Đề án Vai trò của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế Việt Nam

Thị trường chứng khoán với vị trí của mình trong nền kinh tế, đóng một vai trò quan trọng cho việc giải quyết các nguồn vốn ứ đọng trong các ngân hàng, có thể giải quyết được vấn đề huy động vốn trong và ngoài nước, nhất là nguồn vốn tiết kiệm trong công chúng, đảm bảo điều kiện về vốn cho phát triển kinh tế một cách vững chắc. Mặt khác, thị trường chứng khoán được thành lập sẽ góp phần đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và thúc đẩy các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả, điều đó sẽ góp phần tăng cường hiệu quả sử dụng đòng vốn trong nền kinh tế quốc dân.

doc50 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c huy động vốn này đáp ứng được yêu cầu cả về khối lượng và thời hạn, giúp cho doanh nghiệp có được một nguồn vốn không bị giới hạn để thực hiện dự án của mình. Các hình thức huy động vốn ngoại lực muốn có hiệu quả phải dựa trên cơ sở phát huy nguồn vốn tiết kiệm dồi dào trong dân chúng(đầu tư gián tiếp qua ngân hàng)và việc mua cổ phiếu, trái phiếu của dân chúng (đầu tư trực tiếp). Hình thức đầu tư qua tiết kiệm qua ngân hàng là loại hình tiết kiệm mang tính truyền thống ở các quốc gia, đặc tính của loại hình này là lãi suất ổn định, ít ruỷ ro và nói chung khả năng rủi ro mất vốn là rất ít. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát, việc mất giá của tiền tệ cũng như lãi suất thấp của các ngân hàng làm cho loại hình đầu tư này trở nên đơn điệu và không đủ sức hấp dẫn đối với công chúng và các nhà đầu tư thích lợi nhuận cao. Thị trường chứng khoán ra đời, đã tạo ra những công cụ mới, tinh tế và đa dạng trong các phong cách đầu tư của đông đảo công chúng có tâm lý và suy nghĩ khác nhau. Với một hệ thống đa dạng các loại chứng khoán, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các hợp đồng về quyền lựa chọn, hợp đồng tương lai, chứng quyền…có thể đáp ứng yêu cầu lựa chọn của những người đầu tư trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tài chính trung gian để lựa chọn những nơi đầu tư có hiệu quả. Việc đầu tư vào cổ phiếu trên thị trường không những đem lại lợi nhuận thông qua cổ tức, trên thực tế đó là phần tăng thêm của thị giá cổ phiếu so với mệnh giá ban đầu, mà còn tham gia quyền kiểm soát đối với các tổ chức phát hành cổ phiếu, khi các nhà đầu tư nắm một số lượng lớn cổ phiếu có quyền biểu quyết. Đây chính là những tác nhân kích thích ý thức tiết kiệm để đầu tư của công chúng. Ngoài ra trong quá trình vận hành của nền kinh tế luôn xuất hiện một số quỹ có vốn tạm thời nhàn rổi, như quỹ bão hiểm, quỹ phúc lợi, quỹ tương hỗ…Sự tách biệt về mặt thời gian giữa các khoản thu và chi của các quỹ này dẫn đến kết dư vốn nhàn rỗi. Để tránh hiện tượng vốn chết trong quá trình vận hành, các nhà quản lý quỹ sẽ gửi vào ngân hàng dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm để lấy lãi, hoặc dùng để đầu tư vào thị trường chứng khoán, nơi luôn tạo ra khả năng sinh lợi và tính thanh khoản cho các khoản đầu tư, đáp ứng kịp thời các khoản chi cần thiết của các quỹ đầu tư. Trên thực tế, từng cá nhân riêng lẻ sẽ không tạo ra được vốn lớn, bản thân họ cũng không am hiễu hết các khía cạnh của đầu tư, nên kết quả đầu tư dễ bị phân tán và ít hiệu quả. Nhưng, nếu thông qua một quỹ đầu tư, các nhà đầu tư đơn lẻ có thể tập hợp được một số vốn khá lớn vào trong tay những người biết cách quản lý, để đầu tư vào thị trường chứng khoán thì sẽ cho một hiệu quả cao gấp bội. Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền nhỏ, nhưng tập hợp lại sẽ có một số vốn khổng lồ. Số tiết kiệm khổng lồ này sẽ được tập trung thông qua thị trường chứng khoán để đầu tư vào phát triển sản xuất. Như vậy, thị trường chứng khoán đóng vai trò như là một ‘cây cầu’ tập trung vốn và dẫn vốn tù nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. * Thị trường chứng khoán là công cụ để huy động vốn cho các chương trình phát triển kinh tế. Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triễn kinh tế. Nền kinh tế tăng trưỡng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp can thiệp của nhà nước. Ngân sách nhà nước càng lớn mạnh thì khả năng thực hiện thành công các chiến lược kinh tế-xã hội càng dễ dàng. Nguồn vốn cho chi tiêu ngân sách phụ thuộc phần lớn vào chính sách thuế của mỗi quốc gia và các khoản thu nhập từ khai thác tài nguyên. Tuy nhiên, chính sách thuế không phải lúc nào cũng thuận chiều với chính sách kinh tế. Nếu chúng ta quá lạm dụng vào nó thì sẽ gây ra những tai hại. Thuế thu thấp có thể kích thích được kinh tế phát triển. nhưng sẽ không đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách. Ngược lại, nếu thu thuế quá cao thì sẽ làm tăng thu ngân sách, nhưng hậu quả dẫn đến có thể hạn chế và triệt tiêu sản xuất. Trong thực tế, các khoản thu ngân sách thường không đáp ứng được đầy đủ và kịp thời các khoản chi, lúc đó ngân sách nhà nước thường sử dụng các giải pháp vay tạm thời từ dân chúng thông qua việc phát hành các trái phiếu trung và dài hạn. Đây là giải pháp tín dụng ngân sách tương đối lành mạnh, bởi nếu không thì chính phủ sẽ yêu cầu ngân hàng trung ương phát hành thêm tiền để chi tiêu, và lúc đó áp lực lạm phát đối với nền kinh tế sẽ là điều không tránh khỏi. Ngày nay ở hầu hết các quốc gia, việc nhà nước vay tiền của dân chúng thông qua phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán là biện pháp thường xuyên và mang tính tiên tiến. Nếu là trái phiếu kho bạc, thì đó là nguồn thu bổ sung vào quỹ ngân sách, vốn được huy động nhằm đáp ứng các khoản chi tạm thời, và nguồn thu ngân sách vào cuối năm tài khoá sẻ đáp ứng nhu cầu hoàn trả các khoản thu này. Đối với trái phiếu công trình, đây là khoản vay nợ của chính phủ để sử dụng vào việc đầu tư phát triển ngành nghề hay cơ sở hạ tầng, như nhà máy, công trình công ích, đường sá, sân bay, nhà ga…Việc hoàn trả các khoản vay này cũng sẽ được chi từ các nguồn thu do hiệu quả sử dụng các công trình này mang lại. Đây là giải pháp tốt nhất cho việc đầu tư xây dựng các công trình có số vốn lớn, khả năng thu hồi vốn chậm mà tư nhân không thể đáp ứng được. * Thị trường chứng khoán là công cụ để nhà nước huy động và kiểm soát các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài có vị trí quan trọng đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển. Chúng ta biết rằng, nguồn vốn đầu tư trong nước dù có huy động tới mức tối đa cũng không thể đáp ứng đủ nhu cầu cho đầu tư phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, phải có vốn đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, các khoản vốn đầu tư nước ngoài thường được thu hút dưới hai hình thức, đó là đầu tư trực tiếp thông qua các dự án sản xuất kinh doanh, và đầu tư gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian. Cả hai hình thức đầu tư này nếu như không có thị trường chứng khoán thì không phát huy được tính hiệu quả cao của nó. Bản thân các nhà đầu tư nước ngoài, khi xem xét các khía cạnh môi trường đầu tư, họ thường tính đến khả năng sinh lợi, khả năng hoàn vốn, cũng như khả năng chuyển đổi sở hữu khi thấy cần thiết, mà điều này chỉ có thể thực hiện được khi có thị trường chứng khoán, nơi luôn tạo ra sự chuyển dịch các luồng vốn đầu tư, và cung cấp các thông tin một cách chính xác để tìm hiểu các đối tác đầu tư. Khi tham gia thị trường vốn trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn thông qua tỷ nắm giữ các chứng khoán đối với các tổ chức phát hành. Vì vậy, việc kiểm soát tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài voà các lĩnh vực đầu tư trong nước qua các giai đoạn phát triển khác nhau là việc hoàn toàn có thể thực hiện được trên thị trường chứng khoán. Khi mua bán, chuyển nhượng chứng khoán, các nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện việc đăng ký, lưu ký chứng khoán thông qua các tổ chức lưu ký chứng khoán. Điều này cho phép nhà nước có thể kiểm soát được các tổ chức, cá nhân nước ngoài góp vốn và các tỷ lệ nắm giữ trong từng doanh nghiệp, cũng như trong tổng thể nền kinh tế. * Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi để đảm bảo tính thanh khoản và di chuyển vốn đầu tư dễ dàng. Việc mua bán cổ phiếu hay chứng khoán trên thị trường thứ cấp không tạo thêm nguồn vốn mới cho đơn vị kinh tế hay chính phủ mà chỉ đơn giản thay đổi quyền sở hữu đối với cổ phiếu hay chứng khoán. Thị trương thứ cấp có vai trò kinh tế quan trọng là bảo đảm tính thanh khoản của các loại công cụ tài chính, có nghĩa là cổ phiếu và chứng khoán có thể thông qua các trung gian, các nhà môi giới bán ra để thu tiền mặt đáp ứng nhu cầu cần thiết đói với cá nhân hay đơn vị. Chính sự đẩm bảo này mà các cá nhân hay đơn vị mua chứng khoán trên thị trường thư cấp. Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán nư một thứ hành hoá. Người nắm giữ chứng khoán không sợ vốn của mình bị bất động bởi một lĩnh vực đầu tư mà mình không vừa ý, hoặc khi có nhu cầu chuyển hướng kinh doanh họ có thể bán các chứng khoán đó trên thị trường chứng khoán để mua lại một chứng khoán khác mà họ thích đầu tư-điều này thể hiện tính kinh hoạt của chứng khoán. Với một thị trường chứng khoán hoạt động tốt, các nhà doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghệ mới. Vì thông thường, một doanh nghiệp mới thành lập, giá bán cổ phiếu thường thấp và ít người mạnh dạn dám mua. Chính vì vậy, đối với các nhà đầu tư tiềm năng, họp có khả năng phân tích, phán đoán được hiểu quả kinh doanh của doanh nghiệp sau này, để tiến hành đầu tư, và sau này họ có thể bán lại các chứng khoán của mình để đổi lấy một hình đầu tư khác hoàn toàn mới hơn. Điều này làm cho vốn của các nhà đầu tư luôn được luân chuyển để tài trợ cho các dư án. Đây là phương thức mà các nhà đầu tư quốc tế thường sử dụng để lưu động hoá vốn tư bản. * Thị trường chứng khoán kích thích các doanh nghiệp tuân thủ theo luật pháp và quan tâm tới hiệu quả. Các tổ chức phát hành chứng khoán muốn niêm yết, giao dịch chứng khoán của mình tại sở giao dịch phải tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt của tiêu chuẩn niêm yết. Các tiêu chuẩn niêm yết này được xem xét trên hai khía cạnh khác nhau, đó là tiêu chuẩn về mạt định tính và tiêu chuẩn về mặt định lượng. Mỗi một thị trường đều có những tiêu chuẩn định tính và tiêu chuẩn định lượng khác nhau, nhưng nhìn chung đều xem xét trên các khía cạnh: tổng tài sản có của tổ chức niêm yết; tỷ lệ nợ trên vốn khả dụng; số năm làm ăn có lãi và tỷ lệ cổ tức trên mệnh giá. Ngoài ra, các tiêu chuẩn về hệ số sử dụng vốn, cơ cấu phân bổ vốn, cơ cấu hội đồng quản trị, ban giám đốc điều hành, nghĩa vụ công bố thông tin công khai, minh bạch cũng được xem xét trong quá trình chấp thuận cho việc cho phép niêm yết tại sở giao dịch. Chính điều này đã tạo cho các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả và tuân thủ luật pháp, bởi lẻ các chứng khoán của họ mới được thị trường chấp nhận và các nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua các chứng khoán. Để tạo khả năng hấp dẫn của chứng khoán đối với công chúng, không cá cách nào khác là doanh nghiệp phải tính toán để quản lý một các có hiệu quả, trên cơ sở đó không ngừng phát huy tính sáng tạo của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khi tham gia thị trường chứng khoán phải chịu sự kiểm tra, giám sát của sở giao dịch, uỷ ban chứng khoán, ngoài ra còn chịu sự chi phối của các công ty kiểm toán độc lập và công ty đánh giá xếp hạng. Cơ chế hoạt động cử công ty cổ phần cho phép chủ sở hữu chứng khoán có quyền điều hành và quản lý công ty. Thông qua việc nắm chứng khoán có quyền biểu quyết, các chủ sở hữu chứng khoán sẽ tham gia hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành công ty, và sẽ chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, cũng như xu hướng phát triển của công ty. Chính điều này cho phép cơ cấu điều hành của công ty luôn thay đổi, nhằm tìm ra giải pháp làm ăn có hiệu quả và phát huy tính năng động sáng tạo của doanh nghiệp. * Thị trường chứng khoán tạo thói quen về đầu tư. Chúng ta biết rằng, nguồn tiết kiệm tiềm tàng trong công chúng rất lớn và hệ thống ngân hàng chưa thu hút được tiềm năng này. Hơn nữa, dân chúng cũng chưa phân biệt rõ thế nào là hùn vốn. Chúng ta đã thấy nhiều công ty cổ phần ra đời và nhiều cổ đông đã xem nguồn vốn của mình như là một loại ký thác và đòi hỏi đơn vị phải bảo đảm một lãi suất tương đương cho phần hùn của mình không cần biết đơn vị làm ăn ra sao. Thị trường chứng khoán, với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ máy quản lý hữu hiệu, sẽ là môi trường thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu, và các loại chứng khoán cũng như mọi loại nghiệp vụ ở thị trường thứ cấp. Với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rải người dân sẽ sữ dụng nguồn tiết kiệm của mình để mua cổ phiếu hay chứng khoán với niềm tin về lợi nhuận hay tiền lãi bảo đảm. Dĩ nhiên là các nhà trung gian và môi giới phải làm tốt vai trò trung gian của mình để cho các nhà đầu tư riêng lẻ được thông tin đầy đủ về các đơn vị kinh tế đã hoặc đang phát hành cổ phiếu. Nguồn tiết kiệm quan trọng này nếu không có thị trường chứng khoán sẽ tiếp tục nằm yên dưới dạng cất giử không sinh lợi cho bản thân người tiết kiệm cũng như cho quá trình phát triển của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán chẳng những là nơi khuyến khích đầu tư mà tạo điều kiện thực hiện mọi sự mua bán dễ dàng khi cần thiết. Sự phát triển của thị trường sơ cấp càng trở nên hấp dẫn và tạo thói quen cho mọi người tham gia vào thị trường. * Thị trường chứng khoán là công cụ giảm áp lực lạm phát. Ngân hàng trung ương với vai trò điều hành lưu thông tiền tệ, khi xuất hiện hiện tượng lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ đem bán các loại kỳ phiếu trên thị trường chứng khoán với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền đang lưu thông về. Với chính sách khuyến khích bằng lãi suất và bảo đảm chi trả, dân chúng sẽ sẵn sàng mua kỳ phiếu ngân hàng và từ đó sẽ làm giảm áp lực lạm phát. Nghiệp vụ này của ngân hàng trung ương với mục đích can thiệp vào nền kinh tế gọi là nghiệp vụ thị trường mở(OMO), đây là công cụ được các ngân hàng trung ương ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển sữ dụng thường xuyên và là công cụ chủ yếu, có hiệu quả cao khi can thiệp vào nền kinh tế. 2. Mặt tiêu cực của thị trường chứng khoán. Tuy thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn cho đầu tư và phát triển, nhưng cũng chứa đựng những khía cạnh tiêu cực, đặc biệt thường xãy ra ở những quốc gia có hệ thống luật pháp chư hoàn chỉnh. Những mặt tiêu cực đó là: * Yếu tố đầu cơ. Đây là thuật ngữ dễ gây sự hiểu lầm, do đó chúng ta cần làm rỏ hai khái niệm: -Người đầu tư: Tức là đại đa số công chúng mua chứng khoán, là người mua bán chứng khoán cùng với mục tiêu kiếm lời nhưng qua một thời gian nhiều năm và họ muốn thông qua các cổ phiếu để cung làm chủ những công ty lớn mạnh và nổi danh. - Người đầu cơ: Thường là những người nhằm đến lợi ích ngay trước mắt. bằng sự táo bạo của mình, họ chớp lấy thời cơ để mua hoặc bán chớp nhoáng các chứng khoán mục tiêu của người đầu cơ là kiếm lời thông qua việc mua và bán chứng khoán chấp nhận rủi ro miễn sao có lợi cho bản thân mình là được. Yếu tố đàu cơ đã tạo ra tình trạng cung cầu chứng khoán giả tạo, từ đó gây nên sự thừa thải hay khan hiếm một cách giả tạo, dẫn đến giá cả chứng khoán sẽ tăng hoặc giảm sút đột ngột làm rối loạn thị trường, có thể gây ra sự sụp đổ của thị trường chứng khoán. * Hiện tượng chèn ép cá lớn nuốt cá bé cũng có thể xảy ra trên thị trường chứng khoán. có nghĩa là những thương gia chứng khoán lớn thường đẩy giá lên cao hoặc dìm giá xuống thấp để thu lợi, gây thiệt hại cho những người chỉ có số chứng khoán ít ỏi, vì trên thị trường chứng khoán giá cả hoàn toàn do cung cầu quyết định qua sự thoả thuận giữa người bán và người mua. * Mua bán nội gián: Một cá nhân nào đó lợi dụng thông tin của nội bộ trong đơn vị kinh tế để mua, bán cổ phiếu của đơn vị đó có ảnh hưỡng đến giá trị của cổ phiếu nếu thông tin đó được phổ biến rộng rải. Mua bán nội gián được coi là phi đạo đức về mặt thương mại, vì người có nguồn thông tin từ bên trong sẽ có một lợi thế không hợp lý đối với nhà đầu tư bên ngoài để thu hút lợi về riêng cho mình và như thế đi ngược lại nguyên tắc mọi nhà đầu tư đều phải có cơ hội như nhau. Mua bán nội gián được coi là vi phạm quyền lợi chung, hậu quả do những người không có nguồn thông tin đó gánh chịu. * Mua bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán. Nếu việc mua bán này được tự do thực hiện sẽ gây ra hậu quả khó lường vì bộ phận quản lý không thể nào biết được việc nhượng quyền sở hữu cổ phiếu của một đơn vị nào đó. Mọi sự mua bán bên ngoài có khả năng tạo áp lực cho các nhà đầu tư khác, thậm chí có thể đưa đến việc khống chế hay thay thế cả lãnh đạo đơn vị. Do đó, hầu hết các thị trường chứng khoán đều quy định mọi sự mua bán cổ phần đã đăng ký với thị trường chứng khoán đều phải được thực hiện thông qua thị trường chứng khoán. Nếu không quy định như vậy thì mọi sự lạm dụng trong việc mua bán và chuyển nhượng có thể xảy ra có khả năng tạo ảnh hưỡng xấu đối với các đơn vị kinh tế có liên quan. * Phao tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc về một đơn vị kinh tế. Điều này tạo hậu quả xấu cho đơn vị kinh tế này, có thể đem đến tình trạng cổ phiếu được bán ra ồ ạt làm giá trị cổ phiếu giảm đột ngột. Những người có ý đồ xấu có thể đứng ra mua các cổ phiếu đó để khống chế công ty hay hưỡng một số lãi đáng kể khi tin đồn đã được kiểm chứng. Đây là điều bị cấm trên thị trường chứng khoán. * Liên tục mua một loại cổ phiếu nào đó ở giá cao và bán ra ở giá thấp với mục đích làm ảnh hưỡng đến giá của cổ phiếu đó để đầu cơ. Hoạt động của thị trường chứng khoán chấp nhận có yếu tố đầu cơ, điều này làm tăng tính sôi động của thị trường. Nhưng có những yếu tố đầu cơ bi cấm. Thị trường chứng khoán không chấp nhận mua bán liên tục một cổ phiếu nào đó nhằm làm cho loại cổ phiếu đó tăng hay giảm để đầu cơ, hưởng chênh lệch giá. Hiện tượng này tuy không phổ biến nhưng cũng dễ xãy ra và việc khám phá cũng không phải dễ dàng. Phần ii: Sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. I. Sự cần thiết của việc phát triển thị trường chứng khoán ở việt nam. Từ năm 1986, Đảng và nhà nước ta thực hiện chính sách đổi mới nhằm chuyển nền kinh tế từ hệ thống quản lý tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Công cuộc đổi mới đã kéo theo hàng loạt những biến đổi tích cực trên cả nước và đã đạt được những kết quả quan trọng bước đầu. Nhờ đa dạng hoá các hình thức sở hữu và thiết lập một nền kinh tế hổn hợp bao gồm nhiều thành phần kinh tế, thì năng lực sản xuất đã được giải phóng một cách đáng kể. Trong công nghiệp và dịch vụ, việc giao quyền tự chủ kinh doanh cho doanh nghiệp đã thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường. Để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá, thay đổi cơ cấu kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền Việt Nam cần đến một khối lượng vốn khổng lồ mà hiện trạng thị trường tài chính không thể đáp ứng đầy đủ. Với cơ cấu hiện nay, thị trường tài chính chủ yếu chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của nền kinh tế về vốn ngắn hạn. Trong khi đó, quá trình CNH-HĐH lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn : trong năm 1991-1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2, 8% năm cần 18, 6 tỷ USD; thời kỳ 1996-2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9-9, 5%năm thì dự tính vốn đầu tư cần tăng hơn 2, 2 lần, khoảng 40-45 tỷ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500-600 tỷ USD. Trước những đòi hỏi bức xúc về vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phải có những chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước cũng như các nguồn lực nước ngoài bằng những hình thức khác nhau. Một trong những giải pháp đó là phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Vấn đề thành lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam là vấn đề mang tính cấp bách, dù còn gặp nhiều khó khăn bước đầu, bởi vì, sự thiếu vắng một thị trường chứng khoán thứ cấp đã gây nhiều khó khăn cho việc huy động vốn của chính phủ. Tính thanh khoản yếu, và lãi suất thực tế thu được thấp là nguyên nhân của việc dân chúng và các tổ chức kinh tế không hào hứng với việc mua tín phiếu và trái phiếu của chính phủ. Trong giai đoạn 1991-97, tổng mức huy động vốn từ việc phát hành tín phiếu kho bạc chỉ đạt 2, 5 %GDP, con số này quá nhỏ bé so với nhu cầu của nền kinh tế và thấp xa so với tiềm năng của nó, theo đánh giá của các nhà kinh tế thì lượng tiền vốn nhàn rổi trong xã hội ước khoảng 20-30 nghìn tỷ đồng, mà kho bạc chỉ mới huy động được khoảng 15 %. ở nhiều quốc gia phát triển các khoản vay trong nước chiếm hơn 50% GDP. Những con số này nói lên sự yếu kém của thị trường tài chính Việt Nam, mà hậu quả là chính phủ phải vay tiền từ nước ngoài nhiều hơn, điều đó đồng nghĩa với việc nợ chính phủ sẽ tăng lên. Việc thả nổi giá, cho phép hình thành thị trường vàng và ngoại tệ, thực thi các chính sách điều chỉnh kinh tế thông qua các công cụ tài chính-tiền tệ và hoàn thiện một bước hệ thống ngân hàng đã tạo nên những nền tảng cho sự phát triển của thị trường tài chính, nhất là thị trường chứng khoán trong tương lai. Gần đây, chính phủ đã thi hành một loạt chính sách thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích thành lập các công ty liên doanh. Sau 10 năm ban hành luật đầu tư nước ngoài đã có gần 2000 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký khoảng 28 tỷ USD. Những nhân tố này đang thúc đẩy sự ra đời thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Các công ty cổ phần đang tăng dần về số lượng và quy mô. Đã xuất hiện hình thức gọi vốn cổ phần từ các nhà đầu tư nước ngoài, đã có sự chuyển nhượng cổ phiếu cho nhau một cách tự phát. Nghị định 28-CP năm 1996 và nghị định số 44-1998/NĐ-CP tháng 7năm 1998 của chính phủ “Về việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần “ rồi tiếp đến nghị định số 48/1998/NĐ-CP tháng 7 năm 1998 về chứng khoán và giao dịch chứng khoán với những biện pháp kiên quyết hơn và cụ thể hơn so với các văn bản trước đây về lĩnh vực này sẽ tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong việc hình thành trường chứng khoán. Ngược lại, thị trường chứng khoán ra đời sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước diển ra mạnh mẽ hơn. Dưới góc độ kinh tế, trong nền kinh tế thị trường, với tư cách là một bộ phận của thị trường tài chính có chức năng phân bố nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán là trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn cho đầu tư và xã hội. Nó gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ thống tài chính tiền tệ cấu thành nên tài chính quốc gia, việc hình thành một thị trường chứng khoán ở nước ta sẽ tháo gở những khó khăn và thiết lập một thị trường tài chính thực thụ ở nước ta. Thị trường chứng khoán giúp cho đồng vốn đi vào những nghành, doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả, thông qua sự định hướng của thị trường vốn. Mặt khác, một thị trường chứng khoán hoạt động tốt sẽ cung cấp những dự báo chính xác về chu kỳ kinh doanh trong tương lai, giúp nhà nước hoạch định các chính sách thích hợp và thị trường chứng khoán mang lại nhiều lợi ích cho công chúng, giúp cho công chúng có thể đầu tư vào các chứng khoán khác nhau một cách dễ dàng. Giúp cho việc huy động được tối đa các nguồn lực trong nước cho phát triển kinh tế. Thực tế cho thấy ở tất cả các nước có thị trường chứng khoán, khi nền kinh tế thị trường ra đời thì chưa có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ ra đời khi nền kinh tế thị trường đã phát triển ở mức độ nhất định và đòi hỏi phải hình thành một tổ chức nào đó có khả năng tiếp thêm sức mạnh cho thị trường - đó là thị trường chứng khoán với việc cung cấp vốn cho nền kinh tế. Có thể nói nền kinh tế hàng hoá phát triển làm nảy sinh thị trường chứng khoán và thị trường chứng khoán đến lượt nó lại tiếp thêm nguồn lực để thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. . II- mô hình tổ chức của thị trường chứng khoán Việt Nam. 1. Mô hình Trung tâm GDCK TP. HCM. Thị trường chứng khoán ở mổi quốc gia được tổ chức có sự khác nhau, tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh để lựa chọn mô hình bước đi cho phù hợp. ở Việt Nam, do còn gặp những vấn đề mang tính khách quan về điều kiện kinh tế-xã hội và kỷ thuật nên chưa thể cho ra đời một TTCK tập trung hiện đại, được tổ chức dưới dạng một Sở giao dịch chứng khoán. Do đó, bước đầu được tổ chức dưới dạng Trung tâm GDCK, có đầy dủ các chức năng như một Sở giao dịch chứng khoán, sau một thời gian sẽ tiến lên phát triển hoàn thiện thành một sở giao dịch chứng khoán hiện đại. Sự ra đời và đi vào hoạt động của Trung tâm GDCK TP. HCM ngày 20/7/2000 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đói với nề kinh tế Việt Nam, mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn mới bên cạnh hệ thống ngân hàng, khẳng định quyết tâm của Đảng và nhà nước thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tuy quy mô thị trường còn nhỏ bé, vai trò tác động đến nền kinh tế chưa lớn nhưng đây là bước thí điểm, tập dượt quan trọng để các cơ quan quản lý điều hành, các tổ chức tham gia thị trường và công chúng đầu tư làm quen với một lĩnh vực đầu tư mới, điều đó tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển lành mạnh và ổn định của thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Theo quy định tại quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 của Thủ tướng chính phủ về việc thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán và quyết định số 128/1998/QĐ-UBCK của Chủ tịch UBCK nhà nước ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm GDCK. Trung tâm GDCK là một đơn vị sự nghiệp, thuộc sở hữu nhà nước, sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp, trực thuộc UBCK nhà nước, có chức năng quản lý, điều hành và giám sát hoạt động mua bán chứng khoán tại Trung tâm, nhằm đảm bảo cho Trung tâm hoạt động an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi cho người đầu tư. 2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm GDCK. - Tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán. - Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán. - Cung cấp các dịch vụ hổ trợ việc mua bán chứng khoán. - Thực hiện đăng ký chứng khoán. - Thực hiện thanh toán bù trừ đối với các giao dịch chứng khoán. - Công bố thông tin về các hoạt động chứng khoán. - Kiểm tra, giám sat hoạt động giao dịch chứng khoán tại Trung tâm GDCK. - Thu phí niêm yết chứng khoán, phí thành viên, phí giao dịch, phí cung cấp dịch vụ thông tin và các phí dịch vụ khác theo quy định của pháp luật. - Làm thủ tục cho chứng khoán đủ tiêu chuẩn niêm yết tại Trung tâm GDCK. - Đình chỉ giao dịch tạm thời một hoặc một số chứng khoán. - Được quyền yêu cầu thành viên Trung tâm GDCK, tổ chức phát hành gửu báo cáo đột xuất theo quy định của UBCK nhà nước. - Lập và quản lý quỹ hổ trợ thanh toán. - Làm trung gian hoà giải cho thành viên Trung tâm GDCK, và người đầu tư khi có yêu cầu. - Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê, kế toán, kiểm toán theo quy định của nhà nước. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ Tịch UBCK nhà nước giao. III. thực trạng thị trường chứng khoán việt nam 1. Thực trạng Sự ra đời ra đi vào hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/7/2000 đánh dấu một bước tiến trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính ở Việt Nam. Do mới ra đời, nên quy mô thị trường còn bé, vài tác động đến nền kinh tế chưa lớn song nó đã cho phép các tổ chức và công chúng tham gia thị trường làm quen với một lĩnh vực đầu tư mới, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển lành mạnh và ổn định của thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Tính đến ngày 28/72001, trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện được 151 phiến giao dịch với 14, 2 triệu cổ phiếu và trên 5000 trái phiếu, đặt tổng giá trị giao dịch 727 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm 90%. Thi trường cổ phiếu hoạt động sôi nổi thu hút được đông đảo nhà đầu tư quan tâm. Nếu như giá trị giao dịch thời kỳ đầu là 1 tỷ đồng/1 phiên, thì trong thời gian gần đây giá trị giao dịch giao dộng trong khoảng 8 đến 15tỷ đồng/1 phiên. Trong phiên giaodịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000 có 2 cổ phiếu được giao dịch đó là cổ phiếu của công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) và cổ phiếu của công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông (SACOM). Tính đến ngày 28/7/2001, trên thị trường có 6 công ty niêm yết với tổng số cổ phiếu niêm yết là 33, 8 triệu đạt giá trị 338 tỷ đồng. Đến nay có 5 loại trái phiếu chính phủ và hai loại trái phiếu công ty được niêm yết và giao dịch với tổng khối lượng giao dịch tính đến ngày 28/7/2001 là 593. 000 trái phiếu, trong đó giao dịch thoả thuận chiếm 87. 5% và tổng giá trị giao dịch là 68, 7 tỷ đồng. Về giá cả, thị trường có xu hướng tăng giá liên tục do mặt cân đối lớn về cung cầu. Giá các loại cổ phhiếu tăng nhiều lần so với phiên giao dịch đầu tiên, trong đó cao nhất là cổ phiếu Transimex tăng 7lần và thấp nhất là cổ phiếu của Sacom tăng 4 lần. Chỉ số VN-Index lên đỉnh cao 571 điểm, cho đến ngày 28/7/2001 là 445, 37 điểm. Giá của các trái phiếu ít có sự biến động. 2. Đánh giá tình hình thị trường chứng khoán sau hơn một năm đi vào hoạt động. 2. 1. Mặt được. Lần đầy tiên một thị trường chứng khoán được ra và đi vào hoạt động, tuy quy mô còn nhỏ bé, vai trò tác động đối với nền kinh tế còn hạn chế, song hoạt động của thị trường chứng khoán đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc phát triển thị trường tài chính Việt Nam, thể hiện quyết tâm xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Từ khi hoạt động đến nay, thị trường hoạt động suôn sẻ công tác quản lý, tổ chức giao dịch đảm bảo an toàn, các hoạt động của thị trường đã đi vào nề nếp. Hoạt động của thị trường chứng khoán từng bước thu hút được sự quan tâm của đông đảo quần chúng đầu tư, sự hiểu biết, làm quen với hình thức đầu tư của quần chúng được tăng cường. Thông qua hoạt động của thị trường mà các công ty tham gia niêm yết tận dụng được lợi thế mà thị trường mang lại, vị thế và uy tín của công ty tăng lên. Hoạt độngcủa thị trường chứng khoán cũng đã góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. 2. 2. Mặt hạn chế. Khối lượng hàng hoá niêm yết và giao dịch trên thị trường còn chưa nhiều, phạm vi hoạt động của thị trường còn hẹp, nên có sáu loại cổ phiếu được đăng ký lại. Trong khi đó nhu cần đầu tư cổ phiếu của công chúng lớn gây ra sự mất cân đối giữa cung và cầu. Nhiều doanh nghiệp chưa muốn tham gia niêm yết vì thực tế họ chưa có nhu cầu về vốn (một số còn được ngân sách cấp hoặc được vay ưu đãi), tâm lý còn ngại kiểm toán, công khai tài chính và công bố thông tin. Mặt khác, công ty chưa thấy hết lợi ích của việc tham gia niêm yết. Số lượng trái phiếu chính phủ đưa vào giao dịch thấp nguyên nhân chính là do lãi suất trái phiếu thấp hơn mặt bằng lãi suất hiện nay. Lãi suất ngân hàng từ 7%-8% trong một năm trong khi lãi suất trái phiếu chỉ 6, 5-6, 6%/năm nên không hấp dẫn người đầu tư. Các trái phiếu đều do các công ty bảo hiểm nắm giữ và không có nhu cầu bán lại vì các công ty này đang thừa vốn. Một số nhà đầu tư chưa biết nhiều về thị trường chứng khoán, chưa phân tích kỹ các yếu tố khi tham gia đầu tư nên có có xu hướng tìm mua và găm quỹ cổ phiếu. Điều nàynhiều tác động làm thị trường quá nóng. Hoạt động công bố thông tin và công tác giám sát thị trường tuy đã đạt được một số kết quả nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thị trường. Công tác truyền phổ cập kiến thức cho công chúng hiểu rõ nguyên tắc, cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán, hiểu được lợi ích cũng như rủi ro khi tham gia thị trường chưa đáp ứng được yêu cầu. PHầN III : GIảI PHáP chung phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam I. một số giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới. Qua hơn một năm đi vào hoạt động của trung tâm GDCK Thành phố Hồ Chí Minh, cũng là một năm vừa vận hành thử nghiệm, vừa điều chỉnh khung pháp lý phù hợp với thực tiến thị trường, nhưng có thể đánh giá rằng thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước đi vào ổn định và phát triển. Tuy nhiên, không phải là không có những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và chỉnh sửa để thị trường chứng khoán hoạt động thực sự có hiệu quả, khắc phục được những hạn chế của thị trường, thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá, và thu hút sự quan tâm của những nhà đầu tư, hỗ trự tích cực các thành phần kinh tế. Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường, xuất phát từ những tổng kết thực tiến, bài viết xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam để thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng hoạt động có hiệu quả cho nền kinh tế Việt Nam. 1. Nhóm các giải pháp nhằm tăng cung chứng khoán. -Ưu đãi thuế cho các công ty niêm yết để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thêm lợi nhuận trả cổ tức, hấp dẫn đầu tư. Cụ thể: đối với công ty phát hành lần đầu miễn 100% thuế doanh thu từ 3-5 năm, đối với công ty phát hành bổ sung giảm 50% thuế doanh thu từ 3-5 năm. -Cho phép doanh nghiệp khấu hao nhanh để có vốn, đầu tư mở rộng sản xuất. -Hạ thấp khung giá phí kiểm toán, miễn phí niêm yết trong vòng từ 3 - 5 năm nhằm giúp các công ty đã cổ phần hoá tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. Khẩn trương xây dựng thị trường chứng khoán phi tập trung (thị trường OTC) tạo môi trường giao dịch cho các cổ phiếu chưa đủ niêm yết. -Phát triển các tổ chức tài chính trung gian, các nhà môi giới tạo lập thị trường. -Đa dạng hoá các công cụ tài chính : +Ngoài trái phiếu chính phủ trái phiếu doanh nghiệp, có thể phát hành thêm trái phiếu chiết khấu được hưởng lãi trước, trái phiếu có lãi suất thả nổi … các trái phiếu này chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của các nhà đầu tư vì nó bảo vệ quyền lợi của họ, trong trường hợp lãi suất thị trường bất ổn. +Khuyến khích các doanh nghiệp đã đủ điều kiện phát hành chứng khoán nên huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu chuyển đổi. Đây là loại trái phiếu rất được các nhà đầu tư ưa thích và phù hợp với điều kiện Việt Nam. +Đối với các tổ chức nước ngoài, cụ thể như các công ty liên doanh nước ngoài hiện nay chỉ hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Nhà nước nên có chính sách khuyến khích tại điều kiện cho các công ty nàychuyển sang công ty cổ phần, nhằm làm phong phú hơn lượng cung hàng hoá trên thị trường chứng khoán. 2. Nhóm các giải pháp nhằm tăng cầu chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán nhà nước mà trực tiếp là trung tâm nghiên cứu khoa học và hội dồng bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán phải làm nhiệm vụ di đầu trong công tác tuyên truyền, vận động giáo dục cho công chúng về lợi ích đầu tư vào chứng khoán, làm tăng sự hiểu biết và lòng tin của công chúng vào tính công bằng, tính thanh khoản của thị trường chứng khoán. -Tăng cường khả năng thanh tra giám sát bảo vệ nhà đầu tư : +Thanh tra giám sát thường xuyên các công ty chứng khoán và các tổ chức phát hành, có phương pháp thích hợp lựa chọn thanh tra giám sát để đánh giá các chính sách, quy trình nghiệp vụ liên quan tới đầu tư kinh doanh, cũng như đánh giá chất lượng tài sản có và dự phòng rủi ro. +Đặc biệt cần phải bồi dưỡng đội ngũ thanh tra giám sát khả năng phân tích tài chính, nghiệp vụ, kỹ năng thực hành và các phương pháp thực hiện thanh tra giám sát, có công cụ thu thập xem xét, phân tích báo các số liệu thống kê chứng khoán và giao dịch trên thị trường. +Thanh tra giám sát cần phải có một hệ thống thông tin tin học nhằm phục vụ cho công tác thanh tra giám sát. +Thanh tra giám sát đòi hỏi các công ty chứng khoán, tổ chức phát hành phải có hệ thống thông tin hiệu lực quản lý tốt nhằm giúp cho thanh tra giám sát kiểm tra tại chỗ hay từ xa nhằm phát hiện những khoản đầu tư không đúng với quy định của thị trường chứng khoán. -Các điều kiện ưu đãi cho người đầu tư: +Miễn giảm thuế cho người đầu tư cụ thể như sau: Ưu đãi thuế đối với các nhà đầu tư cá nhân khi tham gia kinh doanh chứng khoán : cần miễn thuế thu nhập cá nhân đối với những khoản lợi nhuận thu được từ kinh doanh chứng khoán. Ưu đãi thuế đối với các tổ chức có tổ chức : với những khoản chênh lệch mua bán, thu nhập từ cổ tức, lãi trái phiếu cần được miễn thuế trong thời gian 2-3 năm, nhằm khuyến khích các tổ chức tham gia vào đầu tư. Phí giao dịch trong giai đoạn đầu có thể không áp dụng hoặc áp dụng rất thấp đối với cá nhân và các tổ chức nhằm đẩy mạnh các giao dịch và tăng tính thanh khoản cho các chứng khoán. Cụ thể : phí giao dịch cổ phiếu là 0, 3%, phí giao dịch trái phiếu là 0, 1%. +Đối với người đầu tư nước ngoài cần có chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích người nước ngoài đầu tư vào TTCK Việt Nam. Đặc biệt là thuế lợi nhuận ra nước ngoài cho người định cư ở nước ngoài, cho người thường trú tại Việt Nam, người nước ngoài góp vốn mua cổ phần các doanh nghiệp Việt Nam. + Cần có một số quy định nới lỏng các điều kiện tham gia kinh doanh chứng khoán cho các nhà đầu tư nước ngoài, chẳng hạn như nâng tỷ kệ góp vốn để thành lập công ty chứng khoán liên doanh là 40%. + Ban hành các quyđịnh về việc nắm giữ các chứng khoán cần linh động hơn. Hiện nay, theo nghị định 139 người nước ngoài nắm giữ tối đa 20% lượng chứng khoán phát hành, nên áp dụng ở tỷ lệ 30% theo nghị định 44/cổ phiếu của chính phủ. 3. Các giải pháp về công bố thông tin. Công chúng sẽ không đầu tư vào một doanh nghiệp khi họ không biết gì về tình hình tài chính, kinh doanh của doanh nghiệp đó. Do vậy, cần phải có giải pháp tạo cho các doanh nghiệp tiếp cận với việc công bố thông tin, cong khai hoá tình hình tài chính là việc cần thiết, đặc biệt là đối với các công ty niêm yết nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công chúng đầu tư. Cụ thể như: +Thông tin thị trường phải đảm bảo nguyên tắc : đầy đủ, chính xác, kịp thời và bình đẳng theo đúng quy chế công bố thông tin do Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã ban hành. +Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin qua mạng Internet (xây dựng một trang chủ của thị trường giao dịch chứng khoán trên mạng Internet) +Phát hành các ấn phẩm chính thức (tạp chí, báo, bản tin tuần, bản tin hàng ngày ra thị trường trong và ngoài nước). +Thiết lập một hệ thống thông tin tự động. với hệ thống này người dân có thể tiép cận và cập nhật thông tin 24/24. 4. Giải pháp tăng cường thanh tra, kiểm tra. Các công ty kiểm toán muốn được chấp thuận là tổ chức kiểm toán các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về: thời gian hoạt động, vốn, kiểm toán viên, số lượng khách hàng hàng năm: +Về vốn : các công tổ chức kiểm toán trong nước phải có mức vốn điều lệ hoặc vốn chủ sở hữu quy định 2 tỷ đồng trở lên. Đối với nước ngoài phải có vốn diều lệ là 300. 000 USD. +Kiểm toán viên : các công ty kiểm toán phải có đội ngũ kiểm toám được cấp giấy phép hành nghề kiểm toán tại Việt Nam từ 10 người trở lên. Đối với kiểm toán viên trong nước có ít nhất 2 năm kinh nghiệm, còn đối với kiểm toán viên nước ngoài có ít nhất kinh nghiệm là 5 năm. Ngoài ra phải thực hiện đúng theo pháp lệnh đúng theo kế toán và kiểm toán. 5. Các giải pháp tổ chức bộ máy và cơ sở hạ tầng cho thị trường chứng khoán: * Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực: Trước hết, cần chú trọng bồi dưỡng gấp rút đội ngũ cán bộ điều hành quản lý của Uỷ ban chứng khoán nhà nước, trung tâm GDCK. Đặc biệt là phải đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên giảng dạy về chứng khoán. Tiếp đó, là đội ngũ những người trực tiếp tham gia tác nghiệp tại trung tâm GDCK- đào tạo theo hướng chuyên môn hóa. Đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của các nước về nghiệp vụ và kỹ thuật. Cuối cùng, là phổ cập kiến thức chứng khoán và thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp và dân chúng trên phạm vi cả nước. Để có thể đảm đương tốt công tác đào tạo cho toàn ngành chứng khoán, cần mở rộng phạm vi cũng như nâng cao của trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán hiện nay ngang tầm với các học viện nghiên cứu và đào tạo chứng khoán của TTCK của các nước trên thế giới và trong khu vực, có như thế mới đào tạo ra được những chuyên gia chứng khoán thông thạo về nghiệp vụ đầu tư trên TTCK. * Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật: Cần phải nâng cấp ngay hệ thống giao dịch hiện đại hơn phù hợp với yêu cầu phát triển kỹ thuật của thị trường. Khẩn trương nâng cấp và tu sửa cơ sở hạ tầng của thị trường GDCK thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và nâng cấp mở rộng hoạt động của trung tâm đào tạo cũng như cơ sở hạ tầng. 6. Hoàn thiện khung pháp lý cho sự vận hành của thị trường chứng khoán. ở Việt Nam, cũng như thị trường các yếu tố sản xuất khác(thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ…)thị trường chứng khoán là phạm trù còn rất mới mẻ. Do vậy, cơ sở hình thành mảng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn ở mức rất sơ khai. Hiện nay, các văn bản pháp quy điều chỉnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán có thể kể tới vài ba chục văn bản, nằm rải rác ở nhiều lĩnh vực, do nhiều cấp có thẩm quyền ban hành, dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng những văn bản trực tiếp điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình vận hành thị trường chứng khoán là những văn bản có giá trị pháp lý dưới luật. Tuy vậy, khung pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán với ba bộ phận cấu thành cơ bản tối thiểu cần có, gồm: 1)Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành; 2)Điều kiện và thể thức kinh doanh ; 3)Quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đã bước đầu được xây dựng với một hệ thống các văn bản pháp quy điều chỉnh các vấn đề cơ bản của thị trường, trong đó văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất là nghị định số 48/1998/ NĐ-CP ngày11/7/1998 của chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Ngoài ra pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn bao gồm một số quy định có liên quan tại các văn bản pháp luật khác như : Luật doanh nghiệp, luật dân sự, luật hình sự… Vấn đề hoàn thiện khung pháp lý cho sự vận hành của thị trường chứng khoán là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho thị trường chứng khoán diễn ra an toàn và hiệu quả, trên cơ sở hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán TP-HCM sẽ sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nghị định số 48/1998/ NĐ-CP ngày11/7/1998 của chính phủ và các văn bản hướng dẫn khác để xây dựng nên một bộ luật chứng khoán hoàn chỉnh. II- Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Để thực hiện được các mục tiêu mà đại hội Đảng IX đã đề ra, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản đưa nước ta thành một nước công nghiệp, theo hướng hiện đại, vấn đề xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nói chung và chiến lược phát triển thị trường tài chính nói riêng, trong đó có chiến lược phát triển thị trường chứng khoán có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Định hướng xây dựng và củng cố phát triển thị trường chứng khoán là cần tiếp tục củng cố, ổn định, phát triển thị trường an toàn, hiệu quả, vững chắc, từng bước mở rộng phạm vi thị trường, nâng cao năng lực và chất lượng, quy mô hoạt động của các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán, khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư chứng khoán, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư nhỏ, đặc biệt chú trọng việc quản lý, giám sát, kiểm tra hoạt động trên thị trường đảm bảo sự phát triễn vững chắc của thị trường. Trên cơ sở nghiên cứu xuất phát điểm của nền kinh tế đất nước, cũng như thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua, định hướng phát triển thị trường chứng khoán nước ta trong thời gian tới cần tập trung vào những điểm sau: 1. Hoàn thiện Trung tâm GDCK TP. HCM, xây dựng Trung tâm GDCK thứ 2 ở Hà Nội. Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán và quyết định số 127/1998/QĐ-TTg về việc thành lập hai Trung tâm GDCK ở Hà Nội và TP. HCM đã tạo lập khuôn khổ pháp lý sơ bộ cho việc tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán. Trên thực tế, thị trườngsơ cấp ở nước ta đã hình thành một cách tự phát từ nhiều năm nay, kể từ ngày một số công ty cổ phần ra đời đã tự đạo diễn việc phân phối lần đầu khi thành lập hoặc khi tăng vốn, sau khi thị trường chứng khoán ra đời hoạt động phát hành chứng khoán đang từ từ đi vào nề nếp. Vấn đề hiện nay là tập trung vào phát triễn thị trường thứ cấp mà hoạt động giao dịch chủ yếu diễn ra ở Trung tâm GDCK TP. HCM. Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán có thể phân chia ra 2 giai đoạn: -Từ năm 2000-2004 : Hoàn thiện hoạt động 2 Trung tâm GDCK tại Hà Nội và TP. HCM. -Từ năm 2005-2010 : Mở rộng các Trung tâm GDCK thành Sở giao dịch chứng khoán hiện đại. Bước đầu, thị trường chứng khoán chính thức Việt Nam được tổ chức dưới hình thức một trung tâm giao dịch, với hệ thống giao dịch đơn giản, chỉ nối mạng nội bộ, sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp. Sau năm 2005, khi mà khung pháp lý cho sự vận hành của thị trường chứng khoán và các yếu tố kỹ thuật hổ trợ cho hoạt động của Trung tâm GDCK đã được hoàn thiện, thì sẽ phát triển Trung tâm GDCK thành các sở giao dịch. Các sở giao dịch chứng khoán sẽ là một tổ chức kinh tế, với chế độ sở hữu có một tỷ lệ cổ phần của nhà nước, hoạt động một cách độc lập với các cơ quan quản lý nhà nước. 2. Xây dựng thị trường chứng khoán phi tập trung(OTC). Hiện nay, nhu cầu mua bán chứng khoán của công chúng đàu tư là rất lớn, trong khi đó, số lượng chứng khoán niêm yết trên Trung tâm GDCK TP. HCM còn quá ít ỏi và chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số chứng khoán đang lưu hành trên thị trường. Do vậy, hoạt động mua bán chứng khoán chưa niêm yết bên ngoài Trung tâm GDCK diễn ra hết sức sôi động, nằm ngoài sự quản lý và kiểm soát của nhà nước. Điều đó đặt ra yêu cầu hết sức cấp thiết cho việc xây dựng một thị trường chứng khoán phi tập trung giao dịch những loại chứng khoán này. Để có thể đưa thị trường OTC đi vào hoạt động trong thời gian sớm nhất, mô hình giao dịch dự kiến được thiết kế sử dụng mạng máy tính cục bộ(Lan). Qua mạng này, các công ty chứng khoán sẽ liên tục đưa ra các chào giá 2 chiều và khối lượng chứng khoán giao dịch vào hệ thống. Các thành viên đối tác có thể dò tìm các lệnh đối ứng và thoã thuận với nhau về các mức giá, khối lượng chứng khoán giao dịch. Dự kiến việc xây dựng thị trường OTC ở Việt Nam cần được tiến hành đưa vào vận hành vào năm 2003. 3. Phát triễn hàng hoá cho thị trường. Hiện nay, mới có 7 cổ phiếu được niêm yết ở Trung tâm GDCK TP. HCM, đây là một con số quá nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường, là nguyên nhân làm cho thị trường luôn bị biến động. Do đó, trong thời gian tới cần sớm đưa thêm nhiều loại cổ phiếu có đủ tiêu chuẩn vào niêm yết. Hiện nay, chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá được khoảng hơn 600 DNNN, trong đó chỉ mới có khoảng 80 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn niêm yết trên Trung tâm GDCK, và vẫn còn khoảng 5800 DNNN còn khó khăn trong việc cổ phần hoá. Mục tiêu đến năm 2006 sẽ tiến hành cổ phần hoá cho tất cả DNNN mà nhà nước không cần tiếp tục giữ 100% vốn. Từ năm 2007-2010 sẽ có một số lượng lớn các cổ phiếu của các doanh nghiệp được phép niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán. Đối với trái phiếu thì ngoài trái phiếu chính phủ vẫn được coi là hàng hoá chính trên thị trường, mục tiêu đạt ra là cần tập trung phát triển các công cụ nợ khác như trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu ngân hàng thương mại, trái phiếu các chính quyền địa phương, trái phiếu công trình…thông qua các giải pháp như: xây dựng một khung pháp ly đầy đủ, đông bộ việc phát hành và quản lý trái phiếu doanh nghiệp, áp dụng các biện pháp hành chính mang tính bắt buộc như điều chỉnh chính sách cấp phát vốn ngân sách nhà nước, hạn chế và tiến tới xoá bỏ các chương trình cho vay ưu đãi, áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế, lệ phí đối với các doanh nghiệp tham gia vào thị trường trái phiếu, thành lập và phát triển cá tổ chức định mức tín dụng làm cơ sở cho việc xác định lãi suất trái phiếu doanh nghiệp khi phát hành… Với các giải pháp tăng cường cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán như trên, chắc chắn thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ phát triễn mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. 4. Phát triển các định chế tài chính trung gian. Hiện nay, mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào vận hành, song mới chỉ ở giai đoạn thử nghiệm, các thiết chế vận hành, quy mô và đối tượng tham gia vào thị trường còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của một thị trường vốn đầy đủ. Vì vậy, trong chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, cần có chiến lược cụ thể cho việc phát triển các định chế tài chính trung gian của thị trường, bao gồm các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư, các ngân hàng lưu ký, tổ chức đánh giá mức tín nhiệm và các tổ chức kiểm toán độc lập. Riêng đối với công ty chứng khoán, trong tương lai sẽ cho phép các công ty 100% vốn nước ngoài có thể thành lập và hoạt động ở Việt Nam. kết luận Tiến trình đổi mới và phát triển kinh tế đang đặt nước ta vào giai đoạn mà đồng vốn được coi là một trong những điều kiện tiên quyết. Với chủ trương “Đẩy tới một bước CNH-HĐH đất nước” nhằm tránh “Nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước khác” đòi hỏi phải có nhiều vốn, nhất là vốn dài hạn. Mặt khác, tình hình sử dụng vốn ở nước ta còn có nhiều điểm bất cập, nguồn vốn ứ đọng trong các ngân hàng là rất lớn, trong khi đó thì các doanh nghiệp không thể vay vốn cho đầu tư mở rộng sản xuất. Tỷ suất lợi nhuận mà các doanh nghiệp tạo ra tính trên đông vốn thường rất thấp, hiệu quả sản xuất – kinh doanh không cao, mà cũng rất khó tìm một cơ chế chính xác để đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước. Thị trường chứng khoán với vị trí của mình trong nền kinh tế, đóng một vai trò quan trọng cho việc giải quyết các nguồn vốn ứ đọng trong các ngân hàng, có thể giải quyết được vấn đề huy động vốn trong và ngoài nước, nhất là nguồn vốn tiết kiệm trong công chúng, đảm bảo điều kiện về vốn cho phát triển kinh tế một cách vững chắc. Mặt khác, thị trường chứng khoán được thành lập sẽ góp phần đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và thúc đẩy các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả, điều đó sẽ góp phần tăng cường hiệu quả sử dụng đòng vốn trong nền kinh tế quốc dân. Sớm thành lập thị trường chứng khoán là một chủ trương đúng đắn của đảng và nhà nước ta, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, đưa nước ta ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới, xây dựng một đất nước Việt Nam văn minh, giàu đẹp. Như vậy, sự ra đời của thị trường chứng khoán ở nước ta là một vấn đề mang tính tất yếu, thị trường chứng khoán sẽ đóng một vai trò quan trọng cho sự cất cánh của nền kinh tế Việt Nam. tài liệu tham khảo 1- Báo cáo tổng kết một năm hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam Ngày 25/7/2001-Uỷ ban chứng khoán nhà nước. 2- Báo chứng khoán Việt Nam –số 5/2001, số 2/2001, số 7/2001, số 11/2001. 3- Báo : Thị trường tài chính tiền tệ số 12, 17 năm 2001. 4- Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ-PTS. Nguyễn Ngọc Hùng, NXB thống kê 1998. 5- Việt Nam với thị trường chứng khoán-Bùi Nguyên Hoàn, NXB chính trị quốc gia 1995. 6- Thời báo kinh tế Việt Nam -Số 77, 80, 81, 85, 91, 95, 96, 97. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35151.doc
Tài liệu liên quan