Đề án Vai trò của ngân hàng thương mại trong thị trường chứng khoán

Quá trình cổ phần hoá các NHTMNN và các doanh nghiệp nhà nư¬ớc diễn ra chậm chạp. Quy mô vốn của các NHTM còn nhỏ so với các ngân hàng các n¬ớc trong khu vực. Những vư¬ớng mắc từ cơ chế chính sách nhà nước đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Tất cả điều đó làm cho TTCK nước ta chưa thực sự trở thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.Bên cạnh đó xuất hiện tình trạng ngân hàng tăng vốn ồ ạt nhằm trục lợi lúc giá lên cao, phục vụ lợi ích của nhóm nhỏ cổ đông trong ngân hàng mà không quan tâm tới lợi ích của công chúng, như vậy thì quá trình cổ phần hoá ngân hàng trở thành vô nghĩa và càng làm cho thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng trở nên kém phát triển. Phần lớn các NHTM cho DNNN vay hầu như không có tài sản bảo đảm, hoặc nếu có thì hồ sơ pháp lý chưađầy đủ. Bên cạnh đó, việc cho vay các dự án theo chỉ định của Chính phủ với kỳ vọng cấp bù chênh lệch lãi suất và tránh rủi ro pháp luật trên thực tế cũng không tránh khỏi rủi ro. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới các khoản tín dụng chất lượng thấp khi rủi ro xảy ra, chờ được Chính phủ xử lý thì mức độ lỗ vốn của các NHTM trong các khoản vay này đã rất lớn. Thực tế cho thấy ở các NHTM, tài sản sinh lời là các khoản cho vay chiếm tỷ trọng khoảng 60-70%, ở một số NHTM tỷ lệ này là 90%. Chính vì vậy, tránh những rủi ro tín dụng xảy ra là một vấn đề sống còn của các NHTM. Khi mà ngân hàng cho vay như tạo cho doanh nghiệp tính ỷ lại trong việc tìm kiếm vốn đầu tư và khả năng kinh doanh.

doc39 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1929 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò của ngân hàng thương mại trong thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, vì ngân hàng có thể thực hiện toàn bộ GDCK.Song điều quan trọng hơn là các NHTM luôn đảm bảo nguyên tắc trung gian trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.NHTM có thể đảm bảo cung cấp các thông tin chính xác, hạn chế những hiện tượng lừa đảo trong kinh doanh chứng khoán. NHTM thực hiện bao tiêu chứng khoán phát hành thường chịu nhiều rủi ro hơn là làm trung gian hưởng hoa hồng.Để giảm bớt rủi ro các NHTM sử dụng các biện pháp: liên kết hai hay nhiều ngân hàng với nhau hình thành nhóm bảo lãnh phát hành chứng khoán để phân tán rủi ro, tìm hiểu kỹ về tình hình của công ty trớc khi đảm bảo hoa tiêu.Số tiền phí mà các NHTM nhận được khi thực hiện nghiệp vụ bao tiêu phát hành chứng khoán thường cao hơn phí hoa hồng. 1.3.2. NHTM là cầu nối giữa nhà đầu tư và thị trường chứng khoán 1.3.2.1. Người môi giới chứng khoán Tại Việt Nam khi thành lập Sở giao dịch chứng khoán, có thể nói ngân hàng là ứng cử viên có nhiều ưu thế nhất vào chức danh người môi giới chứng khoán, bởi lẽ: - Ngân hàng là người hiểu biết khá tường tận về các doanh nghiệp phát hành chứng khoán (thông qua các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán của ngân hàng). - Ngân hàng là có sẵn các phương tiện kỹ thuật cần thiết phù hợp với yêu cầu của ngời môi giới. - Ngân hàng có đội ngũ cán bộ, nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn liên quan chặt chẽ và gần gũi với những nghiệp vụ về chứng khoán. Với vai trò là người môi giới chứng khoán, trên thực tế ngân hàng chỉ thực hiện yêu cầu của khách hàng là lấy danh nghĩa của mình để mua hoặc bán chứng khoán cho khách hàng và được hưởng một khoản hoa hồng theo thoả thuận.Với chức năng này, ngân hàng không phải bỏ ra một đồng vốn kinh doanh nào, mọi khoản chi phí do khách hàng chịu trách nhiệm cung cấp. Hơn nữa, vì có quyền thay mặt và quyền không phải thông báo cho khách hàng biết đã mua chứng khoán cua ai hoặc đã bán cho ai, ngân hàng có thể bán ngay số chứng khoán của mình cho khách hàng hoặc mua luôn số chứng khoán của khách hàng cho mình nếu thấy có lợi. Chẳng hạn, khi một khách hàng uỷ quyền cho ngân hàng mua cổ phiếu của một công ty nào đó với giá “rẻ nhất” tại thời điểm quy định thì ngân hàng sẽ không nhất thiết phải mua cổ phiếu đó tại sở giao dịch chứng khoán, mà có thể lấy chúng từ dự trữ của mình để bán cho khách hàng.Tất nhiên trong các trường hợp như vậy, ngân hàng phải nắm vững tỷ giá chính thức để xác định mức giá bán cho khách hàng. 1.3.2.2. Cung cấp các dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trên TTCK a, Dịch vụ lưu giữ quản lý hộ chứng khoán Tại pháp lệnh ngân hàng đã viết: “NHTM có thể thực hiện các nghiệp vụ về cất giữ, mua bán, chuyển nhợng, quản lý các chứng khoán và các giấy tờ có giá khác”. Chứng từ có giá ở đây là các cổ phiếu, trái phiếu...nó có giá trị như tiền nên cần được bảo quản và lưu trữ cẩn thận.Những nhà đầu tư cầm chứng khoán trong tay với khối lượng lớn sẽ không đảm bảo an toàn, họ có nhu cầu nhờ ai đó quản lý hộ.NHTM là một tổ chức rất có ưu thế về lĩnh vực này vì đã từng thực hiện các nghiệp vụ quản lý hộ vàng bạc, đá quý và những tài sản giá trị khác. Nghiệp vụ lưu giữ, bảo quản chứng khoán cho khách hàng của NHTM là dịch vụ cho thuê két sắt đối với những cá nhân, những công ty, xí nghiệp có nguồn chứng khoán lớn muốn tìm kiếm một nhu cầu an toàn hoặc đối với các ngân hàng nhỏ không đủ phơng tiện giữ chứng khoán cho khách hàng, có thể gửi chứng khoán tại ngân hàng lớn. Về phía ngân hàng thương mại khi thực hiện dịch vụ lưu giữ, bảo quản hộ chứng khoán hộ khách hàng có ích lợi như : NHTM có thể sử dụng chứng khoán lưu giữ, bảo quản hộ thế chấp cho một khoản vay của ngân hàng hoặc mở rộng các dịch vụ khác cho khách hàng (nhận lãi chứng khoán hộ, giao hoán và thanh toán chứng khoán...) theo sự uỷ quyền của khách hàng. Khi thực hiện dịch vụ này, ngân hàng thu được khoản phí dịch vụ từ khách hàng.Trong tương lai dịch vụ này sẽ không ngừng được mở rộng, nó trở thành một nguồn lợi lớn cho khách hàng mà gần như không bị rủi ro. Về phía khách hàng nhờ ngân hàng lưu giữ chứng khoán giúp họ tiết kiệm được chi phí, đảm bảo an toàn đồng thời được ngân hàng cung cấp các dịch vụ khác có liên quan đến chứng khoán. b, Thực hiện thanh toán các chứng khoán. Nghiệp vụ thanh toán nối tiếp dịch vụ quản lý chứng khoán đã nêu trên.Ngân hàng có thể mở cho khách hàng của mình các tài khoản chứng khoán để theo dõi việc mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán cho khách hàng, kể cả việc thu hồi lãi, thu cổ tức.Rõ ràng, những tài khoản chứng khoán sẽ giúp ích rất nhiều cho hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường của khách hàng.Các nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán, các trung gian môi giới không phải bận tâm với việc lưu giữ và theo dõi việc mua bán một số lượng khổng lồ các cổ phiếu, trái phiếu hàng ngày.Ngân hàng sẽ đảm bảo cho khách hàng việc này.Nhờ ngân hàng tổ chức thực hiện thanh toán chứng khoán, hoạt động mua, bán cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán sẽ thực hiện nhanh chóng, dễ dàng hơn và không phải di chuyển qua lại một số lượng lớn cổ phiếu, trái phiếu rất cồng kềnh và tốn kém. Chính nhờ có ngân hàng, mà phần lớn các giao dịch chứng khoán thực hiện bằng chuyển khoản qua hệ thống ngân hàng nên nhu cầu tiền mặt không lớn lắm. c,Công tác thanh toán bù trừ Hoạt động giao dịch chứng khoán được diễn ra liên tục trên sở giao dịch chứng khoán, bên cạnh đó sự luân chuyển vốn làm sao phải theo kịp với sự chuyển của chứng khoán.Chúng ta biết rằng hoạt động trên TTCK hết sức sôi động, nếu tất cả các khoản thanh toán đều thực hiện bằng tiền mặt thì có lẽ sở giao dịch chứng khoán đã biến thành một “ngân hàng” và hoạt động giao dịch tiền mặt ngày càng tăng lên theo sự gia tăng của giao dịch chứng khoán. Để giải quyết được nhược điểm này, người ta áp dụng thanh toán bằng chuyển khoản, đã giảm đi một gánh nặng lớn, theo đó tất cả những người mua bán, các nhà môi giới, kinh doanh chứng khoán đều có tài khoản ở ngân hàng, khi các giao dịch mua bán kết thúc thì mỗi người sẽ nhận được các giấy báo nợ, báo có mà không phải quan tâm đến vấn đề tiền mặt nữa, đây là một bước tiến mới giúp TTCK hoạt động trôi chảy hơn. Mặt khác, các nhà đầu tư, các nhà môi giới, các chuyên gia chứng khoán phải thực hiện rất nhiều giao dịch trong ngày do đó để thuận tiện người ta áp dụng việc thanh toán bù trừ để đơn giản hoá việc thanh toán. Thanh toán bù trừ chứng khoán là hoạt động luân chuyển chứng khoán trên các tài khoản lưu ký dưới sự điều hành của trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ chứng khoán. Công tác thanh toán bù trừ đều do các ngân hàng đảm nhận, nếu công tác này được tiến hành tốt sẽ là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thành công của TTCK.Thanh toán và bù trừ được thực hiện theo các trình tự sau: - Người mua, người bán, nhà môi giới đều có tài khoản tại một ngân hàng.Sau khi các lệnh mua bán được nhà môi giới thực hiện, lúc này sẽ có một hoá đơn độc lập để xác định việc mua bán (về số lượng, giá cả) để gửi đến ngân hàng nhờ thanh toán hộ. Căn cứ vào hoá đơn này, ngân hàng sẽ ghi nợ cho người mua và ghi có cho người bán và những người được hưởng hoa hồng, đây là trường hợp thanh toán đơn giản nhất.Tất nhiên theo yêu cầu của khách hàng thì có thể được thanh toán ngay sau một thời gian nhất định, thường thì sau từ một đến hai ngày vì không thể thực hiện được tất cả giao dịch chứng khoán được ngay. Nếu khách hàng muốn thanh toán nóng thì phải trực tiếp tới ngân hàng còn thường thì do người môi giới chuyển đến ngân hàng để thanh toán, khách hàng có thể nhận giấy báo nợ, báo có tại ngân hàng hay tại các công ty chứng khoán. - Người mua, người bán, người môi giới không mở tài khoản tại một ngân hàng, lúc này phải tham gia thanh toán bù trừ qua ngân hàng nhà nước, các hoá đơn mua bán đều được gửi về ngân hàng ngời mua và ngân hàng người bán mở tài khoản để thanh toán, sau đó ngân hàng bên mua và bán tham gia thanh toán bù trừ, trong trường hợp này thì phải mất từ hai đến ba ngày khách hàng mới có thể nhận các giấy báo nợ, báo có. Dịch vụ thanh toán và thanh toán bù trừ của các NHTM hỗ trợ cho hoạt động của TTCK diễn ra đều đặn, suôn sẻ.Thanh toán chứng khoán thực sự là một khâu quan trọng trong hoạt động mua, bán chứng khoán đặc biệt là trên TTCK thứ cấp.Ngân hàng có thể kết hợp với trung tâm giao khoán và thanh toán chứng khoán để hoàn thiện hệ thống lưu giữ và thanh toán chứng khoán. d, Dịch vụ nhận lãi chứng khoán hộ khách hàng Các chứng khoán khách hàng gửi ngân hàng bảo quản hộ có thể là trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu, cổ phiếu công ty.Thông thường các chứng khoán này trả lãi vào cuối năm và các chủ chứng khoán nhờ ngân hàng nhận hộ lãi khi đến kỳ hạn trả lãi.Để thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản tạm gọi là tài khoản lưu giữ chứng khoán bên cạnh tài khoản tiền gửi và nếu người nhận lãi và người trả lãi (các công ty cổ phần, kho bạc) đều có tài khoản tiền gửi tại một ngân hàng thì việc nhận và trả lãi diễn ra rất đơn giản cụ thể: ngân hàng chỉ việc trích số tiền từ bên nợ của tài khoản tiền gửi của đơn vị trả lãi để trả cho ngời nhận lãi và ghi có tài khoản tiền gửi của ngời nhận lãi.Nếu người trả lãi và người nhận lãi có tài khoản ở hai ngân hàng thương mại khác nhau thì cũng không có gì phức tạp khi nước ta đã có hệ thống thanh toán liên ngân hàng và hệ thống thanh toán bù trừ khá hoàn chỉnh. Ngoài ra ngân hàng còn thu hút được một khoản tiền gửi là lãi chứng khoán, làm tăng thêm vốn của NHTM để cho vay.Mặt khác nó góp phần làm kích thích sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt. Thông thường, ngân hàng chỉ thực hiện các dịch vụ bảo quản và nhận lãi chứng khoán hộ khách hàng có khối lượng chứng khoán lớn và không nhận đối với khách hàng có số lượng chứng khoán nhỏ vì tốn tiền chi phí, đôi khi số tiền nhận lãi chứng khoán không đủ để trả phí dịch vụ cho Ngân hàng. Ngân hàng quản lý chứng khoán hộ cũng tương tự như quản lý tiền gửi của khách hàng, nghĩa là mọi nghiệp vụ liên quan đến chứng khoán đều do ngân hàng thực hiện, nhưng phải dựa trên cơ sở các lệnh của khách hàng đề ra hoặc uỷ nhiệm hợp pháp của khách hàng. 1.3.2.3. Hoạt động của công ty chứng khoán trực thuộc NHTM tạo cầu nối giữa nhà đầu tư và TTCK a) Nghiệp vụ môi giới chứng khoán Công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại các sở giao dịch chứng khoán hoặc tại thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến cho khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán.Và trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đa ra những lời động viên kịp thời để nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo. b) Nghiệp vụ tự doanh Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên SGDCK hoặc thị trường OTC. Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa nghiệp vụ môi giới và nghiệp vụ tự doanh, công ty chứng khoán phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình.Thậm chí luật pháp ở một số nước còn quy định có hai loại hình công ty chứng khoán là công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và công ty chứng khoán có chức năng tự doanh. c) Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư, khách hàng uỷ thác tiền cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp nhận hoặc yêu cầu (mức lợi nhuận kỳ vọng, rủi ro có thể chấp nhận...). d) Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Nhà tư vấn phải hết sức thận trọng trong việc đa ra các lời khuyên với khách hàng, vì với lời khuyên đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thu lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho mình khoản thu phí về dịch vụ tư vấn (bất kể tư vấn đó có thành công hay không ). e) Các nghiệp vụ phù trợ - Lưu ký chứng khoán: là việc lu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lu ký chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ này, công ty chứng khoán sẽ nhận đợc các khoản thu phí lu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhợng chứng khoán. - Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý cổ tức): xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức cửa chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. - Nghiệp vụ tín dụng: Đối với các TTCK phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, công ty chứng khoán còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ. Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng khoán ứng tiền trớc thanh toán. Đến kỳ hạn thoả thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số gốc vay cùng với lãi cho công ty chứng khoán. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, thì công ty sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ. - Nghiệp vụ quản lý quỹ: ở một số TTCK, pháp luật về TTCK còn cho phép công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, công ty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản cuả quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. Công ty chứng khoán được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư. 1.3.3. Vai trò đầu tư trực tiếp trên TTCK của NHTM Đầu tư chứng khoán là loại hình phổ biến nhất trong tài sản có của các NHTM ở các nước đã phát triển. Bản thân chứng khoán rất đa dạng về thể loại. Nhưng chúng ta chỉ xem xét về các chứng khoán dưới giác độ nó là một loại đầu tư của các NHTM. Chứng khoán là một loại phiếu nợ được ghi trên giấy dưới hình thức một chứng từ. Chứng khoán có hai loại: trái phiếu của chính phủ hoặc các doanh nghiệp và cổ phiếu của các công ty cổ phần. Đầu tư vào chứng khoán của chính phủ thường chiếm bộ phận lớn trong các loại đầu tư chứng khoán của NHTM. Vì chứng khoán của chính phủ được xem là loại tài sản an toàn nhất. Dù rằng hầu hết các chính phủ trên thế giới đều có mức thâm hụt ngân sách ngày càng tăng và phải liên tục vay mượn của nhân dân bằng cách phát hành trái phiếu. Nhưng chính phủ luôn có khả năng trả nợ đã vay qua phát hành trái phiếu vì khi cần thiết nó hoàn toàn có thể ra lệnh cho ngân hàng trung ương in tiền mặt để trả nợ mà chỉ tốn ít thời gian. Không phải lúc nào cũng có thể và cũng nên in tiền mặt, nên chính phủ quyết định vay nợ của nhân dân bằng cách phát hành trái phiếu để bù đắp thâm hụt ngân sách và chi dùng. Mua bán chứng khoán với mục tiêu kiếm lợi, buộc NHTM phải cân nhắc kỹ nên mua loại chứng khoán nào, mua vào lúc nào và bán vào lúc nào để có khả năng thu lợi nhuận cao nhất. Để giải quyết một loạt câu hỏi trên, ngân hàng phải tiến hành điều tra, nghiên cứu, thẩm định tính khả thi của chứng khoán sẽ mua bán với các chỉ tiêu phân tích kỹ thuật trong mua bán chứng khoán, ngành nghề kinh doanh của công ty, khả năng điều hành của ban giám đốc, khả năng sinh lợi hiện tại và tương lai, chiến lược phát triển...Kết hợp với khả năng phán đoán, nhận xét trên cơ sở phân tích các thông tin thu thập trên thị trường để lựa chọn loại chứng khoán mua, bán. Họ thường chọn chứng khoán của các công ty kinh doanh tốt để mua vì chứng khoán của các công ty này có ít rủi ro và tính thanh khoản cao.Ngoài ra, các ngân hàng còn phải phân tích lựa chọn thời điểm nào để mua bán chứng khoán sao cho có lợi nhất.Thông thường, ngân hàng mua lúc hạ giá, bán lúc giá đã lên cao nhất hoặc bán lúc giá hạ để giảm lỗ khi dự đoán thị giá chứng khoán đó sụt không níu kéo được, không nên bán khi giá chứng khoán tiếp tục tăng 1.3.4. Tạo tính thanh khoản cho TTCK 1.3.4.1. Giao dịch các sản phẩm phái sinh Các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như: hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường.Như vậy, sự kết hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường chứng khoán sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ) và bảo hiểm rủi ro, đồng thời sẽ tăng tính thanh khoản của thị trường. 1.3.4.2. NHTM mở rộng cho vay cầm cố chứng khoán Cầm cố là hình thức theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết (thường là thời gian nhận tài trợ). Cầm cố chứng khoán là hình thức theo đó người sở hữu chứng khoán phải chuyển quyền kiểm soát chứng khoán cho ngân hàng trong thời gian nhận tài trợ. Cách cầm cố chứng khoán: Khách hàng làm đơn vay và xin cầm cố chứng khoán; các chứng khoán này có thể sang tên ngân hàng hoặc được ngân hàng lưu giữ với cam kết chuyển lại cho khách hàng. Ngân hàng chuyển đơn chuyển nhượng tới công ty đăng ký chứng khoán để công ty chuyển tên sang cho ngân hàng.Các chứng khoán này thuộc sở hữu ngân hàng.Khi khách hàng trả đủ nợ, ngân hàng sẽ làm thủ tục chuyển nhượng lại.Các chứng khoán vô danh thì không thể làm thủ tục chuyển nhượng. Do nhiều yếu tố tác động đến khiến cho hoạt động này của NHTM ngày càng được mở rộng và phát triển. Các yếu tố đó là: - Thị trường chứng khoán nóng lên, nhu cầu mua cổ phiếu của ngời dân tăng vọt, nên rất nhiều người đă dùng cổ phiếu vay vốn ngân hàng để kinh doanh chứng khoán. - Lãi suất tiền gửi ngắn hạn tăng cao (thậm chí có ngân hàng còn cao hơn lãi suất trung hạn), do đó các ngân hàng huy động được vốn ngắn hạn nhiều, vốn trung và dài hạn ít, thêm vào đó lãi suất cho vay tăng vọt quá mức lợi nhuận trên vốn bình quân của doanh nghiệp.Chính vì vậy, các NHTM xuất hiện tình trạng dư vốn cho vay. Từ các yếu tố trên, nhiều NHTM đã cầm cố cổ phiếu cho vay đáp ứng được nhu cầu đầu tư chứng khoán của người dân và nhu cầu của chính TTCK. 1.3.5. NHTM góp phần điều hoà cung cầu, ổn định thị trường chứng khoán Vai trò này của NHTM được thể hiện một cách rõ rệt và tích cực thông qua các hoạt động: - Điều hoà quan hệ cung cầu chứng khoán: NHTM là chủ thể quan trọng cung cấp hàng hoá cho thị trờng chứng khoán, là người tạo thị trường có thể làm tăng nhu cầu hoặc giảm nhu cầu chứng khoán khi cần thiết.Với cơ chế giao dịch đó, NHTM tham gia điều hoà cung cầu chứng khoán một cách nhanh nhạy. - Hoạt động của NHTM tạo ra sự ổn định của thị giá chứng khoán: Khi NHTM tham gia mua bán một khối lượng chứng khoán lớn sẽ làm thay đổi giá trị chứng khoán theo những chiều hướng nhất định.Hơn nữa, NHTM chủ động thay đổi mức tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến thị giá chứng khoán bằng những hoạt động này các NHTM góp phần ổn định thị giá chứng khoán và TTCK. - Trợ giúp cho các công ty niêm yết, ổn định tâm lý của nhà đầu tư chứng khoán: Sự ổn định và phát triển của TTCK phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty niêm yết và tâm lý của công chúng - những nguồn nắm giữ chứng khoán.Các NHTM còn thực hiện việc ổn định TTCK thông qua việc trợ giúp cho các công ty niêm yết khi họ gặp khó khăn về tài chính rủi ro, đảm bảo khả năng thanh toán, quyền tự chủ của họ trên thị trường. Hoạt động của NHTM góp phần nâng cao chất lượng GDCK cả về thời gian, độ chính xác và an toàn cần thiết.NHTM luôn hoàn thiện các nghiệp vụ GDCK. Điều này không chỉ giúp phần tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn, mà còn hạn chế rủi ro, bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư, thị trường hoạt động an toàn. 1.3.6. Sự tham gia của NHTM góp phần đảm bảo nguyên tắc hoạt động của TTCK Mỗi NHTM có thể tổ chức các bộ phận hoặc công ty chứng khoán độc lập. Từ đó họ sẽ đi sâu vào nghiệp vụ giao dịch đảm nhận. Khách hàng có quan hệ tiền gửi và vay vốn của NHTM có thể mua bán chứng khoán qua công ty chứng khoán của ngân hàng.Đây là lợi thế cho các khách hàng vì ngân hàng có thể thực hiện toàn bộ GDCK.Song điều quan trọng hơn là các NHTM luôn đảm bảo nguyên tắc trung gian trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. NHTM có thể đảm bảo cung cấp các thông tin chính xác, hạn chế những hiện tượng lừa đảo trong kinh doanh chứng khoán. NHTM góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện nguyên tắc công khai và công bằng thông qua chức năng kiểm soát. Các hành vi buôn bán tay trong, đầu cơ bất chính sẽ được phát hiện và hạn chế khi có sự tham gia của NHTM vào hoạt động của TTCK. Phần 2: Đánh giá về vai trò của NHTM trong hoạt động của TTCK Việt Nam hiện nay 2.1. Thực trạng về TTCK Việt Nam hiện nay Giao dịch chứng khoán 6 tháng đầu năm 2008 * Tại sàn chứng khoán TP Hồ Chí Minh Trong 6 tháng đầu năm 2008 chỉ số VN- Index đã giảm hơn 56,6% so với thới điểm cuối năm 2007, khối lượng giao dịch qua khớp lệnh bình quân mỗi tháng đạt trên137 triệu đơn vị. Diễn biến mua bán của nhà đầu tư ngoại trong 6 tháng qua vẫn rất cao, tuy nhiên chủ yếu là xu thế mua vào. Lượng mua vào trong 6 tháng đầu năm 2008 vẫn gấp đôi lượng bán ra. Bảng diễn biến chỉ số VN- Index trong 6 tháng đầu năm 2008: Bảng diễn biến KLGD 6 tháng đầu năm 2008: Tháng Khớp lệnh Thỏa thuận Khối lượng Giá trị Khối lượng Giá trị Jun-08 136.208.620 4.053,335 15.909.495 646,668 May-08 54.272.210 2.526,458 21.180.381 934,138 Apr-08 126.875.030 6.218,647 9.824.000 516,267 Mar-08 206.543.760 11.769,517 15.693.569 900,640 Feb-08 137.588.960 10.005,693 2.949.952 300,598 Jan-08 163.777.670 14.191,361 12.199.414 962,901 Nguồn: trang web tinnhanhchungkhoan.vn sàn chứng khoán TP HCM Bảng diễn biến KLGD của nhà đầu tư ngoại 6 tháng đầu năm 2008: Tháng Khối lượng giao dịch Giá trị giao dich ĐTNN (mua) ĐTNN (bán) ĐTNN (mua) ĐTNN (bán) Jun-08 34.244.605 17.088.781 1.394,449 669,322 May-08 31.883.285 7.158.090 1.619,038 427,279 Apr-08 41.454.350 8.651.210 2.531,218 568,200 Mar-08 30.972.154 17.601.256 2.132,981 1.199,713 Feb-08 15.952.010 7.650.820 1.352,305 659,907 Jan-08 25.773.632 20.164.932 2.473,800 1.934,371 Nguồn: trang web tinnhanhchungkhoan.vn sàn chứng khoán TP HCM Các cổ phiếu có khối lượng giao dịch nhiều trong 6 tháng đầu năm 2008 là: STB, SSI, DPM, VFMVF1, ITA, FPT, HPG, VIC… * Tại sàn chứng khoán Hà Nội Trong 6 tháng đầu năm 2008 cũng với xu hướng sụt giảm như VN- Index chỉ số HASTC- Index cũng đã giảm tới 65% so với cuối năm 2007. Khối lượng giao dịch bình quân mỗi tháng đạt 66 triệu đơn vị, tương đương giá trị giao dịch đạt 3.360 tỷ đồng. Nhà đầu tư ngoại giao dịch mua bán tại sàn Hà Nội cũng khá sôi động, trong 6 tháng đầu năm 2008 họ mua vào 11.940.110 cổ phiếu, và chỉ bán ra 7.185.900 cổ phiếu. Bảng diễn biến thay đổi chỉ số HASTC- Index: Bảng diễn biến KLGD cổ phiếu 6 tháng đầu năm 2008: Tháng KL GD GTGD Jan-08 68,446,888 5,496,592,101,600 Feb-08 63,544,800 4,395,795,520,000 Mar-08 102,199,249 5,238,103,184,500 Apr-08 59,219,020 2,500,873,678,000 May-08 27,814,146 866,602,142,800 Jun-08 74,804,960 1,662,211,175,000 Nguồn: trang web tinnhanhchungkhoan.vn Top 10 mã cổ phiếu có KLGD lớn trong 6 tháng đầu năm 2008: Mã CK KL GD ACB 42,010,810 KLS 31,673,600 PVS 28,311,600 PVI 20,768,066 HPC 11,986,300 PAN 11,774,600 TBC 11,533,100 NVC 9,630,000 SD9 9,212,900 NTP 9,115,030 Nguồn: trang web tinnhanhchungkhoan.vn Top 10 mã cổ phiếu có KLGD nhiều nhất của nhà đầu tư ngoại: Mua Bán Mã KL mua GT mua Mã KL bán GT bán PVI 3,768,240 147,587,582,000 PVI 1,175,500 45,204,210,000 NTP 1,276,800 82,410,650,000 NBC 1,012,900 61,737,580,000 BVS 1,087,570 88,014,975,000 NTP 676,400 47,470,370,000 PVS 825,900 49,982,570,000 BCC 650,800 11,942,140,000 NBC 676,200 37,706,350,000 TBC 439,600 8,386,430,000 BMI 623,600 41,467,940,000 BVS 383,500 39,930,520,000 PVC 427,000 32,321,800,000 PVS 382,900 25,439,760,000 KLS 248,800 4,891,900,000 HPC 236,700 18,040,320,000 VNR 218,400 7,285,680,000 BMI 231,700 16,991,560,000 PAN 150,100 10,641,570,000 SDT 228,400 16,958,290,000 Nguồn: trang web tinnhanhchungkhoan.vn * Nguyên nhân sụt giảm Thị trường chứng khoán sụt giảm trong những tháng qua chủ yếu xuất phát từ chính nội tại của nền kinh tế, bên cạnh đó là yếu tố bày đàn của các nhà đầu tư trong nước. Trong những tháng đầu năm lạm phát đã tăng đột biến mà nguyên nhân chủ yếu do giá dầu, giá vàng, giá lương thực thế giới tăng cao. Sự lo ngại về khả năng thanh khoản và rủi ro từ hệ thống ngân hàng đã tạo áp lực đến thị trường chứng khoán. Hệ quả của tình trạng mất cân đối cung - cầu do hậu quả của việc IPO, tăng vốn đồng loạt của các ngân hàng các công ty. Tuy rằng cũng có những công ty thực sự cần vốn, có những công ty chỉ đơn giản tăng cho đủ điều kiện trụ lại sàn, và đánh bóng thương hiệu. Điều này đã làm cho các cổ phiếu bị pha loãng, dẫn đến tính thanh khoản thấp. Tác động tiêu cực từ TTCK Thế giới khi mà những ngày đầu năm 2008 hàng loạt các sàn chứng khoán hàng đầu Thế giới đã phải đối đầu với nguy cơ khủng hoảng kinh tế, tài chính của những nền kinh tế hàng đầu Thế giới như Mỹ, Nhật… Thị trường tiền tệ nóng lên; lãi suất của hệ thống ngân hàng tăng cao; Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt. Khách hàng vay cầm cố cổ phiếu tại các NHTM đến nay đến hạn phải trả nợ, hoặc chưa đến hạn nhưng do giá cổ phiếu giảm mạnh so với thời điểm cầm cố vay vốn, nên phải bổ sung tài sản hoặc rút giảm dư nợ, nên hầu như chỉ còn cách là bán cổ phiếu, bán chứng khoán ra thị trường. Chỉ số chứng khoán liên tục giảm, giá cổ phiếu xuống thấp, hàng loạt nhà đầu tư thua lỗ, hụt vốn gây tâm lý chán nản cho các nhà đầu tư. Rất nhiều nhà đầu tư rời sàn chuyển sang thị trường bất động sản và thị trường vàng. Trong khi đó TTCK lại không thu hút được nhà đầu tư mới. Chứng khoán Việt Nam trong 2 tháng gần đây (tháng 10 và tháng 11) Nhìn nhận lại sự lên, xuống của VN-Index trong thời gian qua, một số chuyên gia nhận định: Nguyên nhân của sự trồi, sụt trên TTCK Việt Nam được nương tựa và chịu ảnh hưởng khá nặng theo những biến động của TTCK thế giới, đặc biệt là Mỹ. Đây cũng chính là xu thế chung trong vòng gần 2 tháng nay của TTCK Việt Nam. Cục dự trữ liên bang mỹ (FED) cắt giảm lãi xuất để có thể tạo ra những biến động mới trên thị trường. Bên cạnh đó, một loạt Ngân hàng Trung ương và chính phủ nhiều nước đã liên tiếp có những nỗ lực nhằm làm tan băng trên thị trường tín dụng, góp phần giảm bớt sự bất ổn... Những động thái này đã thực sự tạo thêm hưng phấn tâm lý của các NĐT trong nước đẩy mạnh mua vào, nhất là khi đa số các cổ phiếu trên TTCK Việt Nam đã giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 2,5 năm qua. Ghi nhận tại nhiều sàn giao dịch, đề tài mà khá nhiều NĐT Việt Nam luôn quan tâm đó là sự lên, xuống của chỉ số Dow Jones, các động thái hỗ trợ của FED hay châu Âu... với thị trường tài chính có gì mới, để từ đó nhìn theo đặt lệnh mua, hay bán trong ngày. Nhận định điều này, một số chuyên gia lý giải: Việc một số NĐT mua - bán cổ phiếu theo diễn biến TTCK thế giới là có thật, chủ yếu là theo diễn biến của TTCK Mỹ, bởi đơn giản màu xanh, đỏ trên TTCK Mỹ không đơn thuần phản ánh sự kỳ vọng hay lo lắng vào một DN nào đó, mà nó còn đem lại cái nhìn về sức khỏe của nền kinh tế số 1 thế giới. Tháng 10/2008 cũng chính là một tháng ác mộng đối với NĐT trên TTCK Mỹ khi chỉ số công nghiệp Dow Jones hạ 14,6%, mức hạ theo tháng tệ nhất từ tháng 8/1998.Những ngày tới vẫn còn những đám mây đen lởn vởn trên phố Wall. Chỉ số lòng tin của người tiêu dùng Mỹ đang sụt xuống mức thấp nhất trong lịch sử phản ánh tình trạng kinh tế khó khăn cũng như sự thắt lưng buộc bụng của người tiêu dùng... Bên cạnh sự e dè và lo ngại của nhiều NĐT về những diễn biến xấu có thể tiếp tục xảy ra với kinh tế Mỹ, thời gian gần đây, nhiều NĐT trong nước lại càng quan tâm hơn đến giao dịch của nhà ĐTNN và lo ngại về hành động bán ròng của họ, mặc dù biết đó là làn sóng rút vốn về nước của khối ngoại không chỉ trên TTCK Việt Nam, nhưng mức độ ảnh hưởng của nó tới thị trường là điều không thể phủ nhận. Thêm nữa, ngày 3/11,"đại gia" Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam (mã PVF) chính thức chào sàn HoSE.PVF được coi là hàng "khủng" với số lượng cổ phiếu niêm yết nhiều nhất của một công ty từ trước đến nay.Dự kiến đến cuối năm sẽ có thêm gần 50 DN mới niêm yết cổ phiếu trên cả hai sàn chứng khoán TP.HCM và Hà Nội. Với tâm lý chưa ổn định hiện nay của NĐT, việc cổ phiếu niêm yết mới quá nhiều có khiến cho cầu bị "ngợp" trước nguồn cung quá lớn. Mặc dù có tâm lý lo sợ, nhưng lượng tiền trong tài khoản NĐT phần đông chưa bị rút ra khỏi thị trường hay chuyển sang kênh đầu tư khác.Điều này chứng tỏ NĐT đang chờ đợi và đã sẵn sàng khi cơ hội xuất hiện là giải ngânngay. Hiện tại, đang có những thông tin tích cực đến với chứng khoán. Đó là giá nguyên liệu đầu vào như xăng dầu, sắt thép, xi măng đang giảm mạnh tạo điều kiện để kinh tế vĩ mô phục hồi. Bên cạnh đó, so sánh với hệ thống tài chính bên ngoài, trong khi hàng loạt các ngân hàng nước ngoài phá sản, đứng bên bờ vực phá sản hoặc phải kêu gọi cứu trợ thì hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn đang ổn định; không còn hiện tượng lãi suất vay qua đêm lên đến 34 - 35% như trước đây, đặc biệt đã xuất hiện làn sóng giảm lãi suất cho vay của hàng loạt ngân hàng, nhiều ngân hàng đang thừa vốn cho vay. Một thông tin đặc biệt quan trọng là mối lo thuế đánh vào thu nhập chứng khoán sẽ được hoãn lại. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước vừa tuyên bố sẽ báo cáo Quốc hội đề nghị giãn thuế đánh vào thu nhập chứng khoán, trước mắt là giãn hết năm 2009. Điều này sẽ tạo ra những tác dụng tích cực về tâm lý đối với các NĐT. Tình hình thị trường trong thời gian vừa qua. VN Index -8,59 -2,68% 311,74 HASTC Index -5,68 -5,40% 99,56 Nguồn: trang web UBCK NN: 2.2. Thực trạng về vai trò của NHTM trong TTCK Việt Nam 2.2.1. Cổ phiếu ngân hàng thương mại Đến nay số NH TMCP có vốn điều lệ dưới mức quy định 1.000 tỷ đồng không phải là ít. Bởi vậy, từ nay đến cuối năm sẽ có một cuộc thu hút vốn rầm rộ. Theo yêu cầu bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến thời điểm 31/12/2008, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) phải đạt tối thiểu 1.000 tỷ đồng. Thế nhưng cho đến thời điểm hiện nay, còn hàng chục ngân hàng TMCP đang có số vốn điều lệ dưới mức này. Dự báo sẽ có một cuộc thu hút vốn rầm rộ từ cổ phiéu.Thời hạn từ nay đến cuối năm 2008 không còn nhiều, nhưng đến nay số NHTMCP có vốn điều lệ dưới mức quy định 1.000 tỷ đồng không phải là ít. Một số tên tuổi như Đệ Nhất (FCB) là 600 tỷ đồng, Gia Định (GiaDinh Bank) là 500 tỷ đồng, Thái Bình Dương (Pacific Bank) là 566 tỷ đồng, Mỹ Xuyên (MX Bank) là 500 tỷ đồng... Các ngân hàng này đã có phương án cụ thể để tăng vốn điều lệ lên 1.000 tỷ đồng trong năm nay. Phương án đó có thể khác nhau nhưng tựu trung vẫn là dựa vào các cổ đông lớn hoặc thực hiện việc chào bán cổ phiếu. Điển hình như NHTMCP Kiên Long (Kien Long Bank) đang có kế hoạch chào bán gần 42 triệu cổ phiếu, trong đó 40 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu và 2 triệu cổ phiếu cho CBCNV với giá 10.000 đồng/cổ phiếu. Còn Ngân hàng TMCP Đệ Nhất (FCB) thì đã đệ trình kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 600 tỷ đồng lên 1.000 tỷ đồng từ các cổ đông hiện hữu lên NHNN và đang chờ được chấp thuận. Các ngân hàng khác đang cần đạt chuẩn mà NHNN quy định cũng đã có những hướng đi của mình, trong đó, ưu tiên lớn nhất vẫn là việc phát hành thêm cổ phiếu, bao gồm cả việc bán cổ phiếu cho các đối tác chiến lược, cho cổ đông hiện hữu và cả cán bộ nhân viên trong ngân hàng mình. Với bất kỳ hình thức gì, dù cho cổ đông hiện hữu, cổ đông chiến lược, nhân viên bản địa thì lượng cổ phiếu này cũng sẽ là một khối lượng cực lớn. Lo ngại lớn nhất, theo đánh giá của các chuyên gia chứng khoán và tài chính ngân hàng là ở chỗ, sau một thời gian khá dài, các loại cổ phiếu ngành ngân hàng đã mất dần vị thế dẫn đầu trên thị trường chứng khoán, thì với tín hiệu này có thể còn khiến nó chìm sâu hơn. Trước đây, sự kém hấp dẫn của cổ phiếu ngành này được biết đến với nhiều lý do, song một trong những nguyên nhân cơ bản là sự khó khăn của nền kinh tế và vấn đề loạn ngân hàng. Hai yếu tố đó đã khiến thị trường cổ phiếu ngân hàng dần kém sức hấp dẫn. Trong điều kiện tài chính khó khăn hiện nay, việc lấy lại thời hoàng kim của cổ phiếu ngân hàng đã khó chứ đừng nói đến việc tăng vốn bằng việc phát hành cổ phiếu như trước đây. Nếu điều này thực sự bắt buộc phải xảy ra, chắc chắn một lần nữa cổ phiếu ngành ngân hàng lại đứng trước nguy cơ “ngập” mới. 2.2.2. Cổ phần hoá ngân hàng 2.2.2.1. Sự cần thiết phải CPH NHTMNN  Hoạt động ngân hàng, trong đó NHTM nhà nước với vai trò chủ đạo trong những năm qua đã có sự đóng góp rất lớn vào sự thành công trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đã triển khai thực hiện chính sách tiền tệ một cách tích cực, cơ bản ổn định được giá trị và sức mua của đồng tiền, kìm chế lạm phát, tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia và góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhìn chung vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế, chưa phát huy hết chức năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả để làm cho kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo.  Việc CPH ngân hàng là một khâu trong quá trình đổi mới hoạt động NH, củng cố và cơ cấu lại các NHTM theo hướng tiếp tục phát huy thành tựu, khắc phục những tồn tại nhằm nâng cao năng lực tài chính, trình độ công nghệ, năng lực tổ chức kinh doanh đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới trong những năm tới   NHTM nhà nước đang đứng trước thực trạng nợ tồn đọng lớn, vốn tự có quá thấp so với nhu cầu thực tiễn và so với các ngân hàng trên thế giới, tình trạng này đang làm hạn chế khả năng huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng.  Do yêu cầu của CNH-HĐH đất nước cần phải có một khối lượng vốn, vì vậy cần phải có NHTM đủ tiềm lực tài chính để thực hiện phân phối và sử dụng vốn một cách hiệu quả. Chính vì vậy, đặt ra vấn đề CPH NHTM nhà nước là rất cần thiết.  Quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và chuẩn bị hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế với việc tự do hóa tài chính đã làm cho môi trường cạnh tranh gay gắt hơn, đầy rủi ro hơn. Bối cảnh này đã đặt ra cho ngành ngân hàng cần thiết phải CPH NHTM nhà nước.  Với những yêu cầu hết sức cần thiết và bức xúc như đã nêu trên, đòi hỏi trong hoạt động của ngân hàng VN phải có một ngân hàng với quy mô lớn, năng lực tài chính mạnh trong khi các NHTM nhà nước cũng như các NHTM cổ phần không thể đáp ứng được thì vấn đề CPH NHTM nhà nước là một yêu cầu cần thiết khách quan. Cho dù các ngân hàng cổ phần đang lớn lên rất nhanh, các ngân hàng nước ngoài dần mở rộng hoạt động, và sự bùng nổ của thị trường chứng khoán trong những năm vừa rồi, nhưng cho đến thời điểm hiện nay, chỉ riêng 5 NHTMNN vẫn chiếm khoảng 70% thị phần huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng và gần 60% tổng tài sản tài chính của nền kinh tế. Điều này đã thể hiện vai trò của các NHTMNN trong nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu so với các ngân hàng trung bình trong khu vực thì quy mô hiện tại của NHTMNN Việt Nam còn nhỏ, năng lực tài chính thấp và chất lượng tài sản chưa cao, các chỉ số khác về dư nợ tín dụng, hệ số an toàn vốn (CAR), khả năng sinh lời… cũng ở mức rất thấp. Vốn tự có của bốn NHTMNN chỉ bằng khoảng một nửa con số này của một ngân hàng trung bình ở châu Á; khả năng sinh lời (ROA) của các NHTMNN thấp, chỉ bằng 38% so với yêu cầu quốc tế; chỉ số ROE mới bằng 43.6% so với chuẩn quốc tế. Thêm vào đó, trình độ quản trị của các NHTMNN còn rất thấp, công nghệ ngân hàng lạc hậu đã ảnh hưởng đến việc vận hành một hệ thống có khả năng phân bổ vốn hiệu quả cho nền kinh tế, sàng lọc và phân tán rủi ro tốt, giám sát chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp và cuối cùng là vận hành hệ thống thanh toán một cách trội chảy. Cổ phần hóa không chỉ giải quyết bài toán về tiềm lực tài chính cho các ngân hàng mà nhờ có sự tham gia của cổ đông bên ngoài, của các nhà đầu tư chiến lược sẽ giúp các ngân hàng có khả năng nâng cao trình độ quản lý tốt hơn, cải thiện công nghệ ngân hàng và tuân thủ các chuẩn mực thị trường. 2.2.2.2. Mục tiêu, yêu cầu cổ phần hoá    Thực chất cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là chuyển hình thức sở hữu nhà nước thành hình thức đa sở hữu thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp nhà nước cho nhiều chủ thể khác.Việc cổ phần hoá các NHTM nhà nước nhằm các mục tiêu sau:  - CPH ngân hàng thương mại nhà nước với mục đích sẽ tăng quy mô năng lực vốn trên cơ sở nhiều hình thức sở hữu vốn (nhà nước, tổ chức kinh tế, cá nhân trong ngoài nước) để tăng năng lực cạnh tranh, vì vậy ngân hàng được CPH không phải như là một dạng của NHTM cổ phần và cũng không phải là một dạng của ngân hàng liên doanh (góp vốn của hai phía VN và nước ngoài). Vì vậy, đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý từ phía nhà nước ở tầm vĩ mô làm cơ sở cho Hội đồng quản trị điều hành ngân hàng một cách hiệu quả, linh hoạt.  - Tạo ra những NHTM lớn có khả năng phục vụ phát triển kinh tế xã hội và truyền tải các chính sách của nhà nước.   - Nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế . 2.2.3. Vai trò đầu tư trực tiếp của NHTM Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, các NHTM có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Trên thực tế, một số lượng lớn trái phiếu Chính phủ và công trái là do NHTM mua.Các NHTM đầu tư vào trái phiếu chính phủ ở mức độ nhất định, sẽ tạo ra hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn của các NHTM nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Nhiều nghiên cứu và thực tế của các nước đã cho thấy, việc đầu tư quá nhiều vào trái phiếu chính phủ của các NHTM cũng gây khó khăn cho thực thi chính sách tiền tệ.Khi các NHTM có xu hướng đầu tư quá nhiều vào trái phiếu chính phủ với thời hạn dài hơn các kỳ hạn huy động, khiến các định chế này phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt vốn khả dụng. Sự mất cân đối vốn khả dụng mang tính cơ cấu có thể ảnh hưởng đến việc phân bổ vốn khả dụng các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng và ảnh hưởng đến lãi suất thị trường liên ngân hàng, làm cho lãi suất qua đêm biến động mạnh khi sự mất cân bằng là đáng kể. Khi đó, NHTW buộc phải sử dụng các nghiệp vụ thường xuyên để bơm vốn cho các NHTM nhằm giảm sự biến động lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và như vậy, vô hình trung NHTW đã cung ứng tiền qua ngân sách, qua đó có thể gây áp lực lạm phát. Thực tế đến đầu năm 2008, xét trên tổng thể mức độ đầu tư vào trái phiếu chính phủ và các loại trái phiếu khác của các NHTM Việt Nam đang ở một tỷ lệ chưa cao so với tổng nguồn vốn huy động, nhưng so với nguồn vốn huy động VND có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên thì chiếm tới 36% và riêng lẻ cũng có ngân hàng mức độ đầu tư vào các loại trái phiếu chính phủ là rất lớn, lên tới trên 30% tổng nguồn vốn huy động. 2.2.4. Thực trạng về vai trò của công ty chứng khoán trực thuộc ngân hàng đối với TTCK nước ta Các công ty chứng khoán của các NHTM là thành viên quan trọng của trung tâm GDCK thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, trên thị trường OTC. Do đó một lượng lớn chứng khoán được giao dịch mua bán qua các công ty này. Các công ty chứng khoán của NHTM đều được cấp phép thực thi nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư. Nhiều hợp đồng có giá trị hàng chục, hàng trăm tỷ VNĐ được triển khai, mang lại tổng doanh thu đầu tư khá cao. Bên cạnh đó nghiệp vụ tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán cũng được cấp phép cho các công ty chứng khoán. Kết quả của hoạt động này là các công ty chứng khoán đã tư vấn cho nhiều khách hàng, trong đó có các công ty niêm yết để hoạt động chứng khoán có hiệu quả tốt. Hiện nay, trong 99 công ty chứng khoán (theo danh sách công ty chứng khoan của UBCKNN) thì có khoảng 13 công ty chứng khoán trực thuộc ngân hàng.Việc các ngân hàng đua nhau thành lập công ty chứng khoán khiến cho TTCK trở nên nóng lên. Ưu thế lớn nhất của các ngân hàng là vốn, hơn nữa cũng có sẵn một lượng lớn khách hàng luôn tin tưởng vào uy tín và bề dày hoạt động của các ngân hàng đồng thời do có sẵn ưu thế về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tài chính. 2.2.5. Một số dịch vụ của NHTM nhằm hỗ trợ cho TTCK Trên thị trường sơ cấp Vai trò phát hành chứng khoán Vai trò đầu tư trực tiếp Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành Trên thị trường thứ cấp Kinh doanh trái phiếu Sản phẩm phái sinh Cho vay chứng khoán 2.2.6. NHTM góp phần điều hoà cung cầu và ổn định TTCK Các NHTM thông qua hoạt động cuả các công ty chứng khoán trực thuộc, nơi một lợng lớn chứng khoán đợc giao dịch mua bán, để điều hoà lượng cung cầu chứng khoán một cách tốt nhất để tạo ra sự ổn định cho thị trường chứng khoán. Ngân hàng Ngoại Thơng là NHTM đầu tiên triển khai dịch vụ giám sát quỹ đầu tư chứng khoán (VF1) và sau đó một số NHTM khác cũng triển khai dịch vụ này. Các NHTM thực hiện bảo quản, lu ký chứng khoán, định giá giá trị tài sản của quỹ đầu t chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Hoạt động này góp phần nâng cao chất lợng GDCK. 2.3. Hạn chế và nguyên nhân khiến các NHTM chậm phát huy được vai trò phát triển TTCK Quá trình cổ phần hoá các NHTMNN và các doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm chạp. Quy mô vốn của các NHTM còn nhỏ so với các ngân hàng các nớc trong khu vực. Những vướng mắc từ cơ chế chính sách nhà nước đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng... Tất cả điều đó làm cho TTCK nước ta chưa thực sự trở thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.Bên cạnh đó xuất hiện tình trạng ngân hàng tăng vốn ồ ạt nhằm trục lợi lúc giá lên cao, phục vụ lợi ích của nhóm nhỏ cổ đông trong ngân hàng mà không quan tâm tới lợi ích của công chúng, như vậy thì quá trình cổ phần hoá ngân hàng trở thành vô nghĩa và càng làm cho thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng trở nên kém phát triển. Phần lớn các NHTM cho DNNN vay hầu như không có tài sản bảo đảm, hoặc nếu có thì hồ sơ pháp lý chưađầy đủ. Bên cạnh đó, việc cho vay các dự án theo chỉ định của Chính phủ với kỳ vọng cấp bù chênh lệch lãi suất và tránh rủi ro pháp luật trên thực tế cũng không tránh khỏi rủi ro. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới các khoản tín dụng chất lượng thấp khi rủi ro xảy ra, chờ được Chính phủ xử lý thì mức độ lỗ vốn của các NHTM trong các khoản vay này đã rất lớn. Thực tế cho thấy ở các NHTM, tài sản sinh lời là các khoản cho vay chiếm tỷ trọng khoảng 60-70%, ở một số NHTM tỷ lệ này là 90%. Chính vì vậy, tránh những rủi ro tín dụng xảy ra là một vấn đề sống còn của các NHTM. Khi mà ngân hàng cho vay như tạo cho doanh nghiệp tính ỷ lại trong việc tìm kiếm vốn đầu tư và khả năng kinh doanh. 2.4. Giải pháp tăng cường vai trò của NHTM trên TTCK Việt Nam Các biện pháp đối với thị trường - Tiến hành cổ phần hoá các ngân hàng trong nền kinh tế - Khuyến khích các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá - Xây dựng chương trình tiết kiệm bằng chứng khoán ở các ngân hàng - Nới lỏng quy định trong việc tham gia TTCK của các doanh nghiệp và các cá nhân - Thắt chặt các quy định về giao dịch không công bằng - Tăng cường quy định về quản trị công ty - Quy định chặt chẽ việc công bố thông tin trên TTCK - Tăng thời gian giao dịch - Chấp nhận việc giao dịch qua internet - Chấp nhận lệnh thị trường - Nới rộng biên độ giao động giá - Cho phép việc bán khống và cho vay chứng khoán - Nới lỏng quy định tham gia thị trường của nhà đầu tư nước ngoài - Thiết lập một tổ chức thanh toán bù trừ duy nhất - Thiết lập một tổ chức lưu ký chứng khoán tập trung - Phí dịch vụ được đánh thuế ở một mức độ thích hợp, cần hoãn thời gian thu thuế thu nhập vớí nhà đầu tư Các biện pháp nguyên tắc quản lý - Tách trung tâm giao dịch chứng khoán ra khỏi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. - Xây dựng các hiệp hội ngành dưới hình thức các tổ chức tự quản. - Thực hiện các nỗ lực nhằm tạo lập một cơ chế cấp phép đơn giản và hệ thống quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực chứng khoán và giao dịch tương lai. - Áp dụng các biện pháp nhằm tăng cường tính minh bạch, độ tin cậy và tính độc lập trong hoạt động quản lý. - Áp dụng các biện pháp tăng cường hiệu quả của hoạt động cưỡng chế thực thi theo pháp luật - Xây dựng một cơ chế thích hợp cho quản lý rủi ro hệ thống. Các biện pháp tăng năng lực, trình độ cho nhà đầu tư - Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phát triền Trung tâm đào tạo và nghiên cứu nghiệp vụ chứng khoán cho mọi đối tượng và thành viên tham gia thị trường, đào tạo cho mọi đối tượng hiểu biết về chứng khoán.Tăng cường hoạt động giáo dục và bảo vệ người đầu tư thông qua các chương trình tuyên truyền  phổ biến kiến thức. - Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kiểm tra cấp phép trên thị trường - Tăng cường kiểm tra cấp phép đối với các chuyên gia tác nghiệp trên thị trường. - Củng cố kỹ năng của các cơ quan quản lý bao gồm các cơ quan quản lý chủ chốt và các tổ chức tự quản. - Tăng cường đào tạo kỹ năng cho thị trường vốn thông qua việc phối hợp với các trường đại học trong việc xây dựng các chương trình giảng dạy.  Kết luận NHTM tham gia hoạt động trên TTCK từ rất lâu. Ngày nay vai trò đó ngày càng được phát huy mạnh mẽ. Trong giai đoạn đầu hình thành TTCK ở nước ta, các NHTM đã tham gia với nhiều hoạt động có hiệu quả. NHTM cung cấp hàng hoá cho TTCK và là cầu nối quan trọng giữa nhà đầu tư với TTCK qua nhiều nghiệp vụ chứng khoán : môi giới, đầu tư, cầm cố chứng khoán...Bên cạnh đó các NHTM trên TTCK góp phần điều hoà cung cầu chứng khoán, đảm bảo tính ổn định và các nguyên tắc trên TTCK. Song các NHTM vẫn chưa khai thác hết tiềm lực tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, đội ngũ cán bộ, trình độ nghiệp vụ giao dịch cho TTCK còn non trẻ này. Dựa vào kiến thức đă được học tập,nghiên cứu : Vai trò của NHTM trên TTCK Việt Nam hiện nay Đề tài đã trình bày vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về NHTM cũng, vai trò của NHTM đối với TTCK qua đo giúp em hiểu rõ hơn về vai trò của NHTM đối với TTCK.Qua đó em đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường vai trò của NHTM trong sự phát triển không ngừng của TTCK Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu đề tài còn một số vấn đề chưa cụ thể và rõ ràng em xin ý kiến thầy để giúp em hoàn thiện hơn về đề tài của mình. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm hớng dẫn và giúp đỡ tận tình của ThS.Nguyễn Anh Tuấn đã giúp cho em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình! Phụ lục công ty chứng khoán trực thuộc NHTM 1) Công TNHH chứng khoán Ngân hàng Á Châu 2) Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Ngân hàng Đông Á 3) Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn thương tín 4) Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng phát triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long 5) Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Đàu tư và phát triển Việt Nam 6) Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nong thôn Việt Nam 7) Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng công thương Việt Nam 8) Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 9) Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội. 10) Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam 11) Công ty CP chứng khoán NHTM cổ phần Đông Nam Á Phụ lục NHTM NHTM cổ phần Nhà Nước Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Ngân hàng Công thương Việt Nam Ngân hàng Công thương Việt Nam Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị Ngân hàng Á Châu Ngân hàng Đại Á Ngân hàng Đông Nam Á Ngân hàng Đông Nam Á Ngân hàng Đại Dương Ngân hàng Đệ Nhất Ngân hàng An Bình Ngân hàng Bắc Á Ngân hàng Dầu khí Toàn Cầu Ngân hàng Gia Định Ngân hàng Hàng hải Việt Nam Ngân hàng Kỹ Thương Việt Nam Ngân hàng Kiên Long Ngân hàng Nam Á Ngân hàng Nam Việt Ngân hàng Các doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Ngân hàng Nhà Hà Nội Ngân hàng Phát triển Nhà TPHCM Ngân hàng Phương Đông Ngân hàng Phương Nam Ngân hàng Quân Đội Ngân hàng Miền Tây Ngân hàng Quốc tế Ngân hàng TMCP Sài Gòn Ngân hàng Sài Gòn Công Thương Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín Ngân hàng Sài Gòn-Hà Nội Ngân hàng Thái Bình Dương Ngân hàng Việt Á Ngân hàng Bảo Việt Ngân hàng Việt Nam Thương tín Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex Ngân hàng Xuất nhập khẩu Ngân hàng Liên Việt Ngân hàng Tiên Phong Ngân hàng TMCP Ngoại thương NHTM cổ phần nông thôn Ngân hàng Mỹ Xuyên NH 100% vốn nước ngoài Ngân hàng HSBC Việt Nam Ngân hàng Standard Chartered bank Việt Nam Ngân hàng ANZ Việt Nam Ngân hàng United Oversea Bank Tài liệu tham khảo Giáo trình tài chính tiền tệ - Frederic S. Mishkin. Giáo trình tài chính tiền tệ -Trường đại học KTQD Luận án TS của TS Đặng Ngọc Đức Giáo trình thị trường chứng khoán - UBCK Nhà Nước Giáo trình thị trường chứng khoán - TS Tràn Đăng Khâm Giáo trình ngân hàng thương mại – Peter S.Rose Trang web saga.com.vn , trang web của UBCKNN, cùng một số trang Web khac Bài phân tích của TS.Phùng Khắc Kế, TS Vũ Viết Ngoạn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22026.doc
Tài liệu liên quan