngày một nhiều tiền. Như vậy, những người này đã trở thành những người “buôn tiền”. Càng về sau để có thể có lợi nhiều hơn, họ cùng tập hợp nhau lại để có nhiều vốn thực hiện các hoạt đông trung gian nói trên. toàn bộ hoạt động của nó mặc dù còn rất sơ khai về kĩ thuật nhưng dẫu sao đó cũng là mầm mống cuả tín dụng ngân hàng sau này . Trong lịch sử phát triển tín dụng, tín dụng thương mại xuất hiện sớm hơn tín dụng ngân hàng nhưng lại tồn tại và phát triển song song với nhau. điều cần nhấn mạnh ở đây là cả cả hai loại hình tín dụng nàychỉ có thể phát triển thuận lợi khi chúng dựa vào nhau, cùng làm diều kiện ‘tiền đề’ cho nhau: Tín dụng ngân hàng tuy khác tín dụng thương mại về hình thức, phạm vi, qui mô và thời gian hoạt động. Song giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Tín dụng ngân hàng giúp khắc phục một số mặt hạn chế của tín dụng thương mại về không gian và địa lí; về quy mô tín dụng thương mại về trường hợp khi đến kì hạn trả tiên nếu vì lí do nào đó mà người mua chịu không có hoặc không có tiền để trả. - Hoạt động tín dụng thương mại thông qua công cụ thương phiếu đã tạo ra tiền đề cho sự gắn bó giưã tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng. Sự gắn bó này nhờ thông qua việc thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu và tái chiết khấu thương phiếu tại ngân hàng, khi các đối tác có thương phiếu có nhu cầu về tiền của mình. Hoạt động tín dụng ngân hàng thông qua cơ chế hoạt động của các tổ chức ín dụng trung gian. ở nước ta, ngay từ khi có Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 23-5-1990 có quy định các loại ngân hàng và các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, trong đó có ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và lam phương tiện thanh toán. Thuộc loại ngân hàng này bao gồm: Ngân hàng thương mại quốc doanh; Ngân hàng thương mại cổ phần; Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra còn có ngân hàng đầu tư và phát triển, các trung gian tài chính khác… Các ngân hàng thương mại, khi cần vốn cũng có thể đem thương phiếu đã chiết khấu đến Ngân hàng Trung ương để tái chiết khâú trong phạm vi quy định. Như vậy, nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu về thực chất là nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, một nghiệp vụ qua đó ngân hàng dành cho khách hàng được quyền sử dụng đến thời hạn của thương phiếu một khoản tiền của thương phiếu, sau khi đã khấu trừ khoản lãi phải thu, tức là khoản tiền chiết khấu. Sự phát triển các hình thức tín dụng, nhất là tín dung ngân hàng nhiều thập kỉ qua cho đến nay trên thế giới đã có nhiều thay đổi và phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Dưới tác động như vu bão của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ; của sự toàn cầu hoá và khu vực hoá thông qua các tổ chức tiền tệ quốc tế và khu vực đã được tín dụng ngân hàng phát triển ở trình độ cao, đặc biệt là việc áp dụng điện toán sự phát triển chiến lược sản phẩm đa dạng (séc du lịch, cartecredet, leasing, các loại tín phiếu, tráI phiếu…) và các mặt hoạt động marketing ngân hàng. II- TÍN DỤNG NGÂN HÀNG LÀ CÔNG CỤ, ĐÒN BẨY MẠNH MẼ THÚC ĐẨY SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ ĐIỀU HÀNH NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1- .Không thể tăng trưởng kinh tế, nếu hệ số mức đầu tư (hệ số ICOR) cần có không đạt mức tương ứng Nước ta cũng như nhiều nước có nền kinh tế kém phát triển viêc thực hiện được hệ số mức đầu tư, hiện nay đang là một trở ngại lớn. ở những nước có tốc độ tăng trưởng từ 7- 8%/năm, tỉ suất đầu tư là 30% của tổng GDP. Như vậy để đạt mức tăng trưởng 1% thì tỉ suất đầu tư phải là 4% của tổng GDP. Trong thuật ngữ kinh tế tỉ lệ đầu tư/GDP so với mức tăng trưởng của GDP được gọi là “tỉ suất vốn – sản phẩm gia tăng”, gọi là hệ số ICOR. Nguồn vốn đầu tư gắn liền với hệ số ICOR nói trên bao gồm: nguồn tích luỹ trong nước, vốn từ nước ngoài với các hình thức viện trợ, tín dụng và đầu tư trực tiếp. Việc huy động các nguồn vốn này gắn liền với vai trò của tín dụng ngân hàng, cụ thể: - Tín dụng ngân hàng góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong tất cả các thành phần kinh tế thông qua “đi vay để cho vay”. Sự có mặt của ngân hàng được coi như một công cụ có tác dụng giải quyết mâu thuẫn giữa một bên có tiền nhàn rỗi muốn cho vay để sinh lợi và một bên cần vay nhưng chưa tích luỹ vốn kịp. - Tín dụng ngân hàng còn là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế. ở đây, ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh tế đắc thù về kinh doanh tiền tệ qua hoạt động tín dụng sẽ cung cấp vốn cho các nhà đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu, kinh doanh du lịch và dịch vụ thu ngoại tệ. Ngân hàng thông qua các hoạt động thu đổi ngoại tệ thông qua các quỹ tiền tệ thế giới và khu vực tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế nước ta. - Tín dụng ngân hàng cũng góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển về mặt vốn của công ty cổ phần. Vậy sự tồn tại và phát triển của nó không thể tách rời vai trò của tín dụng ngân hàng. Thông qua hệ thống tín dụng, ngân hàng giải quyết tình trạng thừa thiếu vốn tạm thời của các công ty cổ phần. Ngân hàng cũng góp phần giúp các công ty cổ phần trong việc phát hành cổ phiếu, chuyển nhượng và mua bán cổ phiếu có môi trường thực hiện… 2- Việc điều chỉnh nền kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô của Nhà nước được thực hiện qua nhiều công cụ, trong đó công cụ tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng. - Thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng làm biến đổi nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ của các chủ thể kinh tế theo hướng tối ưu, góp phần làm cho chu kì hoạt động của tiền tệ rút ngắn về thời gian, nâng cao vòng quay của tiền tệ. Bằng cách đó tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôI động và cạnh tranh của kinh tế thị trường. - Tín dụng ngân hàng góp phần chống lạm phát tiền tệ. Thông qua tác động này mà điều chỉnh sự chuyển động của nền kinh tế thị trường khi quá nóng hoặc quá lạnh, tức là khi tăng trưởng quá mức hoặc khi suy thoáI theo quy luật lạm phát. Cả hai trường hợp này này đều có yếu tố ảnh hưởng của công tác tiền tệ tín dụng. Thông qua hoạt động nhận gửi và cho vay; thông qua việc phát hành giá bạc; huy động tiết kiệm dài hạn có mục đích, huy động tiết kiệm đảm bảo giá trị bằng vàng, phát hành công tráI, kì phiếu… tổ trưởng thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán… ngân hàng cùng với tài chính đóng vai trò cực kì quan trọng để Nhà nước điều tiết và điêù khiển vĩ mô nền kinh tế thị trường, đưa lại hiệu quả kinh tế- Xã hội theo định hướng mục tiêu “dân giàu nước mạnh và xã hội công bằng văn minh”. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VỚI QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM I – QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. Hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam với nhiệm vụ thực hiện mục tiêu chiến lược của chính phủ: tích cực kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế trên cơ sở hoạt động kinh doanh có lãi. ĐIểm lại cả quá trình đổi mới 10 năm qua, hoạt động của Ngân hàng Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể: - Hoạt động của hệ thống ngân hàng đã khẳng định được nhiệm vụ của chính mình, thông qua các chức năng hoạt động đã từng bước thực hiện mục tiêu kiềm chế và đẩy lùi lạm phát từ tỉ lệ phi mã xuống còn một chữ số, tỉ lệ này phù hợp với sự phát của nền kinh tế đất nước thời gian qua. Chẳng hạn, tích luỹ kế theo năm; lạm phát từ chỗ 12/1992 là 17,5%; 12/1993 là 5,2%; 12/1994 là 14,4%; 12/1995 là 12,7%; 12/1996 là 4,5%; 12/1997 là 3,6%;12/1998 là 9,2%… - Khi mới chuyển qua hoạt động cơ chế kinh tế thị trường các ngân hàng thương mại làm ăn còn bỡ ngỡ, dẫn đến nhiều ngân hàng bị lỗ, nhưng sau một thời gian đi vào thực hiện theo cơ chế mới quen dần, đến nay tất cả ngoài các ngân hàng thương mại quốc doanh đều có lãi và thực sự trở thành nòng cốt của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Kết quả này được thể hiện: 1- Về công tác huy động vốn: Huy động vốn là một trong những vấn đề quyết định hàng đầu, một “đầu vào” không thể thiếu của các ngân hàng thương mại trong tình hình hiện nay. Nguồn vốn của các tổ chức kinh tế, trong dân còn rất lớn, nhất là lĩnh vực nông nghiệp nông thôn; nhưng làm thế nào để huy động vốn vào ngân hàng để đầu tư trở lại cho sản xuất kinh doanh. Đây là một câu hỏi phải tính tới cho ngân hàng thương mại Việt Nam và cũng không phải một sớm, một chiều mà nó còn có ý nghĩa lâu dài. -Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực, đầu tư nước ngoài giảm sút, hệ thống ngân hàng vẫn đảm bảo huy động vốn cho nền kinh tế nhằm thực hiện chủ trương phát huy nội lực của chính phủ. Tổng nguồn vốn huy động trên GDP là 22,1% tăng so với năm 1997 là 2%. Tuy nhiên, trong điều kiện như vậy công tác huy động vốn vẫn đạt được nhiều kết quả đáng kể. Trên cơ sở các hình thức huy động vốn luôn luôn được cảI tiến, đa dạng hoá phù hợp với từng hoàn cảnh, từng thời kì, nên đã đáp ứng được yêu cầu mở rộng công tác tín dụng phục vụ cho phát triển nền kinh tế. vì vậy kết quả huy động vốn ngày một tăng: Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh từ khi hệ thống ngân hàng trở thanh ngân hàng hai cấp,các ngân hàng này đã tạo ra bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng nguồn vốn sao cho có hiệu quả,đáp ứng ngày càng cao nhu cầu sản suất kinh doanh của các thành phần kinh tế với lãi suất đầu vào hợp lý để có thể kiềm chế và đẩy lùi lạm phát.và thực tế thời gian gần đây lạm phát đã được giữ dưới một chữ số(năm 1998 là 9,2%).vốn huy động được cõng mang tính tích cực nhiều hơn, quan hệ giữa đầu vào và đầu ra đã được tính toán chặt chẽ góp phần nguồn vốn tăng trưởng trên cơ sở đầu tư có hiệu quả và thực sự trở thành nòng cốt của hệ thống ngân hàng thương mại việt nam. Chẳng hạn, qua tình hình huy động vốn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam là ngân hàng có nhiều khó khăn hơn so với các ngân hàng thương mại quốc doanh khác. Bảng 1: Tình hình huy động vốn của ngân hàng nông ngiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Đơn vị : tỷ đồng V ùng 1996 1997 1998 Tỷ lệ tăng ( % ) 98/96 98/97 1 miền núi 2234 2915 3373 50,9 15,7 2 ĐBSH 4035 6866 9068 124,7 32,1 3 Khu 4 cũ 1230 1571 1788 45,3 13,8 4 Duyên hải 1264 1597 2101 66,2 31,5 5 Tây nguyên 647 864 1119 72,9 29,5 6 miền ĐNB 2890 3316 4732 63,7 33,6 7 ĐBSCL 2125 2347 3132 47,4 33,4 Tổng cộng 14425 19476 25313 75,5 30,0 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 1996, 1997 1998. Bên cạnh hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh còn có các tổ chức tín dụng khá được nhà nước cho phép thành lập dươí hình thức sở hữu tập thể (ngân hàng cổ phần, Quỹ tín dụng nhân dân) cũng tạo ra một kênh huy động vốn thiết thực phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trên địa bàn nông nghiệp nông thôn. Chẳng hạnh, hình thức huy động vốn của Quỹ tín dụng nhân dân là một hoạt động nhằm bổ sung trong công tác huy động vốn phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở những nơi mà các ngân hàng thương mại quốc doanh không thể với tới, hoặc không có điũu kiện thực hiện. Tổ chức Quỹ tín dụng nhân dân thực hiện huy động tại chỗ với lãi suất mềm dẻo và linh hoạt hơn với đối tượng chủ yếu là người sản xuất kinh doanh nhỏ, thợ thủ công và người nông dân, lúc thừa vốn thì gửi vào, lúc thiếu vốn thì vay đã phát huy tác dụng tốt. 2- Công tác cho vay vốn đối với nền kinh tế: Công tác đầu tư tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng như các tổ chức tín dụng khác đặt ra trước yêu cầu là làm thế nào để đáp ứng nhu cầu về vốn cho phát triển các thành phần kinh tế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tốc độ nhanh và có hiệu quả mà ngân hàng kinh doanh vẫn có lãi? Đây là một vấn đề khó khi thực trạng cơ sở hạ tầng và sản xuất kinh doanh nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường còn thấp kém. Cũng như các ngành khác, từ khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, ngành ngân hàng không tránh khỏi những vướng mắc trong bước đi. Các ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động với nguồn vốn huy động còn ở mức rất thấp trong buổi ban đầu. Với hàng ngàn tỉ nợ khoanh từ năm 1990 trở về trước không luân chuyển được, hiện vẫn còn ảnh hưởng đến ngày nay. Tong khi đó nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế ngày một cao, tạo sức ép nặng nề cho các ngân hàng thương mại. Thời gian gần đây, tuy hoạt động tín dụng ngân hàng đã được mở rộng và bước đầu có tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. điều đó được biểu hiện thông qua khối lượng đầu tư tín dụng tuy trong điều kiện khó khăn nhưng vẫn được mở rộng cả về số lượng và tỉ trọng. Cụ thể, tính đến 31/12/1998, tín dụng cho nền kinh tế tăng 16,7% so với năm trước, thấp hơn mức tăng 22,6% của năm 1997. nhu cầu tín dụng tăng mạnh vào những tháng cuối năm, do trong thời gian này các doanh nghiệp thường có nhu cầu vốn lớn để hoàn thành kế hoạch năm, mặt khác nhu cầu cho nhập khẩu trong những tháng cuối năm cũng tăng. Tuy nhiên tỉ lệ tín dụng/GDP mới đạt ở mức 21,6% cao hơn năm 1997 là 0,5%, nhưng còn ở mức thấp so với các nước trong khu vức(xem chi tiết ở bảng 2 ) Bảng 2:Cơ cấu và tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt nam Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1 Tín dụng cho nền kinh tế (tỷ đồng) Trong đó: 42276 50744 62201 72596 *Cho vay bằng nội tệ 25926 32180 42801 52284 - Ngắn hạn 20238 25017 30293 34035 - Trung, dài hạn 3503 4626 9199 15265 Cho vay XDCB theo KHNN 1774 2168 2871 4547 - Các hình thức khác 471 369 438 437 *Tín dụng ngoại tệ 16350 18564 19400 18134 2 Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng (% thay đổi theo năm ) Tổng số cho nền kinh tế Trong đó : 26,8 20,0 22,6 16,7 * Tiền đồng 26,6 24,1 33,0 25,8 - Cho vay ngắn hạn 27,6 23,6 21,1 12,4 - Cho vay trung, dài hạn 73,8 32,1 98,9 65,9 - Cho vay theo chỉ định 22,4 26,5 32,4 58,4 *Cho vay bằng ngoại tệ 27,0 13,5 4,5 5,6 Nguồn :báo cáo của ngân hàng nhà nước. Trong tổng dư nợ, cho vay chung và dài hạn tăng nhanh: năm 1995 chỉ có 3503 tỉ đồng; năm 1996 là 4626 tỉ đồng; năm 1997 là 9199 tỉ đồng và năm 1998 tăng lên là 15265 tỉ đồng, điều này thể hiện rõ nét công tác tín dụng ngân hàng đã góp phần thiết thực trong việc phát triển kinh tế của đất nước. Như vậy, qua công tác huy động vốn cũng như cho vay vốn, cho ta một cách nổi rõ hơn: Hệ thống ngân hàng Việt Nam luôn xác định mục tiêu phục vụ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của đảng và nhà nước đề ra thông qua các cơ chế chính sách của nghành về huy động vốn, cho vay. Đây cũng nhính là cốt lõi để kinh doanh có lãi. Nếu như trước đây, các ngân hàng thương mại quốc doanh hầu hết là cho vay đối với kinh tế quốc doanh: vào những năm 1990 tỉ lệ cho vay kinh tế quốc doanh chiếm trên 80%, thì năm 1998 tỉ lệ này chỉ còn khoảng 37%. Nhờ có vốn vay ngân hàng, nên các doanh nghiệp, hộ sản xuất, hộ gia đình thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được mở rộng, kinh tế thị trường ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, góp phần tăng trưởng nền kinh tế hàng năm bình quân khoảng 8%. - Đến nay, tất cả các ngân hàng thương mại quốc doanh trong cả nước và nhiều ngân hàng thương mại cổ phần đã thực hiện bước đầu đưa công nghệ hiện đại vào hoạt động ngân hàng , nâng cao hiệu quả làm việc. Máy vi tính đã lên cân đối kế toán hàng ngày phục vụ kịp thời cho công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh doanh được nhanh chóng, kịp thời. Biểu hiện rõ nét và trực tiếp nhất là công tác thanh toán. Điều này trước đây chưa bao giờ có được, công tác kế toán đã được đổi mới căn bản, phục vụ kịp thời cho các công việc kinh doanh của các ngân hàng thương mại, từng bước hoà nhập với ngân hàng khu vực và thế giới. - Đội ngũ cán bộ đã được sắp xếp lại, đào tạo và đào tạo lại từ hệ thống ngân hàng nhà nước đến các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác được cơ bản và bước đầu đáp ứng yêu cầu cho hoạt động trong nền kinh tế thị trường: từ khâu giao dịch khách hàng đến làm việc với quốc tế, từ phong cách đến trình độ chuyên môn. quan niệm về khách hàng của các ngân hàng thương mại đã khác hẳn thời bao cấp, coi trọng khách hàng “sự thành đạt của khách hàng chính là sự thành đạt của ngân hàng”. - Xây dựng hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, cho đến năm 1998 đã có hàng nghàn quỹ di vào hoạt động; nhằm thực hiện thu hút được nguồn vốn trên khắp các địa bàn của cả nước chủ yếu là địa bàn nông thôn mà ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần không với tới; cùng với mục tiêu của hệ thống ngân hàng là phục vụ phát triển nền kinh tế theo con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. Do phát triển cả về số lượng và chất lượng, nên hệ thống ngân hàng thương mại và các ổ chức tín dụng đã thực sự là những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tham gia trực tiếp vào quá trình lưu chuyển vốn trong nền kinh tế từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ nơi nhàn rỗi kém hiệu quả đến nơi có yêu cầu sử dụng sinh lời . thông qua việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng với chất lượng ngày càng cao, hệ thống này không ngừng bám sát yêu cầu khách hàng, theo dõi chặt chẽ diễn biến kinh tế thực tế và có nhiều nỗ lực thích nghi với môi trường, hoàn cảnh đặc thù của kinh tế việt nam. Nhìn chung, từ khi có hai Pháp lệnh ngân hàng đến nay, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng đã có những bước trưởng thành và phát triển vượt bậc so với trước. Với một thị trường năng động, một cơ chế tương đối thông thoáng đi cùng nguyên tắc tự chủ trong tài chính và kinh doanh, các ngấn hàng và tổ chức tín dụng đã có đủ điều kiện để thực hiện tốt chức năng trung tâm tiền tệ, tín dụng, thanh toán của mình. Nhờ vậy, mọi hoạt động của các tổ chức này gần như đã đoạn tuyệt với chính sách bao cấp, thể hiện qua chính sách lãi suất dương, qua việc chủ động tìm kiếm , chọn lọc khách hàng , chỉ cho vay đối với khách hàng hoạt động có hiệu quả, đa dạng hoá các công cụ huy động vốn, các loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng…bên cạnh đó, kỹ thuật ngiệp vụ và trình độ công nghệ ngân hàng ở các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trong nước ngày càng tiến bộ, góp phần chuẩn mực hoá thao tác xử lý , quy trình thủ tục ngày càng phù hợp với đặc thù kinh tế việt nam và tập quán kinh doanh kinh tế thị trường và đáp ứng yêu cầu của công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế… Qua các biểu số liệu trên, chúng ta có thể thấy nỗ lực của các ngân hàng thương mại trong quá trình chuyển dịch hoạt động kinh doanh tiền tệ theo hướng đa dạng hoá, đa thành phần hoá, đa năng hoá, …tạo nên sự tăng trưởng tín dụng có chất lượng tốt phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế. Tóm lại, tính thụ động và lề lối quan liêu của các ngân hàng trong kinh doanh đã dần được xoá bỏ. Thay vào đó là sự nhanh nhạy, tín năng động và sự nỗ lực đáp ứng nhu cầu thị trường “kinh doanh theo tín hiệu thị trường và khách hàng “ đã trở thành phương châm hoạt động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trên bước đường đổi mới, phát triển phục vụ cho sự nghiệp đổi mới nền kinh tế đất nước theo hướng chuyển dịch các cơ cấu kinh tế cũ, lỗi thời, lạc hậu, kém hiệu quả thành những cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. CHƯƠNG III NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG I- GIẢI PHÁP VỀ HUY ĐỘNG VỐN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG: Trong cơ chế thị trường huy động vốn qua kênh tín dụng ngân hàng chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Bởi vì huy động qua kênh tín dụng ngân hàng là bằng cách “đi vay để cho vay ”, nó giải quyết cả đầu ra và đâù vào, tạo ra kênh lưu thông vốn rất nhanh nhạy. vậy khai thác nguồn vốn này như thế nào là trách nhiệm to lớn của chúng ta và nó cũng là chủ lực trong chiến lược vốn lâu dài ;là giải pháp chủ yếu thực hiện “ nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng “. Kinh nghiệm của một số nước châu á cho thấy, thời gian đầu công nghiệp hoá họ phải huy động vốn trong nước khoảng 80% số vốn cần thiết và phải duy trì liên tục trong nhiều năm mức đầu tư trên 30% tổng sản phẩm quốc nội mới trở thành những con rồng ngày nay. đối với nước ta trong những năm trước mắt, để có mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 8%, phải dưa tổng vốn đầy tư lên trên mức 20%GDP và cao hơn nữa trong những năm sau. Rõ ràng trong lúc nguồn vốn đang rất hạn hẹp như trên đã nêu,thì huy động vốn qua kênh tín dụngngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là đối với nước ta trong giai đoạn đầu chuyêbr sang kinh tế thị trường, xuất phát điểm của nền kinh tế rrất thấp. để khai thác tốt nguồn vốn này, theo toi phải xử lý các vấn đề : 1- Xác lập chiến lược huy đọng vốn qua hệ thống ngân hàng phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội của đất nước. Thực hiện chiến lược này phải dựa vào các tổ chức tín dụng để thực hiện “đi vay để cho vay ”, khơi trong hút ngoài. Như vậy các tổ chức tín dụng phải - Đổi mới cơ chế huy động tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, mà trước hết là các ngân hàng thương mại phải là lực lượng chủ yếu để thường xuyên tăng trưởng nguồn vốn tín dụng . tạo điều kiện choi các thành phần kinh tế mở và sử dụng các tài khoản được thuận tiện; không phân biệt mở tài khoản chính phụ giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hoặc với hộ tư nhân, cá thẻ nếu có đủ điều kiện. đơn giản hoá một số thủ tục , mở rộng địa phương thanh toán (không lệ thuộc vào địa dư hành chính )… - Mục tiêu mở rộng huy động tiền gửi ở ngân hàng thương mại là nhằm thu hút mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế., một mặt để tăng cường nguồn vốn tín dụng đầu tư sinh lợi, mặt khác tạo điều kiện mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt ; giảm tiên mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí phát hành tiền mặt. Hai mặt này có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau và tăng hiệu quả vận động vốn tiền tệ trong nền kinh tế góp phần giảm lạm phát. + Mở rộng phạm vi sử dụng tài khoản tiền gửi. Theo chế đọ hiện hành, các đơn vị mở tài khoản chỉ sử dụng tài khoản của mình để hạch toán các khoản giao dịch trong hoạt động phạm vi của đơn vị được quy định trong giấy phép kinh doanh. Nay trong cơ chế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mang tính tổng hợp. Do đó nếu xác định phạm vi sử dụng tài khoản sẽ gây trở ngại cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Không chấp nhận thanh toán thì các doanh nghiệp sẽ bị xa lánh và tránh sự kiểm sát của ngân hàng, thanh toán không qua tài khoản tiền gửi sẽ gây ra rối loạn trong thanh toán. số dư trên tài khoản như thế nào là quyền của chủ tài khoản, các ngân hàng thương mại chỉ việc thanh toán theo lệnh của chủ tài khoản một cách nhanh chóng, tiện lợi và chỉ từ chối khi phát hiện doanh nghiệp phát hành séc quá số dư, chứng từ không hợp lệ… + Áp dụng chế độ thưởng phạt đối với công tác thanh toán và sử dụng tiền mặt. Để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của đôI bên : khách hàng và ngân hàng nên có chính sách thưởng phạt rõ ràng. Nếu ngân hàng chậm thanh toán theo yêu cầu của khách hàng hoặc chuyển sai địa chỉ thì ngân hàng phải bồi thường cho khách hàng phù hợp với thiệt hại do ngân hàng gây ra cho khách hàng. Ngược lại, nếu khách hàng vi phạm quy chế thanh toán , quản lý tiền mặt như đổi séc ăn tỷ lệ , cho thuê mướn tài khoản thì bị phạt. qua một thời kì nhất định, ngân hàng cần tổng kết và thưởng cho khách hàng thực hiện tốt thanh toán và quản lý tiền mặt. + Nên có chiến lược khách hàng, đặc biệt là khách hàng có số dư tiền gửi lớn và thường xuyên nộp tiền mặt vào ngân hàng lớn . ngân hàng nên có chính sách ưu tiên lãi suất cả tiền gửi và cho vay với mức độ nhất định so với thông thường nhằm động viên họ gửi tiền vào ngân hàng, tránh sự cho vay mượn lãn nhau không qua ngân hàng. 2- Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn : Việc tăng cường và khuyến khích các doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng là rất cần thiết và quan trọng, góp phần thu hút mọi nguồn vốn trong các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, bởi vì tài chính hộ gia đình cũng là một bộ phận của hệ thống tài chính. Do đó cần mở ra các hình thức huy động vốn phong phú đa dạng hơn để có thể huy động vào ngân hàng lượng vốn ngày càng lớn. + Áp dụng nhiều hình thức huy động tiết kiệm khác nhau : tiết kiệm không thời hạn và có thời hạn, tiết kiệm bằng vàng, ngoại tệ, tiết kiệm xây dựng nhà ở…Để thực hiện cần mở rộng mạng lưới huy động đến tận địa bàn dân cư, đơn giản thủ tục, đổi mới phong cách giao dịch, mở rộng tiền gửi một nơi lĩnh nhiều nơi. Mở rộng hình thức kì phiếu, tiết kiệm thành các hình thức có khả năng chuyển nhượng(hoặc nghiệp vụ chiết khấu ), tiết kiệm dưỡng già, tiết kiệm hưu trí… đặc biệt là cơ chế lãi suất tiết kiệm phải phù hợp với diễn biến của thị trường và tỉ lệ lạm phát. lãi suất tiết kiệm phải được điều chỉnh sao cho cả ngân hàng và người gửi có được lãi suất thoả đáng. Lãi suất tiết kiệm phải kích thích người gửi , gửi càng lâu lãi suất càng cao nhằm động viên tối đa lượng tiền nhàn rỗi mà trước đây người dân thường tích trữ bằng vàng hay ngoại tệ để dự phòng. Việc áp dụng nhiều hình thức huy động vốn chắc chắn sẽ làm nguồn vốn tăng lên, đáp ứng tối đa nhu cầu đa dạng của dân chúng. Huy động vốn phải đảm bảo an toàn , bí mật thuận tiện cho khách hàng. Việc huy động vốn bằng hình thức này hay hình thức khác không thể tự ý “bày đặt”, mà phải nghiên cứu kĩ thị trường kinh tế – xã hội. Chẳng hạn mỗi một hình thức ra đời phải nghiên cứu cụ thể các yếu tố: sự ổn định kinh tế , trình độ kinh tế hàng hoá, chính trị , xã hội, đời sống của nhân dân, phong tục tập quán… + Cùng với hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần cần mở rộng mạng lưới tín dụng nhân dân đến các xã, thị trấn để đáp ứng nhu cầu tiền gửi của nông dân, hộ buôn bán , tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân phải đặt dưới sự quản lý về nặt nhà nước của ngân hàng nhà nước bằng quy định pháp lý, như khung lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc…quỹ tín dụng nhân dân sẽ góp phần huy động vốn ở nông thôn mà ngân hàng thương mại chưa vươn tới được, đáp ứng nhu cầu vốn, thúc đẩy tăng trfưởng kinh tế đất nước, nhất là đối với kinh tế nông thôn. trong sản suất nông ngiệp luôn gắn với điều kiện thiên nhiên nên thường xuyên bị thiên tai đe doạ. Việc đầu tư tín dụng ngân hàng cho nông nghiệp đã chứa đựng khả nẳng rủi ro rất lớn, trong khi yêu cầu nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả đầu tư là vấn đề vô cùng cấp bách đối với hoạt động của ngân hàng. Chính vì lẽ đó, cần thiết lập quỹ rủi ro tín dụng với sự tham gia của ngân hàng và ngân sách nhà nước, xin kiến nghị cụ thể : - Trích từ lợi nhuận của ngân hàng đầu tư cho hộ sản xuất, nhất thiết phải tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên của từng vùng mà quy định, ngân hàng trung ương nên khống chế tỷ lệ tối đa, sau đó giao chuyển chủ động cho ngân hàng thương mại vận dụng tuỳ thuộc vào điều kiện địa phương. - Việc đầu tư tín dụng nên áp dụng hạn chế rủi ro thấp nhất là phân tán khách hàng, tức là nhiều tổ chức tài chính tài trợ cho một dự án, hình thức bảo hiểm muà màng , bảo hiểm tín dụng, tài sản thế chấp phải thực sự là sở hữu của khách hàng. - Ngân sách nhà nước chi vốn bảo trợ cho nông nghiệp, cho phép đầu tư tín dụng với lãi suất thấp góp phần tăng trưởng vốn đầu tư, kích thích sản xuất phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. + Mở rộng việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng : Hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng được mở ra mấy năm trở lại đây đã phát huy tác dụng, có hiệu quả; trên cơ sở rút kinh nghiệm tiếp tục duy trì và phát triển nó. Các Ngân hàng thương mại căn cứ vào nhu cầu vốn của các doanh nghiệp từng thời kỳ, từng hoàn cảnh mà phát hành kỳ phiếu, đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu vốn của họ. LãI suất kỳ phiếu thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm cùng loại vì việc phát hành kỳ phiêú không thường xuyên, mỗi khi phát hành đều có mục đích. Thực tế hiện nay các Ngân hàng thương mại phải luôn phát hành kỳ phiếu để tạo ra nguồn vốn và phần lớn số tiền gửi tiết kiệm lại được rút ra và chuyển sang mua kỳ phiếu có mục đích, và như vậy việc huy động vốn sẽ ít đem lại hiệu quả thiết thực. để khắc phục cần xác định lãi suất huy động vốn trên mức đọ rủi ro và thời gian đến hạn. bên cạnh hình thức huy động kỳ phiếu như lâu nay vẫn làm, nên áp dụng hình thức huy động kỳ phiếu chuyển nhượng, tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi và góp phần tạo lập thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở nước ta. + Huy động từ các địa phương khác nhau : Hiện nay nhà nước đang xúc tiến lựa chọn đối tác đầu tư cho các công trình thuộc các địa phương khác nhau ; do vậy có tình trạng địa phương nàu, khu vực này cần vốn trong khi địa phương khác lại có tình trạng ngược lại. để huy động vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong cả nước đầu tư vào công trình này, Nhà nước cần có một quy chế huy động vốn đặc biệt, hợp lý cho phép để huy độngu vốn của địa phương khác có khả năng vốn lớn để đầu tư cho các công trình này. + Thành lập các công ty tài chính và các trung gian tài chính khác, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để hỗ trợ đầu tư ncho nền kinh tế nói chung, đối với các dự án trọng điểm nói riêng. II- GIẢI PHÁP VỀ SỬ DỤNG VỐN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG: 1- Cần thay đổi cách nhìn nhận về đảm bảo tiền vay để mở rộng tín dụng ngân hàng : Thời gian qua chúng ta đã ban hành một số các văn bản thuộc về thể lệ, chế độ chính sách cho tín dụng ngân hàng: một số đối tượng vay không phải thế chấp, còn lại vẫn phải thế chấp. Việc này đã gây nhiều cản trở trong hoạt động thực tế và đã dẫn đến tình trạng khách hàng thì thiếu vốn, trong lúc đó ngân hàng lại thừa vốn, vì các khách hàng không đủ tài sản để cầm cố, thế chấp, hoặc có tài sản nhưng thiếu giấy tờ hợp pháp. Theo các văn bản trên đây thì về nguyên tắc vay phải có đảm bảo, riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước và một số đối tượng khác thì các ngân hàng quốc doanh có thể cho vay không đảm bảo. để mở rộng quy mô tín dụng gắn liền với hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hoá, theo em cần thống nhất các quan điểm sau: Thứ nhất : không nên quá nhấn mạnh đến vai trò của đảm bảo tín dụng mà chỉ xem nó như là một điều kiệ bổ sung để thực hiện sự hoàn trả. Đảm bảo tín dụng là đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người đi vay, tức là thiết lập cơ sở pháp lý để có thêm một nguồn thu nợ thứ hai, dự phòng nguồn thu nợ thứ nhất không thực hiện được. Trong thực tế nhiều ngân hàng khi cho vay đã coi đảm bảo như là tiêu chuẩn quan trọng nhất, thậm chí coi là tiêu chuẩn duy nhất. Chính quan điểm này đã dẫn đến xem xét một cách thiếu thận trọng nguồn trả nợ trực tiếp của khách hàng có hay không, hay nói cách khác là thiếu đánh giá đầy đủ năng lực tài chính của khách hàng. Vì vậy, trong cho vay vấn đề trước tiên phải xem xét người đi vay có khả năng trả nợ không thông qua các tiêu chuẩn như mục đích vay , năng lực tài chính, môi trường kinh doanh…đảm bảo được thực hiện ở đây như là một điều kiện bổ sung để phòng ngừa các rủi ro. Thứ hai : Để mở rộng tín dụng cần thiết phải đa dạng hoá các loại hình đảm bảo. trên thực tế đảm bảo tín dụng hiện nay chủ yếu tập trung hàng thế chấp bất động sản và quyền sử dụng đất. Thứ ba : Mở rộng các hình thức đảm bảo . chẳng hạn, xây dựng nghành kinh doanh kho bãI; mở rộng hình thức cầm cố bằng quyền sở hữu về tài sản… Thứ tư : Thực hiện chính sách cho vay không đảm bảo đối với tất cả các thành phần kinh tế Một thực tế cũng cần chú ý : Nhà nước cho phép các ngân hàng được quyền cho vay không đảm bảo, điều đó không có nghĩ a là phải cho vay không đảm bảo. Việc lựa chọn có đảm bảo hay không là thuộc thẩm quyền kinh doanh của các ngân hàng và chịu trách nhiệm vê quyết định cho vay của mình. 2- Mở rộng tín dụng trung, dài hạn đồng thời gắn với tín dụng ngắn hạn phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Chia tách giữa vốn ngắn hạn và dài hạn trong quá trình sử dụng chỉ là phương diện quản lý và tra cứu, còn trên thực tế giữa hai loại vốn này luôn luôn vận động đan xen nhau; nên trong quá trình sử dụng vốn cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế , cần phải có cách kết hợp như thế nào để tạo ra hiệu quả tốt nhất, đó là việc phải làm. nhìn bề ngoài thì thấy rõ hơn: tín dụng phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng trung và dài hạn; nhưng trong cùng một dự án đầu tư, cũng như một đơn vị sản xuất kinh doanh bao giờ cũng kết hợp giữa hai loại vốn : vốn cố định và vốn lưu động , kết hợp giữa tài sản lưu động và tài sản cố định. Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng lại càng phẩi biết cách kết hợp tốt hơn vì nó nhạy cảm hơn các lĩnh vực sản xuất lưu thông khác . thực tế hiện nay, vấn đề này đã được thừa nhận ngay cả từ trong chính sách; trước đây thời bao cấp , đã từng có những cơ chế cấm sử dụng vãng lai giữa hai loại vốn này, dù chỉ là một phần rất nhỏ của nhu cầu tất yếu. đến nay cáI gì đến nó sẽ đến, Nhà nước ta đã có những chính sách “sử dụng vốn ngắn hạn ổn định để đầu tư cho dài hạn”.đó là một sự tiến bộ xã hội. Vận dụng trong sự kết hợp chặt chẽ lại càng có ý nghĩa quan trọng . bởi vì một thực tế vận động của vốn là xuất phát từ tạm thời, ngắn hạn qua quá trình trở thành dài hạn và chính cáI dài hạn này sau lại trở thành ngắn hạn(vốn khấu hao ) theo hình thức tái tạo lại ban đầu. Do đó sự kết hợp là một tất yếu , vấn đề là vận dụng nóp như thế nào để có hiệu quả thiết thực, mang lại lợi ích kinh tế xã hội cao. Hiện nay nhu cầu về đầu tư tín dụng dài hạn thì lớn, nhưng nguồn vốn lại rất hạn hẹp, nên kết hợp giữa hai loại tín dụng ngắn và dài hạn như thế nào là một giải pháp tốt. đồng thời phải có cách mở rộng loại tín dụng trung và dài hạn. Trước mắt phải thấy rằng nền kinh tế việt nam đã tụt hậu xa so với các nước trong khu vực mà cách đây 20 năm bắt đầu một điểm xuất phát gần như nhau. Trình độ công nghẹ cũng như máy móc của ta hết sức lạc hậu, nên có ảnh hưởng rất lớn đến công nghiệp hoá. Để thực hiện mục tiêu đổi mới cơ bản công nghệ và thiết bị lạc hậu , theo các nhà kinh tế thì mức đổi mới hàng năm phải đạt khoảng 15%. để thực hiện được chỉ tiêu này chúng ta phải có chính sách huy động vốn thích hợp để khai thác nguồn vốn trong nước và mở rộng nguồn vốn nước ngoài. Bên cạnh những biện pháp huy động vốn, việc áp dụng kỹ thuật tài trợ thích hợp cũng giúp chúng ta mở rộng nguồn vốn đầu tư . cũng cần thấy rằng trong thời gian qua nguồn vốn trong nước chưa được khai thác triệt để, kể cả các nguồn vốn đã được huy động vào các ngân hàng; nhiều ngân hàng thừa vốn không cho vay ra được hoặc chuyển vốn sang lĩnh vực tiêu dùng. Trong lúc nền kinh tế đang thiếu vốn trầm trọng để đổi mới thiết bị công nghệ. Như vậy,nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển nói chung và đầu tư để đổi mới công nghệ nói riêng rất lớn, đòi hỏi chúng ta không chỉ có những chính sách, biện pháp huy động vốn thích hợp,mà còn phải đưa vào áp dụng các kỹ thuật tài trợ mới để thực hiện quá trình đầu tư, đây cũng là biện pháp tận dụngnguồn vốn trong nước, tức là nhanh chóng đưa vốn tiết kiệm sang đầu tư, đồng thời cũng nhằm mục đích khai thác thêm các nguồn vốn nhập khẩu từ bên ngoài. 3- Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng: Gần như trên tất cả các mặt báo ngành và báo kinh tế hiện nay đều quan tâm đến vấn đề chất lượng tín dụng ngân hàng ở nhiều góc độ : mô tả thực trạng tín dụng ngân hàng còn rất kém hiện nay, phân tích nguyên nhân và tìm cách cứu chữa ...đây quả là một trong những trọng tâm quan trọng nhất của hoạt động ngân hàng. Bên cạnh vốn của các ngân hàng thương mại còn quá nhỏ, hiện nay điều đặc biệt nổi bật trong hệ thống ngân hàng thương mại việt nam là mức dư nợ quá hạn là rất lớn. Bảng 3 : Mức dư nợ quá hạn của toàn hệ thống ngân hàng thương mại (%) Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Tổng nợ quá hạn/tổng vốn 88,4 95,5 85,0 61,9 75,7 59 46 Tổngnợ quá hạn/tổng nợ 13,7 11,1 6,0 7,8 9,3 9,5 10 Tổng nợ quá hạn/tổng taì sản có 6,0 6,6 5,5 4,4 5,5 5,9 5,5 Tổng vốn/tổng tài sản 7,4 6,8 6,9 6,9 7,1 7,2 7,9 11,8 Nguồn : Báo cáo của ngân hàng thế giới số 17031-VN Phân tích chất nợ quá hạn ở các ngân hàng thì tình hình có vẻ ngày càng xấu đi. Số “nợ quá hạn thông thường “chiếm trên 60%. Trên thực tế , khuản nợ này vẫn có thể thu hồi được cả gốc lẫn lãi do tính chất “ tạm thời “ khó khăn của khách hàng trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Song, không biết bao giờ mới có thẻ l;àm được việc này. khoảng 40% còn lại là số nợ khó có khả năng thu hồi. Phần lớn khoản nợ này phát sinh từ các đơn vị kinh doanh lỗ vốn , bị giải thể bi lừa đảo chụp giật và không còn cơ may nào để có thể gượng dậy để tiếp tục “ sống “ mà trả nợ. Như vậy nợ quá hạn không đơn thuần là vấn đề tồn tại trong nghiệp vụ nữa mà nó trở thành vấn đề nổi cộm , phải xử lý trong hoạt động ngân hàng. Các tổ chức tín dụng phải coi đây là công việc hàng đầu, là tín nhiêm, là điều kiện tồn tại và phát triển của ngân hàng mình. Từ đó chúng ta phải xác định rõ trách nhiêm cả 3 phía: - Đối với Ngân hàng nhà nước: tập trung nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ và chức năng của mình. Như, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý, quy định liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung, tín dụng ngân hàng nói riêng: đảm bảo công tác quản lý nhà nước đối với ngành ngân hàng vừa toàn diện vừa chặt chẽ trên cơ sở tiến bộ và hiệu quả. Nhằm nâng cao chất lượng tín dụng hiện nay… - Đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng: đây là nơi sản sinh trực tiếp tình trạng nợ quá hạn tăng cao và chất lượng tín dụng đáng ngại như hiện nay. Và hơn ai hết, các tổ chức này sẽ là ngừơi lãnh nhận đầu tiên và nặng nề nhất những hậu quả của nó. để ngăn chặn đà gia tăng nợ quá hạn và cảI thiện chất lượng hiệu quả tín dụng ngay tại các ngân hàng, thì phải có hàng loạt các biện pháp. chẳng hạn, rà soát lại toàn bộ các khoản nợ quá hạn cũ, phân tích xác định nguyên nhân và tìm cách xử lý thích hợp đối với từng loại nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ không thu hồi được; kiểm soát chặt chẽ,hạn chế đến mức thấp nhất khả năng phát sinh các khoản nợ quá hạn mới; một giải pháp tận gốc cho vấn đề này có lẽ là cần gấp rút hoàn thiện cơ chế quản lý tín dụng ngân hàng. Theo đó, công tác tín dụng cần được lượng hoá, quy trình hoá các công đoạn, thao tác thủ tục tín dụng theo hướng hợp lý- tinh gọn và hiệu quả. áp dụng phương pháp phân hạng tín dụng trên cơ sở thiết lập các tiêu thức đánh giá khoa học và phù hợp thực tiễn. Ngân hàng rất cần và phải xây dựng cho được cơ chế ra quyết định tối ưu… - Đối với khách hàng : nâng cao năng lực đi vay của khách hàng trên cơ sở vốn tự có, khả năng kinh doanh, trình độ quản trị… Chỉ có trên cơ sở giải quyết được vấn đề chất lượng tín dụng mới có điều kiện mở rộng tín dụng ngân hàng kể cả tín dụng ngắn hạn và dài hạn 4- Nâng cao năng lực tiếp nhận các nguồn vốn vay từ ngân hàng đối với khách hàng : Thứ nhất : Nâng cao năng lực đi vay của các doanh nghiệp . Năng lực đi vay của các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều yếu tố, tuy nhiên 3 yếu tố sau đây là quan trọng nhất: vốn tự có, khả năng tạo lợi nhuận và trình độ quản trị. Hiện nay các doanh nghiệp Việt nam tỷ trọng vốn tự có rất thấp, đặc biệt các doanh nghiệp nhà nước. Theo trung tâm thông tin tín dụng, có khoảng 33,9% trong tổng số 3.433 doanh nghiệp nhà nước đang có dư nợ lớn hơn vốn tự có của doanh nghiệp. Trong đó có khoảng 1000 doanh nghiệp có vốn vay cao gấp đôi số vốn nhà nước giao cho doanh nghiệp, nhiều trường hợp cao hơn vài chục lần. Theo kinh nghiệm của các nước tỷ lệ vốn vay cao sẽ kích thích doanh nghiệp phát triển nhanh đồng thời cũng là con đường đưa doanh nghiệp đi tới phá sản, như kết luận của thống đốc ngân hàng Indonesia về khả năng tạo ra lợi nhuận. Mặt khác hiệu quả và trình độ quản trị của các doanh nghiệp cũng chưa cao, khoảng 30% doanh nghiệp thua lỗ, mất khả năng thanh toán, thị trường tiêu thụ bấp bênh, thiếu đa dạng, máy móc thiết bị lạc hậu và thiếu đồng bộ. Chính thực trạng trên đâyđã hạn chế năng lực đi vay của các doanh nghiệp và tất nhiên quy mô tín dụng khó có thể mở rộng. Thứ hai : Xây dựng hệ thống thông tin kinh tế đầy đủ, chính xác làm cơ sở thiết lập các mối quan hệ kinh tế nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng. Một trong những lý do dẫn đến cho vay kém hiệu quả, nợ quá hạn gia tăng hoặc không cho vay được là thiếu thông tin, thông tin không chính xác hoặc thiếu đọ tin cậy về thông tin; đặc biệt là các thông tin có liên quan đến kinh tế vi mô, nghành kinh tế và thông tin tài chính doanh nghiệp. Thứ ba : Tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, để hoạt động của ngân hàng cũng như các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong nền kinh tế thị trường vận hành có hiệu quả theo cơ chế thị trường. 5- Cải cách hệ thống ngân hàng thương mại: Cải cách hệ thống ngân hàng là một lẽ thường trong quy luật tiến triển của lịch sử. Giai doạn đầu mới hình thành, sau một thời gian cảI cách mới sang giáI đoạn ổn định, rồi phát triển và cứ thế tiếp tục theo hướng quy luật. điều quan trọng là khả năng vận dụng nó, khi nào và làm như thế nào…Đối với nước ta thành lập hệ thống ngân hàng thương mại đã trảI qua biết bao thăng trầm, do cả nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan; đến nay một thực tế đòi hỏi chúng ta phải cải cách . cải cách nhằm mục tiêu mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt đọng tí dụng ngân hàng của toàn hệ thống ngân hàng và phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử. Theo tôi : - Đối với ngân hàng thương mại cổ phần : Từ năm 1990 trở lại đây ngân hàng nhà nước đã cấp giấy phép cho trên 40 ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động. Có thể khẳng định rằng đây là một hướng đi đúng nhằm thiết lập một hệ thống ngân hàng đa dạng, chống độc quyền và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tư nhân và khai thác triệt để nguồn tiết kiệm của các hộ gia đình và cá nhân. tuy nhiên, hệ thống các ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động còn nhiều yếu kém. Vì các lý do, như các ngân hàng thiếu tiềm lực để tác động đến hoạt động của nền kinh tế, vì quy mô của từng ngân hàng quá nhỏ; một số ngân hàng ra đời và hoạt động chỉ nhằm mục đích tài trợ cho cổ đông. Chính hoạt động ngân hàng kiểu này sẽ làm cho chất lượng hoạt động ngân hàng kém hiệu quả và gây thiệt hại cho cộng đồng – những người gửi tiền; số lượng ngân hàng quá nhiều, trong lúc đó đội ngũ nhân sự quản lý ngân hàng có trình độ lại thiếu. Từ mâu thuẫn này đã dẫn đến việc quản trị yếu kém là tất yếu. Xuất phát từ một số tồn tại trên cần thiết phải cải cách lại hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam theo hướng tích cực phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Từ thực tế đó nên cải cách theo hướng : Sắp xếp lại ngân hàng thương mại cổ phần theo hướng thu hẹp về số lượng mở rộng về quy mô. - Cổ phần hoá một số ngân hàng thương mại quốc doanh. Tình trạng nợ nần dây dưa, vốn cho vay ra không thu hồi được về cũng đang là tính phổ biến hiện nay ở các ngân hàng thương mại quốc doanh, nếu cứ để cồng kềnh như hiẹn nay thì tình hình này không những không giảm mà còn tiêp tục tăng lên. Do vây, cách tốt nhất là tiến hành cổ phần hoá, chỉ nên để một hoặc ngân hàng làm nhiệm vụ chủ yếu thực hiện các nhiện vụ kinh tế và trọng điểm của nhà nước. Vì vậy, việc cổ phần hoá sẽ tạo điều kiện để đổi mới toàn diện quản trị ngân hàng. Trước mắt có thể thí điểm cổ phần hoá một ngân hàng thương mại quốc doanh . KẾT LUẬN Sự nghiệp đổi mới của ngành ngân hàng luôn gắn liền với công cuộc đổi mới của nền kinh tế quốc dân; trong đó tín dụng ngân hàng trực tiếp phục vụ các mục tiêu của công nghiêp hoá, hiên đại hoá nền kinh tế quốc dân. điều này được thể hiện một phần qua luận chứng luân giải của đề tài “Tín dụng ngân hàng“. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp đã hoàn thành mục tiêu, nhiêm vụ của đề tài đặt ra. Cụ thể : - Tổng hợp và hệ thống hoá có chọn lọc những lý luận cơ bản của tín dụng ngân hàng trong quá trình phát triển kinh tế. Từ đó rút ra những cơ sở lý luận khẳng định tín dụng ngân hàng có một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá ở nước ta. - Dựa trên cơ sở lý luận cũng như vai trò của tín dụng ngân hàng với quá trình phát triển kinh tế , kết hợp với những bài học kinh nghiệm qua nghiên cứu dưới góc độ tín dụng ngân hàng về khắc phục và phát triển kinh tế của một số nước trên thế giới, đề tài đã đi vào phân tích đánh giá thực trạng một cách toàn diện, sâu sắc hoạt động tín dụng ngân hàng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở việt nam thời gian qua. Qua đó rút ra những mặt được, chưa được của công tác tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình phát triển kinh tế trong thời gian qua. - Đề tài đã đưa ra những giải pháp để xác định ý nghĩa vai trò và các phương pháp giải quyết cho tín dụng ngân hàng đóng góp tích cực , có hiệu quả vào quá trình phát triển kinh tế đất nước theo mục tiêu công nghiệp hoá nền kinh tế ở nước ta. - Có thể khẳng định rằng muốn tín dụng ngân hàng thực sự là một động lực mạnh mẽ thiết thực đóng góp cho quá trình phát triển kinh tế không phải chỉ có một phía ngân hàng, hoặc đơn vị sản xuất kinh doanh, tổ chức kinh tế xã hội trong nền kinh tế thực hiện mà phải từ nhiều phía đồng bộ thực hiện cả hai nội dung: tăng trưởng kinh tế đất nước và tín dụng ngân hàng trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định . giữa các giải pháp có mối quan hệ chặt chẽ với mnhau, nên khi triển khai thực hiện phải đồng bộ mới phát huy được hiệu quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo tổng kết của Ngân hàng Nhà nước năm 1998 2. Báo cáo của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam qua các năm 1996 - 1997 - 1998. 3. Tạp chí Ngân hàng tháng 8 - 2001 4. Lý thuyết tiền tệ Ngân hàng - Học viện Ngân hàng 5. Một số tạp chí kinh tế khác MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0657.doc
Tài liệu liên quan