Đề tài Bản chất, đặc đ ểm, điều kiện hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế cũng như thực trạng các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam hiện nay

Từ những kết quả nghiên cứu trên chúng ta thấy được vai trò to lớn của các tập đoàn kinh tế đối với nền kinh tế. Vì vậy , để thúc đẩy nền kinh tế của Việt Nam phát triển và có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, chúng ta phải xây dựng được những tập đoàn kinh tế lớn mạnh. Để thực hiện thành công việc xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế, phát huy được sức mạnh, vai trò của chúng đối với nền kinh tế nước ta, Nhà nước cần ban hành những văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho mô hình tập đoàn kinh tế tồn tại và phát triển, đồng thời tạo hành lang hoạt động hiệu quả và có những hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp. Đặc biệt Nhà nước cần ban hành Luật và các nghị định quy định chống độc quyền, để sự ra đời của các tập đoàn kinh tế thực sự có khả năng cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế của Việt Nam phát triển, nhanh chóng thực hiện được mục tiêu Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.

doc35 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bản chất, đặc đ ểm, điều kiện hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế cũng như thực trạng các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này chiếm 93% tổng giá trị tài sản và 88,4% doanh thu hoạt động của tập đoàn kinh doanh. Về quy mô, tập đoàn kinh tế Trung Quốc tuy có quy mô nhỏ so với tập đoàn kinh tế khác trên thế giới nhưng ở trong nước cũng ở mức khá lớn như: số vốn bình quân một tập đoàn kinh tế là 4,8 tỷ nhân dân tệ tương đương 0,56 tỷ USD. Trong đó, 32 tập đoàn với tổng số vốn trên 50 tỷ nhân dân tệ chiếm 1,2% tổng số tập đoàn. Mặc dù vậy tập đoàn doanh nghiệp Trung Quốc còn gặp những thử thách như: Cơ cấu tổ chức một số tập đoàn doanh nghiệp chưa hợp lý; Hình thức sở hữu chưa đa dạng hoá, mức độ kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực còn hạn chế. Số lượng tập đoàn doanh nghiệp nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn; Còn tình trạng độc quyền; Sự phân bố tập đoàn kinh doanh theo ngành và theo lãnh thổ chưa đồng đều; Một số tập đoàn doanh nghiệp chưa hình thành đại hội cổ đông, chưa có Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát; thiếu cơ chế khuyến khích và phân công trách nhiệm không rõ ràng. Không có hệ thống công ty mẹ - công ty con rõ ràng, đầy đủ; Các tập đoàn doanh nghiệp nhà nước không thiết lập được cơ chế khuyến khích và tinh thần trách nhiệm có hiệu quả. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, thành lập một tập đoàn doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là lắp ghép các doanh nghiệp thành viên lại với nhau mà phải tạo nên một chỉnh thể kết hợp hữu cơ với một cơ cấu nhiều tầng cấp. Việc hình thành tập đoàn kinh tế cần tuân thủ những nguyên tắc sau: - Một là, TĐKT ra đời phải phù hợp với chính sách sản xuất và chiến lược phát triển kinh tế của Nhà nước. Việc hình thành TĐKT phải có tác động tích cực tới điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm của chính doanh nghiệp đó. Trước hết cần hình thành các tập đoàn trọng điểm có khả năng thúc đẩy các ngành sản xuất khác phát triển, tác động tới việc nghiên cứu và triển khai sản xuất các mặt hàng chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường. - Hai là, thực hiện nguyên tắc đầu tư tự nguyện. Việc hình thành tập đoàn phải tuân theo các quy luật kinh tế, không thể lắp ghép bằng mệnh lệnh hành chính. Việc hình thành tập đoàn phải tuân theo phương thức tự nguyện đóng góp cổ phần, tham gia cổ phần của người đầu tư, với sợi dây liên kết giữa các doanh nghiệp chủ yếu là vốn. Như vậy mới đảm bảo các mối quan hệ rõ ràng trong nội bộ tập đoàn và ổn định cơ cấu tổ chức. - Ba là, phải khuyến khích và đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, hạn chế độc quyền, nghiêm cấm các hoạt động lũng đoạn thị trường hoặc phong toả khu vực. - Bốn là, phải phân định rạch ròi chức năng quản lý kinh doanh với chức năng quản lý hành chính. Công ty mẹ của tập đoàn không thể thực hiện cả hai chức năng quản lý kinh doanh và quản lý hành chính. Tập đoàn cần được xác định không phải là Hiệp hội ngành nghề mà là một tổ chức kinh tế. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên được thiết lập trên cơ sở nắm giữ cổ phần hoặc quan hệ kỹ thuật sản xuất, không phải là quan hệ lệ thuộc hành chính. 3. Bài học rút ra đối với Việt Nam Thứ nhất: TĐKT là sản phẩm tất yếu khách quan, ra đời và phát triển theo quy luật tích lũy, tích tụ tập trung, quy luật thị trường cạnh tranh và lợi ích kinh tế với lợi nhuận tối đa... Do vậy, không nên chủ quan duy ý chí nóng vội, áp đặt ý nghĩ chủ quan vào quá trình phát triển của TĐKT Thứ hai: Những mối liên hệ giữa các Công ty theo chiều dọc, chiều ngang, đa dạng hoá công ty đa quốc gia, theo mô hình công ty mẹ - công ty con phải tôn trọng tính tự nguyện, lợi ích kinh tế, thông qua lợi ích dẫn đến việc liên kết không phải dùng mệnh lệnh hành chính áp đặt. Thứ ba: mỗi TĐKT nên xây dựng phương thức quản trị riêng cho tập đoàn mình. Phương pháp quản trị và xây dựng quản lý theo mô hình công ty mẹ - công ty con phải phù hợp với môi trường hoàn cảnh của quốc gia và ngành nghề hoạt động kinh doanh của mình. Về nhân sự quản trị cho công ty mẹ, công ty con nên sử dụng thật phù hợp, tránh lãng phí và phân bổ không đúng người tại mỗi vị trí. Phối hợp thật tốt giữa bộ phận này và bộ phận khác hay công ty này với công ty khác của tập đoàn kinh tế. Chú trọng đầu tư cho đổi mới công nghệ cho tập đoàn, tạo ra phương pháp nghiên cứu mới cho hoạt động kinh doanh, sản phẩm mới… Thứ tư: Phải thực hiện đa thành phần, đa sở hữu và nhà nước chỉ chiếm tỷ lệ chi phối ở những ngành lĩnh vực thật cần thiết. Nhà nước chủ yếu giữ vai trò hỗ trợ gián tiếp, làm chất xúc tác, tạo khuôn khổ pháp lý định hướng phát triển, nhà nước không làm thay, hoặc tạo ra tập đoàn kinh tế kiểu nhà nước hoá. Thứ năm: phải có sự tách biệt rõ ràng giữa chức năng quản lý vốn sở hữu của nhà nước với cơ chế hoạt động của thị trường và các chức năng khác. Hơn thế, sự đại diện với tư cách chủ sở hữu phần vốn nhà nước, cần được coi trọng và thực hiện nhất quán. Việc lựa chọn Ban giám đốc và các thành viên khác trong Hội đồng quản trị nên được tiến hành trên năng lực thực sự của họ. Hội đồng quản trị nên có đủ số lượng thành viên cần thiết là cổ đông bên ngoài và cần xây dựng tiêu chuẩn cao về tính minh bạch và công khai (OECD, 2005). Việt Nam cũng có thể áp dụng hệ thống đánh giá kết quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước của Hàn Quốc đi đôi với việc xây dựng chính sách khen thưởng hấp dẫn cũng như nguyên tắc cấm sự tham gia của các quan chức Chính phủ vào hoạt động quản lý điều hành các doanh nghiệp nhà nước hay tiến hành tuyển chọn ban giám đốc thông qua đấu thầu công khai. Thứ sáu: Hạn chế độc quyền của một số tập đoàn kinh tế, không sáp nhập một cách vô nguyên tắc làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia, tạo cơ chế, môi trường cạnh tranh lành mạnh Thứ bảy: Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế tập đoàn từ thấp đến cao, từ liên kết dọc đến liên kết ngang tuân theo trình độ xã hội hoá sản xuất và trình độ tổ chức quản lý. Sử dụng có hiệu quả đòn bẩy khuyến khích lợi ích kinh tế cá nhân, nhóm, khu vực với tự giác lao động sản xuất kinh doanh. Ch­¬ng IV Thùc tr¹ng cña c¸c TËp ®oµn kinh tÕ ViÖt Nam 1. Sự cần thiết và tính tất yếu hình thành Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập sâu rộng vào kinh tế quốc tế đang được nước ta tích cực thực hiện. Với mục tiêu đó, Việt Nam cần phải nâng cao tốc độ tăng trưởng, mở rộng kinh tế đối ngoại dựa trên việc phát huy những lợi thế so sánh vốn có nhằm tạo ra những bước đột phá về kinh tế để không chỉ tránh việc tụt hậu mà còn đuổi kịp các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Trên thực tế, với mục tiêu và định hướng như vậy, việc hình thành và phát triển các TĐKT mạnh trong một số lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế là hết sức cần thiết. Sau đây là ba lý do khẳng định việc hình thành các TĐKT ở Việt Nam là một khẳng định cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cả về mặt quốc gia lẫn sức mạnh của cộng động doanh nghiệp. Thứ nhất, Hội nhập và hợp tác quốc tế là một tất yếu khách quan đòi hỏi việc tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhỏ bé, phân tán thành những doanh nghiệp lớn có khả năng cạnh tranh cũng như đủ mạnh để có thể trở thành đối tác với doanh nghiệp nước ngoài là chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Chỉ có những doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, trình độ quản lý hiện đại, tiềm năng mạnh… thì mới đủ khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Trong khi doanh nghiệp ở Việt Nam có thể đạt được những điều kiện trên là rất ít, chỉ có các tổng công ty nhà nước mới có khả năng hội tụ những yếu tố này và các TĐKT. Thứ hai, Việt Nam chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là chấp nhận tính cạnh tranh như là một tất yếu khách quan. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dẫn tới quá trình tích tụ và tập trung vốn vào sản xuất và từ đó dẫn đến hình thành các doanh nghiệp lớn. Hơn nữa, việc hình thành TĐKT từ những tổng công ty Nhà nước là một tất yếu cho xu thế phát triển các TĐKT hiện nay. Thứ ba, các tổng công ty Nhà nước phần lớn hoạt động kém hiệu quả hoặc đạt hiệu quả thấp. Phần lớn là do cơ chế hoạt động của hình thức tổng công ty gây ra (như quản lý bằng mệnh lệnh hành chính, mập mờ trong chế độ sở hữu...). Với việc chuyển từ hình thức tổng công ty thành TĐKT sẽ giúp cho các tổng công ty giảm bớt và loại trừ dần dần những yếu kém đã tồn tại trong một thời gian dài. Từ ba yếu tố nêu trên có thể khẳng định rằng muốn xây dựng một nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa mang lại hiệu quả kinh tế cao thì tất yếu phải hình thành nên các TĐKT mạnh trong các lĩnh vực trọng yếu vì các TĐKT chính là biểu tượng cho sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam. 2.Vai trò của Tập đoàn kinh tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế Trong nền kinh tế của một quốc gia, hoạt động của các TĐKT có vai trò và ý nghĩa hết sức to lớn, thể hiện chủ yếu trên những mặt sau đây: 2.1. Tạo điều kiện huy động và phát huy rộng rãi các nguồn lực trong xã hội đầu tư vào phát triển kinh tế. Thông qua mô hình TĐKT, Nhà nước có điều kiện hơn để điều chỉnh kết cấu ngành, kết cấu sản phẩm và kết cấu tổ chức doanh nghiệp. Việc hình thành các TĐKT lớn đã hạn chế tối đa sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thành viên, thông qua mối liên hệ chặt chẽ giữa các doanh nghiệp thành viên để thống nhất phương hướng và chiến lược kinh doanh chung, nâng cao khả năng cạnh tranh của cả tập đoàn và mỗi doanh nghiệp thành viên, tối đa hoá lợi nhuận, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Mô hình tập đoàn cũng có lợi cho việc lưu động tài sản, phân phối hợp lý các yếu tố sản xuất trong phạm vi rộng, thúc đẩy sự tự điều chỉnh tài sản trong xã hội; nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản. Có lợi cho việc lấy dài bù ngắn, bổ sung lợi thế cho nhau, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy và nâng cao trình độ quản lý chung. Với các nước đang ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, mở cửa, hội nhập, hình thành các TĐKT mạnh còn là giải pháp chiến lược để chống lại sự thâm nhập một cách ồ ạt của các tập đoàn khổng lồ trên thế giới, giúp cho sản xuất trong nước đứng vững và từng bước vươn ra thị trường khu vực và thế giới. 2.2. Với tiềm lực mạnh, tập đoàn có khả năng tổ chức nghiên cứu các đề tài khoa học - công nghệ đòi hỏi vốn đầu tư lớn và cần sự phối hợp của nhiều nhà khoa học, phòng thí nghiệm, thiết bị nghiên cứu mà từng doanh nghiệp đơn lẻ không thể thực hiện được. Mặt khác, qui mô và phạm vi hoạt động rộng lớn của tập đoàn sẽ làm cho việc triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất có hiệu quả cao hơn với chi phí giảm. Tập đoàn có tác dụng lớn trong việc cung cấp, trao đổi thông tin và những kinh nghiệm tốt trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu, triển khai kết quả nghiên cứu vào sản xuất giữa các doanh nghiệp thành viên. 2.3. Có khả năng đầu tư vốn vào những lĩnh vực có công nghệ cao, đẩy nhanh ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ Với phạm vi và qui mô tổ chức sản xuất - kinh doanh rất lớn TĐKT có khả năng tập trung được nguồn vốn đầu tư vào những lĩnh vực đòi hỏi đầu tư lớn, nhất là những ngành công nghệ hiện đại mà các doanh nghiệp đơn lẻ với nguồn vốn hạn hẹp không đủ sức đầu tư để tạo ra những bước phát triển nhảy vọt và trở thành động lực của tiến bộ khoa học kỹ thuật trong các ngành công nghệ mới, là trung tâm giáo dục các tri thức về khoa học - công nghệ và quản lý tiên tiến cho cả nền kinh tế. Với tiềm lực kinh tế mạnh, có sự phân công, phối hợp của các doanh nghiệp thành viên hoạt động trong nhiều lĩnh vực và phạm vi rộng lớn, tập đoàn có khả năng liên tục chiếm lĩnh, mở rộng và củng cố thị trường; nâng cao khả năng cạnh tranh của tập đoàn kinh tế và các doanh nghiệp thành viên; đồng thời có thể giảm bớt và phân tán rủi ro cho các doanh nghiệp thành viên kinh doanh trong các ngành và các quốc gia khác nhau do những bất trắc của thị trường và thay đổi cơ cấu gây ra. Thông qua vai trò điều hoà vốn của tập đoàn, vốn của các doanh nghiệp thành viên được sử dụng vào những dự án tốt nhất, tránh tình trạng vốn bị phân tán đầu tư tràn lan, trùng lặp, hiệu quả không cao, từ đó nâng cao tính hiệu quả của nền kinh tế. Phát huy lợi thế của kinh tế qui mô lớn, khai thác một cách triệt để thương hiệu tập đoàn, hệ thống tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp mang thương hiệu tập đoàn. Nhờ mối liên kết dọc, các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn không những không bị phụ thuộc vào các nhà cung cấp nguyên liệu độc quyền mà còn có thể nhận được nguyên vật liệu cần thiết một cách đều đặn, với chất lượng và khối lượng theo yêu cầu. Các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn có thể dễ dàng chia sẽ thông tin và nguồn nhân lực khan hiếm, đẩy nhanh ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ, đồng thời từ đó tạo điều kiện mở ra các nguồn vốn và cơ hội kinh doanh mới. 2.4. Với các nước phát triển, sự thống nhất trong tập đoàn sẽ góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ ra nước ngoài một cách có hiệu quả nhất, thay đổi cơ cấu sản xuất một cách hợp lý. Với các nước đang phát triển, các TĐKT mạnh là cầu nối để tiếp thu nhanh chóng các thành tựu khoa học công nghệ trên thế giới, làm thu hẹp khoảng cách về trình độ với các nước phát triển, thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế. Các tập đoàn công nghiệp giữ vai trò quan trọng để các nước đi sau tiến kịp các quốc gia phát triển về kinh tế, đây là bài học thành công của Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước trong phát triển kinh tế vào những năm của thập kỷ 70, 80 thế kỷ XX. 2.5. Việc hình thành các TĐKT lớn sẽ giải quyết được việc làm cho một bộ phận dân cư tại khu vực, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyên môn hoá các ngành nghề, thúc đẩy phát triển các đặc khu kinh tế, các khu công nghiệp, qua đó làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội cho từng địa phương hay một quốc gia. 3. Sù h×nh thµnh vµ ph¸t triÓn cña mét sè TËp ®oµn kinh tÕ ë ViÖt Nam hiÖn nay 3.1. Tập đoàn Bưu chính viễn thông - Lộ trình hình thành Tập đoàn Bưu chính Viễn Thông Việt Nam: Ngày 23/03/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 58/2005/QĐ-TTg phê duyệt Đề án hình thành tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam trên cơ sở sắp xếp lại tổng công ty Bưu chính Viễn thông và các đơn vị thành viên. - Quý IV năm 2005: Chuyển Cục Bưu điện Trung ương về trực thuộc Bộ Bưu chính Viễn thông quản lý, chuyển các đơn vị sự nghiệp gồm Học viện công nghệ Bưu chính Viễn thông và các bệnh viện thuộc tổng công ty Bưu chính Viễn thông hiện nay thành đơn vị sự nghiệp độc lập và hoạt động theo cơ chế quy định tại nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ. Các cơ quan tổ chức thực hiện đề án tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam bao gồm: Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Tài chính, Hội đồng quản trị tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, cùng Bộ trưởng của các Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Nội vụ. Thủ trưởng các cơ quan liên quan, Ban chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ có trách nhiệm phối hợp với Bộ Bưu chính viễn thông Việt Nam trong việc thực hiện các nhiệm vụ nêu trên. - Ngày 09/01/2006, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 06/2006/QĐ-TTg về việc chuyển tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam thành tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, và quyết định này được chính thức trao cho Hội đồng Quản trị tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam vào ngày 26/3/2006. Như vậy, sau hơn một năm thực hiện quyết định 58/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam chính thức được ra đời với mô hình công ty mẹ - công ty con, trực tiếp kinh doanh một số lĩnh vực như mạng đường trục, quản lý, đầu tư, kinh doanh vốn. Mô hình công ty mẹ - công ty con của tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam là một mô hình được hình thành trên cơ sở tổ chức lại Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và phát triển theo mô hình tập đoàn kinh tế Nhà nước kinh doanh đa ngành. Các đơn vị thành viên của Tập đoàn bao gồm: Tổng công ty Bưu chính VN, các Tổng công ty Viễn thông vùng I, II, III, các công ty do tập đoàn nắm giữ 100% vốn điều lệ và các công ty do tập đoàn nắm trên 50% vốn điều lệ, các công ty liên doanh với nước ngoài về viễn thông, công nghệ thông tin và các đơn vị hành chính sự nghiệp. Tập đoàn được phép kinh doanh các lĩnh vực đầu tư tài chính, vốn trong nước và nước ngoài, các dịch vụ viễn thông đường trục, viễn thông - công nghệ thông tin trong nước và nước ngoài, truyền thông, quảng cáo; khảo sát, tư vấn, thiết kế, lắp đặt, bảo dưỡng các công trình, sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, cung ứng vật tư, thiết bị viễn thông - công nghệ thông tin; kinh doanh bất động sản, cho thuê văn phòng. Mục tiêu của quá trình chuyển đổi VNPT sang Tập đoàn Kinh tế Nhà nước nhằm tăng cường tích tụ về vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận, trong đó, điểm mấu chốt là tập trung sắp xếp đổi mới quản lý, xác lập lại cơ cấu sản xuất kinh doanh, lành mạnh hóa các quan hệ tài chính trong quá trình đổi mới quản lý, tạo điều kiện mới thuận lợi hơn cho các đơn vị thành viên đủ sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Qua lộ trình trên có thể thấy việc chuyển đổi từ Tổng công ty thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam chỉ diễn ra trong hơn một năm nhưng trên thực tế Quyết định số 06/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ chỉ là hợp thức hóa những gì mà Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã làm khi có Quyết định số 91/TTg ngày 07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm thành lập các Tổng công ty hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh doanh. Trong thời gian trước đó, quan hệ giữa VNPT với các đơn vị thành viên của VNPT vẫn mang nặng tính hành chính bao cấp với cơ chế nặng về “xin-cho” chứ chưa hoàn toàn tuân theo quy luật của kinh tế thị trường. Đó chính là nguyên nhân hạn chế sự năng động, sáng tạo, sự tự chủ của các đơn vị thành viên của VNPT. Đồng thời, Tổng công ty do quá tải trong quản lý, điều hành, kiểm tra, kiểm soát dẫn đến hoạt động không hiệu quả. Chính vì vậy, cần phải chuyển đổi mối quan hệ giữa VNPT với các đơn vị thành viên theo hướng tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường, để phù hợp với các mối quan hệ trong tập đoàn kinh doanh. Tức là nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên, dựa trên cơ sở liên kết về tài chính và các liên kết khác để gắn kết thực sự giữa công ty mẹ với các công ty con (như đã nêu trong mô hình trên). Với mô hình như vậy, công ty mẹ chỉ tập trung quản lý một số lĩnh vực quan trọng của tập đoàn, còn lại để cho các công ty con tự quản lý theo quy định của pháp luật. Có nghĩa là với sự quản lý tập trung vào những lĩnh vực quan trọng của tập đoàn thì công ty mẹ không còn chịu nhiều gánh nặng như trước đây mà chỉ tập trung vào việc quản lý những lĩnh vực quyết định tới sự sống còn của tập đoàn. Cho phép các công ty con tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhưng vẫn cần có sự kiểm soát của công ty mẹ. Cơ chế kiểm soát sẽ giúp cho các đơn vị thành viên của Tập đoàn thực hiện tốt công tác tài chính nằm trong chiến lược kinh doanh nói chung và chiến lược tài chính nói riêng của Tập đoàn. Ngày 12/4/2008, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã phóng thành công vệ tinh VINASAT-I lên quỹ đạo. Vệ tinh VINASAT-I được sản xuất với công nghệ tiên tiến nhất, cao 4m, nặng 2.600kg, có dung lượng phát 20 bộ phát đáp trên băng tần C và Ku và có độ tuổi từ 15 – 20 năm do hãng Lockheed Martin chế tạo.Đây thực sự là một mốc son trong lịch sử phát triển của ngành viễn thông Việt Nam. Việc phóng thành công và đưa vệ tinh này vào khai thác sẽ mở ra những tiềm năng kinh doanh và những cơ hội phát triển mới cho Việt Nam. Với 10.000 kênh thoại/Internet/truyền số liệu hoặc khoảng 120 kênh truyền hình, VINASAT-I sẽ giúp Việt Nam sớm hoàn thành việc đưa các dịch vụ viễn thông, Internet, truyền hình tới tất cả những vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo,... Bên cạnh đó, VINASAT-I cũng sẽ hỗ trợ hiệu quả công tác thông tin phục vụ phòng chống và ứng cứu đột xuất khi xảy ra thiên tai, bão lũ. VINASAT-I thực sự là một bước tiến của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, xứng đáng là tập đoàn hàng đầu của VN. 3.2. Tập đoàn Điện lực Trong Quyết định số 147/2006/QĐ-TTg ngày 22/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Điện lực Việt Nam, đã nêu rõ nhiệm vụ của Tập đoàn là “...kinh doanh đa ngành, trong đó sản xuất và kinh doanh điện năng, viễn thông công cộng, cơ khí điện lực là ngành kinh doanh chính; làm nòng cốt để ngành công nghiệp điện lực Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả”. Ngoài ra, Tập đoàn Điện lực Việt Nam cũng sẽ hoạt động các ngành nghề kinh doanh cụ thể như công nghiệp điện năng, khảo sát thiết kế, tư vấn xây dựng, xây lắp, bảo dưỡng các công trình điện, công trình công nghiệp, dân dụng, công trình viễn thông công nghệ thông tin; sản xuất, sửa chữa, thí nghiệm thiết bị điện và phụ kiện điện, cấu kiện thép bê tông và cung ứng vật tư thiết bị ngành điện; xuất nhập khẩu điện năng, vật tư thiết bị phục vụ ngành điện. Tập đoàn được phép kinh doanh vận tải thủy bộ phục vụ sản xuất, kinh doanh; khai thác nguyên liệu phi quặng; kinh doanh các dịch vụ công nghệ thông tin; hoạt động tài chính, chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm... Tập đoàn Điện lực Việt Nam sẽ nắm giữ 100% vốn điều lệ và có 6 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, 5 công ty chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trong năm 2006 - 2007 và 2 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mới lập. Công ty mẹ sẽ nắm giữ trên 50% vốn điều lệ của 26 công ty đồng thời có thêm 6 công ty liên kết và 5 đơn vị sự nghiệp khác Tập đoàn Điện lực Việt Nam được hình thành trên cơ sở đa sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước là chi phối, bao gồm các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, các doanh nghiệp đa sở hữu, được sắp xếp, tổ chức lại từ tổng công ty Điện lực Việt Nam và các đơn vị thành viên. Tập đoàn có trình độ công nghệ, quản lý hiện đại và có chuyên môn hóa cao; kinh doanh đa ngành, trong đó sản xuất và kinh doanh điện năng, viễn thông công cộng, cơ khí điện lực là ngành kinh doanh chính; gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất, kinh doanh với khoa học, công nghệ, nghiên cứu, triển khai, đào tạo và làm nòng cốt để ngành công nghiệp điện lực Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Mối quan hệ giữa công ty mẹ trong tập đoàn Điện lực Việt Nam với chủ sở hữu nhà nước và các công ty con, công ty liên kết được thực hiện theo pháp luật và quy định trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty mẹ. Chính phủ thống nhất quản lý và tổ chức thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam là công ty nhà nước, có chức năng trực tiếp sản xuất, kinh doanh và đầu tư tài chính vào các doanh nghiệp khác. Mặc dù vẫn được viết tắt là (EVN) nhưng tập đoàn Điện lực Việt Nam với đầy đủ những yếu tố chuẩn bị chín muồi, đã được hình thành với một dáng dấp và nguồn lực hoàn toàn đổi mới. Đây là bước phát triển tất yếu của tổng công ty Điện lực Việt Nam nhằm đáp ứng những đòi hỏi về nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, thu hút vốn đầu tư, xác lập, vận hành thị trường điện, hội nhập kinh tế quốc tế. Sự ra đời của Tập đoàn Điện lực Việt Nam là cần thiết và tất yếu. Bởi vì, hơn 10 năm qua, với 59 đơn vị thành viên, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (TCT) với cơ chế chỉ huy điều hành tập trung, tổng công ty có điều kiện thuận lợi trong khai thác, điều hành kinh tế hệ thống điện, quản lý kỹ thuật, phối hợp tốt các hoạt động về khai thác vận hành và đầu tư. Cơ chế tập trung khấu hao giúp tổng công ty xây dựng được hệ thống các nhà máy điện đa dạng về loại hình, trong đó có những nhà máy điện lớn và phát triển một hệ thống lưới điện truyền tải đồng bộ, đồng thời có điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện công tác điện nông thôn...Dù tổng công ty đã tích cực chủ động trong việc phân cấp mạnh cho các đơn vị song mặt trái của cơ chế chỉ huy điều hành tập trung là tính chủ động, sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị còn thấp. Công tác chỉ đạo điều hành bằng mệnh lệnh hành chính chưa gắn chặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh, việc chậm ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật chưa tạo điều kiện cho đa dạng hoá, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, quản lý ngành Điện và thúc đẩy cạnh tranh đã dẫn tới một số bất cập như: Số lượng lao động lớn, năng suất chưa cao, vẫn còn nhiều nhà máy có thiết bị công nghệ cũ, lạc hậu so với các nước trong khu vực và mức trung bình của thế giới,... Trước những tồn tại nêu trên, “cần thiết cải cách theo hướng tập đoàn Điện lực Việt Nam trên cơ sở mô hình công ty mẹ - công ty con để phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của các đơn vị thành viên, tạo điều kiện thực hiện triệt để tiến trình đổi mới sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty” (trích Đề án thành lập tập đoàn Điện lực Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt). Hình thành công ty mẹ và các công ty con là các pháp nhân độc lập và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình; chuyển phương thức điều hành chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính sang điều hành bằng quan hệ hợp đồng kinh tế, đảm bảo sự minh bạch về tài chính giữa công ty mẹ và các công ty con, thu hút vốn đầu tư và tiếp thu kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp từ bên ngoài; chuẩn bị điều kiện để tham gia và thực hiện thị trường điện cạnh tranh. Có thể nói, việc chuyển sang hoạt động theo mô hình Tập đoàn kinh tế là một bước thay đổi sâu rộng và cơ bản trong quá trình phát triển và đổi mới tổ chức quản lý các hoạt động của ngành Điện lực Việt Nam. Đứng trước những cơ hội và thách thức đan xen, với quan điểm thành lập Tập đoàn kinh tế đa ngành nghề, từng bước khẳng định vị thế trong nước và mở rộng thị trường ra nước ngoài, chiến lược phát triển của Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã được xác định. Trong đó: Về sản xuất kinh doanh điện năng, sẽ ưu tiên đầu tư xây dựng những công trình nguồn điện có hiệu quả kinh tế cao, phát triển các nhà máy điện với tỉ lệ thích hợp, phù hợp với khả năng cung cấp và phân bố của các nguồn nguyên liệu. Với lĩnh vực viễn thông, điện lực, sẽ nỗ lực đáp ứng tối đa nhu cầu thông tin liên lạc phục vụ công tác quản lý, vận hành kinh doanh trong Tập đoàn, phát triển các loại hình dịch vụ nhằm mục tiêu chiếm lĩnh không dưới 15% thị phần các dịch vụ viễn thông công cộng vào năm 2010. Trong lĩnh vực tài chính, hướng tới mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi với tỉ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh lớn hơn hoặc bằng 12%, đảm bảo tỉ lệ tự đầu tư trên 30%, xây dựng nguyên tắc xác định giá mua bán điện trên cơ sở tách bạch từng khâu sản xuất, truyền tải, phân phối, thành lập Công ty Tài chính Điện lực, phát hành trái phiếu trong và ngoài nước. Về lĩnh vực cơ khí điện lực, phấn đấu đến năm 2010, tự chủ phần lớn thiết bị điện đến 110 kV, có thể đáp ứng một phần nhu cầu thiết bị và máy biến áp 220 kV, đồng thời cung cấp trọn bộ cơ khí thuỷ công, các kết cấu thép của các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện được chế tạo trong nước... 4. Một số khó khăn trong hình thành và phát triển Tập đoàn kinh tế tại Việt Nam Cho đến nay, 8 TĐKT nhà nước do Chính phủ thí điểm thành lập và một loạt các DN tư nhân hình thành theo mô hình TĐKT nở rộ thời gian qua đang cho thấy xu thế tất yếu của việc liên kết phát triển để lớn mạnh, tăng năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập. Việc hình thành các TĐKT nhà nước hiện vẫn đang ở giai đoạn thí điểm. Dù đã có 8 TĐKT nhà nước ra đời,nhưng đây mới chỉ ở bước đầu và còn rất nhiều vấn đề khó khăn cần phải khắc phục để có thể tiếp tục xây dựng phát triển các tập đoàn kinh tế ngày một vững mạnh trong tương lai. Dưới đây là một số khó khăn và vướng mắc đối với việc hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế tại Việt Nam hiện nay. 4.1. Về mặt Nhà nước - Việc thành lập và phát triển của các tập đoàn kinh tế hiện nay đang gặp nhiều khó khăn và vướng mắc về văn bản pháp luật trong việc hướng dẫn thành lập các tập đoàn kinh tế. Các mô hình tập đoàn kinh tế không giống mô hình tổng công ty (sự độc lập thực sự của các pháp nhân, quan hệ bình đẳng trước pháp luật của tổng công ty và các đơn vị thành viên "pháp nhân nằm trong pháp nhân"). Chính cơ cấu tổ chức đó của tổng công ty đã tạo ra sự không rõ ràng trong nghĩa vụ và trách nhiệm, tạo ra sự kém chủ động của các đơn vị thành viên cũng như tạo ra mối quan hệ chỉ đạo nặng về hành chính, mệnh lệnh... Mô hình tập đoàn cơ bản sẽ khắc phục được những bất cập của mô hình tổng công ty vì việc xây dựng mô hình tập đoàn kinh tế hiện tại chỉ dựa vào Luật Doanh nghiệp và Nghị định 153 của Chính phủ về việc quản lý tổng công ty Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế trở ngại cho việc xây dựng các tập đoàn lớn ở Việt Nam như thiếu chính sách khuyến khích cạnh tranh và hạn chế độc quyền; hạn chế trong chính sách đầu tư ra nước ngoài vì Luật Doanh nghiệp nhà nước hiện hành mới chỉ quy định về chi nhánh, văn phòng đại diện. Các quy định khác về thành lập Doanh nghiệp ở nước ngoài còn hạn chế về quy mô và chưa rõ ràng về pháp lý. Ngoài ra, chính sách về khoa học công nghệ, hạn chế về đầu tư, tài chính... cũng đang là những trở ngại trong việc thành lập tập đoàn kinh tế. - Lúng túng trong giải quyết các vấn đề cụ thể khi xây dựng đề án thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế hiện nay là mối quan hệ và liên kết giữa các đơn vị trong tập đoàn, cơ chế thực hiện liên kết; cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý (thành phần, quyền, trách nhiệm và mối quan hệ giữa các bộ phận quản lý trong bộ máy quản lý tập đoàn; thương hiệu của tập đoàn; quy mô vốn điều lệ và các tiêu chí khác để xác lập tập đoàn; cơ chế chính sách đối với tập đoàn kinh tế. - Theo thông lệ trên thế giới, tập đoàn không phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Các doanh nghiệp tự nguyện gia nhập tập đoàn đều có tư cách pháp nhân đầy đủ và hoạt động độc lập. Vì vậy, không có một mệnh lệnh hành chính nào có hiệu lực trong tập đoàn. Cũng vì vậy, không có một quyết định hành chính của bất kỳ cấp quản lý nào về việc thành lập tập đoàn. Trong các tập đoàn trên thế giới, không tồn tại chức danh TGĐ Tập đoàn mà chỉ có Chủ tịch Tập đoàn do Hội đồng chủ tịch của các công ty con bầu ra. Nhưng, vừa qua một số tập đoàn được thành lập trên cái nền là các TCT nhà nước lại theo một quyết định hành chính, chỉ rõ tập đoàn có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng. Đồng thời, lại có quyết định bổ nhiệm TGĐ, Chủ tịch HĐQT. Vì v ậy, việc điều hành tài chính ở các tổng công ty như hiện nay bằng quyền lực hành chính là chủ yếu, điều hành mang tính chất là đơn vị quản lý cấp trên, trong khi thẩm quyền lại không đầy đủ (có việc tổng công ty giải quyết được, nhưng có việc phải cơ quan cấp Bộ mới xử lý được) và nhiều tổng công ty có tiềm lực tài chính quá nhỏ bé. - Nhà nước không nên áp đặt một mô hình mẫu duy nhất, mô hình cụ thể do các tổng công ty và doanh nghiệp tự quyết định, lựa chọn căn cứ vào đặc thù của mình (ví dụ như theo mô hình một Ủy ban điều hành dưới đó là các doanh nghiệp khối sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp khối bán hàng, các doanh nghiệp khối tài chính…) 4.2. Về quản lý trong nội tại các Tập đoàn kinh tế - Trong việc quản lý và điều hành các TĐKT lớn như hiện nay thì năng lực của lãnh đạo và các nhà quản lý còn thiếu nhiều cả về số lượng và chất lượng. Yếu tố con người trong việc quản lý và điều hành quyết định sự thành công lớn mạnh của mỗi một TĐKT. - Khả năng liên kết giữa công ty mẹ với các công ty con và giữa các công ty con với nhau còn yếu kém, do đó chưa tạo ra sức mạnh tập trung, việc cạnh tranh lẫn nhau vẫn còn tồn tại. Các yếu tố đó sẽ tạo ra hiệu qủa sản xuất kinh doanh thấp, sức cạnh tranh yếu là điều tất yếu xảy ra. Cho nên việc tăng cường liên kết cứng là nòng cốt, điều tiết và liên kết mềm theo xu hướng nâng cao hiệu quả, tăng sức cạnh tranh của tập đoàn giữa các đơn vị để nâng cao chất lượng, giảm chi phí, tích tụ vốn đầu tư để tăng sức cạnh tranh trong tập đoàn và tăng hiệu quả hoạt động của cả tập đoàn kinh tế. - Việc các tổng công ty khi thành lập TĐKT chưa chú ý đến chiến lược phát triển, thương hiệu, có thị trường tiêu thụ hoặc thị phần lớn, các đơn vị thành viên hoạt động có hiệu quả, mức lao động dôi dư vừa phải... thì các yếu tố trên nếu không được đáp ứng đầy đủ và các vướng mắc không được giải quyết thì sẽ dẫn đến các doanh nghiệp kinh doanh cùng một loại sản phẩm, cùng ngành nghề, lĩnh vực và đối tượng khách hàng. Do không đa dạng hoá các ngành nghề, sản phẩm dịch vụ khi thành lập tập đoàn sẽ dễ xảy ra những xung đột lợi ích trong nội bộ là điều tất yếu. - Tình trạng vốn của các tổng công ty còn hạn chế và phụ thuộc nhiều vào vốn ngân sách nhà nước, còn yếu kém trong khả năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội do cơ cấu đơn sở hữu là chủ yếu. Số Tổng công ty có phân công chuyên môn hoá, hợp tác hoá mạnh mẽ còn quá ít. Nhiều Tổng công ty mang tính tập hợp các Doanh nghiệp thành viên cùng ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm, đối tượng khách hàng và thị trường nên dẫn đến xung đột về lợi ích. - Mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong tổng công ty có tính chặt chẽ của liên kết hành chính nhưng lỏng lẻo về quan hệ kinh tế và phân chia lợi ích. Về cơ bản đó là liên kết của các đơn vị thành viên thuộc một sở hữu duy nhất (Nhà nước), trong khi các TĐKT trên thế giới có đan xen và đa dạng về sở hữu. Bên cạnh đó, tổ chức quản lý cũng rất khó khăn vì vai trò mờ nhạt của Hội đồng quản trị và đặc biệt là vướng mắc trong quan hệ quản lý giữa Hội đồng quản trị và điều hành của Tổng giám đốc. - TĐKT nhà nước lẽ ra phải lo tập trung vào các lĩnh vực chuyên môn có thế mạnh thì mới phát huy được sức mạnh, tập hợp được nguồn lực, đằng này tập đoàn nào cũng chủ trương kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực, đầu tư phân tán, dàn trải.Gần đây Vinashin, một tập đoàn chuyên về đóng tàu biển tuyên bố đang có ý định thành lập nhà máy bia, và mới đây Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam khởi công xây dựng nhà máy bia tại Long An đã khiến dư luận một lần nữa dấy lên câu hỏi về sự đa dạng hóa chức năng hoạt động của các TĐKT. Các tập đoàn từ dầu khí, điện lực, viễn thông, đến công nghiệp tàu thủy, đường sắt, hàng hải, hàng không... đều đã có các công ty trực thuộc, các bộ phận kinh doanh những lĩnh vực ngoài ngành nghề chính. Công ty tài chính, công ty bất động sản, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư... xuất hiện nhan nhản và trở thành “mốt”. Các TĐKT cho rằng, đơn vị cần phải mở rộng sân chơi, ngày càng “tự cung tự cấp”, thậm chí là “lấy ngắn nuôi dài”. Như vậy, thói quen cố hữu của anh nông dân vẫn đang ngự trị trong những ông chủ của TĐKT nắm trong tay nhiều tỷ đồng của dân và điều này có thể ảnh hưởng rất tiêu cực đến các liên kết chuỗi trong nền kinh tế. Sự hình thành và phát triển các TĐKT ở Việt Nam hiện nay mới chỉ là bước đầu, do đó khó tránh khỏi có những khó khăn và vướng mắc cho phía quản lý nhà nước, cũng như phía nội tại của TĐKT. Trên đây là những khó khăn và tồn tại hiện nay đối với việc hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế Việt Nam. Cần phải có những biện pháp cụ thể và phải triển khai nhanh chóng các biện pháp trên nhằm tháo gỡ những khó khăn và khắc phục những tồn tại trên để tạo được những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các tập đoàn kinh tế trong thời gian tới. Ch­¬ng IV Gi¶i ph¸p ph¸t triÓn vµ ph¸t huy vai trß cña c¸c TËp ®oµn kinh tÕ ViÖt Nam Gi¶i ph¸p xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cần thiết cho các TĐKT hoạt động như các thực thể kinh tế độc lập: Nhà nước đã có những chính sách tạo ra môi trường pháp lý thích hợp với mô hình TĐKT. Tạo ra khung cơ chế thực sự cho việc hình thành và phát triển TĐKT, xác định rõ nội dung, kể cả phương diện pháp lý như địa vị pháp lý của TĐKT, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của các doanh nghiệp trong TĐKT, báo cáo hợp nhất, nộp thuế, quan hệ trong nội bộ TĐKT. Nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật: Trước hết, các quyết định ban hành cần đề cập đúng bản chất và đặc thù về mô hình, tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT. Trong chiến lược phát triển TĐKT phải kiểm tra, kiểm soát thị trường bằng những biện pháp mà chúng ta đã cam kết khi gia nhập WTO, bao gồm: Về luật pháp, chính sách, triển khai thực hiện có hiệu quả Luật doanh nghiệp đã ban hành. Nhà nước đã xây dựng các văn bản hướng dẫn và qui định khác có liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh của các TĐKT nhưng vẫn chưa đầy đủ. Cần rà soát và có chương trình triển khai theo đúng tiến độ các cam kết hội nhập liên quan đến mở cửa thị trường; công bố các cam kết của nước ta với các nước trong các Hiệp định song phương và đa phương tạo ra sự minh bạch về các điều kiện phát triển tập đoàn kinh tế, nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư nhằm phát triển TĐKT ở nước ta. Về thủ tục hành chính, rà soát các vướng mắc về thủ tục hành chính ở tất cả các lĩnh vực, các thủ tục liên quan tới triển khai dự án đầu tư như thủ tục về đất đai, xuất nhập khẩu, cấp dấu, xử lý tranh chấp... Đồng thời, cần tập trung xử lý dứt điểm các vướng mắc trong quá trình cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư và các vấn đề vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia hình thành các TĐKT. Về con người, tăng cường công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từng bước đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của các TĐKT. Đặc biệt chú ý đào tạo, xây dựng được đội ngũ những nhà quản trị trẻ tài năng. Bên cạnh đó, phải khắc phục tình trạng đình công bất hợp pháp trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã diễn ra trong thời gian qua. Đồng thời nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn trong các TĐKT, đặc biệt là trong các TĐKT có vốn đầu tư nước ngoài. Về kết cấu hạ tầng, tiếp tục tập trung nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng nói chung, trước mắt giải quyết tốt vấn đề nhu cầu năng lượng cho các doanh nghiệp. Có cơ chế khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ tầng, trong đó có các nhà máy điện độc lập, các công trình giao thông, cảng biển... Về phát triển công nghiệp phụ trợ, triển khai các giải pháp đồng bộ để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ trực tiếp cho việc hình thành các TĐKT . Về xúc tiến đầu tư, thúc đẩy triển khai kết quả từ các cuộc vận động đầu tư của Việt Nam tại các nước trong thời gian qua. Nghiên cứu để có các giải pháp thu hút đầu tư thích hợp đối với các tập đoàn kinh tế lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) của một số nước phát triển, trước hết là Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU. Sự thu hút này diễn ra theo cả hai hướng: Thực hiện những dự án lớn, công nghệ cao hướng vào xuất khẩu và tạo điều kiện để một số tập đoàn xuyên quốc gia xây dựng các trung tâm nghiên cứu phát triển, xây dựng vườn ươm công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài giàu tiềm năng tiến hành đầu tư vào Việt Nam. 2. Giải pháp khuyến khích thành lập Tập đoàn kinh tế -Nhà nước phải xây dựng được môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi cho việc hình thành TĐKT. Ban hành các chính sách tài chính đối với các tổng công ty để tạo điều kiện cho các tổng công ty tự tích tụ vốn, chủ động tái đầu tư phát triển và chú trọng nuôi dưỡng nguồn thu. - Để khuyến khích hỗ trợ và thúc đẩy hình thành các TĐKT: Nhà nước cần quan tâm hơn nữa chính sách huy động vốn qua kênh cổ phần hóa, qua thị trường chứng khoán, các chính sách khác như chính sách khoa học, công nghệ cũng tạo động lực mạnh để hình thành và phát triển TĐKT. Phải nhanh chóng tạo ra cơ chế, chế tài, quy chế để các TĐKT hoạt động một cách thuận lợi, đạt được những tiêu chuẩn của xu thế phát triển TĐKT trên thế giới, từng bước nâng cao sức cạnh tranh của các TĐKT trong nước với các TĐKT có vốn đầu tư nước ngoài. - Phát triển các thị trường tài chính, lao động, bất động sản, thị trường vốn, công nghệ tạo ra sự đồng bộ liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các thị trường này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi hình thành các TĐKT. 3. Các giải pháp hỗ trợ các Tập đoàn kinh tế phát huy vai trò là mũi nhọn phát triển kinh tế của đất nước - Tăng cường tích tụ về vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận, trong đó điểm mấu chốt là tập trung sắp xếp đổi mới quản lý, xác lập lại cơ cấu sản xuất kinh doanh, lành mạnh hóa các quan hệ tài chính trong quá trình đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các TĐKT. Phải nhanh chóng đổi mới tư duy về phát triển TĐKT từ các doanh nghiệp trong nước. Đồng thời, từng bước xây dựng một thể chế phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. - Các TĐKT phải khẩn trương xây dựng quy chế tổ chức và quy chế tài chính để sớm đi vào hoạt động có hiệu quả. Việc tiến hành chia tách, sáp nhập, đòi hỏi có cơ chế rõ ràng, đảm bảo cho các TĐKT hoạt động tốt, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, đồng thời bảo đảm việc làm cho người lao động. - Các TĐKT cần tiếp tục đổi mới trên cơ sở tiến hành sắp xếp các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong khu vực dịch vụ mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn thì sớm tiến hành cổ phần hóa. Một số đơn vị đã tiến hành theo mô hình công ty cổ phần và đang có uy tín trên thị trường chứng khoán thì đưa lên sàn giao dịch chứng khoán. Cần nghiên cứu triển khai dịch vụ mới trên cơ sở phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân, viên chức và lực lượng, cơ sở vật chất có sẵn. Những ngành nghề, lĩnh vực đang được phép thí điểm hình thành TĐKT thì phải sớm tổng kết, đánh giá để hoàn thiện các kinh nghiệm về TĐKT. - Các TĐKT cần phải soạn thảo điều lệ hoạt động, quy chế tài chính với sự vận dụng sáng tạo các chủ trương và khuôn khổ thử nghiệm mà Chính phủ cho phép và việc áp dụng kinh nghiệm của các TĐKT lớn trên thế giới. - Các TĐKT đang hoạt động, cần sớm trình Chính phủ kế hoạch phát triển theo từng giai đoạn, trong đó nhấn mạnh giải pháp phát triển về công nghệ, thể hiện vai trò TĐKT là mũi nhọn phát triển kinh tế của đất nước. - Các TĐKT cần tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế, mở cửa với bên ngoài. Chính phủ Việt Nam đã cam kết tiếp tục ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư kinh doanh tại thị trường Việt Nam. - Bước sang thế kỷ của nền kinh tế tri thức, các TĐKT cần có mục tiêu về phát triển khoa học công nghệ, khẳng định và đẩy mạnh vai trò nghiên cứu khoa học công nghệ gắn với sản xuất kinh doanh của TĐKT, đặc biệt chú ý phát triển mạnh các tiềm năng về vật chất và nhân lực để có thể tiếp cận công nghệ mới của thế giới. Bên cạnh đó, cần xây dựng các cơ chế chính sách nhằm thu hút vốn cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ tại các TĐKT thông qua hoạt động hợp tác và trao đổi kinh nghiệm với các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực quản lý và phát triển công nghệ. 4. Các giải pháp thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại hình Tập đoàn kinh tế Để thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại hình TĐKT cần phải dựa vào các tổng công ty nhà nước với một số chính sách sau Chính sách thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư và liên kết kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính sách này hướng vào việc đẩy mạnh cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp nhà nước, phát triển thị trường chứng khoán, thúc đẩy liên kết kinh doanh giữa các doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Chính sách đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn kinh tế. Cho phép công ty mẹ (là đại diện của tập đoàn) được sử dụng năng lực của toàn bộ các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn để tham gia các hoạt động đấu thầu, kể cả đấu thầu quốc tế. Trường hợp trúng thầu, công ty mẹ được chia gói thầu cho các công ty con thực hiện. Tuy nhiên, công ty mẹ là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Chính sách đối với thương hiệu của tập đoàn kinh tế. TĐKT có thương hiệu chung. Thương hiệu của công ty mẹ có thể trở thành thương hiệu chung của TĐKT. Trong một số trường hợp, các doanh nghiệp thành viên TĐKT sử dụng thương hiệu chung này bên cạnh thương hiệu của mình. Các doanh nghiệp thành viên tập đoàn sử dụng thương hiệu của công ty mẹ trong hoạt động giao dịch kinh doanh nhưng phải được phép của công ty mẹ và theo thoả thuận với công ty mẹ. Chính sách về báo cáo tài chính, đối với TĐKT hình thành trên cơ sở các tổng công ty Nhà nước, cần có hướng dẫn về vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính hợp nhất của các đơn vị doanh nghiệp là thành viên của TĐKT. Báo cáo tài chính hợp nhất là báo cáo tổng hợp của cả công ty mẹ và các công ty con, sau khi loại trừ những chi phí giao dịch trong nội bộ tập đoàn kinh tế, sẽ phản ánh chính xác giá trị sản phẩm và lợi nhuận thực đạt được. Trong đó, quy định các giao dịch tài chính giữa các doanh nghiệp thành viên tập đoàn phải được báo cáo đầy đủ và công khai. Báo cáo này do công ty mẹ thực hiện. Công ty mẹ tổng hợp báo cáo quyết toán tài chính của các công ty con do công ty mẹ nắm giữ toàn bộ vốn và công ty con có cổ phần, vốn góp chi phối và báo cáo lên đầu mối chủ sở hữu Nhà nước. Báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn phải đề cập đến vốn, nợ, chi phí, doanh thu, lợi nhuận, thuế thu nhập của cả tập đoàn sau khi đã loại bỏ các giao dịch giữa công ty mẹ và các công ty con cũng như giữa các công ty con với nhau. Khi tính vốn của tập đoàn, báo cáo tài chính hợp nhất không tính khoản đầu tư cổ phần hoặc vốn góp của công ty mẹ vào các công ty con hoặc giữa các công ty con. Chính sách đối với các tổng công ty xây dựng đề án phát triển thành TĐKT, hiện nay cần khẳng định quan điểm có nên thành lập chính sách riêng trong một giai đoạn nhất định đối với các tổng công ty xây dựng đề án phát triển thành TĐKT. Kinh nghiệm của Trung Quốc đã có chính sách riêng đối với những doanh nghiệp xây dựng đề án phát triển thành tập đoàn kinh tế và điều này là cần thiết. Đối với các tổng công ty của Việt Nam, cần đổi mới chính sách phân phối lợi nhuận cho các tổng công ty có xây dựng đề án hình thành TĐKT trong thời gian nhất định, nhằm tạo điều kiện và động lực cho các doanh nghiệp xây dựng đề án phát triển thành TĐKT. Nên cho phép công ty mẹ sử dụng phần lợi nhuận sau thuế, phân chia theo nguồn vốn công ty mẹ tự huy động để tăng vốn tại công ty mẹ để tăng tốc độ và khả năng tích tụ, tập trung vốn của các TĐKT ở Việt Nam. Chính sách tín dụng, cho phép công ty mẹ được bảo lãnh tín dụng cho các công ty con bằng toàn bộ số vốn của tập đoàn được ghi trong quyết định thành lập. Thông qua tập đoàn, các doanh nghiệp thành viên được huy động vốn để kinh doanh dưới các hình thức: phát hành trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu; vay vốn của các tổ chức ngân hàng, tín dụng, các tổ chức tài chính khác, của cá nhân, tổ chức bên ngoài tổng công ty; huy động vốn của những người lao động trong tổng công ty và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của pháp luật. Chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế, tạo tiền đề thuận lợi cho việc hình thành TĐKT với chính sách khuyến khích cạnh tranh và hạn chế độc quyền của TĐKT. Thực hiện các chính sách này cũng là hoàn thiện quản lý nhà nước đối với TĐKT. Trước hết là nhanh chóng triển khai các quy định và ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn Luật cạnh tranh, nhất là triển khai thành lập và hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh và hội đồng quản lý cạnh tranh hoặc kiểm soát độc quyền. Cần mở rộng phạm vi chức năng của cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc kiểm soát quá trình tập trung kinh tế bao gồm sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh các doanh nghiệp theo Điều 16 của Luật cạnh tranh, trong đó có vấn đề kiểm soát sự hình thành và phát triển TĐKT. Công ty mẹ phải đăng ký về danh mục, quy mô và cơ cấu các doanh nghiệp thành viên TĐKT. KẾt luẬN Từ những kết quả nghiên cứu trên chúng ta thấy được vai trò to lớn của các tập đoàn kinh tế đối với nền kinh tế. Vì vậy , để thúc đẩy nền kinh tế của Việt Nam phát triển và có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, chúng ta phải xây dựng được những tập đoàn kinh tế lớn mạnh. Để thực hiện thành công việc xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế, phát huy được sức mạnh, vai trò của chúng đối với nền kinh tế nước ta, Nhà nước cần ban hành những văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho mô hình tập đoàn kinh tế tồn tại và phát triển, đồng thời tạo hành lang hoạt động hiệu quả và có những hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp. Đặc biệt Nhà nước cần ban hành Luật và các nghị định quy định chống độc quyền, để sự ra đời của các tập đoàn kinh tế thực sự có khả năng cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế của Việt Nam phát triển, nhanh chóng thực hiện được mục tiêu Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Tài liệu tham khảo Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Tập đoàn kinh tế - Lý luận và Kinh nghiệm quốc tế ứng dụng vào Việt Nam, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, năm 2005. PGS.TSKH Vũ Huy Từ (chủ biên): Mô hình tập đoàn kinh tế trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. TS. Trần Đăng Tuất: Doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Luật Doanh nghiệp năm 2005 Luật Đầu tư năm 2005 Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX). Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX). Nghị định số 153/2004/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2004 của Chính phủ về tổ chức quản lý tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Chỉ thị số 11/2004/CT-TTg ngày 30 tháng 3 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX). Báo Công Nghiệp: Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam: Báo thanh niên: Báo điện tử – Thời báo kinh tế Việt Nam: Webside Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam: Thế giới kinh doanh www.bwportal.com Tr­êng §¹i häc kinh tÕ quèc d©n Khoa sau ®¹i häc TiÓu luËn m«n ph­¬ng ph¸p nghiªn cøu khoa häc §Ò tµi Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p ph¸t triÓn vµ ph¸t huy vai trß cña c¸c tËp ®oµn kinh tÕ ë viÖt nam hiÖn nay H­íng dÉn khoa häc : Lª Ngäc Th«ng Sinh viªn thùc hiÖn : Ph¹m ThÞ Thu HiÒn Líp : 16J M· sinh viªn : CH160422 Hµ Néi, Th¸ng 8/2008

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37284.doc
Tài liệu liên quan