Đề tài Ảnh hưởng của tình trạng đô la hoá đối với nền kinh tế Việt Nam, nguyên nhân và giải pháp khắc phục

Mặt tiêu cực do quá trình đô la hoá ở nước ta cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực đến bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế bị đô la hoá như làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tài khoá , chính sách tiền tệ , chính sách về lãi suất , chính sách tỷ giá, mục tiêu quản lý ngoại hối . đặc biệt có nhiều ý kiến cho rằng những biến động của lãi suất quốc tế trong những năm vừa qua là nguyên nhân gây ra tình trạng giảm phát, thiếu tiền đồng. Tác giả Nguyễn Ngọc Anh viết ( trong bài : đô la hoá những tác động chưa được đo lường) – báo diễn đàn doanh nghiệp :”trong năm 2000, tỉ trọng USD trên bảng tổng kết tài sản của các ngân hàng thương mại tăng vọt, đã lý giải nguyên nhân giảm phát là do hiện tượng đô la hoá”, một đoạn khác tác giả viết:”việc đồng USD ngày càng bành trướng, chèn ép đồng VND trong lưu thông , người dân có xu hướng đầu tư vào USD quá nhiều làm giảm sức mua của xã hội, phải chăng đô la hoá là nguyên nhân của hiện tượng thiểu phát”. Song, nói gì thì nói chúng ta lại khẳng định một điều rằng đô la hoá nền kinh tế nước ta không mấy trầm trọng như một số người tưởng , vì rõ ràng là đô la Mỹ được sử dụng trong thanh toán ,trong giao dịch mua xe máy của Trung quốc, của Nhật Bản hay lắp ráp tại Việt Nam , tại các đại lý , cửa hàng , hầu hết bằng đồng Việt Nam. Thanh toán mua bán đất đai nhà ở , cũng hầu hết bằng đồng Việt Nam, tiếp đến bằng vàng.Do đó, có thể thấy tài sản của người dân bằng dô la Mỹ chủ yếu dưới dạng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng. Nên, nhà nước , trực tiếp là hệ thống ngân hàng quản lý được số ngoại tệ này, khôngđể trôi nổi trong xã hội.

doc42 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1301 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của tình trạng đô la hoá đối với nền kinh tế Việt Nam, nguyên nhân và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iao dịch vãng lai và giao dịch tài khoản vốn phụ thuộc vào quốc gia có đồng đô la . Đô la hoá cũng bao hàm nhiều tác động tiêu cực: Trong một nền kinh tế bị đô la hoá (chính thức hay không chính thức) thì việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ sẽ không thể độc lập . - Đối với chính sách tài khoá: + Đô la hoá làm yếu kém hoat động và hiệu quả của chính sách tài khoá: Nó hạ thấp doanh thu từ phát hành tiền và làm trầm trọng hơn tác động lạm phát tới việc tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua hệ thống ngân hàng (ví du như ở Argentina, những năm sau khi tiến hành đô la hoá ,doanh thu từ phát hành tiền giảm 0,3% GDP) .Đô la hoá cũng cho phép một bộ phận nhất định các hoạt đông kinh tế chốn thuế .Đô la hoá cũng làm yếu kém hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước xét về cả khả năng của nhà nước tạo lợi nhuận cũng như đóng góp cho ngân sách. + Chi phí lớn trong việc thu hồi nội tệ và đưa ngoại tệ vào lưu thông : Các nước thực hiện đô la hoá chính thức cần phải có lượng ngoại tệ đủ để thay thế số nội tệ đang lưu thông . Nghiên cứu cuả Fisher năm1982 cho thấy chi phí trung bình đối với các nước tiến hành đô la hoá chính thức vào nhưngx năm 1970 khoảng 4-5% GDP. - Đối với chính sách tiền tệ : + Đô la hoá làm giảm hiệu quả kiểm soát tiền tệ . Đô la hoá không chính thức có thể khiến cho cầu về nội tệ không ổn định . Giả sử một nguyên nhân nào đó tác động đến tâm lý khiến mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể lamf cho dồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát . Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ , những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (chính là hoạt động đầu cơ tỷ giá) . Những thay đổi này sẽ gặp khó khăn cho NHTƯ trong việc đặt mục tiêu cung ứng tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng . Cụ thể là , trong điều kiện đô la hoá sẽ rất khó khăn cho việc dự báo tổng phương tiện thanh toán . Qua đó , việc quyết định tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời . Những cố gắng của NHTƯ trong việc khuyến khích(kìm hãm) tổng cầu thông qua tăng (giảm) tín dụng cũng sẽ ít hiệu quả,do sự thay đổi về lãi suất nước ngoài sẽ trực tiếp tác động đến các quyết định phân bổ tài sản cuả những người giữ USD . Nói cách khác những thay đổi lãi suất nước ngoài sẽ tác động đến tổng cầu nội địa vì khi lãi suất nước ngoài tăng (giảm) người giữ đô la sẽ có xu hướng thu hẹp (mở rộng ) tiêu dùng và đầu tư . Như vậy việc thi hành chính sách lãi suất thấp trong trường hợp kinh tế suy thái không nhất thiết khuyến khích đầu tư mà có thể làm nảy sinh tâm lý chuyển đổi sang USD nhằm bảo tồn gía trị . Đặc biệt đối với những nước đô la hoá chính thức thì chính sách tiền tệvà chính sách lãi suất của đồng tiền lúc này sẽ được quyết định ở Mỹ , trong khi một nước đang phát triển bị đô la hoá chính thức với một nước phát triển như Mỹ lại không có những chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau . Do đó nếu có xảy ra một quá trình điều chỉnh cho phù hợp thì quá trình này cũng phải kéo dài rất nhiều năm . Sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau. Cuối cùng, với doanh thu thuế lạm phát thấp hơn và những tác động bất lợi của đô la hoá đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước khiến cho chính sách tiền tệ, ở một mức độ nào đó phải cung cấp những nhu cầu tài chính lớn hơn cần thiết cho khu vực nhà nước. + Đô la hóa cũng làm giảm hiệu lực của chính sách tỷ giá: Đô la hoá tác động đến cơ chế truỷền dẫn của tỷ giá hối đoái . Tác động khuyếch đại của phá giá tiền tệ sẽ trở nên yếu kém do phá giá tiền tệ chỉ tác động đến một bộ phận nhỏ hơn tài sản có tính thanh khoản. Sự yếu kém của chính sách tỷ giá xuất hiện bất kể có tồn tại hay không chênh lệch trên thị trường phi chính thức so với thị trường chính thức. Bên cạnh đó, nếu mặt bằng giá cả trong nước tăng nhanh hơn ở Mỹ thì hệ quả đồng đô la sẽ tăng giá trị thực, khả năng cạnh tranh so với Mỹ (và các nước còn lại trên thế giới giảm sút). Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế thực hiện phá giá đồng tiền thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái. Điều này đã xảy ra trong năm 1999 , khi Brazin thực hiện phá giá mạnh đồng Real và hệ quả là hàng xuất khẩu của Achentina sang Brazin đã giảm đáng kể và hàng hoá của Brazin lại có khả năng cạnh tranh hơn một cách rõ rệt tại Achentina. Rõ ràng lợi thế của việc tiếp nhận đồng đô la là có giá trị ổn định chỉ thực có nếu như Mỹ là đối tác thương mại quan trọng nhất . Chừng nào không có được điều kiện này thì luôn luôn xuất hiện nguy cơ sự lên giá của đồng đô la so với đồng EURO, đồng JPYvà các đồng tiền khác sẽ làm giảm sút khả năng cạnh tranh của xuất khẩu trong nước. +Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi NHTƯ và chức năng của nó là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Ví dụ, mặc dù hiện nay các ngân hàng Việt Nam chỉ có vốn tự có thấp , song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của nhà nước đối với các khoản tiền gửi này. Điều này có thể làm được với VND nhưng không thể áp dụng được với USD. Khu vực ngân hàng trở nên bất ổn hơn với những trường hợp NHTM bị phá sản và đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của NHTƯ bị mất. Qua phân tích những lý luận chung về đô la hoá và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế chúng ta đã có một cái nhìn khá tổng quát về hiện tượng đô la hoá và những nguồn gốc gây nên hiện tượng này. Vậy đô la hoá ở Việt Nam do đâu, mức độ của nó như thế nào? Chúng ta sẽ làm sáng tỏ câu trả lời này ở chương 2. Chương 2: THựC TRạNG ĐÔ LA HóA ở VIệT NAM 1. Đôi nét khái quát về quá trình đô la hoá ở Việt Nam từ những năm 80 đến nay: Trên đây là những lý luận chung nhất về đô la hoá nền kinh tế , bây giờ chúng ta sẽ vận dụng những lý luận chung đó để đối chiếu vào thực tiễn ở Việt Nam xem tình trạng này ở Việt Nam là do đâu, tác động như thế nào đến nền kinh tế, đến việc đưa ra những giải pháp khắc phục kịp thời. Vào những năm cuối thập kỷ 80, lạm phát tiền tệ ở Việt Nam lên cao tột đỉnh đến bốn chữ số (lạm phát phi mã như năm 1986 lạm phát 774,7%; 1987 là 231,8%; 1988 là 293,8%). Việc thực hiện cải cách tiền lương bị thất bại (năm 1985 sự sụp đổ của một số tổ chức tín dụng, chính sách đa tỷ giá, đồng Việt Nam (VND) bị mất giá nặng (e) đã tác động không nhỏ tới tâm lý của công chúng (z) thì tình trạng đô la hoá tăng mạnh vào thời gian này được thể hiện qua phương trình: I (VND) = I (USD) + z + e Công chúng đô xổ nắm giữ vàng, đô la Mỹ (USD) hoặc bất động sản... hầu hết đều lấy USD làm chuẩn mực để cất giữ và thanh toán trong nước. Hiện tượng đô la hoá xuất hiện ở mức cao tới 41% tổng tiền gửi trong hệ thống Ngân hàng. Đến đầu những năm thập kỷ 90, Ngân hàng Trung Ương đã sử dụng chính sách tiền tệ mới, lạm phát tiền tệ hạ thấp xuống đến một chữ số, đặc biệt đã áp dụng chính sách lãi suất thực dương đã hấp dẫn hướng mọi người tích luỹ VND. Thực tế đã có nhiều người rút tiền gửi USD chuyển qua gửi vàòng bằng VND được hưởng lãi suất cao hơn, dẫn đến tỷ lệ tiền gửi USD trong tổng tiền gửi của hệ thống Ngân hàng lúc đó chỉ còn 18% (năm 1996). Bước đầu coi như đã thiết lập VND thành đồng tiền ổn định giá trị cả vể đối nội và đối ngoại. Thế nhưng từ bốn năm qua, mức độ đô la hoá lại gia tăng với tỷ lệ trên 40% trong tổng tiền gửi của hệ thống Ngân hàng là khá cao. ở đây chưa lượng tính được số USD trôi nổi nằm ngoài hệ thống Ngân hàng. Nguyên nhân đô la hoá cao lần này không do lạm phát tiền tệ gây nên mà do chủ yếu từ cơ chế chính sách của ta kích thích mạnh, đến mức các Ngân hàng Thương mại cạnh tranh sôi động nên đã có lúc đẩy lãi suất tiền gửi USD lên rất cao, USD cháy vào Ngân hàng thương mại, lấn át VND gây hiện tượng thiếu VND để hoạt động. Số ngoại tệ huy động được đã chuyển thẳng vào các Ngân hàng nước ngoài để hưởng chênh lệch lãi suất lớn. Mới đây, Ngân hàng Trung Ương đã thả nỗi lãi suất về ngoại tệ càng tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại thoải mái trong việc định lãi suất huy động tiền giử USD. Đồng USD được đăng quang gây thêm tâm lý cất giữ và thanh toán còn có cả kỳ vọng sẽ được lợi nhiều về chính sách phá giá VND dài hạn. Lại thêm việc khuyến khích các doanh nghiệp trong nước vay ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại. Nguồn ngoại tệ này do các Ngân hàng thương mại huy động được đang dư thừa gửi ở nước ngoài. Xét về lợi ích trước mắt, thì việc này thấy có lợi nhưng nhìn vào tầm quản lý vĩ mô thì không ổn. Việc Ngân hàng chấp nhận tiền gửi bằng ngoại tệ và cấp tín dụng ngoại tệ ở trong nước là đã hợp pháp hoá thừa nhận đồng ngoại tệ có quyền phát huy đầy đủ các chức năng tiền tệ khác nào đó là một sự hoàn thiện tình trạng đô la hoá. Tất yếu đồng USD vốn đã mạnh có chỉ số độ tin cậy (z) cao là lợi thế lấn át đồng tiền yếu VND phải diễn ra. Tuy nhiên cho đến nay khi mà Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế vĩ mô, đã thành công trong việc ổn định giá trị đồng bản tệ (VND) cả về đối nội và đối ngoại, thế nhưng tình trạng đô la hoá vẫn tiếp tục tăng? Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta nên xem xét nền kinh tế nước ta hiện tượng đô la hoá tiền gửi hay tiền vay hoặc cả hai. 2. Hình thức đô la hoá ở Việt Nam. 2.1.Đ ô la hóa tiền gửi. Đô la hóa diễn ra được đánh giá qua các chỉ tiêu tiền gửi bằng ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán , hoặc tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ so với tổng tiền gửi của hệ thống ngân hàng... Có thể nói, dư âm của lạm phát cao trong thời gian cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 vẫn còn đọng lại trong tâm trí dân cư nên những người sở hữu khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ không dại gì mà chuyển đổi sang tiết kiệm bằng VND, giá trị của đồng nội tệ giảm theo xu hướng thời gian khiến cho người tiết kiệm có khuynh hướng phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng cách lựa chọn hình thức tiết kiệm bằng ngoại tệ đặc biệt là đô la Mỹ. Thêm vào đó , lãi suất tiết kiệm USD tăng cao trong năm 2000 càng gia tăng mức độ đô la hoá tiền gửi trong hệ thống ngân hàng, tỷ lệ lợi tức trên 1 đồng ngoại tệ gửi tại ngân hàng lớn hơn nhiều so với 1 đồng nội tệ đã làm thay đổi việc lựa chọn tài sản tiết kiệm. Biểu 1: Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trong tổng vốn huy động của hệ thống ngân hàng Đơn vị:% 1994 1995 1996 1997 1998 1999 10/2000 1.Ngoại tệ 39,2 33,5 31,7 33,2 33,6 39,1 45,3 2.VND 60,8 66,5 68,3 66,8 66,4 60,9 54,7 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN các năm, và thời báo ngân hàng số 78, năm 2000 Nhận xét: Biểu số liệu trên cho thấy tình trạng đô la hoá có xu hướng tăng mạnh biểu hiện cụ thể là năm 1994 tỷ trọng tổng đô la trên tổng vốn huy động của hệ thống Ngân hàng là 39,2% đến giai đoạn 1995 - 1998 lại có xu hướng giảm sút khoảng từ 0,4 đến 1,8%. Năm 1999 mức độ đô la hoá lại có xu hướng tăng tương đương năm 1994 và thực sự bùng nổ trở lại năm 2000 với 45,3% tăng 2,2% so với năm 1999. Biểu 2: Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trên M2. Đơn vị % 12/1991 3/1995 30/9/2001 1.Ngoại tệ 41,15 19,65 33,63 2.VND 58,85 80,35 66,37 Tổng 100 100 100 Nhận xét: Tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ/M2 đạt mức cao nhất tháng 12/1999 biểu hiện tỷ trọng tổng đô la trên M2 là 41,15% rồi giảm dần vào tháng 3/1995 xuống còn 19,65% tương đương 21,5%. Sau đó có xu hướng tăng dần vào ngày 30/9/2001 là 33,63% tăng 13,98% so với năm 1995. - Đô la hoá không chỉ diễn ra ở khu vực tiền gửi tiết kiệm của dân cư , mà còn xuất hiện ở các tổ chức kinh tế xã hội . Tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội tăng mạnh không phải là do lãi suất huy động USD trong năm 2000 tăng cao,bởi lãi suất USD ngân hàng trả cho các tổ chức kinh tế gửi tại ngân hàng mình bị ràng buộc bởi trần lãi suất quy định của NHNN(theo quyết định số309/1999/QD-NHNN quy định chi tiết trần lãi suất tiền gửi USD của tổ chức kinh tế xã hội tại các ngân hàng với không kì hạn là 0,5%/1năm; kỳ hạn từ 6 tháng trở xuống là 2,5%/1năm ;và kỳ hạn trên 6 tháng không quá 3%/1năm). Nguyên nhân chính làm tăng tiền gửi của các tổ chức kinh tế là do các công ty có nguồn ngoại tệ chưa giải ngân cho các dự án tạm thời gửi tại ngân hàng hay ngoại tệ thu được từ xuất khẩu tăng trong năm 2000 nhưng công ty lại không bán mà giữ lại do tỷ giá VND/USD có xu hướng tăng cao . Như vậy lãi suất ngoại tệ doanh nghiệp thực sự được hưởng sau khi điều chỉnh sự biến đổi tỷ giá sẽ hấp dẫn hơn gửi bằngVND.Còn trong trường hợp thiếu vốnVND,doanh nghiệp sẽ vay của nhân hàng với lãi suất thật hấp dẫn vì cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một khốc liệt hơn . Đứng trước tình trạng đô la hoá chưa có dấu hiệu thuyên giảm đáng kể NHNN đã can thiệp bằng một số công cụ . Sự can thiệp này một phần đã ngăn chặn làn sóng tăng lãi suất huy động tiết kiệm USD của các NHTM. Một yếu tố khách quan bên ngoài cũng làm giảm bớt tình hình là việc lãi suất USD trên thị trường quốc tế bắt đầu giảm từ cuối tháng 11/2000 do dự báo nền kinh tế Mỹ suy yếu. Công cụ can thiệp đầu tiên của NHNN là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc(GTDB) bằng ngoại tệ từ 5% lên 8% cho kỳ dự trữ tháng 11/2000 . Tuy nhiên sự can thiệp lần này chỉ tác động đến một số ngân hàng và mức lãi suất giảm cũng không đáng kể (tại thời điểm tháng 11/2000 các NHTM vẫn duy trì mức lãi suất huy động tiết kiệm cao , cụ thể cho kỳ hạn 6 tháng ,12 tháng của NHĐT là 5,3%/năm và5,7%/năm; NH á châu:5,4%/năm và5,8%/năm”duy chỉ có NHNT phản ứng nhiều nhất đối với sự can thiệp của NHNN”. Đến thời diểm cuối tháng3/2000, mức huy động các kỳ hạn trên của hai ngân hàng tương ứng là 3,8%/năm và 4,25%/năm; 3,85%/năm và 4,25%/ năm). Can thiệp lần thứ hai vào tháng 12/2000 tăng từ 8% lên tới 12% , đã thực sự gây cú sốc cho các NHTM, kết quả, đồng loạt các ngân hàng hạ lãi suất huy động tiết kiệm USD. Tuy nhiên, sự can thiệp lần thứ hai thực sự mới hữu hiệu khi mà cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất chủ đạo xuống 6% vào ngày 3/1/2001, đến 31/1/2001 giảm tiếp 0,5%. Tại phiên họp của uỷ ban tiền tệ ngày 20/3/2001, Fed cắt giảm tiếp lãi suất chủ đạo xuống mức 5%. Can thiệp lần thứ ba vào tháng 4/2001, tăng tỉ lệ DTBB từ 12%lên 15%. Ngày 18/4và 15/5 vừa qua , Fed đã 2 lần nữa giảm mức lãi suất chủ đạo (mỗi lần 0,5%)xuống mức 4%. Như vậy, hàng loạt chuỗi biến cố xảy ra tác động tới hành vi điều chỉnh lãi suất của các NHTM. Đến thời điểm cuối quý I/2001, lãi suất huy động tiết kiệm bằng USD chỉ ở mức 4,15-4,25%/năm. Kết hợp với biện pháp tăng tỉ lệ DTBB nhằm điều chỉnh lãi xuất huy động tiết kiệm USD của các ngân hàng thương mại, ngày 28/3/2001, NHNN đã giáng một đòn mạnh vào các doanh nghiệp thiếu vốn quay vòng nhưng lại không muốn bán ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu hoặc có ý đồ đầu cơ ngoại tệ. Theo quyết định số 238/2001/QD-NHNN, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của pháp nhân tại ngân hàng là 0,1%/năm, kỳ hạn đến 6 tháng là 1,5%/năm , kỳ hạn trên 6 tháng là 2%/ năm . Với các mức lãi suất này, kết hợp với tỷ giá tương đối ổn định trong thời gian đầu 2001 sẽ khuyến khích các doanh nghiệp kết hối ngoại tệ nhiều hơn tại ngân hàng, kết quả, khan hiếm ngoại tệ giảm theo. Một vấn đề khác có thể nhận thấy rằng trong môi trường tỷ giá tương đối ổn định, lãi suất VND tương đối cao, việc hạ lãi suất tiền gửi bằng USD của tổ chức kinh tế –xã hội tại NHTM nhằm khuyến khích các doanh nghiệp giải toả nguồn ngoại tệ đang găm giữ. Trên cơ sở sự ngang bằng lãi suất, một điều dễ nhận thấy lãi suất VNDvà USD đã được điều chỉnh cân bằng, đặc biệt sau khi NHNN điều chỉnh lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân tại các tổ chức tín dụng thì phần lợi nghiêng về VND. Cụ thể , với tỷ giá VND/USD chỉ tăng 0,225%trong quý I/2001, thì chênh giữa lãi suất VND so với USD sau khi có điều chỉnh tỷ giá là + 0,47%. Gỉa sử tỷ giá của quý II/2001 tăng tương đương quý I/2001 , lãi suất tiền gửiVND không biến động , thì chênh lệch được nới rộng tới + 0,72%(giả sử , khi ngân hàng huy động tiền gửi của TCKT cho kỳ hạn đến 6 tháng bằng VND ở mức 0,45%/ tháng , dựa vào cách tínhlãi suất đơn và trên cơ sở phương trình lãi suất ngang bằng :i(vnd)=i(usd)+z , chúng ta nhận được kết quả sau :0,45%/tháng*3 tháng –1/4*2,5%/năm – 0,255%= 0,47%. Theo quy định mới về lãi suất tiền gửi của pháp nhân bằng USD thì chênh lệch này được nới rộng ra là :0,45%/tháng*3 tháng –1/4*1,5%/năm – 0,255%= 0,72%).Như vậy, rõ ràng các doanh nghiệp có lợi hơn khi giữ bằng VND. Với chiều hướng này , các doanh nghiệp sẽ kết hối ngoại tệ nhiều hơn. Cũng xem trên mức ngang giá giữa lãi suất tiết kiệm VND và USD sau khi điều chỉnh tỉ giá thì thấy rằng công chúng đổ xô chuyển đổi tiết kiệm sang VND trong năm 2000 là quyết định đúng đắn, bởi tỷ lệ lợi tức nếu đầu tư bằng USD cao hơn nhiều so với bằng VND. Nhưng trong năm 2001 , hiện tượng này sẽ ngừng lại bởi NHNN sẵn sàng can thiệp sâu hơn nếu xu hướng đô la hoá lại tăng cao. Đánh giá viếc ngân hàng trung ương sử dụng hai công cụ can thiệp , NHNN đã ngăn chặn được làn sóng công chúng chuyển đổi hình thức tiết kiệm cũng như giảm bớt hiện tượng găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp có nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu. Mặt khác, các giải pháp này không tạo ra tác động ngược đối với việc khuýến khích lượng kiều hối chuyển về nước, nhưng lại có lợi là ngăn chặn được thị trường ngoại tệ ngầm có cơ hội phát triển và gây lũng đoạn... Tuy nhiên, tỷ giá ổn định; lãi suất tiết kiệm bằng USD thấp , lạm phát ở mức thấp cũng vẫn chưa làm chuyển biến thực sự hành vi lựa chọn tài sản bằng ngoại tệ của công chúng trong thời gian qua . 2.2. Đô la hoá cho vay: Trong hệ thống ngân hàng về cơ bản ,các NHTMcó thể sử dụng khối lượng USD huy động được để :cấp tín dụng trong nước bằng USD ; bán USD lấy nội tệ, gửi USD tại các ngân hàng nước ngoài. Khi tỷ lệ USD trong tổng nguồn vốn (bên nợ ) của ngân hàng tăng lên thì thông thường bên sử dụng vốn (bên có ) của các ngân hàng, tỷ lệ USD cũng tăng lên ; do vậy , cũng có thể nhận thấy hiện tượng đô la hóa xảy ra ở bên tài sản Có của hệ thống ngân hàng. Có một thực tế là ở các quốc gia mà người dân được gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ và ngân hàng được cung ứng tín dụng bằng số ngoại tệ huy động được thì hiện tượng đô la hoá càng bị khuyếch đại. Vì song song với đồng bản tệ , hệ thống ngân hàng đã thực hiện việc mở rộng khối lượng ngoại tệ có trong nền kinh tế thông qua khả năng tạo tiền của mình. Xu hướng chung của nền kinh tế đô la hóa, các ngân hàng cho vay bằng USD nhiều hơn nếu rủi ro phá giá cao hơn ; ngược lại tín dụng bằng nội tệ tăng cao. Trên cơ sở lý thuyết là thế, vậy trường hợp đô la hoá ở Việt Nam có nằm ngoài phạm vi này hay không? Biểu 3: Cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng Đơn vị:% 1994 1995 1996 1997 1998 1999 10/2000 1.Ngoại tệ 38,6 38,7 36,6 31,2 25,2 22,6 18,6 2. VND 61,4 61,3 63,4 68,8 74,8 77,4 81,4 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 1+2/2000 Nhận xét: Nhìn vào biểu 3 ta thấy rằng cho vay ngoại tệ của hệ thống Ngân hàng năm 1994 là 38,6%, rồi giảm dần từ năm 1995 - 2000 cụ thể năm 1996 giảm 2,1%; năm 1997 giảm 5,4%; năm 1998 giảm 6%; năm 1999 giảm 2,8% đến năm 2000 chỉ chiếm chưa đầy 20% tổng dư nợ đối với nền kinh tế của hệ thống Ngân hàng. có thể nới đô la hoá các khoản vay ở mức trung bình. Tại sao các doanh nghiệp lại không mặn mà với việc sử dụng vốn ngoại tệ? Như trên ta đã phân tích , doanh nghiệp vay bằng ngoại tệ vừa phải chịu lãi suất USD khá cao so với VND vừa phải gánh thêm phần giảm giá của đồng nội tệ. Nếu trong năm 2000 , khách hàng vay ngoại tệ với lãi suất cực kỳ ưu đãi mức 5,8%-6,6%/năm thì lãi suất sau điều chỉnh mức độ giảm giá của VND so với USD đã lên đến 9,2-9,4%/năm . Trong khi đó, vay bằng VND các doanh nghiệp chỉ phải trả ở mức 8-8,5%/năm. Hơn nữa, doanh nghiệp vay ngoại tệ chủ yếu cho mục đích nhập khẩu, nguồn thu lại chủ yếu bằng VND.Trên cơ sở đã phân tích , doanh nghiệp thấy vay bằng VND sau đó chuyển sang mua ngoại tệ nhập khẩu sẽ có lợi hơn. Ngoại trừ doanh nghiệp có nguồn ngoại tệ để cân đối cho khoản vay bằng ngoại tệ. Tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng tiền gửi tăng lên không phù hợp với tỷ trọng gia tăng của tín dụng bằng ngoại tệ trong tổng tín dụng ngân hàng,do đó , chênh lệch giữa lượng vốn huyđộng được và cho vay khách hàng được nới rộng ra.Đáng ra thì một lượng lớn đô la Mỹ được gửi trong hệ thống ngân hàng, tạo thành nguồn vốn ngoại tệ lớn để cho vay và đầu tư cho nền kinh tế , hạn chế việc phải đi vay nước ngoài.Song, do trong điều kiện cho vay gặp khó khăn ,để sử dụng phần vốn ngoại tệ dư thừa, mà lãi suất trên thị trường quố tế lại tăng cao, các ngân hàng chỉ còn cách lựa chọn danh mục vốn đầu tư là mua trái phiếu chính phủ của các nước phát hành bằng ngoại tệ hay gửi trên thị trường tiền tệ quốc tế.Đây là nguyên nhân giải thích tại sao tiền gửi tại nước ngoài cảu các ngân hàng tăng lên. Trong chuyện này , rõ ràng là người dân cũng được hưởng lợi từ lãi suất hơn là cất trữ trong nhà,còn các ngân hàng cũng có thu nhập về nghiệp vụ tiền gửi . Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ. Theo IMF, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam hiện nay là 3.297 triệu USD, tương đương với 9,7 tuần nhập khẩu ,có thêm nguồn ngoại tệ khác là gần 2,5 tỷ USD của các ngân hàng ở nước ngoài. Còn theo số liệu công bố của ADB, thì năm 2000 dự trữ ngoại tệ chính thức củaViệt Nam là 3.9 tỷ USD, tương đương với 13,9 tuần nhập khẩu(năm 1999 là 2,95 tỷ USD ,tương đương 12,5 tuần nhập khẩu)ADB cũng dự đoán,đến hết năm 2001 , con số này của Việt Nam sẽ tăng lên là 4,66 tỷ USD và 14 tuần nhập khẩu. Qua phân tích ta phải thấy rằng :đó chỉ là những cái lợi trước mắt, bởi vì trong nền kinh tế của ta khi mà còn phải vay ngoại tệ để phát triển kinh tế-xã hội thì một nghịch lý lại xảy ra là bơm ngoại tệ ra nước ngoài , nhưng nhìn nhận vấn đề thì ta thấy một điều , sự đào hối không phải là do các ngân hàng muốn đầu tư vào trong nước mà chính khách hàng từ chối vay bằng ngoại tệ. Trong giai đoạn 1994-1997 cho vay bằng ngoại tệ vượt khả năng huy động vốn các ngân hàng, do đó nguồn vốn nước ngoài sẽ bù đắp phần thiếu hụt này. Giai đoạn 1998-2000 có xu hướng ngược lại, đầu tư tín dụng cho nền kinh tế chỉ chiếm một phần vốn huy động. Giải toả phần vốn huy động ngoại tệ dư thừa, các ngân hàng kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế hay đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Biểu 4: Tỷ trọng sử dụng vốn so với huy động ngoại tệ của hệ thống ngân hàng Đơn vị:% Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tỷtrọng 135 148 141 104 73 47 33 Nhìn vào bảng 4 nhận thấy tỷ trọng sử dụng vốn so với huy động ngoại tệ của hệ thống Ngân hàng có xu hướng tăng từ năm 1994 (135%) đến 1996 (141%) tăng 6%. Giai đoạn từ 1997 (104%) đến 2000 (33%) có xu hướng giảm mạnh. Những nguyên nhân cơ bản nhất gây ra hiện tượng đô la hoá: + Nguyên nhân sâu xa: là do tính ổn định của đồng tiền chưa cao, năng lực kinh tế Việt Nam chưa phát triển , hệ thống tài chính yếu kém và rủi ro tài chính cao. + Nguyên nhân trực tiếp: * Biến động tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng trong những năm qua đặc biệt là năm 1999 và 2000 chịu ảnh hưởng của các tác động bên ngoài như sự mở rộng xu hướng toàn cầu hoá từ những năm 1990, sự tăng trưởng cao và ổn định nền kinh tế Mỹ đã làm cho đồng đô la Mỹ ngày càng có sức mạnh và có tính hấp dẫn hơn so với các đồng tiền khác, trong đó có cả đồng Việt Nam. Thêm vào đó, từ năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực châu á xảy ra đã có tác động nhất định làm giảm gía trị của đồng Việt Nam và ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế trong nước. * Tình trạng buôn lậu , nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá phát triển và quản lý lỏng lẻo. Tình trạng các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế ,các cửa hàng kinh doanh, cửa hiệu vàng bạc... bán hàng thu bằng ngoại tệ, còn tuỳ tiện , diễn ra phổ biến * Thu nhập của tầng lớp dân cư còn thấp , tâm lý tiết kiệm và để giành , lo xa cho cuộc sống tĩnh dưỡng tuổi già, lo nơi ăn chốn ở, lo cho con cái học hành còn lớn , nhất là thói quen cất giữ vàng trong thời bao cấp vẫn còn in đậm trong mọi người dân cho đến ngaỳ nay. Do đó, trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế hiện nay vàng giảm giá và không được ưa chuộng , cộng với những lo sợ về biến động tỷ giá, mức độ mất giá của đồng Việt Nam... nên người dân chỉ còn cách lựa chọn tối ưu là đô la Mỹ. * Thu nhập bằng đô la Mỹ trong các tầng lớp dân cư tăng lên và mở rộng. Đó là những người Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam, tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh doanh khách sạn mini, kinh doanh du lịch, tiền của người Việt Nam ở nước ngoài, người đi xuất khẩu lao động hay đi học tập,tiền kiều hối gưỉ về , tiền của người Việt Nam đi hội thảo, học tập và làm việc ngắn ngày ở nước ngoài mang về. Thực trạng này ở nước ta được thể hiện qua các con số thống kê đầy ý nghĩa sau: Hiện nay có tới hơn 2 triệu khách quốc tế vào Việt Nam mỗi năm (ước tính năm 2001), trên 2,5 triệu Việt kiều (theo uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài thì hiện đang có trên 3 triệu người Việt Nam ở các nước trên thế giới , mỗi năm chuyển về nước không dưới 2 tỷ USD) . Điều hiển nhiên là chỉ riêng con số kiều hối theo thống kê của hải quan, các công ty dịch vụ kiều hối và các ngân hàng được nêu dưới đây chắc chắn không thể là số lượng đầy đủ. Số liệu thống kê của NHNNcho hay, lượng kiều hối chuyển về nước các năm gần đây như sau: Đơn vị: triệu USD 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 35 136,6 140,9 249,4 284,9 468,9 400 950 1200 1757 Trong cơ cấu các nguồn kiều hối năm 2000 thì chuyển qua các ngân hàng là 950 triệu USD, chiếm 54,6% , chuyển qua các doanh nghiệp :165 triệu USD , chiếm 9,3%, chuyển qua bưu điện :32 triệu USD ,mang trực tiếp có khai báo cho hải quan:610 triệu USD, chiếm 34,7%. Hiện nay, trong cả nước có 62 ngân hàng và 43 tổ chức kinh tế làm dịch vụ kiều hối. * Đô la Mỹ lên giá so với đồng tiền Việt Nam , lãi suất tiền gửi đô la Mỹ tăng cao, còn lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam giảm thấp, trong nhiều tháng của năm 2000, lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam kỳ hạn 12 tháng là 7,2%/năm , còn lãi suất tiền gửi đô la Mỹ cùng kỳ hạn là 5,6-5,8%. Nhưng trong cả 12 tháng của năm 2000 ,đồng Việt Nam đã giảm giá tới gần 4%so với đồng đô la Mỹ . Như vậy, nếu như gửi USDvẫn có lợi hơn tới 3,4%/năm. * Người Việt Nam đi du lich nước ngoài gia tăng nhanh chóng trong hơn một năm qua . Các công ty du lịch đều niêm yết, thông báo, quảng cáo giá các tour du lịch bằng đô la Mỹ, do đó muốn đi du lịch phải có ngoại tệ , phải có tích trữ đô la Mỹ. Người Việt Nam đi xuất khẩu lao động nước ngoài phải đặt cọc một khoản bằng đô la Mỹ trong tài khoản ngân hàng, mà số lượng người này cũng tăng lên rất nhanh trong thời gian qua . Bên cạnh đó, người Việt Nam đi du lịch nước ngoài bằng các hình thức khác nhau, chủ yếu đi học tự túc cũng tăng gấp bội . Muốn được chấp nhận vào học các trường ở nước ngoài, người xin đi học phải chứng minh được năng lực tài chính của mình , thể hiện bằng số dư tiền gửi đô la Mỹ trong các ngân hàng ở Việt Nam. Tiếp đến, trong quá trình học , gia đình ở trong nước thường xuyên phải chuyển tiền cho con em mình học, bằng USD, thông qua các ngân hàng. Do đó, phải có số dư tiền gửi đô la Mỹ tại các ngân hàng để chuyển ra nước ngoài cho con em ăn học. * Cơ chế quản lý ngoại hối: Tình trạng đô la hoá nền kinh tế hiện nay còn dođô la Mỹ được sử dụng khá tự do. Mặc dù chính sách quản lý ngoại hối không cho phép đô la Mỹ được sử dụng ngoài hệ thống ngân hàng nhưng lại cho phép người dân được nhận kiều hối bằng ngoại tệ, được gửi ngoại tệ không kể nguồn gốc tại các ngân hàng và được rút cả gốc lẫn lãi bằng ngoại tệ, cụ thể : Quyết định số 08 NH/QĐ ngày 14/1/1991 cho phép các đối tượng có ngoại tệ tự do chuyển đổi không kể nguồn gốc đều có thể gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tại cac TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ . Thông tư số 02/2000/NHNN 7 ngày 24/2/2000 hướng dẫn thi hành quyết định số 170/1999/QĐ-TTG ngày19/8/1999 của thủ tướng Chính phủ về việc khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước thì người thụ hưởng có quyền nhận ngoại tệ hay bằng đồng Việt Nam, trong đó bãi bỏ thuế thu nhập cá nhân đánh trên kiều hối . Có thể nói rằng, chính sách này hoàn toàn phù hợp để thu hút ngoại tệ về cho đất nước .Từ năm 1997-1999, khi xuất khẩu không có khả năng tăng trưởng , cán cân thương mại thâm hụt nặng thì Việt Nam lại thu hút được lượng ngoại tệ vào nhiều qua con đường chuyển tiền cá nhân và kiều hối mà không phải mất chi phí. Qua đó, đã tạo khả năng cân bằng cán cân thanh toán, tạo nguồn vốn phát triển sản xuất –kinh doanh, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của một bộ phận trong dân cư trong xã hội. Kiều hối đã trở thành nguồn nội lực không thể không xem xét khi đánh giá sự tăng trưởng chung của nền kinh tế . Tuy nhiên , việc nhận kiều hối bằng ngoại tệ với một thị trường tài chính yếu kém như nước ta hiện nay cũng góp phần làm tăng tình trạng đô la hoá. Theo quyết định số 180/QĐ-TTG của thủ tướng Chính phủ về việc kết hối ngoại tệ của các tổ chức kinh tế có thu ngoại tệ từ 80%xuống còn 50% , tức là một doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ, trước đây quy định phảibán ngay tới 80% cho ngân hàng, thì nay chỉ phải bán 50%. Trước diễn biến về tỷ giá và thị trường , bán ngoại tệ đi thì dễ còn khi có nhu cầu nhập khẩu mua lại ngoại tệ của ngân hàng thì hết sức khó khăn, trong khi đó, tỷ giá thì tháng này một khác ,tháng sau đã khác rồi. Do đó, là một người giám đốc sẽ hết sức tỉnh táo khi anh ta chỉ bán ngoại tệ theo đúng tỷ lệ kết hối quy định, thậm chí còn chần chừ., trì hoãn việc bán ngay, mà để tồn tại số dư ngoại tệ trên tài khoản là điều dễ hiểu. Như trên đã phân tích tình trạng đôla hoá nền kinh tế Việt Nam được thể hiện trên cả 3 lĩnh vực nói trên, nhưng có tính chất khác nhau. Mặt lợi hay tác hại của việc đôla hoá đối với nền kinh tế phụ thuộc vào tác động của nó đối với nền kinh tế, đô la hoá xuất hiện từ hành vi lựa chọn tài sản bằng ngoại tệ hơn là VND vì công chúng muốn tự phòng ngừa rủi ro như sự bất ổn của giá cả, nền kinh tế suy thoái kéo dài,... hoặc do tỷ lệ lợi tức kiếm được cao hơn nếu lựa chọn tài sản bằng ngoại tệ thay bằng đồng nội tệ, thì mức độ đô la hoá không quá trầm trọng đối với nền kinh tế. Hơn nữa, toàn cầu hoá thị trường tài chính có thể kéo theo đô la hoá, đô la hóa xuất hiện trong nền kinh tế từ việc công chúng lựa chọn ngoại tệ như là một đơn vị tiền tệ trong thanh toán ,trao đôỉ – hình thức thay thế tiền tệ (đã đề cập ở trên) thì thực sự nguy hại đến nền kinh tế. Như vậy, đối chiếu với tình hình đô la hoá ở Việt Nam , một điều khẳng định mức đô la hoá diễn ra không quá trầm trọng mới chỉ dừng ở mức người dân lựa chọn tài sản tiết kiệm bằng ngoại tệ bởi nó có tỉ lệ lợi tức hấp dẫn và tự phòng ngừa sự biến động của tỷ giá, lạm phát. 4. Tác động của đô la hóa đối với nền kinh tế Việt Nam. ở nước ta trong năm 2002 một hiện tượng kinh tế đang gây được sự chú ý của nhiều nhà kinh tế đó là hiện tượng đồng đô la lên giá so với đồng VND. Tính chung 6 tháng đầu năm là 1,3% vậy tại sao lại có sự tăng giá ngược chiều như vậy. Sự tăng giá này tác động như thế nào cụ thể đến hoạt động xuất nhập khẩu và thị trường trong nước đây là mối quan tâm của nhiều người đặc biệt là các doanh nghiệp. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế đồng đô la giảm giá trên thị trường thế giới là do nền kinh tế Mỹ chưa phục hồi được tốc độ tăng trưởng hơn nữa là hàng loạt Công ty lớn của mỹ đã đỗ vỡ thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng và hơn nữa các chuyên gia kinh tế cho rằng chính nước Mỹ cũng muốn đồng đô la hoá yếu đi để tăng xuất khẩu. Mặt khác, vừa rồi đã có nhiều quốc gia đã đưa đồng đô la dự trữ để mua đồng UERO hoặc vàng để thay các nhà phân tích đô la lên giá so với đồng VND là do giá trị xuất khẩu 6 tháng đầu năm nước ta giảm 455 triệu đô la trong khi nhập khẩu lại tăng 630 triệu đô la làm cho nhập siêu tăng lên đến hơn 1,1 tỷ đô la so với cùng kỳ năm ngoái ảnh hưởng đến cán cân thanh toán cung cầu ngoại tệ đã được thực hiện đồng hoạt. Tuy nhiên đô la hoá lên giá so với đồng Việt Nam vẫn là ngược chiều này có tác động lớn đến tình hình xuất khẩu, thị trường tiền tệ trong nước sự tác động này. Thứ nhất: khi đồng Việt Nam giảm giá so với đồng đô la thì sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu nhưng hiện nay chúng ta vẫn phải nhập khẩu thiết bị kỹ thuật công nghệ và nguyên, nhiên vật liệu là chủ yếu nên cùng làm tăng chi phí đầu vào của sản phẩm xuất khẩu vì vậy trong khi mức nhập khẩu còn cao hơn xuất khẩu thì chúng ta thiệt nhiều hơn lợi. Thứ hai: dưới tỷ giá trên thị trường và tỷ giá theo sức mua tương đương đã có một khoản cách lớn lên đến khoảng 5 lần cụ thể GDP/người năm 1999 nếu tính theo tỷ giá trên thị trường nước ta sẽ có 310 USD thế nhưng nếu tính theo tỷ giá sức mua tương đương sẽ khoảng 1860 USD khoảng cách này chính là sự thiệt thòi của các nước nghèo trong các quan hệ xuất - nhập khẩu và quan hệ vay nợ, trả nợ với các nước giàu, tỷ giá đồng VND/USD tăng lên sẽ làm cho khoảng cách này tăng lên và sự thiệt thòi càng lớn hơn. Thứ ba: tỷ giá đồng Việt Nam và đô la Mỹ tăng thì số nợ hiện có của doanh nghiệp, Chính phủ với nước ngoài tăng USD cũng tăng lên làm tăng gánh nặng nợ nần. Ví dụ: Tỷ giá VND/USD trước ngày 20/9/2002 là 15.000 bây giờ tỷ giá này tăng lên là 16.000 Ta có: VND/USD = 15.000 => 1USD = 15.000VND VND/USD = 16.000 => 1USD = 16.000VND Như vậy trước đây chúng ta chỉ bỏ ra 15.000 là mua được 1USD nhưng bây giờ chúng ta phải bỏ ra 16.000 mới mua được 1USD như vậy nợ nần sẽ tăng lên. Thứ tư: trong tình trạng đô la hoá còn chiếm một phần không nhỏ có đồng đô la khá lớn còn ở trong dân. Tỷ giá giữa tiền đồng với đô la tăng sẽ làm cho việc găm giữ đô la tăng và những người găm giữ đô la sẽ có lợi cục bộ trong khi các doanh nghiệp cần đô la để nhập thiết bị, công nghệ lại gặp khó khăn. Trên đây chúng ta đã phân tích những tác động có tính chất ngược chiều của đồng Việt Nam so với đồng đô la vậy thực trạng đô la ở Việt Nam như hiện nay thì sự tác động này sẽ như thế nào. 4.1. Tác động tích cực. + Đô la hóa tạo ra cơ hội tái trung gian trong nền kinh tế khi phải trải qua các thời kỳ lạm phát rất cao và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Bởi vì, có một lượng lớn ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, cũng như không có tình trạng người dân ồ ạt đổ xô dùng nội tệ đi mua USD. + Các ngân hàng thương mại có một lượng lớn ngoại tệ sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoaị, tạo công cụ hội nhập thị trường trong nước với thị trường quốc tế , giảm thiểu các chi phí giao dịch tài chính quốc tế. + Nhờ huy động được một lượng đáng kể tiền gửi ngoại tệ, các ngân hàng có điều kiện mở rộng cho vay trong nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó việc hạn chế đi vay vốn nước ngoài và tăng khả năng kiểm soát của NHTƯ đối với luồng ngoại tệ trong nước. Đơn cử rằng , nếu các NHTM không huy động vốn ngoại tệ thì hỏi rằng liệu các dự án cần vốn ngoại tệ có vay được vốn ngoại tệ của các NHTM trong nước với lãi suất tương đối thấp là SIBOR 6 tháng công với biên độ từ +0,8%/năm đến 1,2%/năm trong thời gian qua hay không. Lý do mà các NHTM sẵn sàng cho vay với mức lãi suất thấp như vậy là vì các ngân hàng huy động được nguồn vốn ngoại tệ của dân cư với lãi suất thấp. Trường hợp mà ngân hàng thương mại không huy động vì coi nó là bất lợi cho nền kinh tế thì chắc chắn các dự án này sẽ phải chịu lãi suất cao hơn thế bởi ngân hàng phải đi vay ở nước ngoài , nếu không doanh nghiệp phải trực tiếp đi vay. Cả hai trường hợp này thì doanh nghiệp đều phải chịu lãi suất ít nhất là ở mức SIBOR 6 tháng cộng với biên độ +1,8-2%/năm. Như vậy , huy động vốn ngoại tệ cũng có lợi cho nền kinh tế . Tuy nhiên, tỉ trọng vốn ngoại tệ trong tổng vốn huy động phải duy trì ở mức độ phù hợp với nhu cầu vốn ngoaị tệ của nền kinh tế để tránh hiện tượng đô la hoá tiền gưỉ nhưng không bị phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài. + Một vấn đề khác cũng nhận thấy nhờ chính sách khuyến khích kiều hối nên tốcđộ huy động vốn tăng vượt số lượng cho vay bằng ngoại tệ, kết quả , các ngân hàng trả nợ trước hạn hoặc không phải tìm nguồn vốn nước ngoài để tài trợ cho các dự án lớn, khách hàng có nhu cầu vay lớn ( theo báo cáo thường niên 1994 của NHNT, do thiếu vốn ngoại tệ đáp ứng cầu về ngoại tệ, ngân hàng đã phải vay nợ nước ngoài trung- dài hạn trên 30 triệuUSD , nhưng do tốc độ tăng huy động vốn vượt xa so với tốc độ tăng trưởng tín dụng ngoại tệ , nên đến 1999 đã trả trước khoản vay nước ngoài (báo cáo thường niên 1999).Điều này, có nghĩa các ngân hàng giảm bớt được rủi ro bởi các tác động của nhân tố bên ngoài cũng như rủi ro về tỷ giá, gánh nặng lãi suất, sau đó các doanh nghiệp cũng được hưởng lãi suất cho vay thấp hơn. 4.2. Những tác động tiêu cực : - Trong nền kinh tế có đô la hóa , tăng tính rủi ro của nền kinh tế đối với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ . Mục tiêu tiến tới trên đất nước Việt Nam là chỉ sử dụng đồng tiền Việt Nam không đạt được. Đồng nội tệ không được coi trọng. Trong đất nước đang thiếu vốn nhấ là vốn ngoại tệ, phải đi vay nước ngoài thì ngược lại có một lượng lớn USD đem gửi ở nước ngoài. - Mặt tiêu cực do quá trình đô la hoá ở nước ta cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực đến bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế bị đô la hoá như làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tài khoá , chính sách tiền tệ , chính sách về lãi suất , chính sách tỷ giá, mục tiêu quản lý ngoại hối ... đặc biệt có nhiều ý kiến cho rằng những biến động của lãi suất quốc tế trong những năm vừa qua là nguyên nhân gây ra tình trạng giảm phát, thiếu tiền đồng. Tác giả Nguyễn Ngọc Anh viết ( trong bài : đô la hoá những tác động chưa được đo lường) – báo diễn đàn doanh nghiệp :”trong năm 2000, tỉ trọng USD trên bảng tổng kết tài sản của các ngân hàng thương mại tăng vọt, đã lý giải nguyên nhân giảm phát là do hiện tượng đô la hoá”, một đoạn khác tác giả viết:”việc đồng USD ngày càng bành trướng, chèn ép đồng VND trong lưu thông , người dân có xu hướng đầu tư vào USD quá nhiều làm giảm sức mua của xã hội, phải chăng đô la hoá là nguyên nhân của hiện tượng thiểu phát”. Song, nói gì thì nói chúng ta lại khẳng định một điều rằng đô la hoá nền kinh tế nước ta không mấy trầm trọng như một số người tưởng , vì rõ ràng là đô la Mỹ được sử dụng trong thanh toán ,trong giao dịch mua xe máy của Trung quốc, của Nhật Bản hay lắp ráp tại Việt Nam , tại các đại lý , cửa hàng , hầu hết bằng đồng Việt Nam. Thanh toán mua bán đất đai nhà ở , cũng hầu hết bằng đồng Việt Nam, tiếp đến bằng vàng.Do đó, có thể thấy tài sản của người dân bằng dô la Mỹ chủ yếu dưới dạng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng. Nên, nhà nước , trực tiếp là hệ thống ngân hàng quản lý được số ngoại tệ này, khôngđể trôi nổi trong xã hội. - Một chuyên gia kinh tế nước ngoài bình luận , Việt Nam đang huy động vốn USD cho Washington-bình luận đó có mặt đúng của nó. Song trong xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế, thì chính sách lãi suất và tỷ giá của nước này nhất định có ảnh hưởng đến nước kia, đặc biệt là Mỹ , nền kinh tế lớn nhất toàn cầu, quốc gia phát hành ra đồng USD, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các giao dịch tài chính , thương mại đầu tư trên thị trường quốc tế, thì đương nhiên chính sách lãi suất của Fed có ảnh hưởng đến hàng loạt quốc gia khác. Ngân hang châu Âu cũng phải tăng lãi suất theo đồng USD. Do đó, nó có tác động đến thị trường tiền tệ Việt Nam là điều dễ hiểu, khi mà thị trường Mỹ chấp nhận được lãi suất đó (lãi suất cho vay ở Mỹ tới 9-9.5%/năm)còn các doanh nghiệp và các dự án đầu tư ở Việt Nam chưa chấp nhận được cho vay với lãi suất 7,5-8,5%/năm đã khó rồi thì đồng vốn ngoại tệ dịch chuyển đến nước Mỹ là điều đúng luật của kinh tế thị trường mà Việt Nam đang chuyển đổi sang. Qua phân tích trên chúng ta đưa ra được những đánh giá khá tổng quát về đô la hoá ở Việt Nam cũng như tìm ra được một số nguyên nhân chủ yếu gây nên hiện tượng này này. Vậy giải pháp khắc phục cho tình trạng này như thế nào chúng ta sẽ làm rõ ở phần tiếp theo. Chương 3: những giải pháp nhằm khắc phục tình trạng đô la hoá ở Việt Nam 3.1. Những căn cứ chủ yếu. Trong văn kiện Đại hội Đảng IX năm 2001 đưa ra một số chiến lược kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thực thi chính sách tiền tệ bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo các nguyên tắc của thị trường. Nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tỉnh chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Quyết tâm thực hiện cho được trên lãnh thổ Việt Nam sử dụng đồng VND là chính, là đồng tiền pháp định. Đối với ngành Ngân hàng một trong những mục tiêu, chiến lược của ngành Ngân hàng là giảm bớt hiện tượng "Đô la hoá" và trong phạm vi hẹp hơn, giảm bớt tỷ trọng nguồn vốn ngoại tệ trong tổng tài sản. 3.2. Giải pháp Đô la hoá càng kéo dài, cái giả phải trả càng đắt. Nay đến lúc phải nghỉ đến các giải pháp để kiềm chế, đẩy lùi đi đến chấm dứt đô la hoá cần thiết xây dựng một chiến lược toàn diện với lộ trình triển khai cụ thể. Mọi người đều được coi cuộc chiến chống đô la hoá này có một ý nghĩa quan trọng. Nó quyết định đến quá trình phát triển của đất nước, nhằm giữ vững độc lập về kinh tế và chính trị để đạt được mục tiêu cuối cùng là xây dựng cho VND trở thành phương tiện cất giữ và thanh toán có khả năng chuyển đổi trong nền kinh tế USD chỉ giữ sử dụng vào hoạt động ngoại thương. 3.2.1. Biện pháp hành chính. - Tăng tỉ lệ kết hối lên 100%trước đây chúng ta quy định kết hối là 80% xong có ý kiến phản đối từ chính các doanh nghiệp, trong dư luận, nên phải điều chỉnh giảm xuống còn 50%. Nay nếu tăng lên 100% tức là chúng ta quay trở lại biện pháp hành chính đi ngược lại cách làm trước đây đồng thời đẩy rủi ro tỷ giá về các doanh nghiệp. - Không nhận kiều hối bằng ngoại tệ. Quy định này trước đây đã thực hiện. Song bị phản đối vì không khuyến khích được nguồn kiều hối về nước . Do đó, cũng không thể quay trở lại biện pháp này - Không nhận tiền gửi bằng ngoại tệ, hay hạ thấp lãi suất tiền gửi ngoại tệ . Việt Nam đang hướng hội nhập với khu vực và thế giới nên không thể đi ngược lại với quy luật của thị trường - Không cho phép các doanh nghiệp mở nhiều tài khoản ngoại tệ tại nhiều ngân hàng thương mại khác nhau mà chỉ được phép mở tại một ngân hàng. Giải pháp này trước đây cũng đã quy định song đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp và bị chính dư luận phản đối, giảm tính cạnh tranh của các ngân hàng. Do đó , biện pháp này hoàn toàn không khả thi. - Như vây, phải chăng những kiến nghị này đã đi ngược lại với xu hướng tự do hóa tài chính , nới lỏng kiểm soát ngoại tệ ở nước ta. Hơn nữa, những biện pháp này có thể gây ra tác động ngược. Chẳng hạn, nếu không chi trả kiều hối bằng ngoại tệ mà sức ép chuyển sang đồng VND thì lượng ngoại tệ chuyển ngầm sẽ tăng lên, như vậy ngân hàng cũng không thu được phí dịch vụ chuyển tiền, phí rút tiền mặt. Thực hiện kết hối 100%và ngân hàng lo đủ cung cầu ngoại tệ có thể dẫn đến hoạt động kinh doanh mang tính kế hoạch nhiều hơn tính thị trường. Đến đây có thể khẳng định rằng việc sử dụng các công cụ hành chính cứng nhắc là không hợp lý. 3.2.2. Những vấn đề đặt ra nhằm hạn chế : Như đã nêu ở trên , đô la hóa là tình trạng ở các nước có các điều kiện kinh tế kém phát triển , lòng tin của người dân vào đồng bản tệ thấp, chính vì vậy, để hạn chế tình trạng này cần phải giải quyết vấn đề cơ bản là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, củng cố tính vững mạnh của hệ thống ngân hàng, qua đó củng cố lòng tin của dân chúng vào đồng bản tệ, tăng cường vai trò kiểm soát tiền tệ của NHNN, tăng dự trữ ngoại tệ, cần thực hiện những bước đi tích cực trong việc đổi mới chính sách lãi suất và c hính sách tỷ giá, tạo điều kiện đủ và cần thiết để tiến tới tự do hoá lãi suất và tỷ gía ở Việt Nam . Việc giải quyết tình trạng đô la hoá không phải là một sớm một chiều là xong mà cần được tiến hành từng bước,theo từng giai đoạn cụ thể với những biện pháp thích hợp và phải có sự phối kết hợp giữa các bộ ngành. Kết hợp các biện pháp kinh tế với các biện pháp hành chính phù hợp với điều kiện nền kinh tế xã hôị của đất nước trong từng thời kỳ và xuất phát từ những nguyên nhân gây ra tình trạng đôla hoá. 3.2.3. Một số biện pháp trước mắt: - Tạo môi trường đầu tư trong nước, tạo sự hấp thụ được số vốn ngoại tệ, tập trung vào đổi mới và cải cách các doanh nghiệp, cải cách hành chính... trước mắt mở rộng một số dự án đầu tư của Chính phủ:dầu khí , cầu đường, điện lực.. - Phát triển các công cụ tài chính trong nước như cổ phần, cổ phiếu , trái phiếu,... đa dạng hóa các danh mục đầu tư trong nước - Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất thương mại , dịch vụ , và kể cả lĩnh vực tài chính ngân hàng . Kết hợp chặt chẽ với kiểm soát buôn lậu, tình trạng bán hàng thu ngoại tệ trong nước. Cụ thể: + Điều hành chính sách tỷ giá cần linh hoạt hơn ,chứa đựng nhiều yếu tố thị trường hơn. * Mở rộng biên độ giao dịch trên thị trường ngoại hối để vừa đảm bảo sự kiểm soát của NHTƯ vừa phải phù hợp với cung cầu trên thị trường mà không gây tâm lý chờ đợi về việc giảm giá đồng VND. * Thay cho việc chỉ gắn với đồng đô la Mỹ như trước đây , tỷ giá của đồng Việt Nam cần phải được dựa trên cơ sở một rổ ngoại tệ(bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPY và một số đồng tiền của nhiều quốc gia khác như Trung Quốc, Thái Lan, Inđonexia...)các đồng tiền này tham gia vào rổ tiền tệ theo tỷ trọng quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như trên nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng VNDvào đồng USD và phản ánh xác thực hơn quan hệ cung cầu trên thị trường trên cơ sở có tính đến xu hướng biến động của các đồng tiền của các nước bạn hàng lớn, * Sử dụng công cụ tiền tệ để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng VND hấp dẫn hơn đồng đô la Mỹ. Qua đó hạn chế xu hướng chuyển đổi từ đồng VND sang đồng USD. Trong điều kiện hiện nay, lãi suất cơ bản không thay đổi , NHNN có thể thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu nhằm phát tín hiệu để các NHTMtăng lãi suất huy động đồng VND * Cần có biện pháp hạn chế đến mức tối đa việc lưu thông và sử dụng đô la Mỹ , niêm yết giá bằng đô la Mỹ trên thị trường Việt Nam. * Đổi mới hoạt động của NHTM theo hướng sử dụng đa dạng hoá các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường tài chính và thị trường ngoại hối như các hình thức giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, quyền lựa chọn... * Đăc biệt , trong tình trạng hiện nay của nước ta phần vốn ngoại tệ dư thừa chưa sử dụng trong đầu tư vào nền kinh tế được xem như là vốn lãng phí . Làm thế nào để nguồn vốn nàyđược sử dụng tối đa trong nước? Trong thời gian qua với sự can thiệp của NHNN bằng hai công cụ can thiệp trong thời gian qua(DTBB bằng ngoại tệ, và lãi suất) đã thuyên giảm tình trạng đô la hoá tiền gửi của nền kính tế. Song, hiện nay lại phát sinh tình trạng đôla hoá tiền gửi trong hệ thống ngân hàng giảm đi còn đô la hoá trong xã hội tăng lên nhưng rõ ràng là tình trạng này khó có khả năng kiểm soát được ,do đó đòi hỏi phải xem xét điều chỉnh các công cụ của chính sách tiền tệ sao cho kịp thời hạn chế những mặt tích cực , lợi dụng những mắt có lợi cho nền kinh tế. 3.3. Kiến nghị. Qua phân tích những lý luận chung về đô la hoá và tác động của nó đối với nền kinh tế cũng như đa ra những giải pháp đẩy lùi tình trạng đô la hoá em có một số kiến nghị sau. Từng bước ổn định nền kinh tế vĩ mô tạo lập một nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, từng bước ổn định giá trị đồng VND để chấn an tâm lý người dân. Hơn nữa với tình hình tỷ giá như hiện nay Chính phủ nên bỏ trần lãi cho vay ngoại tệ, giảm tỷ lệ kết hối ngoại tệ của Ngân hàng. Mở rộng biên độ giao động tỷ giá, đồng thời cơ cấu lại dự trữ ngoại tệ cho phù hợp tránh rủi ro về tỷ giá. C - KếT LUậN Đối chiếu với mục đích nghiên cứu nhằm làm rõ tình trạng đô la hoá ở Việt Nam từ những năm 80 đến nay đề tài "ảnh hưởng của tình trạng đô la hoá đối với nền kinh tế Việt Nam, nguyên nhân và giải pháp khắc phục" đã đạt được những kết quả sau: - Hệ thống hoá được những lý luận cơ bản về đô la hoá và ảnh hưởng của đô la hoá đối với nền kinh tế - Đánh giá thực trạng đô la hoá ở Việt Nam bằng các thông tin số liệu phong phú cập nhật bằng hệ thống bảng biểu thì đề tài này đã phản ánh sâu sắc tình trạng đô la hoá ở Việt Nam những năm gần đây. - Đưa ra hệ thống giải pháp kiến nghị có tính khả thi. Em nghĩ nếu thực hiện được đồng bộ những giải pháp này sẽ làm cho tình trạng đô la hoá ở Việt Nam bị đẩy lùi và đồng VND sẽ thực hiện đầy đủ các chức năng của nó. Mặc dù là trình độ có hạn song có sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy cô cùng với sự cố gắng của bản thân em nghĩ đề tài này góp phần nhỏ bé trong việc mang lại những lý luận cơ bản về đô la cũng như việc đưa ra được hệ tống giải pháp có tính khả thi. Nếu được thầy cô góp ý, bổ sung thêm thì em nghĩ đây là một đề án hay có thể dùng để làm tài liệu tham khảo cho các khoá sau. Em xin chân thành cảm ơn! TàI LIệU THAM KHảO 1. Báo cáo thường niên NHNNVN, năm 1994- 1999 2. Tạp chí ngân hàng số 3,6/2001 3. Tạp chí ngân hàng số 1+2/2002 4. Nguyễn Hữu Trang- Đô la hoá bắt nguồn từ đâu? (Thời báo ngân hàng, số 95/2001) 5. Tình hình hoạt động ngân hàng năm 1999 và định hướng năm 2000 (Tạp chí ngân hàng số 1+2/2000) 6. Huy Minh - Đôi điều nói lại về đô la hóa (diễn đàn doanh nghiệp, số 25, 2001) MụC LụC Lời mở đầu 1 Chương 1: lý luận chung về đô la hoá và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế 1. Lý luận chung về đô la hoá 3 1.1. Khái niệm về đô la hoá 3 2. ảnh hưởng của đô la hoá đối với nền kinh tế 10 chương 2: thực trạng đô la hoá ở Việt Nam 1. Đôi nét khái quát về quá trình đô la hoá ở Việt Nam từ những năm 80 đến nay 16 2. Hình thức đô la hoá ở Việt Nam 18 3. Tác động của đô la hoá đối với nền kinh tế Việt Nam 30 chương 3: những giải pháp nhằm khắc phục tình trạng đô la hoá ở Việt Nam 3.1. Những căn cứ chủ yếu 35 3.2. Giải pháp 35 3.3. Kiến nghị 39 kết luận 40 tài liệu tham khảo 41

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0808.DOC
Tài liệu liên quan