Đề tài Ảnh hưởng của tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt Nam

MỤC LỤC 1. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU 1.1. Tổng quan về tỷ giá 1.1.1. Khái niệm 1.1.2. Các loại tỷ giá 1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá 1.2. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động xuất nhập khẩu 1.2.1. Khái niệm 1.2.2. Đặc điểm 2. ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Tác động của biến động tỷ giá lên hoạt động xuất khẩu 2.1.2. Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động nhập khẩu 2.1.3. Tuyến J trong ngắn hạn và dài hạn 2.2. Thực trạng tại Việt Nam từ năm 1989 đến nay 2.2.1. Giai đoạn 1989-1992 2.2.2. Giai đoạn 1993-1996 2.2.3. Giai đoạn 1997-1999 2.2.4. Giai đoạn 2000-2006 2.2.5. Giai đoạn 2007-nay 3. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP 3.1. Những khó khăn hạn chế trong việc điều hành chính sách tỷ giá ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu tại Việt Nam 3.1.1. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên trong 3.1.2. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên ngoài 3.2. Giải pháp 3.2.1. Nhà nước 3.2.2. Doanh nghiệp

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3522 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một trong ba trạng thái sau: Cân bằng, thâm hụt hay thặng dư, ảnh hưởng trực tiếp hay nhạy bén đến tỷ giá. Do vậy, nếu cán cân thanh toán quốc tế dương thì tỷ giá hối đoái có chiều hướng giảm hoặc giữ vững. Ngược lại nếu BOP âm thì tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng. 1.1.3.2. Mức độ tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế Mức độ tăng, giảm GDP thực tế của một nước so với nước khác, trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, sẽ làm tăng hay giảm nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, do đó sẽ làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán hàng nhập khẩu sẽ tăng lên hay giảm xuống từ đó tác động đến cung cầu về ngoại tệ từ đó làm cho tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước so đồng tiền nước ngoài giảm đi hoặc tăng lên. 1.1.3.3. Sự chênh lệch lạm phát của đồng tiền quốc gia Khi tỷ lệ lạm phát ở một quốc gia tăng lên hay giảm xuống sẽ làm giá trị của đồng tiền nước đó thay đổi dẫn tới tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước đó so với nước ngoài bị biến động. Nếu mức lạm phát của một nước này cao hơn mức lạm phát của nước khác thì sức mua của nội tệ sẽ giảm so với ngoại tệ. Lạm phát cao càng kéo dài, đồng tiền càng mất giá, sức mua của nó càng giảm nhanh,sức mua của tiền trong nước giảm thì sức mua đối ngoại của nó cũng giảm làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. 1.1.3.4. Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước Ở thị trường nào có mức lãi suất ngắn hạn cao hơn thì những luồng vốn ngắn hạn có xu hướng đổ về thị trường đó làm cho cung về ngoại tệ tăng lên, cầu về ngoại tệ giảm do đó tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm. 1.1.3.5. Các nhân tố có khả năng tác động cung cầu ngoại tệ khác Một số nhân tố khác cũng có tác động gián tiếp đến tỷ giá thông qua cung cầu ngoại tệ như: yếu tố chính trị, kinh tế xã hội, thiên tai chiến tranh, hoạt động đầu cơ… Ví dụ: - Nếu có sự đình công, biểu tình thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ rút vốn làm cho ngoại tệ trở nên khan hiếm làm cho cung ngoại tệ giảm do vậy tỷ giá giảm. - Hoạt động của những người đầu cơ ngoại tệ tác động mạnh đến tỷ giá hối đoái. Khi nhà đầu cơ dự đoán giá của một loại ngoại tệ nào đó sẽ lên, họ sẽ dùng nội tệ để mua một số lượng lớn ngoại tệ, làm cho ngoại tệ này ở trên thị trường trở nên khan hiếm, cung sẽ nhỏ hơn cầu về ngoại tệ đó dẫn đến giá của loại ngoại tệ đó tăng do đó tỷ giá hối đoái tăng lên. 1.2.Khái niệm, đặc điểm của hoạt động xuất nhập khẩu 1.2.1.Khái niệm Hoạt động xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về nền kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau trên thế giới. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một vị trí và vai trò vô cùng to lớn trong quá trình phát riển kinh tế của mỗi quốc gia. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn và là phương tiện về thức đẩy nền kinh tế phát triển. Nhập khẩu cho phép bổ sung những sản phẩm hàng hoá trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không hiệu quả và đem lại lợi ích cho các bên tham gia. 1.2.2. Đặc điểm Xuất khẩu thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và tối ưu các ngành khoa học quản lý với các nghệ thuật kinh doanh, giữa nghệ thuật kinh doanh với các yếu tố khác của mỗi quốc gia như yếu tố về pháp luật và các yếu tố về kinh tế văn hoá. Hoạt động xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế so sánh cho từng nước, khai thác các nguồn lực cho phát triển, góp phần cải thiện đời sống nhân dân gia tang tiến bộ xã hội và góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế thế giới và quốc tế hoá. Lợi thế so sánh đó là các lợi thế về vị trí địa lý, về lao động, về tài nguyên và sở hữu phát minh sang chế. Hiện nay hoạt động xuất khẩu của nước ta một trong những mục tiêu cấp bách hàng đầu được chú trọng. Bởi nó đem lại lợi ích vô cùng to lớn cho sự phát triển của nước tao, tạo sự thuận lợi cho giao lưu quốc tế, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế văn hoá của mỗi quốc gia. Nhập khẩu cũng là một hoạt động diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia khác nhau ở trong các điều kiện môi trường và bối cảnh khác nhau. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất kinh tế, đời sống của mỗi người trong mỗi một quốc gia. Nhập khẩu là để tăng cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá tiêu dùng mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không hiệu quả. Mỗi một nước đều có một thế mạnh khác nhau, có thể tự sản xuất ra nhiều loại hàng hoá khác nhau nhưng không thể không có sự trao đổi hàng hoá với các quốc gia khác. Một quốc gia muốn phát triển được thì phải có một nền kinh tế mở, thực hiện giao lưu trao đổi hàng hoá với các nước jkhác mà cụ thể ở đây là phải thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu. 2. ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Tác động của biến động tỷ giá lên hoạt động xuất khẩu *Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên kim ngạch xuất khẩu: Khi tỷ giá hối đoái giảm, giá đồng nội tệ tăng lên, lượng ngoại tệ thu về từ hoạt động xuất khẩu sẽ giảm xuống, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu tính ra đồng nội tệ bị thu hẹp, xuất khẩu không được khuyến khích hay xu thế chung thường gặp là một sự sút giảm trong hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh đó, khi tỷ giá hối đoái tăng, giá đồng nội tệ giảm xuống thì một tương lai tươi sáng lại mở ra cho các nhà xuất khẩu, do lượng ngoại tệ thu về đổi ra được nhiều ngoại tệ hơn, kim ngạch xuất khẩu tăng lên, kích thích hoạt động xuất khẩu tăng trưởng và phát triển với điều kiện các chi phí đầu vào của sản xuất hàng xuất khẩu không tăng lên tương ứng. *Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên cơ cấu hàng xuất khẩu: Đối với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng nông sản, thô sơ chế dường như nhạy cảm hơn đối với mọi biến động tăng, giảm của tỷ giá hối đoái so với các mặt hàng như máy móc, thiết bị toàn bộ, xăng dầu…Lý do được đưa ra nhằm giải thích cho vấn đề này đó là độ co giãn của các mặt hàng nông sản, thô sơ chế đối với giá xuất khẩu hoặc tỷ giá hối đoái áp dụng là rất cao, do đây là các mặt hàng có thể thay thế được trong khi độ co giãn của các mặt hàng máy móc, thiết bị toàn bộ, các mặt hàng không thể thay thế được như xăng, dầu … là rất thấp. Tỷ giá hối đoái giảm đi khiến giá hàng xuất khẩu bị đắt tương đối, các mặt hàng dễ bị thay thế là danh mục đầu tiên bị loại ra khỏi danh sách sử dụng của người tiêu dùng ngoại quốc và các mặt hàng này cũng sẽ mất dần trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. Trái lại, khi tỷ giá hối đoái tăng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có thể sẽ trở nên phong phú hơn do tính cạnh tranh về giá, sự tăng doanh thu xuất khẩu khiến các nhà xuất khẩu đa dạng hóa mặt hàng…Đối với các mặt hàng không thể thay thế như xăng dầu thì tỷ giá có tăng hay giảm cũng hầu như không ảnh hưởng gì mấy đến cơ cấu cũng như tỷ trọng các mặt hàng này. *Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của xuất khẩu: Đối với cạnh tranh về giá hàng xuất khẩu, một sự tăng lên của tỷ giá hối đoái sẽ khiến hàng hóa xuất khẩu nước này trở nên cạnh tranh do giá cả rẻ hơn, ngược lại nếu giá đồng nội tệ tăng tức tỷ giá hối đoái giảm sẽ khiến giá hàng xuất khẩu trở nên đắt tương đối, tính cạnh tranh về giá giảm đi. Trong cùng một thị trường tiêu thụ nếu chất lượng hàng hóa như nhau thì xu hướng chung, người tiêu dùng sẽ sử dụng sản phẩm nào rẻ hơn. Và giả sử chi phí sản xuất tại các quốc gia quy về cùng một đồng tiền là ngang nhau thì nước nào có mức giảm tỷ giá đồng tiền nước mình so với giá nội tệ của thị trường tiêu thụ lớn hơn thì tính cạnh tranh về giá của nước đó cao hơn, nước đó có cơ hội phát triển xuất khẩu nhiều hơn. Tóm lại, giá đồng nội tệ giảm có lợi cho xuất khẩu, giá đồng nội tệ tăng ngược lại sẽ gây bất lợi. Xu hướng này hầu như đúng đối với các quốc gia thực thi chế độ tỷ giá thả nổi hoặc thả nổi có quản lý, nơi tỷ giá danh nghĩa sát hoặc tiến sát giá trị thực, còn đối với các quốc gia theo chế độ tỷ giá cố định, việc giảm, tăng tỷ giá chính là giảm, tăng tỷ giá danh nghĩa, không phải tỷ giá thực, do đó nếu một sự tăng tỷ giá hối đoái mà vẫn khiến tỷ giá danh nghĩa thấp hơn tỷ giá thực thì đồng nội tệ vẫn bị xem là định giá cao hơn giá trị thực, tác dụng thúc đẩy xuất khẩu sẽ không nhiều. 2.1.2. Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động nhập khẩu *Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên kim ngạch nhập khẩu: Trên phương diện kim ngạch nhập khẩu, xu hướng chung thường thấy là khi giá đồng nội tệ tăng hay tỷ giá hối đoái giảm, nhập khẩu sẽ được khuyến khích do giá nhập khẩu trở nên rẻ tương đối, chi phí nhập khẩu giảm, lượng nhập khẩu tăng lên dẫn đến sự tăng lên trong kim ngạch nhập khẩu. Bên cạnh đó, khi tỷ giá hối đoái tăng (đồng nội tệ giảm giá) sẽ gây bất lợi cho nhập khẩu, giá nhập khẩu trở nên đắt hơn, việc các nhà nhập khẩu phải bỏ nhiều tiền hơn để mua một lượng ngoại tệ như cũ sẽ dẫn đến việc giảm lợi nhuận các nhà nhập khẩu. Một khi lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí, cầu nhập khẩu giảm xuống, do đó kim ngạch nhập khẩu giảm. *Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên cơ cấu nhập khẩu: Trên phương diện cơ cấu nhập khẩu, một sự tăng tỷ giá hối đoái sẽ khiến các nhà quản lý cân nhắc xem sẽ phải nhập khẩu những mặt hàng gì, những mặt hàng như nông sản có thể sẽ bị hạn chế, các mặt hàng như xăng, dầu, máy móc, thiết bị toàn bộ có thể sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục nhập khẩu (điều này đặc biệt đúng với các nước đang phát triển hướng về xuất khẩu), còn một sự tăng trong tỷ giá hối đoái sẽ cho chiều hướng ngược lại. *Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu: Xét về tính cạnh tranh nhập khẩu, không một quốc gia nào muốn sản phẩm nhập khẩu lại có tính cạnh tranh cao hơn sản phẩm trong nước, khi tỷ giá tăng lên, sản phẩm nhập khẩu có lợi thế trong khi sản phẩm trong nước lại bất lợi về giá, khi tỷ giá giảm, cạnh tranh về giá của sản phẩm nhập khẩu không còn, việc tỷ giá giảm tương đương với việc đánh thuế lên hàng nhập khẩu do đó hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn, nếu tình trạng này kéo dài, hàng hóa nhập khẩu từ thị trường này có thể được thay thế bằng hàng hóa thị trường khác hoặc sản phẩm trong nước. 2.1.3.Tuyến J trong ngắn hạn và dài hạn Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng, theo lý thuyết người tiêu dùng sẽ chuyển sang dùng hàng hóa thay thế trong nước.Tuy nhiên việc điều chỉnh ưu tiên hàng thay thế cần phải mất một thời gian nhất định. Do đó có thể nói rằng cầu trong ngắn hạn có độ co giãn thấp hơn so với cầu trong dài hạn. Vì vậy sau khi đồng nội tệ giảm giá, giá hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng nhưng người tiêu dùng trong nước vẫn tiếp tục mua hàng nhập khẩu với hai lý do sau: - Người tiêu dùng vẫn chưa điều chỉnh ngay việc ưu tiên mua hàng nội địa thay vì mua hàng nhập khẩu (cầu nhập khẩu không co giãn). - Các nhà sản xuất trong nước cần phải có một thời gian nhất định đểsản xuất được hàng có thể thay thế hàng nhập khẩu (cung không co giãn). Như vậy chỉ sau khi những nhà sản xuất trong nước thực sự cung cấp hàng thay thế nhập khẩu và người tiêu dùng ưu tiên dùng hàng nội thay vì dùng hàng ngoại thì cầu về hàng hoá nhập khẩu mới giảm. Tương tự như vậy, sau khi đồng nội tệ giảm giá, việc mở rộng xuất khẩu chỉ trở thành hiện thực khi các nhà sản xuất đã sản xuất được nhiều hàng hóa hơn để xuất khẩu và người tiêu dùng nước ngoài đã thực sự chuyển hướng ưu tiên mua hàng hoá của nước này. *Tuyến J Hiệu ứng tuyến J trong trường hợp đồng tiền của 1 nước giảm giá đối với cán cân thương mại của nước đó: Theo thời gian, cán cân thương mại có hình dáng như chữ J nếu độ co giãn của cầu nhập khẩu và cung xuất khẩu nhỏ hơn trong thời gian ngắn hạn so với thời gian dài hạn. Vì cầu nhập khẩu và cung về xuất khẩu có độ giãn trong ngắn hạn thấp hơn so với dài hạn, nên khi đồng nội tệ giảm giá thì cán cân thương mại trở nên xấu đi trong ngắn hạn, nhưng sau đó sẽ được cải thiện. Theo thời gian, sự thay đổi của cán cân thương mại được mô tả như hình a. Hình này nói lên, đồng tiền giảm giá tại thời điểm 0, và sau do người tiêu dùng tạm thời chi tiêu nhiều hơn cho hàng nhập khẩu, xuất khẩu cũng tăng nhưng chỉ bù đắp phần chi tiêu phụ trội cho nhập khẩu, do đó cán cân thương mại trở nên xấu hơn ngay sau khi đồng nội tệ giảm giá. Sau một thời gian, khi nhập khẩu và xuất khẩu co giãn, thì cán cân thương mại dần dần được cải thiện và cuối cùng là tăng lên. Điều này được mô tả bằng tuyến J trên hình a và còn được gọi là hiệu ứng tuyến J. Hình b diễn tả những gì xảy ra trong trường hợp khi động nội tệ lên giá so với những ngoại tệ khác. Sau khi đồng nội tệ tăng giá tại thời điểm 0, giá hàng hoá nhập khẩu giảm, nên chi tiêu để mua hàng nhập khẩu giảm. Nếu giá trị xuất khẩu giảm ít hơn so với giá trị nhập khẩu, thì cán cân thương mại trở nên tốt hơn, đây cũng là điều thường được dự tính trong thực tế sau khi đồng tiền lên giá.Tuy nhiên, sau một thời gian nhất định, xuất khẩu và nhập khẩu trở nên co giãn hơn, dẫn đến tốc độ tăng giá trị nhập khẩu nhanh hơn tốc độ giảm giá và xuất khẩu giảm đủ để cho cán cân thương mại trở nên xấu đi. Chúng ta thấy rằng tuyến J trong trường hợp đồng nội tệ lên giá, như hình b và ngược lại với tuyến J trên hình a trong trường hợp đồng nội tệ giảm giá. Qua phân tích trên ta thấy rằng tuyến J xuất hiện đồng thời: tỷ giá không bình ổn và cán cân thương mại tạm thời trở nên xấu đi hay tốt lên hơn sau khi đồng tiền giảm giá hoặc lên giá. Tóm lại, tác động của tỷ giá với hoạt động xuất nhập khẩu thường có những hiệu ứng tích cực nhanh chóng trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển tương đối cao, đồng bộ, nguyên tắc thị trường được đảm bảo, không có sự can thiệp của nhà nước vào quá trình xuất nhập khẩu. Trong điều kiện Việt Nam ảnh hưởng của việc tăng giảm tỷ giá USD/VND chưa thể so sánh với ảnh hưởng của sự biến động của tỷ giá hối đoái tới hoạt động xuất nhập khẩu của một số cặp tỷ giá như USD/JPY, USD/NDT vì điều kiện thị trường chưa cao, vì chính sách can thiệp bảo hộ sản xuất, vì năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, đặc biệt vì năng lực sản xuất hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam khác xa so với điều kiện của Mỹ, Nhật do đó chính sách tỷ giá của Việt Nam thường bị động, không phát huy hết tác dụng như mong muốn. 2.2. Thực trạng tại Việt Nam từ năm 1989 đến nay 2.2.1. Giai đoạn 1989-1992 Chỉ thị 271-CT ban hành tháng 10/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với nội dung xác lập một mức tỷ giá đồng Việt Nam đối với khu vực ngoại tệ chuyển đổi phù hợp với mức tỷ giá thị trường trong biên độ dao động 10-20% chính là biện pháp đầu tiên trong việc thực hiện chính sách đổi mới tỷ giá của Chính phủ. Tháng 3/1989, Nhà nước bãi bỏ hệ thống tỷ giá kết toán nội bộ, tiến tới thực hiện thống nhất một mức tỷ giá duy nhất cho toàn bộ hoạt động của nền kinh tế - tỷ giá chính thức. Từ đó, động lực phát triển ngoại thương được khôi phục, kinh tế Việt Nam cũng như hoạt động xuất nhập khẩu có cơ hội phát triển mạnh. Thật vậy, tỷ giá hối đoái cũng đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động ngoại thương trên tất cả các phương diện từ kim ngạch cho đến cơ cấu, thị trường xuất nhập khẩu. Bảng 1: Tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu giai đoạn 1986-1992 Năm Tỷ giá chính thức (USD/VND) Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại Tỷ giá thị trường (USD/VND) Mức tỷ giá (đồng) %Tăng, giảm Kim ngạch (triệu USD) % Tăng, giảm Kim ngạch (triệu USD) % Tăng, giảm Giá trị (triệu USD) % Tăng, giảm Mức tỷ giá (đồng) % Tăng, giảm 1986 80 100 789,1 100 2155,1 100 -1366 100 425 369,56 1987 368 460 854,2 108,25 2455,1 113,92 -1600,9 117,20 1270 298,82 1988 3000 815,21 1038,4 121,56 2756,7 112,29 -1718,3 107,33 5000 393,70 1989 3900 130 1320 127,12 2565,8 93,08 -1245,8 72,50 4100 82 1990 6300 161,54 2404 182,12 2752,4 107,27 -348,4 27,96 6500 158,54 1991 9767 155,03 2087,1 86,82 2338.4 84,96 -251,3 72,13 11975 184,23 1992 10720 109,75 2580,7 123,65 2540,7 108,65 40 -15,92 10550 88,1 Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu Tổng Cục Thống Kê Bảng 1 cho thấy giá trị danh nghĩa đồng Việt Nam sụt giảm mạnh và liên tiếp trong suốt giai đoạn 89-92. Từ mức tỷ giá 1USD = 3000VND năm 1989, đồng VND đã giảm xuống 10720 đồng/đôla năm 1992. Trong vòng 3 năm, tỷ giá đã sụt giảm gần 4 lần. Sự sụt giảm này đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là trên phương diện kim ngạch xuất-nhập khẩu trong quan hệ buôn bán với các quốc gia. Ta có thể nhận thấy trước thời điểm 1989, khi Nhà nước càng cố gắng hạ giá đồng nội tệ thì nhập siêu lại càng lớn. Nếu nhập siêu năm 1987 khoảng 1,6 tỷ thì sang năm 1988, khi tỷ giá bị hạ xuống thấp hơn so với năm trước đó 8 lần thì nhập siêu lại lên đến hơn 1,7 tỷ. Điều này cho thấy việc hạ giá đồng Việt Nam trong bối cảnh vẫn áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ không kích thích được ngoại thương mà còn làm cho nhập siêu trầm trọng hơn. Trong thời kỳ 86-89, tổng độ co giãn xuất nhập khẩu chỉ đạt 0,003 (giai đoạn 89-92, chỉ số này đạt 0,46), điều đó thể hiện rằng nền kinh tế tăng trưởng không bền vững. Trung bình giá đồng nội tệ giảm 1 đồng thì xuất khẩu chỉ tăng có 0,195 đồng và nhập khẩu giảm 0,192 đồng. Nhưng do lượng hàng xuất khẩu luôn nhỏ hơn lượng hàng nhập khẩu nên tình trạng kim ngạch nhập khẩu lớn gấp hai, ba lần kim ngạch xuất khẩu diễn ra liên tục trong 3 năm 1986-1989. Nguyên nhân chính là trong khi sản xuất hàng xuất khẩu sụt giảm, động lực xuất khẩu bị thủ tiêu do tính cứng nhắc của tỷ giá, thì nhập khẩu lại tăng lên để phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, nhu cầu mà sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng nổi. Năm 1989, sau khi xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thực hiện thống nhất tỷ giá, lĩnh vực ngoại thương nhanh chóng có chuyển biến rõ nét. Mặc dù mức giá đồng ngoại tệ chỉ tăng 30% ( ít hơn so với giai đoạn trước đó) song nhập khẩu đã giảm xuống chỉ bằng 93% so với năm trước, xuất khẩu được kích thích tăng trưởng nên kim ngạch đã đạt được 1,3 tỷ đô la, thu hẹp khoảng cách nhập siêu xuống còn 1,2 tỷ đô la (so với mức 1,7 tỷ đô la năm 1988). Mặt khác, do tỷ giá chính thức được điều chỉnh sát với tỷ giá thị trường, hình thành theo quy luật cung cầu nên tác động của tỷ giá đến hoạt động thương mại- xuất nhập khẩu trở nên rõ ràng hơn. Giá đồng nội tệ giảm xuống thực sự kích thích tăng trưởng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Năm 1989 nếu tỷ giá giảm 1 đồng, xuất khẩu lập tức tăng lên 0,97 đồng, thì bước sang năm 1990 sau khi giảm tỷ giá xuống trên 60% thì 1 đồng giảm của tỷ giá lại khiến xuất khẩu tăng những 1,13 đồng, một mức tăng khá lớn, ta thấy được xuất khẩu co giãn hoàn toàn với tỷ giá do đó có tác động tích cực lên hoạt động xuất khẩu. Trong bốn năm 1989-1992 tác động của tỷ giá đến hoạt động nhập khẩu thể hiện qua thực trạng: mức giảm giá đồng nội tệ càng lớn thì mức tăng nhập khẩu càng giảm. Như năm 1989, mức giảm giá 30%, trong đó 1 đồng giảm giá kéo theo mức tăng 0,71 đồng thì bước sang năm 1990, tỷ giá giảm đến 60% đã lập tức giảm mức tăng nhập khẩu xuống còn 0,66 đồng. Đặc biệt, sự kiện tỷ giá danh nghĩa giảm thấp hơn 7,04% so với tỷ giá thị trường cuối năm 1991 cùng với quyết định bãi bỏ “tỷ giá nhóm hàng” trong thanh toán ngoại thương năm 1992 đã khiến ngoại thương Việt Nam xuất siêu liên tục trong 6 tháng đầu năm 1992. Vào cuối năm 1992, cán cân thương mại thặng dư 40 triệu đô la. Nguyên nhân xuất siêu chính là do tỷ giá năm 1992 bởi tại thời điểm 92 giá thành sản xuất hàng Việt Nam còn cao, chất lượng còn thấp, công tác xúc tiến thương mại cũng chưa được coi trọng và cạnh tranh về giá được xem là yếu tố duy nhất đưa ngoại thương Việt Nam đạt thành tích trên. Nếu đầu năm 1991, buôn lậu qua biên giới Việt Nam -Trung Quốc tăng mạnh do hàng hóa của Trung Quốc được duy trì ở mức giá thấp hơn nhiều so với mức giá hàng hóa của nước ta thì cuối năm 1991, khi đồng Việt Nam bị phá giá mạnh so với đô la 50% từ khoảng 7000VND/đô la xuống 14500 VND/đô la thì tỷ giá đồng Việt Nam so với nhân dân tệ của Trung Quốc cũng bị sụt giảm mạnh. So với năm 1991, đồng nhân dân tệ đã tăng giá 50%, mức tăng giá này đã kéo theo tình trạng hàng hóa Trung Quốc bị tăng cao, gặp khó khăn trong tiêu thụ trên thị trường Việt Nam. Nhiều mặt hàng Việt Nam có cơ hội cạnh tranh với giá thấp hơn các sản phẩm nội địa trên thị trường Trung Quốc. Về tác động của tỷ giá lên cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giai đoạn 1989-1992, cùng với sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở giảm giá VND, nền kinh tế đã tích lũy được một số vốn sử dụng trong việc đầu tư, mở rộng sản xuất. Sản xuất lương thực trong nước đối với một số mặt hàng nhờ có vốn đã bắt đầu đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Số lượng gạo nhập khẩu giảm, thay vào đó là các mặt hàng thuộc danh mục tư liệu sản xuất, nguyên nhiên vật liệu. Cơ cấu xuất khẩu cũng có sự thay đổi, danh mục các mặt hàng xuất khẩu được mở rộng. Năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô với sản lượng 1,5 triệu tấn, đó là chưa kể đến hàng loạt các nhà máy cũ được đổi mới, các nhà máy mới được xây dựng nhằm phục vụ công tác xuất khẩu. Ngoại thương được đa dạng hóa ở mức cao, tạo ra được gần 10 mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD. Đối với thị trường xuất nhập khẩu, do tỷ giá hối đoái neo với đồng đô la được xem là chuẩn mực nên khu vực thị trường xuất nhập khẩu cũng có xu thế chuyển hướng sang những khu vực sử dụng đồng đô la trong thanh toán. Tỷ trọng xuất nhập khẩu từ khu vực đồng Rúp giảm hẳn, chỉ còn khoảng 15% năm 1989 so với 85% năm 1987. Thị trường Đông Âu không còn giữ vai trò chủ đạo, mà thị trường Châu Á dần được coi trọng hơn trong hợp tác thương mại với Việt Nam trên lĩnh vực xuất nhập khẩu. Chúng ta có thể nhận thấy rằng việc xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thống nhất tỷ giá, đưa tỷ giá chính thức tiến gần tỷ giá thị trường nhằm đạt được mức tỷ giá hợp lý những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ trước là một chủ trương đúng đắn. Chủ trương này đã có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động nhập khẩu, giúp cải thiện cán cân thương mại và đặc biệt tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam trong phát triển kinh tế thông qua xuất khẩu. 2.2.2. Giai đoạn 1993-1996 Tình hình xuất siêu năm 1992 kéo dài không lâu. Ngay trong năm 1992, trong khi 6 tháng đầu năm xuất siêu do tỷ giá diễn biến có lợi cho xuất khẩu thì 6 tháng cuối năm, nhập siêu liên tục diễn ra. Trong khi báo chí ra sức cảnh báo việc tăng giá nội tệ sẽ hủy hoại xuất khẩu thì tỷ giá lại tiếp tục bị điều chỉnh theo hướng lên giá và ngày càng lệch xa khỏi trục tỷ giá thực. Bên cạnh đó, nguyên nhân chính của việc chỉ đạo lên giá nội tệ lại được cho rằng là tình trạng lạm phát cao đang diễn ra, do đó cần nâng tỷ giá hối đoái để tăng cường tiêu dùng, giảm tỷ lệ lạm phát. Sau đó mức lạm phát đã giảm từ 17,5% năm 1992 xuống còn 5,2% năm 1993. Thế nhưng khi lạm phát tăng đột biến từ 5,2% năm 1993 lên 14,4% năm 1994 thì ảnh hưởng của việc nâng giá tiền tệ lại không được coi trọng. Tuy nhiên động lực làm giảm lạm phát trong thời kỳ này không phải là nâng giá tiền tệ mà do độ trễ trong xuất siêu 1992. Chính việc sự kiện phá giá giai đoạn 89-91 đã thúc đẩy xuất khẩu, một lượng ngoại tệ lớn được thu hút vào nước ta đã nâng sức mua thực tế của đồng Việt Nam cao hơn, từ đó lạm phát giảm xuống. Quan điểm chỉ đạo nâng giá nội tệ trong bối cảnh kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, khi chiến lược hướng về xuất khẩu vừa được thực hiên thực sự là vấn đề đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn này. Đồ thị 1: Diễn biến tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực (USD/VND) 1993-1999 Nguồn: Vụ ngoại hối, NHNN Trong suốt thời kỳ 93-96, tỷ giá danh nghĩa (USD/VND) liên tục ở mức cao tương đối so với tỷ giá thực. Trong khi tỷ giá thực giảm đáng kể thì tỷ giá danh nghĩa hầu như không đổi. Có thể thấy rõ điều này trong biểu đồ 5, khoảng cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa ngày càng lớn dần, năm có độ khoảng cách lớn nhất chính là 1996, đây cũng là năm tổng kim ngạch nhập khẩu tăng đột biến do nhập siêu đạt mức kỷ lục. Trên góc độ tài chính-tiền tệ, cách điều hành tỷ giá trong giai đoạn đầu thập niên 90 còn mang nặng tính chủ quan, việc ấn định tỷ giá còn quá đơn giản, không gần với thực tế bởi ngân hàng trung ương đã coi việc giảm tỷ giá danh nghĩa là phá giá đồng tiền mà không tính đến tương quan chỉ số giá tiêu dùng cũng như mức lạm phát giữa Việt Nam với các quốc gia khác. Năm 1994, tỷ lệ lạm phát nội tệ 14,4% và USD 3% tức USD tăng giá 11,4% so với VND song ngân hàng trung ương chỉ chỉ đạo tăng giá 1,8%. Việc giảm 1,8% được giải thích là đã phá giá nhẹ đồng nội tệ, làm sai lệch cơ chế điều hành tỷ giá vốn dựa trên qui luật thị trường và tiếp tục ảnh hưởng xấu đến hoạt động thương mại. Những năm 90, có ý kiến cho rẳng tỷ giá không hề ảnh hưởng gì đến hoạt động xuất-nhập khẩu nói riêng cũng như ngoại thương nói chung, rằng hoạt động này chịu sự chi phối hoàn toàn của các chiến lược phát triển ngoại thương, cách quản lý hạn ngạch, cách áp đặt thuế suất và nhất là chất lượng sản phẩm. Nhưng thực tế cho thấy trong khi Bộ Thương Mại cùng các cơ quan chức năng đang ra sức củng cố, mở rộng thị trường xuất khẩu, đầu tư mới dây chuyền-công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu thì mức tăng kim ngạch xuất khẩu lại sụt giảm. Cán cân thương mại thâm hụt nghiêm trọng, từ 1 tỷ năm 1994, rồi trên 2 tỷ năm 1995 và gần 4 tỷ năm 1996. Ngoại thương Việt Nam phát triển chậm trong giai đoạn này với thâm hụt cán cân lên đến hàng tỷ USD. Bảng 3: Xuất-nhập khẩu Việt Nam trong tương quan với tỷ giá 1993-1999 Năm Tỷ giá chính thức (USD/VND) Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại Hệ số co giãn Mức tỷ giá %Tăng, giảm Kim ngạch (triệu USD) % Tăng, giảm Kim ngạch (triệu USD) % Tăng, giảm Thâm hụt (triệu USD) % Tăng, giảm Xuất khẩu (ηx) Nhập khẩu (ηn) 1993 10640 100 2985,2 100 3924 100 938,8 100 1994 10955 102,9 4054,3 135,8 5825,8 148,5 1771,5 143,7 1,32 -1,44 1995 10970 100,1 5448,9 134,4 8155,4 140 2706,5 149,7 1,34 -1,40 1996 11100 101,2 7255,9 133,2 11143,6 136,6 3887,7 153,6 1,32 -1,35 1997 11175 100,7 9185 126,6 11592,3 104 2407,3 126,2 1,26 -1,03 1998 12985 116,2 9360 101,9 11499,6 99,2 2139,6 122.9 0,88 -0,85 1999 14004 107.848 11541.4 123.306 11742.1 102.109 200.7 101,7 1,14 -0,94 Nguồn: Tính toán theo số liệu WB, Tổng Cục thống kê, Vụ ngoại hối-Ngân hàng nhà nước. Với các số liệu tính toán từ bảng 3 trên đây, việc tỷ giá dao động với biên độ +/- 0,5% trong giai đoạn 93-96 đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu. Nhập siêu tăng gần gấp đôi trong năm 93, 94. Đặc biệt năm 1996, khi tỷ giá danh nghĩa bị ấn định so với tỷ giá thực ở mức cao nhất 28% thì nhập siêu cũng đạt mức kỷ lục: 3,8 tỷ đô la. Trung bình giai đoạn 94-96, cứ 1 đồng tăng giá nội tệ kéo theo hàng nhập khẩu rẻ đi 1,4 đồng trong khi xuất khẩu sụt giảm 1,3 đồng. Điều này cho thấy tác động của tỷ giá hối đoái lên ngoại thương Việt Nam trong bối cảnh tỷ giá hối đoái nội tệ bị ấn định cao hơn so với giá trị thực vận động theo xu thế lí luận chung. Tỷ giá tăng đã kéo lùi tốc độ tăng xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ nhập siêu và gây thiệt hại đến sản xuất trong nước. Đối với cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, việc tỷ giá lên cao tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt hàng nhập khẩu hơn. Tỷ giá danh nghĩa được định cao hơn tỷ giá thực bao nhiêu thì giá hàng nhập khẩu cũng được rẻ đi bấy nhiêu. Trước tình trạng hàng trong nước cạnh tranh không nổi, năm 1994, nhà nước phải có chính sách cấm nhập khẩu 17 mặt hàng nhằm bảo vệ sản xuất trong nước. Ví như giá đường trong nước năm 1993 nếu qui đổi ra USD là 544 USD/tấn trong khi giá đường nhập khẩu chỉ có 400USD/tấn thì cấm nhập khẩu đường là tất yếu. Thời điểm này,hàng hóa xuất khẩu lại gặp bất lợi . Trong 3 năm 1993-1995, nếu lấy năm 1992 làm mốc thì đồng Việt Nam đã lên giá 24% và giá hàng xuất khẩu đã bị đẩy đắt lên 24% trên các thị trường ngoại quốc. Nếu một đô la xuất khẩu gạo trả theo tỷ giá thực năm 1995 là 13.992 (hay chỉ 12.000 theo cách xóa dần tình trạng lên giá đồng nội tệ) thì nông dân sản xuất hàng xuất khẩu cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ không bị lỗ đến hơn 1000 đồng/đôla. Giá tơ tằm xuất khẩu quy theo USD giai đoạn 93-96 tăng từ 18 USD lên 26 USD/kg làm sao có thể địch nổi giá tơ 21 USD/kg của Trung Quốc. Ngoài ra, việc đồng Việt Nam tăng giá so với đồng đô la cũng góp phần khiến đồng Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác như Nhân dân tệ, Yên Nhật...Điều này cũng khiến việcmở rộng thị trường trở nên khó khăn. Tuy nhiên do việc giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại thị trường nước ngoài bắt đầu được thực hiện mạnh mẽ nên qui mô thị trường ngày càng được mở rộng. Ta nhận thấy thời kỳ này tỷ giá không ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất-nhập khẩu 2.2.3. Giai đoạn 1997-1999 Giai đoạn 1997-1999 là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam chịu những tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Đồng USD lên giá mạnh so với tất cả các đồng tiền trong khu vực Đông Nam Á. Trong tình hình đó, ngân hàng Trung Ương đã tiến hành điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam: tăng biên độ tỷ giá giao dịch lên +/-0,5% rồi +/-10%, đồng thời giảm giá đồng tiền Việt Nam nhằm tạo một mức tỷ giá mới sát với mức tỷ giá thực tế. Tác động từ chính sách tỷ giá: Chính sách tỷ giá mới đã khiến cho đồng Việt Nam giảm giá 16% chỉ trong vòng một năm, khoảng cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa cũng được thu hẹp. Điều này đã đem lại những tác động tích cực cho cán cân thương mại Việt Nam: kim ngạch nhập khẩu tăng chậm, mức nhập siêu giảm xuống còn 2,4 tỷ USD (giảm 36,8% so với năm trước). Đặc biệt trong năm 1999 mức nhập siêu chỉ còn 200 triệu USD. Mặc dù vậy, đồng Việt Nam vẫn còn bị định giá cao so với các nước trong khu vực,khiến cho giá hàng hoá Việt Nam tăng cao. Hàng hoá Việt Nam khó có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực nên hoạt động xuất khẩu phần nào bị hạn chế (tốc độ tăng xuất khẩu ở mức tương đối thấp: 1,9% trong năm 1998). Bên cạnh đó, việc đồng Việt Nam bị định giá cao trong khu vực cũng khiến cho cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam chuyển dịch từ khối ASEAN sang thị trường châu Âu.Cuộc khủng hoảng kinh tế khiến cho các quốc gia châu Á phải hạn chế nhập khẩu để dữ trữ ngoại tệ cũng là một phần nguyên nhân của hiện tượng này. Nói tóm lại, trong giai đoạn này, việc điều chỉnh tỷ giá ở Việt Nam đã mang lại những kết quả hết sức tích cực: kiểm soát được nhập khẩu đồng thời mở ra những cơ hội mới khi thay đổi thị trường xuất khẩu. Có thể nói đây là một giai đoạn thành công trong điều hành tỷ giá ở Việt Nam. 2.2.4. Giai đoạn 2000-2006 Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc đồng EUR được lưu hành thống nhất trên tất cả các quốc gia EU và trờ thành đối thủ nặng ký của USD. Trong bối cảnh này, Việt Nam đã áp dụng cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh, đồng thời tỷ giá Việt Nam được gắn với một “rổ tiền tệ” trong đó tỷ trọng của EUR được nâng lên. Trong giai đoạn này, biên độ tỷ giá được nới rộng từ +/-0,1% lên +/-0,25% đối với nghiệp vụ giao ngay và từ +/-0,4% lên +/0,5% đối với nghiệp vụ kì hạn ngày 1/7/2002.Tỷ giá nội tệ bị ép cao hơn giá trị thực khiến đồng Việt Nam bị định giá cao hơn USD từ 10-20%. Tác động của chính sách tỷ giá: Xuất khẩu Việt Nam thời kỳ này gặp nhiều khó khăn do không cạnh tranh được với hàng hoá Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu tăng chậm (thấp nhất là hơn 3% năm 2001), đồng thời tốc độ tăng xuất khẩu luôn nhỏ hơn tốc độ tăng nhập khẩu, dẫn đến tình trạng nhập siêu ở mức cao: đến tháng 10/2003, mức nhập siêu là 4,55 tỷ USD. Bên cạnh đó, việc định giá cao đồng Việt Nam cũng dẫn đến tình trạng nhập khẩu hàng loạt, kể cả những mặt hàng trong nước có thể sản xuất được do mức giá nhập khẩu rẻ hơn mức giá hàng hoá trong nước. Việc đồng Việt Nam lên giá cùng với những biến động bất thường về tỷ giá của USD, EUR… đã gây tổn hại lớn cho các dónh nghiệp xuất nhập khẩu.Thời kỳ này có nhiều ngoại tệ mạnh khác nhau được khuyến khích trong thanh toán, do đó rủi ro tỷ giá càng lớn hơn.Ví dụ như tháng 9/2002, đồng EUR mất giá mạnh từ 0,94USD xuống còn 0,84USD để làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu chịu thiệt hại một khoản 0,1EUR/USD. Trong vòng 2 tháng từ tháng 1/2003 đến tháng 3/2003, đồng EUR đột ngột tăng giá so với USD khiến cho chi phí nhập khẩu phát sinh cao, điển hình là công ty giày da thời trang T&T đã phải trả thêm 700 triệu đồng để mua 700.000EUR thanh toán cho việc nhập khẩu thiết bị sản xuất. Trong khi đó tại thị trường Mỹ, việc đồng Việt Nam bị định giá cao hơn 20% giá trị thực so với giá USD cũng làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu phải chịu tổn thất lớn. Nói tóm lại, trong thời gian này, mặc dù trên danh nghĩa Việt Nam áp đặt cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước nhưng trên thực tế đồng Việt Nam bị neo giữ một cách cứng nhắc gây ra những tổn thất trong kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. 2.2.5. Giai đoạn 2007-nay Năm 2007, chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá theo hướng khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh đồng USD đang giảm giá so với các ngoại tệ mạnh và các dòng vốn lớn đang vào Việt Nam làm phức tạp thêm nỗ lực ngăn cản VND lên giá. So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND năm 2008 đã tăng khoảng 9%, vượt xa mức thay đổi quanh 1% những năm gần đây, trong khi đồng USD vẫn chiếm tỷ trọng chi phối trong thanh toán quốc tế (khoảng 70%).Mức tăng vượt trội này đẩy chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành hàng có đầu vào lớn từ nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao. Đây cũng là năm nổi bật khi trong báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp chi phí của tỷ giá tăng đột biến. Biến động khó lường của tỷ giá còn thể hiện ở sự trái chiều trong nửa đầu năm 2008 (giảm mạnh những tháng đầu năm, tăng đột biến ngay sau đó), gây xáo trộn kế hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp.5 tháng đầu năm 2008, nhập siêu đạt mức quá cao (14,4 tỷ USD), cao hơn mức nhập siêu cả năm 2007 (14 tỷ USD).Nửa đầu năm 2008 lạm phát và nhập siêu gia tăng đã khiến nhiều người dân và doanh nghiệp chuyển tài sản từ VND sang USD. Tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do có lúc đã lên đến mức 19.000 VND/USD, thậm chí 20.000VNĐ, trong khi đó giá USD trong các ngân hàng thương mại vẫn là trong khoảng 16.000 – 17.000 VND. Trên thực tế, có doanh nghiệp nhập khẩu đầu tháng vay USD của ngân hàng để nhập nguyên liệu được tính tỷ giá 16.243 đồng/USD, cuối tháng, doanh nghiệp mua USD để trả nợ vay chỉ với tỷ giá 16.015 đồng/USD, nhờ tỷ giá giảm doanh nghiệp được lãi. Trong khi đó, có doanh nghiệp xuất khẩu thu về 100.000 USD, nếu doanh nghiệp thu tiền xuất khẩu trong tháng 8/2007 thì sẽ được chuyển ra VND với tỷ giá 16.245 đồng/USD, nhưng xuất khẩu tại thời điểm tháng 1/2008 thì chỉ còn 15.599 đồng/USD, doanh nghiệp sẽ thất thu 26 triệu đồng. Với sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá trong năm 2008 đã ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế, trước nhất là hoạt động xuất nhập khẩu Bảng 4: Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam từ năm 2007-2009 (Nguồn: Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2008 đạt 143,4 tỷ USD, tăng 28,9% so với năm 2007, trong đó xuất khẩu đạt 62,69 tỷ USD, tăng 29,1% so với năm trước, vượt 7% kế hoạch năm và nhập khẩu là 80,71 tỷ USD, tăng 28,8%. Hết tháng 12 năm 2008, nhập siêu của Việt Nam là 18,03 tỷ USD đạt con số kỷ lục từ trước đến nay, tăng 27,7% so với con số 14,12 tỷ USD của năm 2007. Hoạt động xuất nhập khẩu năm 2009 vẫn còn chịu những ảnh hưởng rất lớn từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, làm cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam và giá cả quốc tế giảm sút mạnh. Đồng thời, các nước gia tăng các biện pháp bảo hộ mới, đặt ra nhiều hơn các rào cản phi thuế. Do đó, hoạt động xuất khẩu chịu nhiều tác động tiêu cực.Tuy nhà nướcđã chủ động tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu, phần lớn mặt hàng đã có khối lượng xuất khẩu tăng hơn năm 2008 (lượng XK tăng làm tăng kim ngạch khoảng 1,5 tỷ USD), nhưng do tốc độ giảm giá lớn hơn (khoảng 11 tỷ USD, tương đương giảm 17 - 18% kim ngạch xuất khẩu, trong đó: nhóm nông sản, thủy sản giảm 2,7 tỷ USD; nhóm nhiên liệu khoáng sản giảm 4,6 tỷ USD; nhóm công nghiệp chế biến giảm 3 - 4 tỷ USD) nên tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm bị giảm 9,7% so với năm 2008. Bước sang năm 2010,tỷ giá USD/VND tăng cao trong khi đó Việt Nam vẫn trong tình trạng nhập siêu còn khá lớn.Mặc dù theo lý thuyết, tỷ giá USD/VND tăng (USD lên giá còn VND giảm giá) sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gia tăng, hạn chế nhập khẩu. Khi tỷ giá USD/VND tăng không những xuất khẩu tăng mà nhập khẩu cũng tăng, đáng chú ý mức tăng của nhập khẩu mạnh hơn mức tăng của xuất khẩu (khoảng 0.83%), nghĩa là cán cân thương mại vẫn thâm hụt. Đó là do ở Việt Nam có sự phụ thuộc quá cao giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Chính vì có sự phụ thuộc quá nhiều của xuất khẩu vào nhập khẩu nên khi tỷ giá tăng xuất khẩu tăng thì nhập khẩu cũng tăng theo và tăng nhiều hơn mức tăng của xuất khẩu, điều này lý giải tại sao cán cân thương mại vẫn thâm hụt mặc dù xuất khẩu có gia tăng khi VND giảm giá. 3. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP 3.1. Những khó khăn hạn chế trong việc điều hành chính sách tỷ giá ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu tại Việt Nam 3.1.1. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên trong 3.1.1.1. Cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu Hiện nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với rất nhiều quốc gia trên thế giới, và Việt Nam cũng có tiếng là một nước xuất khẩu. Tuy nhiên, cán cân thương mại của Việt Nam lại thường xuyên có xu hướng thâm hụt, và Việt Nam là một nước nhập siêu. Một phần lý do có thể hiểu là xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam thấp nên tuy xuất khẩu nhiều, nhưng những mặt hàng chúng ta xuất đi chủ yếu là nguyên liệu thô, chưa qua chế biến, gia công thuê: vàng thô, dầu thô, bô-xít, hàng nông sản, da giầy, dệt may…Đó là những mặt hàng có hàm lượng trí tuệ thấp, không hiếm, khả năng thay thế cao, lợi nhuận thu về trên một đơn vị sản phẩm thường không cao, nên mặc dù xuất nhiều, nhưng lượng ngoại tệ thu được lại không nhiều. Nói nôm na thì đây là hiện tượng “thu không đủ bù chi”. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu năm 2010 Trong khi đó, Việt Nam lại nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng như: dây chuyền công nghệ, máy móc, xăng dầu, ô tô, xe máy, điện thoại, laptop, sắt thép, mỹ phẩm…Đó là những mặt hàng thiết yếu không tự sản xuất được, có hàm lượng trí tuệ cao, giá thành đắt. Cá biệt có một số mặt hàng không cần thiết, không khuyến khích nhập vẫn được nhập khẩu gây lãng phí nguồn ngoại tệ của đất nước như: tăm tre, rượu, thuốc lá…Việc chênh lệch về giá trị hàng xuất khẩu - nhập khẩu gây nên thiếu hụt cán cân thương mại thường xuyên, tạo áp lực điều chỉnh tỷ giá đảm bảo nhu cầu ngoại tệ. Ngoài ra, theo số liệu thống kê, trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, có đến 93% các mặt hàng xuất khẩu sử dụng các tư liệu sản xuất từ nhập khẩu. Câu chuyện về ngành tôm là một ví dụ. Tôm sú là mặt hàng được ưa chuộng trên thế giới, và hiện chỉ có Việt Nam và Ấn Độ còn cung cấp sản phẩm này. Tuy nhiên, do quy trình nuôi trồng và đặc biệt là nguồn nguyên liệu nhập khẩu đắt đỏ, nhiều người nuôi trồng thủy sản Việt Nam đã chuyển từ nuôi tôm sú sang tôm thẻ, khiến tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 50-50, thay vì 80-20 như trước kia. Một câu chuyện khác vềngành dệt may -ngành được coi là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Theo Hiệp hội dệt may, trong khi kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2011 đạt được con số khá ấn tượng là 6,16 tỷ USD nhưng đã phải nhập tới 5,76 tỷ USD nguyên phụ liệu, do đó, giá trị gia tăng tạo ra chưa đầy 500 triệu USD. Quay trở lại vấn đề, để đáp ứng những quy định ngặt nghèo về các tiêu chuẩn chất lượng của các thị trường khác nhau trên thế giới thì việc sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu là điều cần thiết, nhất là khi nguồn nguyên liệu trong nước chưa thể đáp ứng cả về mặt số lượng và chất lượng. Đó là một trong những nguyên nhân mặc dù cán cân thương mại thường xuyên thâm hụt, nhưng Ngân hàng Nhà nước không thể mạnh tay điều chỉnh tăng tỷ giá theo lý thuyết vì việc điều chỉnh tỷ giá cũng sẽ làm tăng chi phí sản xuất, gây khó khăn cho cả các doanh nghiệp xuất khẩu. 3.1.1.2. Xuất phát từ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương Ngân hàng Trung ương ở mỗi nước có vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ và thực thi chính sách tiền tệ. Chính sách tỷ giá là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã công bố Việt Nam theo đuổi chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết. Tuy nhiên, những biểu hiện của Ngân hàng Nhà nước lại cho thấy chúng ta dường như đang nghiêng về sử dụng chính sách tỷ giá cố định: đặt ra một mức tỷ giá cố định trong một khoảng thời gian khá dài với biên độ dao động hẹp (khoảng 1%). Theo quan hệ cung cầu ngoại tệ, việc áp đặt một mức tỷ giá trần cố định sẽ gây ra sự thiếu hụt ngoại tệ, từ đó tất yếu làm xuất hiện thị trường chợ đen về ngoại tệ. Điểm tích cực của thị trường chợ đen là có thể đáp ứng cơn khát ngoại tệ của các đối tượng không thể tiếp cận được nguồn ngoại tệ chính thức từ hệ thống ngân hàng, và tỷ giá trên thị trường này thường phản ánh đúng quan hệ cung cầu về ngoại tệ trong nền kinh tế. Tuy thế, mặt trái của thị trường chợ đen là nó tiếp tay cho các hoạt động kinh tế bất hợp pháp như buôn lậu, tham nhũng, rửa tiền…Ngoài ra sự tồn tại của thị trường chợ đen còn dẫn đến việc chảy máu ngoại tệ. Lấy ví dụ, theo con số thống kê, lượng ngoại tệ bị thất thoát do nhập lậu vàng vào năm 2009 tương đương 9 tỷ USD, vào năm 2010 con số này là 3 tỷ USD. Mặc dù đây là nguồn cung cho các doanh nghiệp trong trường hợp không thể mua trong hệ thống ngân hàng, nhưng việc thất thoát một lượng ngoại tệ lớn như vậy thật sự là lãng phí trong bối cảnh cầu về ngoại tệ luôn nóng. Việc siết chặt tín dụng ngoại tệ theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước cũng đang gây khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp. Tính riêng 6 tháng đầu năm 2011, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ đã đạt 22%, trong khi tăng trưởng tín dụng của cả nền kinh tế chỉ đạt 7,05%. Hiện tượng bất thường này xảy ra bởi lẽ trong một thời gian dài, Ngân hàng Nhà nước đã duy trì mức trần lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ quá thấp, khiến cho nhiều doanh nghiệp vay ngoại tệ, hoặc để giảm chi phí hoặc sau đó bán lại vào ngân hàng lấy VNĐ gửi tiết kiệm, kiếm lời từ chênh lệch lãi suất (lãi suất cho vay USD chỉ là 5,5-8%, thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động VNĐ 14-18%, và càng thấp hơn lãi suất cho vay VNĐ 22-25%). Thời điểm cuối năm đến cũng là lúc cầu về ngoại tệ tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu, và nhu cầu trả nợ ngân hàng khi các hợp đồng cho vay đáo hạn. Sức ép từ lực cầu khủng khiếp tạo áp lực buộc phải Ngân hàng Nhà nước phải điều chỉnh tăng tỷ giá, bên cạnh siết chặt tín dụng. Biện pháp này là điều cần thiết, tuy nhiên, nó lại gây trở ngại cho các doanh nghiệp có nhu cầu thật sự. Một chính sách khác của Ngân hàng Nhà nước đó là cho phép các ngân hàng thương mại bán vàng để bình ổn giá vàng trong nước, tạo tiền đề ổn định tỷ giá. Tuy nhiên cách bán của chúng ta có vấn đề.Điểm quan trọng nhất đó là giá bán không phải do NHNN ấn định dựa trên giá quốc tế cộng thêm phí nhập khẩu và chênh lệch 400.000 đồng/lượng như ý định ban đầu của cơ quan quản lý. Thay vào đó giá bán do 5 ngân hàng và Công ty SJC (tạm gọi là 5+1) quyết định. Sau này thêm hai ngân hàng là Phương Nam và Việt Á được tham gia bán vàng, thì nhóm 5+1 chuyển thành 7+1. Các ngân hàng và SJC là những doanh nghiệp, và mục tiêu của họ trước hết phải là lợi nhuận. Hơn nữa thì cách bán vàng nhỏ giọt, dè chừng, khiến cho tâm lý chung luôn ở trạng thái chờ đợi, chỉ có chiều mua vào và không bán ra. Thoạt đầu, giá vàng được giữ ở mức 43-44 triệu đồng/lượng trong 1-2 tuần của tháng 10, nhưng những ngày gần đây, giá vàng đã tăng mạnh trở lại, lên mốc gần 47 triệu đồng/lượng. Một khi mục tiêu bán vàng can thiệp không thực hiện được, thị trường chỉ có một chiều mua, các ngân hàng muốn có thêm vàng chỉ còn cách nhập từ nước ngoài mà không thể huy động trong dân. Nhập khẩu vàng sẽ làm tăng cầu ngoại tệ, thâm hụt thương mại sẽ càng tăng, ngoại tệ càng khan khiếm. Lúc này, nền kinh tế Việt Nam sẽ chịu áp lực lớn, cùng với mức lạm phát, thâm hụt ngân sách đều cao, trong khi dự trữ ngoại hối thấp sẽ dẫn đến kỳ vọng phá giá nội tệ ngày càng lớn, gây ảnh hưởng mạnh đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. 3.1.1.3. Lạm phát Lạm phát ở Việt Nam luôn ở mức 2 con số trong những năm gần đây. Năm 2010, tỷ lệ lạm phát (được công bố) là 11.75%, trong khi tỷ lệ tăng GDP chỉ là 6%. Năm 2011, dự báo của IMF cho biết lạm phát của Việt Nam sẽ xấp xỉ 20%, nằm trong top 4 thế giới, trong khi tăng trưởng tương ứng chỉ đạt 5,5-6%. Sự mất giá mạnh của VNĐ khiến cho Ngân hàng nhà nước buộc phải điều chỉnh tăng tỷ giá mạnh, mặc dù USD cũng mất giá. Sự điều chỉnh tăng tỷ giá lại tạo áp lực tăng tỷ giá do sự lo ngại về sự mất giá trong ngắn hạn của VNĐ. Vòng xoay này lặp đi lặp lại khiến các doanh nghiệp phải gánh chịu rất nhiều chi phí tăng thêm do giá cả nguyên liệu đầu vào tăng, các khoản nợ bằng ngoại tệ cũng tăng… 3.1.2. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên ngoài Khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2007, nhưng đến thời điểm hiện tại là năm 2011, nền kinh tế thế giới vẫn đang phải chiến đấu để tránh lan rộng và khắc phục những hệ lụy khủng khiếp mà nó đem lại. Giá vàng, giá dầu thô thế giới đều tăng do sự mất giá của USD và lo ngại về triển vọng của nền kinh tế thế giới. Khủng hoảng nợ công của Mỹ và một số nước thuộc khối Eurozone càng khiến cho những nền kinh tế này gặp khó khăn về tài chính, người dân cũng phải cắt giảm chi tiêu cá nhân, dẫn đến cầu về sản phẩm sẽ sụt giảm, đơn hàng ít. Lượng cầu từ thị trường quốc tế sụt giảm sẽ làm sự cạnh tranh với các công ty nước ngoài ngày càng gay gắt. Khi đó giá bán và sự khác biệt sản phẩm sẽ được đưa ra làm tiêu chuẩn lựa chọn của người tiêu dùng. Trung Quốc, Ấn Độ…là những nước rất mạnh, gây rất nhiều khó khăn cho chúng ta. 3.2. Giải pháp 3.2.1. Nhà nước 3.2.1.1. Định hướng lại cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu: Về dài hạn, để tránh nhập siêu và phụ thuộc vào sự biến động tỷ giá, chúng ta cần điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu định hướng giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phầm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu; nâng cao tỷ trọng phần giá trị gia tăng; chú trọng đầu tư vào các ngành có hàm lượng chất xám cao có giá trị xuất khẩu như điện tử,, tin học, liên lạc viễn thông chế tạo máy… Theo ước tính gần đây của Bộ Công Thương nhiều ngành công nghiệp hiện nay đã lệ thuộc 80% nguyên liệu phụ tùng nhập khẩu chẳng hạn ngành ô tô mới nội địa hóa khoảng 5-10%, ngành xe máy khá hơn các ngành khác cũng chỉ đạt 40-50%. Bởi lẽ tới nay những nhà cung cấp linh kiện phụ tùng chủ yếu vẫn là những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và vẫn đang còn khoảng cách tiêu chuấn chất lượng khá lớn giữa các nhà cung cấp linh kiện trong và ngoài nước. Do đó, việc phát triển công nghiệp phụ trợ là cần thiết để tạo điều kiện cung cấp linh kiện phụ tùng cho các doanh nghiệp lắp ráp trong nước. Cùng với đó, cơ cấu quản lí nhập khẩu cần phải được hoàn thiện theo hướng tăng cường quản lí nhà nước, nhất là đối với mặt hàng nhập khẩu công nghệ và hàng tiêu dùng thông qua hệ thống các biện pháp thuế quan và phi thuế quan, kết hợp chặt chẽ với các biện pháp về tổ chức và giám sát hoạt động nhập khẩu để hạn chế những mặt hàng có thể sản xuất được hoặc mặt hàng xa xỉ độc hại cho nền kinh tế như rượu, bia, thuốclá, .… 3.2.1.2. Điều chỉnh hoạt động của Ngân hàng Nhànước Như đã phân tích ở trên, việc áp dụng một mức tỷ giá cố định trong điều kiện các yếu tố khác không đổi sẽ dẫn tới sự thiếu hụt ngoại tệ trên thị trường. Hiện tại Ngân hàng Nhà nước đang niêm yết tỉ giá liên ngân hàng ở mức 20.803 VND/USD sau 15 lần điều chỉnh liên tiếp trong tháng 10. Tuy nhiên mức tỉ giá này vẫn được đánh giá là thấp hơn so với mức cân bằng thực của thị trường (22.500-23.000 VND/USD) điều này làm cho thị trường chợ đen vẫn tồn tại và ngày càng sôi động. Chúng ta nên linh hoạt hơn trong chính sách tỷ giá, nhưng không có nghĩa là đồng nhất với việc thả nổi hoàn toàn mà cần quản lí thực hiện tỷ giá một cách gián tiếp thông qua việc kiểm soát lượng vốn gián tiếp đổ vào thị trường Việt Nam và đặt ra biên độ hợp lí, điều chỉnh tăng dần tỷ giá mà không mang lại xáo trộn lớn. Về lâu về dài, nếu thị trường cho thấy sự ổn định và minh bạch, Ngân hàng Nhà nước nên trả lại việc xác lập tỷ giá theo quan hệ cung cầu trên thị trường, bởi chỉ có như thế, tình trạng hai tỷ giá mới có thể giải quyết được. Ngân hàng Nhà nướccũng nên điều chỉnh lãi suất huy động tiền gửi bằng ngoại tệ hấp dẫn hơn, kéo gần hơn tới mức lãi suất của đồng nội tệ. Việc điều chỉnh này sẽ đem lại rất nhiều hiệu quả. Thứ nhất, thu hút một lượng ngoại tệ lớn ứ đọng trong dân chúng cung ứng cho nền kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Thứ hai, điều này sẽ làm giảm tình trạng đầu cơ găm giữ ngoại tệ. Thứ ba, hạn chế tình trạng vay ngoại tệ gửi nội tệ hưởng chênh lệch lãi suất. Ngân hàng Nhà nước cũng cần chỉ đạo các ngân hàng thương mại sàng lọc các đối tượng có nhu cầu vay ngoại tệ thực sự để có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu giảm thiểu rủi ro do biến động tỷ giá và lãi suất, có thể bằng một số phương pháp như: mua ngoại tệ với giá ưu đãi, hưởng lãi suất thấp hơn lãi suất niêm yết, tư vấn thực hiện các nghiệp vụ phái sinh… Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng nên thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại hối quốc gia theo hướng chuyển dần sang vàng hay các tài sản khác an toàn hơn . Hiện tại, dự trữ ngoại hối của Việt Nam hầu hết bằng USD (khoảng 13tỷ USD !?), và không ngoa khi nói chỉ “một cơn ho” của nền kinh tế Mỹ cũng khiến Việt Nam lao đao. Cho đến nay, vàng được xem là thứ tài sản luôn giữ được giá trị qua mọi thời đại của lịch sử. Vàng có thể thay thế ngoại tệ mạnh trong thanh toán quốc tế. Hơn nữa, việc dự trữ vàng sẽ giúp chúng ta chủ động hơn trước sự biến động đột ngột của giá vàng, giảm bớt sự phụ thuộc vào Mỹ. 3.2.2. Doanh nghiệp Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng cần có những biện pháp tự bảo vệ mình trước những biến động không lường trước được. Một số biện pháp khả thi các doanh nghiệp có thể tham khảo như: thực hiện các nghiệp vụ phái sinh, yêu cầu thanh toán bằng “rổ” ngoại tệ để phân tán rủi ro…Hơn hết, trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp cần tự nâng cao khả năng cạnh tranh của mình để có thể tự chủ động trong mọi tình huống .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docanh huong cua ty gia den hoat dong xuat nhap khau nhom 11.doc
Tài liệu liên quan