Đề án Vốn kinh doanh và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại

Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp thương mại Việt Nam đều trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tình hình huy động và sử dụng vốn của các doanh nghiệp thương mại đang gặp rất nhiều khó khăn. Vốn lưu động đã thiếu lại sử dụng kém hiệu quả, vốn cố định vừa thiếu khi cần phải xây dựng những cửa hàng, bến bãi, phương tiện chuyên chở mới, phù hợp với nền kinh tế hiện đại lại còn lãng phí ở những thị trường danh dở, quá lớn về quy mô mà vẫn phải tính khấu hao tài sản, tính thuế nộp ngân sách; đầu tư tài chính- một loại vốn mới trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp chưa phát huy được tác dụng, thậm chí còn rơi vào tình trạng thua lỗ, nợ nần chồng chất, ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Vì vậy, cần phải có biện pháp nhằm huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại một cách đồng bộ và hợp lý cả tầm vĩ mô và vi mô.

doc43 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1330 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vốn kinh doanh và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng và sự quan tâm của cấp lãnh đạo. + Các điều kiện tự nhiên và môi trường… Hiện nay, vốn cố định của DNTM chiếm khoảng 1/3 toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng loại vật tư hàng hóa và sự cần thiết đáp ứng nhu cầu khách hàng, các DNTM có tỷ lệ vốn cố định ít nhiều khác nhau, từ 10% đến 50%… Tuy nhiên một số doanh nghiệp TSCĐ còn thiếu, lại quản lý sử dụng không tốt, lãng phí, có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả của kinh doanh. Cơ cấu TSCĐ của các DNTM thường được tính bằng các loại, số lượng TSCĐ và tỷ trọng của mỗi loại so với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp. Cơ cấu đó và sự thay đổi của nó là những chỉ tiêu quan trọng nói lên trình độ kỹ thuật và khả năng phát triển hoạt động kinh doanh của ngành lưu thông hàng hóa. Nó phản ánh đặc điểm hoạt động của từng doanh nghiệp và giúp cho việc xác định phương hướng tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Giá trị một loại TSCĐ Chỉ tiêu cơ cấu TSCĐ = * 100% Giá trị toàn bộ TSCĐ b. Vốn lưu động. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông. Vốn lưu động luôn luôn biến đổi hình thái từ tiền sang hàng và từ hàng sang tiền. Vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định. Vốn lưu động bao gồm: vốn dự trữ hàng hóa, vốn bằng tiền và các tài sản có khác. Trong DNTM, vốn lưu động là khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Đó là đặc điểm khác biệt của doanh nghiệp thương mại đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. ở một thời điểm nhất định, vốn của DNTM thường thể hiện ở các hình thái khác nhau như hàng hóa dự trữ, vật tư nội bộ, tiền gửi ngân hàng, tiền mặt tồn quỹ, các khoản phải thu và các khoản phải trả. Cơ cấu của chúng phụ thuộc rất lớn vào phương thức thanh toán. Vốn lưu động của DNTM chu chuyển gồm 2 giai đoạn: - Mua hàng hóa (T-H), tức là biến tiền tệ thành hàng hóa. Bán hàng hóa (H-T’), tức là biến hàng hóa thành tiền tệ. ( T’ =T +DT). Đầu tiên vốn lưu động biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ. Điều đó có nghĩa là: hàng hóa được mua vào không phải để doanh nghiệp sử dụng mà để bán ra. Hàng hóa bán ra được tức là được khách hàng chấp nhận và DNTM nhận được tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ. Toàn bộ vòng chu chuyển của vốn lưu động thể hiện bằng công thức chung T-H-T’, trong đó : T’ =T +DT. Sự vận động của vốn lưu động trong hoạt dộng kinh doanh thương mại luôn luôn trái với vận động của hàng hóa. Khi hàng hóa mua về doanh nghiệp thì phải trả tiền, khi xuất hàng ra khỏi doanh nghiệp thì được nhận tiền. Kết quả của quá trình vận động tiền tệ lại phản ánh đúng kết quả của hoạt động kinh doanh: Kinh doanh lãi hay lỗ, mức độ lãi, lỗ. Trong các DNTM có các đơn vị sản xuất phụ thuộc (xí nghiệp, xưởng, tổ, đội sản xuất) thì vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc gồm có: nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu, vốn tiền tệ và tài sản có kết toán. Vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc phải trải qua ba giai đoạn. Biến tiền tệ thành dự trữ nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu, phụ tùng... Biến nguyên nhiên vật liệu chính, phụ thành thành phẩm hàng hóa nhờ kết hợp sức lao động và công cụ lao động (máy móc, thiết bị...). Biến thành phẩm hàng hóa thành tiền tệ. Vốn lưu động phục vụ cho hai giai đoạn trên là vốn sản xuất. Vốn lưu động ở giai đoạn thứ ba là vốn lưu thông. Như vậy vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc gồm có: Vốn lưu động của đơn vị = Vốn lưu động sản xuất + Vốn lưu thông. sản xuất Xét về mặt kế hoạch hóa, vốn lưu động của DNTM được chia thành vốn lưu động định mức và vốn lưu động không định mức. Vốn lưu động định mức là vốn lưu động tối thiểu cần thiết để hoàn thành kế hoạch lưu chuyển hàng hóa và kế hoạch sản xuất, dịch vụ phụ thuộc. Vốn lưu động định mức gồm có vốn dự trữ hàng hóa và vốn phi hàng hóa. + Vốn dự trữ hàng hóa là số tiền dự trữ hàng hóa ở các kho, trạm, cửa hàng, trị giá hàng hóa trên đường vận chuyển và trị giá hàng hóa thanh toán bằng chứng từ. Nó nhằm bảo đảm lượng hàng hóa bán bình thường cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Vốn dự trữ hàng hóa chiếm 80- 90% vốn lưu động định mức và 50- 70% trong toàn bộ vốn kinh doanh của DNTM. + Vốn phi hàng hóa là số tiền định mức của vốn bàng tiền, bao gồm vốn bằng tiền và các tài sản khác. Vốn lưu động không định mức là số vốn lưu động thường phát sinh trong quá trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không đủ căn cứ để tính toán được. Vốn lưu động không định mức gồm có vốn bằng tiền ( tiền mua hàng và giao cho nhân viên đi mua hàng), tiền gửi vào ngân hàng, tài sản có kết toán (các khoản nợ nhờ ngân hàng thu, các khoản nợ phải đòi khách hàng, tiền ứng trước để mua hàng,…), các phế liệu thu nhặt trong ngoài vốn, tài sản chờ thanh lý… 3. Đặc điểm vốn kinh doanh của DNTM. Do nhiệm vụ của DNTM là thực hiện lưu chuyển hàng hóa và thực hiện các hoạt động dịch vụ, vì vậy cơ cấu và tính chất lưu chuyển của vốn khác hẳn so với các đơn vị sản xuất. Trong cơ cấu vốn của DNTM, vốn lưu động chiếm tỷ lệ lớn hơn so với vốn cố định và lưu chuyển nhanh hơn. Vốn lưu động chiếm 70 – 80% vốn kinh doanh, trong vốn lưu động bộ phận dữ trữ hàng hóa chiếm tỷ lệ cao. Như vây, đối với DNTM nói đến quản lý vốn trước hết phải chú ý tới tổ chức điều khiển bộ phận dự trữ hàng hóa để vừa đảm bảo bán hàng liên tục đều đặn thường xuyên cho khách hàng lại vừa tránh được ứ đọng vốn. Trong thành phần cơ cấu vốn cố định bộ phận tài sản cố định dùng trong kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn hơn. Ngày nay các DNTM thường đầu tư vốn cố định vào xây dựng nhà làm việc, cửa hàng ở những đầu mối giao thông để tiện liên hệ với khách hàng và những tài sản cố định như thiết bị văn phòng được chú ý đầu tư nhằm thu hút và phục vụ khách hàng tốt hơn. Tuỳ từng doanh nghiệp tuỳ thuộc phương thức và lĩnh vực kinh doanh mà vốn lưu động của DNTM sẽ trải qua các thời kỳ chu chuyển khác nhau. Ví dụ vốn của DNTM có sản xuất gia công chế biến, khác với đơn vị bán buôn, đơn vị chuyên bán qua kho sẽ khác với đơn vị chỉ bán hàng chuyển thẳng. Trong tình hình hiện nay ở Việt Nam, Các DNTM thường có nguồn vốn của chủ sở hữu nhỏ hơn so với phần vốn vayvaf vốn liên doanh liên kết, tình trạng này bất lợi trong việc giảm chi phí kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. III. Nguồn gốc hình thành vốn kinh doanh. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, trước tiên doanh nghiệp cần có vốn, vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Song căn cứ vào nội dung kinh té có thể chia làm hai nguồn hình thành cơ bản đó là: Nguồn vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn vay. 1. Nguồn vốn chủ sở hữu. Đối với một doanh nghiệp, tổng số tài sản lớn hay nhỏ thể hiện quy mô hoạt động là rất quan trọng. Song trong nền kinh tế thị trường, điều quan trọng hơn là khối lượng tài sản do doanh nghiệp đang nắm giữ và sử dụng được hình thành từ các nguồn nào. Nguồn vốn của doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với từng loại tài sản của doanh nghiệp. Nguồn vốn chủ sỡ hữu biểu hiện quyền sỡ hữu của người chủ về các tài sản hiện có ở doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu. Đối với doanh nghiệp nhà nước chủ sở hữu doanh nghiệp là nhà nước. Đối với xí nghiệp liên doanh hay công ty liên doanh thì chủ sở hữu là các nthành viên tham gia góp vốn. Đối với công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn thì chủ sở hữu là các cổ đông. Đối với doanh nghiệp tư nhân cá thể thì chủ sỡ hữu là một cá nhân, đó là ông chủ. Vốn chủ sỡ hữu được tạo từ các nguồn: Số tiền đống góp của các nhà đầu tư- người chủ sỡ hữu doanh nghiệp, cụ thể: + Đối với doanh nghiệp nhà nước: do nhà nước ( hay ngân sách nhà nước) cấp phát nên được gọi là vốn ngân sách nhà nước. + Đối với doanh nghiệp tư nhân: nguồn vốn này do chủ đầu tư hay các hội viên liên kết cùng nhau bỏ ra để đầu tư hình thành doanh nghiệp kinh doanh nên được gọi là vốn tự do. + Đối với doanh nghiệp liên doanh: nguồn này được biểu hiện dưới hình thức vốn liên doanh, vốn này được hình thành do sự đóng góp giữa các chủ đầu tư hoặc các doanh nghiệp để hình thành một doanh nghiệp mới. + Đối với công ty cổ phần: được biểu hiện dưới hình thứcvốn cổ phần, vốn này do những người sánh lập công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động thông qua việc bán những cổ phiếu đó. Nguồn vốn chủ sỡ hữu còn do tổng số tiền được tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, số này gọi là lãi lưu giữ hoặc lãi chưa phân phối. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn bao gồm chênh lệch đánh giá lại tài sản, quỹ phát triển sản xuất kinh doanh, quỹ dự trữ, chênh lệch tỷ giá, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí sự nghiệp. 2. Nguồn vốn vay. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hầu như không một doanh nghiệp nào chỉ hoạt động kinh doanh bằng nguồn vốn tự có mà phải hoạt động bằng nhiều nghuồn vốn, trong đó nguồn vốn vay chiếm tỷ lệ đáng kể. Vốn vay có ý nghĩa quan trọng không chỉ ở khả năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của công ty mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ đến hạn và giảm số lượng vốn vay. Nguồn vốn vay được thực hiện dưới các phương thức chủ yếu sau: Tín dụng ngân hàng: là các khoản mà doanh nghiệp vay của các ngân hàng thương mại hoặc của các tổ chức tín dụng khác. Tín dụng ngân hàng có nhiều dạng, song có các dạng quan trọng nhất là: + Tín dụng ứng trước: là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp (khách hàng) được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất định. + Thấu chi (tín dụng hạn mức) là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp được phép sử dụng dư nợ trong một giới hạn và thời hạn nhất định trên tài khoản vãng lai. Thấu chi chỉ được áp dụng đối với doanh nghiệp (khách hàng) có uy tín và có khả năng tài chính lành mạnh. + Chiết khấu thương phiếu: Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó doanh nghiệp chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí. + Tín dụng thuê mua: Là hình thức tín dụng trung, dài hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê máy móc- thiết bị, các động sản và bất động sản khác. Phát hành trái phiếu công ty: Chỉ có các doanh nghiệp thương mại nhà nước, các công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu mới có quyền vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Trái phiếu thực chất là một tờ phiếu mà công ty phát hành phát hành để vay vốn và là vốn dài hạn. Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp đựoc thể hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Tín dụng thương mại xuất hiện trên cơ sở sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do đặc điểm thời vụ trong sản xuất và mua bán sản phẩm, do vậy xảy ra hiện tượng một số doanh nghiệp có hàng hóa muốn bán trong lúa có một số doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền. Trong điều kiện này, doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn thực hịên được sản phẩm của mình, họ có thể bán chịu hàng hóa cho người mua. Vốn đầu tư nước ngoài: Bao gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ thực hiện dưói dạng viện trợ, vốn cho vay ưu đãi với thời gian dài, lãi suất thấp của các tổ chức tài chính quốc tế, vốn vay tín dụng từ các ngân hàng thương mại nước ngoài, vốn do phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài. Vốn này thường có quy mô lớn nên có tác động nhanh và mạnh đối với việc giải quyết các nhu cầu phát triển của nước nhà nhưng cũng gắn với các điều kiện chính trị và tình trạng vay nợ chồng chất nếu chúng ta không biết sử dụng chúng có hiệu quả. Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp hoặc các cá nhân người nước ngoài đầu tư vào nước ta. Những doanh nghiệp và cá nhân này trực tiếp tham gia quản lý và thu hồi vốn đó. Vốn đầu tư trực tiếp thường có quy mô nhỏ hơn nhưng nó mang theo toàn bộ “năng lực kinh doanh” nên có thể thúc đẩy các ngành nghề mới phát triển, đưa công nghệ mới và kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp hiện đại vào nước ta góp phần đào tạo các nhà quản lý và kinh doanh phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường. IV. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Một doanh nghiệp được xem là có hiệu quả khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là sử dụng vốn kinh doanh. Để đánh giá có khoa học hiệu quả kinh doanh của DNTM, cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp gồm có chi tiêu tổng quát và chỉ tiêu chi tiết cụ thể để tính toán. Các chỉ tiêu này phải phù hợp, phải thống nhất với công thức đánh giá hiệu quả chung: Kết quả thu được Hiệu quả kinh doanh = Chi phí bỏ ra. Kết quả thu dược trong kinh doanh thương mại đo bằng các chỉ tiêu như doanh thu và lợi nhuận thức hiện, còn chi phí bỏ ra như lao động, vốn lưu động, vốn cố định… 1. Các chỉ tiêu phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh chung. Hiệu suất vốn kinh doanh (VKD). Doanh thu thuần trong kỳ Hiệu suất VKD = VKD Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Hàm lượng VKD. VKD Hàm lượng VKD = Doanh thu thuần trong kỳ Để có một đồng doanh thu phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn. Muốn biết tình hình sử dụng vốn kinh doanh thế nào cần phân tích cụ thể đối với từng loại vốn: Vốn cố định và vốn lưu động. 2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định. a. Hiệu quả sử dụng TSCĐ. Tổng doanh thu thuần Hiệu quả sử dụng TSCĐ = Nguyên giá bình quân của TSCĐ Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này biểu hiện mức tăng kết quả kinh doanh của mỗi đơn vị giá trị TSCĐ nhưng chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế tổng hợp nhất của vốn cố định thường được sử dụng là mức doanh lợi. b. Mức doanh lợi của vốn cố định. Lợi nhuận hoặc lãi thực hiện Mức doanh lợi của VCĐ = VCĐ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh số tièn lãi hoặc số thu nhập thuần tuý trên một đồng tiền vốn cố định hoặc số vốn cố định cần thiét để tạo ra 1 đồng lợi nhuận hoặc lãi thực hiện. Chỉ tiêu này có thể so sánh với kỳ trước hoặc kế hoạch để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. c. Sức hao phí TSCĐ. Nguyên giá bình quân TSCĐ Sức hao phí TSCĐ = Doanh thu thuần hay lợi nhuận thuần Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng doanh thu thuần hay lợi nhuận thuần có bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ. 3. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Mức doanh lợi của vốn lưu động. Lợi nhuận thuần hay lãi gộp Mức doanh lợi của VLĐ = VLĐ bình quân Mức doanh lợi của vốn lưu động biểu thị mỗi đơn vị vốn lưu động bỏ vào kinh doanh mang lại bao nhiêu lợi nhuận. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động. VLĐ bình quân Hệ số đảm nhiệm VLĐ = Tổng doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết để có một đồng luân chuyển cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng chứng tỏ trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp cao. Số vòng quay của vốn lưu động. Tổng doanh thu thuần Số vòng quay của VLĐ = VLĐ bình quân Số vòng quay của vốn lưu động cho biết vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay càng nhiều càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cao và ngược lại. d. Thời gian của một vòng luân chuyển (T). Thời gian theo lịch trong kỳ T = Số vòng quay của VLĐ trong kỳ Thời gian của một vòng luân chuyển thể hiện số ngày cần thiết để cho vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng quay càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển vốn lưu động càng lớn. e. Số lần chu chuyển vốn lưu động trong một thời kỳ (gọi là vòng quay vốn). Công thức được tính: M K= Obq Trong đó: K- Vòng quay vốn M – Tổng mức luân chuyển vốn lưu động trong thời kỳ (doanh số bán) Obq- Số dư bình quân vốn lưu động. g. Số vốn tiết kiệm được. Kkh - Kbc B = * Obqkh Kbc Trong đó: B: số vốn lưu động tiết kiệm được. Kkh: số vòng quay kỳ kế hoạch. Kbc: số vòng quay kỳ báo cáo. Obqkh: số dư bình quân số vốn lưu động kỳ kế hoạch. Hoặc: ( Vbc - Vkh) B = *Mkh T Trong đó: Vbc: Số vòng quay tính bằng ngày trong kỳ báo cáo. Vkh: số vòng quay tính bằng ngày trong kỳ kế hoạch. Mkh: tổng mức lưu chuyển vốn lưu động kỳ kế hoạch. T: số ngày trong kỳ. Chỉ tiêu này cho biết số vốn lưu động tiết kiệm được trong kỳ, nếu càng cao thì số vốn tiết kiệm được càng nhiều, kinh doanh càng có hiệu quả và ngược lại. Phần II Thực trạng huy động và sử dụng vốn kinh doanh của DOANH NGHIệP Thương mại ở nước ta hiện nay. I. Thực trạng huy động vốn: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: “ Cần huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng …” Trong những năm tới, chính sách huy động vốn phải nhằm vào việc khai thác tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế, để đảm bảo yêu cầu về vốn cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trước thời kỳ đổi mới, thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, DNTM chủ yếu là các DNTMNN đã hình thành một mạng lưới thương mại thống nhất trên khắp các địa bàn của cả nước, từ trung ương đến cơ sở. DNTMNN thâm nhập vào mọi lĩnh vực, nắm toàn bộ nguồn hàng độc quyền trong bán buôn và chi phối bán lẻ dưới hình thức chỉ tiêu, định mức của nhà nước. Thích ứng với thời kỳ này vốn của các DNTM chủ yếu là do nhà nước cấp. Thực hiện nguyên tắc cấp phát-giao nộp ngân sách, các doanh nghiệp không tự khai thác và huy động vốn để đảm bảo vốn kinh doanh. đánh giá một cách khách quan phải thấy rằng, tính chất tập trung bao cấp và độc quyền của thương mại quốc doanh rất phù hợp với nền kinh tế thời chiến. Nó đảm bảo tập trung và thống nhất nguồn hàng cho tiền tuyến, góp phần to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tuy nhiên cơ chế này tỏ ra lỗi thời và không còn phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Do thực hiện quá lâu nền kinh tế khép kín, không tuân theo quy luật cung- cầu, mua bán không đúng giá trị, trong hạch toán kinh doanh không tính đúng, tính đủ chi phí đầu vào ra, thực hiện cơ chế mua theo lệnh, bán theo chỉ tiêu nên các DNTM không cần quan tâm đến việc bảo toàn và phát triển vốn. Vốn của các doanh nghiệp thất thoát nghiêm trọng, nhiều doanh nghiệp lãi giả lỗ thật và báo cáo sai lệch trong hạch toán kinh doanh. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu bước ngoặt đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế chung, thị trường và thương mại dịch vụ nói riêng. DNTM được quyền tự do kinh doanh theo những ngành hàng đươc phân công, hoặc tự chọn trong thị trường. Từ đấy, vấn đề vốn trở thành vấn đề sống còn của từng doanh nghiệp. Các nguồn vốn có thể huy động của các DNTM bao gồm vốn do ngân sách nhà nước cấp, vốn tự có, vốn bổ sung và các khoản vốn đi vay của các ngân hàng, vay trái phiếu, vay các hợp đồng tín dụng. Ngoài ra có thể huy động vốn ngoài nước bao gồm vốn vay của các tổ chức kinh tế và tư nhân nước ngoài, vốn thu hút được của nước ngoài dưới các hình thức liên doanh liên kết hoặc nước ngoài đầu tư vốn 100%. Về vốn ngân sách chỉ đạt 25%, vốn tự có cũng không đánh kể, mặt khác do đặc thù của hoạt động kinh doanh, vốn của các DNTM chiếm 80% là vốn lưu động nên vốn của các doanh nghiệp này chủ yếu là vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, vốn vay ngân hàng không thuận lợi vì lãi suất quá cao (1.75%/tháng), thời hạn ngắn và khoản vay nhỏ lẻ, manh mún. Nếu doanh nghiệp có vay được vốn ngân hàng cũng vẫn khó khăn trong các phương án kinh doanh vì không phù hợp với đặc thù kinh doanh của loại hình DNTM cũng như đặc điểm chu chuyển thực tế của từng mặt hàng và ngành hàng. Nguồn tín dụng của ngân hàng được huy động từ nhiều nguồn nhưng nhiều nhất vẫn là huy động nguồn tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn của nhân dân. Tỷ lệ tiết kiệm bình quân của dân cư bình quân hiện nay hằng năm chiếm khoảng 15% GDP. Nếu dòng chảy được thông thoáng thì nguồn tièn gửi vào ngân hàng thường xuyên, liên tiếp gối đầu tạo nên nguồn vốn rất lớn. Chính nhờ ưu thế nguồn vốn này trong thập niên qua, ngành ngân hàng có đủ vốn để đầu tư tín dụng góp phần phát triển kinh tế. Thế nhưng tiền gửi tiết kiệm, nguồn vốn chủ lực của ngân hàng đã huy động được so với sự phát triển kinh tế và sự tăng trưởng thu nhập quốc dân còn rất hạn chế. Thời gian qua lại bị ảnh hưởng bởi biến động tín dụng không thuận lợi, nên nguồn vốn tiết kiệm bị giảm sút đáng kể. Tuy rằng nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân còn nhiều và tăng trưởng nhanh, nhưng huy động được là một bài toán khó đối với ngành ngân hàng vì phương thức huy động vốn hiện nay ở nước ta có nhược điểm là các ngân hàng luôn nhận được tiền gửi định kỳ, có lãi suất cao và thời hạn gửi ngắn (thường là dưới một năm). Do vậy, đang có tình trạng “thừa” vốn ngắn hạn, “thiếu” vốn trung và dài hạn; Thứ hai là chi phí đầu vào của các doanh nghiệp ngân hàng rất cao làm cho giá đầu ra của tín dụng cũng rất cao và như vậy nó thường làm nản lòng người đi vay. Nhược điểm thứ ba lãi suất cao dẫn đến thu nhập của người gửi tiền và của các ngân hàng cho vay tăng lên, sẽ làm cho chi phí sản xuất của người đi vay tăng lên và tất yếu sẽ làm cho giá cả hàng hóa tăng lên. Do thị trường vốn của Việt Nam chưa phát triển do vậy việc thành lập các doanh nghiệp là do nhà nước và những cá nhân có tà sản lớn góp vốn. Các khoản tiết kiệm của dân cư không huy động trực tiếp vào cá doanh nghệp được. Lý do là tiền tiết kiệm này phân tán theo thời gian và nhỏ. Hơn nữa dân chúng sống rải rác xa các doanh nghiệp thường tập trung ở các đô thị. Một nhuyên nhân khác dẫn đến việc ngân hàng chưa huy động được nguồn vốn tiền gửi đó là trong thời kỳ lạm phát cao, đồng Việt Nam lại mất giá nghiêm trọng, ngân hàng chưa có biện pháp bảo toàn đồng vốn cho người gửi tiền, nên từ đó không có ít người có nguồn tiền nhàn rỗi không gửi ngân hàng mà đem mua vàng và mua ngoại tệ mạnh để dành, dùng vàng và đô la để mua bán và trao đổi trên thị trường ngân hàng không kiẻm soát được. Tiếp theo đó là sự đổ vỡ tín dụng ngoài quốc doanh từ năm 1991-1992 đến cuối thập niên 90 và thời gian gần đây lịa liên tục xảy ra các sự cố kinh tế nổi cộm trong đó nhiều vụ việc liên quan đến tín dụng làm cho sự hoạt động của ngành ngân hàng không bình ổn, nhân dân thiếu tin tưởng. Sự khó khăn trong việc huy động vốn của ngân hàng đã ảnh hưởng rất lớn đến các DNTM và vốn kinh doanh của các DNTM chủ yếu là đi vay do đặc thù của loại hình doanh nghiập này, số vốn lưu động chiếm 70 –80%. Ngoài việc huy động các nguồn vốn trên, DNTM còn huy động vốn từ nước ngoà thông qua sự liên doanh liên kết hoặc đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam. II. Thực trạng sử dụng vốn của các DNTM ở nước ta. Hiện nay, hầu hết các DNTM Việt Nam đều trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh, vì vậy ngoài việc huy động tối đa các nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình, thì việc sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh được xem là một vấn đề quan trọng, quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Vốn chủ yếu của các DNTM được huy động từ nguồn vốn vay của ngân hàng, của các tổ chức tín dụng. Trong khi lượng vốn vay còn eo hẹp, nhiều DNTM quản lý vốn rất kém và sử dụng vốn rất tuỳ tiện, đặc biệt là sự phân bố vốn chưa hợp lý. Nhiều khoản vốn lưu động doanh nghiệp không dưa vào lưu thông mà dồn vào xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị quá lớn dẫn đến kinh doanh thua lỗ nợ nần chồng chất. Chỉ tính đến 1.1.1992 Tổng số nợ phải đòi của các tổng công ty là 5347 tỷ đồng, trong đó 576 tỷ đồng là nợ khó đòi chiếm 10.8% tổng số nợ. Các doanh nghiệp thường xuyên chiếm dụng vốn lẫn nhau gây bế tắc trong quá trình thanh toán, tổng kết hiệu suất kinh doanh của đồng vốn. Một số doanh nghiệp lại mạo hiểm đưa vốn lưu động vào liên doanh liên kết nhưng chưa phát huy hiệu quả, thậm chí còn làm thất thoát vốn, gây thua lỗ lớn. Kết qủa hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp do Bộ thương mại quản lý qua một số năm như sau: Năm Doanh thu Lợi nhuận thực hiện 1991 13452 tỷ đồng 433 tỷ đồng 1992 13044 tỷ đồng 328 tỷ đồng 1993 17360 tỷ đồng 634 tỷ đồng 1995 22500 tỷ đồng 682 tỷ đồng (Nguồn: Về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc Bộ thương mại tháng 6.1996) Nhìn tổng thể, doanh thu và lợi nhuận thực hiện của các doanh nghiệp có tăng nhưng trong từng doanh nghiệp cụ thể lại rất đáng lo ngại. Chỉ tính riêng năm 1995, tổng doanh thu là 22500 tỷ đồng thì hai doanh nghiệp (tổng công ty xăng dầu Việt Nam và công ty thương mại đầu tư) đã đạt tới 11664 tỷ đồng, chiếm 51.8% và trong tổng số 682 tỷ đồng lợi nhuận được thực hiện, hai doanh nghiệp trên đã đạt tới 605 tỷ chiếm 88.75%. Như vậy, số lợi nhuận chủ yếu được thực hiện từ hai doanh nghiệp trụ cột trên do trường vốn, biết đổi mới tổ chức và hoạt động kinh doanh. Số còn lại làm ăn rất kém hiệu quả, tua lỗ kéo dài, nhiều doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản. Nguyên nhân tình trạng lỗ lớn của các DNTM không chỉ xuất phát từ việc chậm đổi mới tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, từ việc buông lỏng quản lý doanh nghiệp mà chủ yếu xuất phát từ tình trạng thiếu vốn, mỏng vốn và sử dụng vốn kém hiệu quả. Thực hiện quá trình đổi mới với nền kinh tế mở, đã thu hút được nhiều vốn đầu tư của nước ngoài đã giúp các doanh nghiệp có thêm vốn để kinh doanh, đã góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tạo ra nhiều ngành kinh tế mới, tạo công ăn việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, kiềm chế lạm phát, thu hút nhiều máy móc thiết bị, công nghệ tiến tiến, kỹ năng quản lý phù hợp với cơ chế mới tạo ra nhiều ngành nghề sản phẩm mới. Tháng 12 năm 1987 Quốc hội thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, và sửa đổi, bổ sung lần đầu vào tháng 6.1990, và lần thứ hai vào tháng 12.1992. Cùng với Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quốc hội và chính phủ đã ban hành nhiều luật và pháp lệnh có liên quan khác đã tạo cơ sở pháp lý cho đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam. Đến tháng 7.1995 đã có 1402 dự án đầu tư được cấp phép với tổng số vốn đầu tư là 16200 triệu USD, với nhịp độ thu hút vốn đầu tư tăng nhanh theo từng năm, bình quân hàng năm tăng 50%, cơ cấu đầu tư cũng dịch chuyển lớn. Đến cuối tháng 7.1995 vốn đầu tư đã thực hiện là 4950 triệu USD bằng 30.7% vốn đầu tư cần thực hiện, thu hút 22 vạn lao động và kích thích nâng cao chất lượng và cường độ lao động Việt Nam .Tiếp thu được nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, thu hút nhiều vốn cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thương mại nói riêng. Cụ thể: đóng góp trong GDP năm 1994 là 7.5% năm, năm 1995 là 8.3% năm và năm 1996 là 10%. Tuy nhiên, kết quả từ hoạt động đầu tư của nước ngoài vào nước ta cũng đặt ra nhiều vấn đề phải tiếp tục hoàn thiện đó là: - Tốc độ thu hút đầu tư nhanh nhưng việc triển khai thực hiện dự án còn nhiều thiếu sót, làm thiệt hại cho các nhà đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước. - Phân bổ đầu tư nước ngoài còn chưa cân đối, do chưa có biện pháp khuyến khích thích đáng. Nhiều vùng lãnh thổ cồn chưa có hoặc ít dự án đầu tư của nước ngoài (phía Bắc, Tây Nguyên, miền Trung). - Tổ chức quản lý dự án đầu tư của nước ngoài còn nhiều khiếm khuyết từ khâu ký hợp đồng đến khi vận hành dự án. - Tỷ lệ góp vốn của các bên Việt Nam trong các liên doanh nước ngoài còn thấp, chỉ ở mức 20 – 30%, khiến bên Việt Nam trong liên doanh nước ngoài trở nên yếu thế và thua thiệt khi chia lợi nhuận. - Đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vực tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các liên doanh còn yếu cả về nghiệp vụ lẫn kinh nghiệm quản lý. - Nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà,các dịch vụ và cơ sở hạ tầng còn thiếu và kém nên hạn chế khả năng thu hút vốn. Phần III Các biện pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh của các DNTM. I. Các biện pháp huy động vốn kinh doanh. Để tạo được lượng vốn cần thiết, đủ mạnh cho các DNTM phải tích cực huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau có thể là nguồn từ ngân sách, vốn tự có của các cổ đông góp vào. Trong hoạt động kinh doanh, vốn kinh doanh có vai trò quan trọng đối với đổi mới thiết bị công nghệ, thay đổi phương thức kinh doanh, phương thức đáp ứng nhu cầu khách hàng trên thị trường. Bên cạnh các nguồn vốn có thể huy động trong nội bộ doanh nghiệp như phần vốn khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp, phần lợi nhuận không chia, tiền nhượng bán tài sản cố định… mà vẫn không đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh có thể dùng các hình thức huy động sau: - Phát hành cổ phiếu. - Phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi. - Phát hành trái phiếu công ty. - Vay vốn dài hạn và trung hạn của ngân hàng. - Sử dụng thiết bị máy móc hiện đại theo hình thức tín dụng thuê mua. - Liên kết đầu tư với các doanh nghiệp trong ngoài nước để phát triển công ty. Để thực hiện được việc huy động vốn qua các hình thức trên, cần chú ý đến các biện pháp sau: 1. Biện pháp huy động nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Đây là nguồn vốn không chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn của doanh nghiệp nhưng chính nó lại đóng vai trò rất quan trọng, tạo ra cốt vật chất cần thiết cho doanh nghiệp có vốn đầu tư kinh doanh. Đề nghị nhà nước cấp bổ sung đủ 30% vốn lưu động định mức cho những doanh nghiệp có phương án và chiến lược kinh doanh rõ ràng ở cả tầm ngắn, trung và dài hạn (đối với DNTM nhà nước). Đặc biệt đối với những doanh nghiệp công ích, những doanh nghiệp kinh doanh ở ngành, hàng mũi nhọn, nhà nước cần nới lỏng cơ chế khi cấp phát vốn. Trong những trường hợp đặc biệt, nhà nước có thể vận dụng cấp cho các doanh nghiệp này lượng vốn lớn hơn định mức. Đồng thời, có cơ chế quản lý tốt nguồn vốn tránh thất thoát, tạo điều kiện cho các DNTM phát triển tốt trong lĩnh vực thương mại – dịch vụ, góp phần vào việc phát triển nền kinh tế quốc dân, vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2. Biện pháp huy động nguồn vốn từ ngân hàng. Nguồn vốn này được các loại hình doanh nghiệp quan tâm nhất. Nhà nước phải tạo ra môi trường và hành lanh pháp lý thuận lợi để ngân hàng thực hiện đực nhiệm vụ là cầu nối cung tiền tệ cho các doanh nghiệp và ngược lại doanh nghiệp là lực lượng thực hiện cầu tiền tệ, tránh ứ đọng, ùn tắc vốn trong các DNTM khi doanh nghiệp đang đói vốn. Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của ngân hàng, vừa hạn chế thủ tục phiền hà, chồng chéo tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay được vốn nhanh chóng, kịp thời kinh doanh, vừa phải đảm bảo an toàn đồng vốn khi cho các doanh nghiệp vay. Ngân hàng nên xem xét tính hợp lý về thời gian và mức lãi suất cho vay phù hợp với loại hình DNTM, phù hợp với từng mặt hàng, ngành hàng và vòng chu chuyển của từng loại hàng hóa, cần nâng cao tỷ lệ khoản vay vốn trung và dài hạn nhất là vốn dài hạn đối với một số mặt hàng xuất khẩu chiến lược, có thời gian chu chuyển dài. Bên cạnh đó phải có chính sách tài trợ đối với một số mặt hàng thiết yếu như: giấy vở học sinh, lương thực, một số mặt hàng thực hiện chính sách xã hội… thông qua hỗ trợ lãi suất vay trong một thời gian nhất định. Để đảm bảo vai trò to lớn của mình, ngành ngân hàng phải tạo ra các biện pháp để huy động được vốn. Muốn ngành ngân hàng được vững mạnh cần có các nghị định của chính phủ hướng dẫn triển khai luật ngân hàng nhà nước, luật tổ chức tín dụng và các luật khác có quan hệ hữu cơ, tạo cơ sở pháp lý vững chắc, bảo toàn sự hoạt động của ngân hàng. Nếu thực hiện được tức là bảo đảm được vốn tiền gửi của dân vào ngân hàng. Công tác huy động vốn tiền gửi của dân đối với ngân hàng phải đặt vào tầm quy mô chiến lược là nhiệm vụ chính trị quan trọng phải thực hiện thường xuyên, liên tục, không để xảy ra tình trạng có nơi, có lúc từ chối nhận tiền gửi của dân vì thừa vốn dù là tạm thời, đến khi cần vốn lại không huy động được vốn. Lãi suất là biện pháp kinh tế thiết thực cho cả hai bên khách hàng và ngân hàng. Liên ngành tài chính – ngân hàng nhà nước cần phải thống nhất khung và trần lãi suất huy động vốn giữa tiền gửi ngân hàng – kỳ phiếu – tín phiếu và trái phiếu kho bạc, không để xảy ra cạnh tranh lãi suất, tuy là hợp lý nhưng lại có thể dẫn đến đổ vỡ các tổ chức tín dụng kém ưu thế về nguồn vốn. Cơ chế vận hành nghiệp vụ tín dụng – ngân hàng cũng là biện pháp hữu hiệu để huy động nguồn vốn. Cần cải tiến mạnh mẽ và đồng bộ các chế độ, thể lệ, thủ tục hiện hành, đảm bảo an toàn theo điều kiện quản lý của ta nhưng không xa rời thông lệ quốc tế để tạo hành lang thông thoáng cho dòng tiền vốn chảy vào ngân hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có thể là nguồn vốn không được ổn định, nhưng vì có tính chất vào ra kế tiếp gối đầu nhau, thường xuyên liên tục tạo cho ngân hàng nguồn vốn rất quan trọng, nếu cá thể lệ về tín dụng, sử dụng tài khoản, thanh toán không dùng tiền mặt chưa thông thoáng thì khách hàng găm giữ tiền mặt không thanh toán qua ngân hàng làm cho ngân hàng thiếu nguồn vốn quan trọng này. Nghiên cứu cho khách hàng kinh doanh sản xuất sử dụng tài khoản vãng lai (tài khoản tiền gửi vãng lai, tài khoản tiền vay vãng lai) để ngân hàng vừa đi vay vừa cho vay, sử dụng được vốn tín dụng; đồng thời huy động được nguồn vốn nhàn rỗi gửi vào ngân hàng. Séc là công cụ thanh toán thay tiền mặt phải được lưu hành như tiền mặt trên toàn lãnh thổ theo nguyên tắc thương phiếu (đổi chác, chuyển nhượng, thanh toán). Khái niệm về tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn không nên quá cứng nhắc, mà phải vận dụng linh động như thế nào để vừa đảm bảo an toàn nguồn vốn cho ngân hàng vừa thuận lợi cho người gửi tiền. Cuối cùng là biện pháp an toàn vốn và bảo đảm giá trị đồng vốn cho người gửi. Bảo hiểm vốn tiền gửi là đúng nhưng nếu như bảo hiểm trực tiếp trên vốn tiền gửi thì ngân hàng phải hạ lãi suất để có khoản chi cho phí bảo hiểm. Do đó, ngoài việc bảo đảm an toàn và bình ổn hoạt động của toàn ngành ngân hàng, có thể tổ chức bảo hiểm tài sản để thế chấp nợ vay, quy chế bảo lãnh nợ vay phải có giá trị pháp lý để thu hồi nợ và cần có biện pháp bảo đảm giá trị tiền gửi trung và dài hạn, bằng cách lập quỹ bình ổn để bù đắp khi đồng tiền mất giá. 3. Phát triển công ty cổ phần. Công ty cổ phần là đối tượng tìm nguồn vốn đầu tư, quyết định đầu tư, sử dụng vốn đầu tư phát triển. Hiện nay, việc thành lập công ty cổ phần cũng như thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn diễn ra chậm; như ta đã biết công ty cổ phần là một chủ thể quan trọng để hình thành nên thị trường vốn, do đó phải tiếp tục đẩy mạnh việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các nhà đầu tư mua cổ phần. Sửa đổi các quy định về việc thành lập công ty cổ phần, cơ chế phát hành cổ phiếu ban đầu khi thành lập và phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn đầu tư, đa dạng hóa các hình thức góp vốn, các phương thức phát hành cổ phiếu, cải tiến cơ chế mua bán, chuyển nhượng cổ phiếu. Mở rộng hình thức phát hành trái phiếu, nhà nước thực hiện việc bảo lãnh cho cac doanh nghiệp nhà nước đủ điều kiện phát hành cổ phiếu trong nước và ra nước ngoài để tăng khả năng thu hút vốn trên thị trường 4. Phát triển những định chế tài chính trung gian. Trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta, việc xây dựng cơ chế tổ chức và hoạt động của các quỹ đầu tư phát triển, trong đó có quỹ đầu tư phát triển quốc gia là hết sức cần thiết. Định chế mới này là người chủ đầu tư thực sự của hệ thống kinh tế quốc doanh, sử dụng vốn đầu tư của ngân sách nhà nước, tiếp nhận các nguồn vốn ODA dành cho đầu tư phát triển, vốn vay từ các diịnh chế tài chính quốc tế, từ ngân sách trung ương và từ dân cư. Định chế này là trung tâm cung cấp vốn đầu tư phát triển cho tất cả các dự án đầu tư của nhà nước, các dự án của doanh nghiệp thương mại, các tập đoàn kinh tế, các công ty liên doanh, công ty cổ phần… 5. Xây dựng và phát triển thị trường thuê mua. Đối với nước ta hiện nay, việc thành lập thi trường tín dụng thuê mua là một đòi hỏi bức bách; có thể nói tín dung thuê mua là một hình thức tín dụng đầu tư có hiệu quả, đóng vai trò tài trợ và có ý nghĩa quan trọng ở các nền kinh tế đan phát triển (do có vốn đầu tư thấp). Hoạt động tín dụng thuê mua gắn với lĩnh vực kinh doanh và đặc biệt thích ứng với doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ đang có nhu cầu vốn trung và dài hạn để đổi mới công nghệ thiết bị. Như dã biết, tín dụng thuê mua là một biện pháp thay thế vay vốn ngân hàng để đầu tư nhà xưởng, đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc thiết bị. Công ty thuê mua sẽ mua sắm máy mó thiết bị theo yêu cầu của người sử dụng và cho người sử dụng thuê các tài sản này trong phần lớn thời kỳ hữu ích của tài sản. Khác với vay trung vay dài hạn của ngân hàng, khác với thị trường chứng khoán, trên thị trường tín dụng thuê mua công ty thuê mua không chỉ cung cấp tín dụng bằng hiện vật, mà còn hỗ trợ, đào tạo và có thể nâng cao được hiệu quả sử dung tài sản thuê mua. Nền kinh tế của nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi với định hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa, việc thành lập các công ty thuê mua có tác dụng: Huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn (vì không phải đầu tư một lần với số vốn lớn). Các doanh nghiệp không phải vay ngân hàng để đầu tư các tà sản cố định (rất có ích cho những doanh nghiệp không có tài sản để thế chấp). Có thể áp dụng hình thức “thuê lại”, theo đó các doanh nghiệp có thể bán một phần tài sản của mình cho công ty thuê mua, đồng thời ký hợp đồng thuê lại các tài sản này. II. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở các DNTM. Sử dụng vốn trong kinh doanh thương mại là một khâu có tầm quan trọng quyết định đến hiệu quả của kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn kinh doanh lại là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu, các bộ phận trong kinh doanh, từ phương hướng kinh doanh đến các biện pháp tổ chức thực hiện, cũng như sự quản lý, hạch toán theo dõi, kiểm tra, nghệ thuật kinh doanh và cơ hội kinh doanh. Mục đích của sử dụng vốn trong kinh doanh là đảm bảo nhu cầu tối đa về vốn cho việc phát triển kinh doanh hàng hóa trên cơ sở nguồn vốn có hạn được tổ chức một cách hợp lý, tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Sử dụng vốn trong kinh doanh đòi hỏi phải đảm bảo việc bảo toàn và phát triển vốn . Bảo toàn vốn kinh doanh là quá trình thu hồi vốn đã bỏ ra sau thời gian kinh doanh, là quá trình khôi phục vốn đã ứng trước. Phát triển vốn kinh doanh là quá trình trích một phần lợi nhuận bổ sung vào vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, bảo toàn vốn kinh doanh là không làm mất đi giá trị của đồng vốn bảo đảm duy trì năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng mua sắm, thanh toán của doanh nghiệp. Muốn bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh, doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Để đạt được mục đích trên yêu cầu cơ bản của sử dụng vốn là: - Bảo đảm sử dụng vốn đúng phương hướng, đúng mục đích và đúng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. - Chấp hàng đúng các quy định và chế độ quản lý lưu thông tiền tệ của nhà nước. - Hạch toán đầy đủ chính xác, kịp thời số vốn hiện có và tình hình sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. 1. Các biện pháp bảo toàn vốn cố định. Bảo toàn vốn cố định là giữ cho TSCĐ không bị lạc hậu kỹ thuật và không bị loại khỏi dây chuyền sản xuất kinh doanh trước khi hết thời hạn sử dụng. Nghĩa là vốn cố định phải được bảo toàn về cả về mặt hữu hình và vô hình. Về mặt hữu hình cần quản lý chặt chẽ không làm mất mát, thực hiện quy chế sử dụng, sữa chữa bảo dưỡng không bị TSCĐ bị hư hỏng trước thời hạn và nâng cao năng lực hoạt động của TSCĐ. Về mặt vô hình phải chủ động đổi mới, thay thế TSCĐ kể cả loại chưa hết thời gian khấu hao. Các biện pháp cụ thể là: Xác định cơ cấu vốn cố định và tỷ trọng từng loại TSCĐ phù hợp với mục tiêu và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Đánh giá lại TSCĐ trong kỳ, xác định tỷ giá hối đoái để phản ánh giá trị của TSCĐ nhập khẩu. Xác định số vốn cố định phải bảo toàn trong kỳ theo công thức: Số VCĐ VCĐ Khấu hao cơ Hệ số điều Tăng phải bảo toàn = được giao - bản đã trích * chỉnh giá ± giảm VCĐ trong kỳ  đầu kỳ trong kỳ trị TSCĐ trong kỳ. Trích khấu hao theo giá hiện hành chứ không theo giá kế hoạch, giá nguyên thuỷ TSCĐ. TSCĐ đầu tư theo nguồn vốn nào phải khấu hao theo nguồn vốn đó. Xác định tỷ lệ khấu hao hợp lý vừa đảm bảo tiêu thụ hàng hóa có lợi nhuận vừa thực hiện được cải tiến kỹ thuật. Không mua sắm thiết bị máy móc lạc hậu kỹ thuật. Kéo dài thời gian làm việc của TSCĐ bằng cách chăm sóc tu bổ, bảo quản tốt. Tăng mức sử dụng TSCĐ trong một đơn vị thời gian. Tiến hành hạch toán phân tích hiệu quả của từng loại để có biện pháp xử lý phù hợp. Có hướng giải quyết kịp thời với TSCĐ không cần dùng hoặc không có hiệu quả kinh tế. Không ngừng nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên và quy định chế độ trách nhiệm sử dụng quản lý TSCĐ trong doanh nghiệp. 2. Bảo toàn vốn lưu động. Về hiện vật: = Tổng VLĐ đầu kỳ Tổng VLĐ cuối kỳ Giá 1 đơn vị hàng hóa Giá 1 đơn vị hàng hóa Về giá trị: phải xác định số vốn lưu động phải bảo toàn đến cuối năm. = ´ Số VLĐ phải bảo VLĐ được giao Hệ số trượt giá toàn đến cuối năm đầu năm VLĐ trong năm Nói cách khác vốn lưu động đầu kỳ và cuối kỳ phải tương đương (có sức mua như nhau). Các biện pháp cụ thể là: Xác định cơ cầu vốn lưu động của doanh nghiệp hợp lý, xác định mức dự trữ hàng hóa vừa đảm bảo đủ hàng cho khách hàng nhưng không gây ứ đọng vốn. Một mặt hạn chế hàng hóa kém, mất phẩm chất bằng tăng cường công tác bảo quản, mặt tích cực xử lý hàng hóa chậm lưu chuyển, hàng hóa ứ đọng. Tăng cường lưu chuyển hàng hóa bằng các biện pháp khác nhau. Xác định cơ cấu các nhóm hàng hóa làm cơ sở tính toán bảo toàn VLĐ đối với bộ phận dự trữ hàng hóa. Tổ chức tốt công tác thanh quyết toán, giảm công nợ dây dưa. Thành lập quỹ dự phòng tài chính để bù đắp trượt giá bảo toàn vốn. Quỹ dự phòng tài chính bảo toàn VLĐ = doanh số bán trong kỳ ´ tỷ lệ bảo toàn VLĐ. - Xác định phương thức quản lý vốn đối với xí nghiệp, cửa hàng trực thuộc doanh nghiệp. 3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNTM. 3.1. Tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động. hay rút ngắn số ngày lưu chuyển hàng hóa. Doanh nghiệp phải tiến hành đẩy mạnh bán ra, thu hút nhiều khách hàng trên cơ sở chất lượng hàng hóa tốt và số lượng bảo đảm. Mở rộng lưu chuyển hàng hóa trên cơ sở tăng năng suất lao động, tăng cường mạng lưới bán hàng để phục vụ thuận tiện cho khách hàng. Các DNTM nên chú trọng mở rộng và phát triển mạng lưới đại lý cho các DNSX trên khắp địa bàn cả nước, thành thị – nông thôn – miền núi, vùng sâu, vùng xa. Giải pháp này khắc phục được tình trạng mua đi bán lại qua nhiều khâu dẫn tới tăng giá cả vừa tiết kiệm được VLĐ ứng trước, tăng nhanh vòng quay của vốn. Mặt khác, tận dụng được tốt hơn những cơ sở vật chất: cửa hàng, kho tàng, phương tiện vận chuyển, tiết kiệm lao động xã hội, tăng hiệu quả kinh doanh. 3.2 Tiết kiệm chi phí sử dụng hợp lý, giảm chi phí kinh doanh để tăng tích luỹ vốn. - Giảm chi phí mua hàng: chi phí mua hàng được tính bằng tích số của khối lượng mua và đơn giá mua một đơn vị. Mục đích mua vào là để bán ra nên chỉ có thể giảm đơn giá mua tính trên một đơn vị sản phẩm thông qua nghiên cứu tình hình cung ứng trên thị trường để lựa chọn nguồn hàng ổn định, chất lượng tốt và giá cả hợp lý. - Giảm chi phí vận tải: chi phí vận tải (chi phí lưu thông) là chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh có thể làm tăng chi phí đầu vào (vận chuyển hàng hóa từ nguồn hàng) và tăng chi phí đầu ra (vận chuyển đến người tiêu dùng) vì vậy cần: tính toán sự vận động hàng hóa hợp lý từ nguồn hàng đến nơi tiêu dùng; lựa chọn tuyến đường, phương thức vận chuyển phù hợp, tổ chức tốt công tác bốc dỡ hai đầu; sử dụng phương thức vận chuyển tiên tiến. - Giảm chi phí bảo quản, hao hụt hàng hóa trong kinh doanh thông qua việc áp dụng phương tiện, thiết bị bảo quản tiên tiến, kiểm tra số lượng và chất lượng hàng nhập xuất để hạn chế hao hụt, mất mát, không ngừng hoàn thiện các định mức hao hụt, nâng cao trình độ nghiệp vụ kỹ thuật bảo quản của cán bộ trong kho; thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất trong bảo quản sử dụng hàng hóa, tài sản của doanh nghiệp. - Giảm chi phí quản lý thông qua tinh giản bộ máy quản lý, sử dụng phương tiẹn kỹ thuật trong quản lý để nâng cao năng suất và chất lượng công tác; giảm bớt các thủ tục quản lý hành chính rườm rà không thiết thực nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh. - Giảm chi phí bán hàng thông qua lựa chọn kênh phân phối phù hợp; sử dụng phương thức bán hàng văn minh hiện đại nâng cao doanh số bán; lựa chọn các hình thức quảng cáo, khuyến mại lôi kéo khách hàng; đào tạo đội ngũ nhân viên bán hàng. - Bảo hiểm “đúng” cho hàng hóa, tài sản kinh doanh: lựa chọn điều kiện bảo hiểm phù hợp với từng loại hàng hóa, tài sản; lựa chọn phương thức bảo hiểm và xác định giá trị bảo hiểm để nếu xảy ra tổn thất thì được bồi thường, đồng thời tiết kiệm chi phí bảo hiểm. 3.3. Tăng cường công tác quản lý tài chính - Hạch toán theo dõi đầy đủ, chính xác, kịp thời tình hình thu, chi của doanh nghiệp. - Chấp nhận việc thanh toán để giảm chi phí giảm lãi vay ngân hàng. - Quản lý chặt chẽ vốn, chống tham ô, lãng phí và giảm những thiệt hại do phạt hợp đồng, vay, trả của doanh nghiệp. 3.4. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ loại hình đầu tư trực tiếp với đầu tư gián tiếp, khai thác thế mạnh của mỗi hình thức để bổ sung cho nhau, thông qua đầu tư gián tiếp mở rộng đầu tư trực tiếp. Đảm bảo nguồn vốn trong nước đủ để hấp thu vốn đầu tư nước ngoài. Bởi lẽ, kinh nghiệm cho thấy, muốn hấp thu vốn đầu tư nước ngoài có hiệu quả đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư trong nước thích hợp. Tỷ lệ này ở Trung Quốc là 5/1, ở một số nước là 3/1. ở nước ta, theo một số chuyên gia tỷ lệ này có thể là 2/1. Cải tiến hơn nữa môi trường đầu tư tại Việt Nam nhằm làm cho tính hấp dẫn của nó không thua kém các quốc gia khác trong khu vực. Cải thiện thủ tục hành chính quản lý đồng bộ và thống nhất các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, khắc phục tình trạng thủ tục phiền hà, chồng chéo. Phát triển thị trường vốn, đa dạng hóa các hình thức vay vốn thông qua bán trái phiếu chính phủ và cổ phần của các công ty ra nước ngoài. Bởi lẽ, sự yếu kém hoặc thiếu vắng của thị trường này là trở ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài, họ sẽ thiếu những thông tin cần thiết để quyết định mua bán và chuyển dịch vốn, thiếu kênh nối liền với thị trường quốc tế. 3.4. Nâng cao sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh thương mại. Các chủ trương chính sách của nhà nước có phù hợp giúp cho hoạt động kinh doanh và việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Nhà nước phải có chính sách thuế khóa phù hợp; áp dụng mức thuế suất cơ động, hợp lý đối với từng loại hình doanh nghiệp. Đặc biệt khi áp dụng luật thuế giá trị gia tăng vào các doanh nghiệp, cần phải có những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho các doanh nghiệp hiểu rõ lợi ích của việc thực hiện thuế mới. Tránh tình trạng liên tục thay đổi biểu thuế, tính thêm thuế suất thường xuyên ảnh hưởng đến kế hoạch cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao năng lực hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, tạo lập một chính sách tiền tệ tích cực, năng động và có hiệu quả luôn hướng đến mở rộng mọi nguồn vốn đầu tư cho đất nước, kiểm soát được mọi nguồn vốn đầu tư từ trong nước và ngoài nước. Tiếp đó, cần thực hiện “chứng khoán tiền tệ” (tạo lập các công cụ tài chính, giấy tờ có giá sinh lợi), thúc đẩy gia tăng chu chuyển vốn của nền kinh tế (trong đó có vốn trung và dài hạn), vừa kiểm soát được tiền tệ, không gây hiệu ứng lạm phát. Về chính sách tiền tệ, cần khuyến khích tiết kiệm, tránh tiêu dùng lãng phí, tập trung vốn nhàn rỗi đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tạo lập tích luỹ trong nước thông qua thực hiện cơ chế thực “dương” linh hoạt, có lợi cho các nhà đầu tư và các DNTM, thúc đẩy các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng cạnh tranh sôi động, tự chủ, năng động trong kinh doanh. Về dự trữ bắt buộc, cần nới lỏng, duy trì tỷ giá hối đoái, ổn định hợp lý, vừa khuyến khích xuất khẩu, vừa hỗ trợ sản xuất trong nước và nước ngoài để nâng sức cạnh tranh thu hút nhiều vốn từ thị trường quốc tế vào Việt Nam.  Kết luận Nhu cầu về vốn luôn gắn liền với vấn đề sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn huy động. Huy động đủ vốn là tiền đề có thể sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn này; ngược lại, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn lại có tác động trở lại làm tăng khả năng tạo thêm vốn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp thương mại Việt Nam đều trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tình hình huy động và sử dụng vốn của các doanh nghiệp thương mại đang gặp rất nhiều khó khăn. Vốn lưu động đã thiếu lại sử dụng kém hiệu quả, vốn cố định vừa thiếu khi cần phải xây dựng những cửa hàng, bến bãi, phương tiện chuyên chở mới, phù hợp với nền kinh tế hiện đại lại còn lãng phí ở những thị trường danh dở, quá lớn về quy mô mà vẫn phải tính khấu hao tài sản, tính thuế nộp ngân sách; đầu tư tài chính- một loại vốn mới trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp chưa phát huy được tác dụng, thậm chí còn rơi vào tình trạng thua lỗ, nợ nần chồng chất, ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Vì vậy, cần phải có biện pháp nhằm huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại một cách đồng bộ và hợp lý cả tầm vĩ mô và vi mô. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế thương mại (PGS.PTS Nguyễn Duy Bột-PGS.PTS Đặng Đình Đào) nhà xuất bản giáo dục 1997. 2. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại. PGS.PTS Hoàng Minh Đường- PTS Nguyễn Thừa Lộc. Nhà xuất bản giáo dục-1998. 3. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại (Dùng cho cao học). TS Nguyễn Xuân Quang- TS Nguyễn Thừa Lộc. Nhà xuất bản thống kê-1999. 4. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ (PTS Nguyễn Ngọc Hùng- Trường ĐH Kinh tế Thành Phố HCM). Nhà xuất bản Thống Kê 1998. * Các tạp chí - Phát triển KT số 84 năm 1997, số 97 năm 1998. - Ngân hàng só 12 năm 1996, số 7 năm 1997. - Kinh tế và dự báo số 9 năm 1997. - Tạp chí Cộng Sản số 2 năm 1997. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34637.doc
Tài liệu liên quan