Đề tài Bạo hành gia đinh: Thực trạng - Nguyên nhân và Giải pháp (Trường hợp nghiên cứu ở Thị trấn Tứ Hạ, Hương Trà, Thừa Thiên Huế)

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, cuộc sống tinh thần của con người cũng ngày càng được cải thiện, đặc biệt sự bình đẳng về giới, quan hệ vợ chồng được nhìn nhận trên nhiều khía cạnh tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn nạn, trong đó có bạo hành gia đình, không chỉ làm đau đầu các cơ quan chức năng mà còn làm tổ ấm gia đình mất đi nền tảng vốn có của nó. Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi chứa chan niềm vui, sự nồng ấm, những giây phút thiêng liêng, nơi tìm về sau những ngày vất vả và xa cách. Thế nhưng mấy năm trở lại đây một thực trạng đang được xã hội quan tâm và báo chí liên tục đưa tin làm xôn xao dư luận đó là vấn đề bạo hành ngày một gia tăng về số lượng và nghiêm trọng về mức độ đang xảy ra trong các gia đình. Lúc này hơn ai hết chúng ta cần phải vào cuộc để tìm ra đâu là căn nguyên đang ăn mòn tế bào xã hội, để rồi từ đó cùng với xã hội tìm ra các giải pháp để ngăn chặn và đi đến xoá bỏ nạn bạo hành. Vì vậy ngay từ đầu khi xuống địa bàn thực tế tôi đã hình thành ý tưởng là phải tim hiểu về vấn đề này. Bởi Thị trấn Tứ Hạ - Hương Trà - Thừa Thiên Huế, là vùng đất cố đô, chỉ cách Kinh thành Huế có 16 km, nhiều dấu tích của chế độ phong kiến còn tồn tại trong cuộc sống của người dân nơi đây. Đặc biệt tàn dư của nó là tư tuởng trọng nam khinh nữ vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của một bộ phận dân chúng. Măt khác trước khi xuống địa bàn thực tế tôi đã được trang bị những kiến thức, hiểu biết và kỹ năng cơ bản về vấn đề bạo hành gia đình qua học phần “Xã hôi học gia đình” do thầy giáo – TS Nguyễn Xuân Hồng giảng dạy. Vì những lý do trên nên tôi đã tự tin lựa chọn cho mình đề tài: “Bạo hành gia đinh: Thực trạng - Nguyên nhân và Giải pháp” (Trường hợp nghiên cứu ở Thị trấn Tứ Hạ - Hương Trà - Thừa Thiên Huế). 2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn: 2.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ một số lý thuyết xã hội học: lý thuyết hành vi ,lý thuyết bất bình đẳng xã hội, lý thuyết về giới, bất bình đẳng giới, lý thuyết về gia đình, lý thuyết về bạo hành gia đình 2.2. Ý nghĩa thực tiễn * Đối với chính quyền địa phương: Giúp cán bộ Thị trấn và các ban ngành chuyên môn đánh giá, nhìn nhận lại thực trạng bình đẳng giới, thực trạng về bạo hành trong gia đình tại địa phương.Những thông tin thu được qua quá trình nghiên cứu sẽ tạo cơ sở cho chính quyền địa phương có những bổ sung, điều chỉnh về chính sách, chủ trương nhằm thực hiện bình đẳng giới, hạn chế và đi đến ngăn ngừa và xoá bỏ bạo hành gia đình có hiệu quả, tạo động lực cho sự tiến bộ của phụ nữ và phát triển chung của địa phương. * Đối với người dân: Giúp người dân có cơ hội nhìn nhận đúng hơn vai trò của người phụ nữ và thực trạng nạn bạo hành trong mỗi gia đình ở địa phương mình.Từ đó giúp người dân thay đổi lối tư duy cũ, góp phần thực hiện có hiệu quả bình đẳng giơí trong gia đình nói riêng và bình đẳng nam nữ nói chung. Góp phần tạo nên sự yên ấm, bình yên, ấm no và hạnh phúc của mỗi gia đình nhằm tiến tới xây dựng gia đình văn hoá, làng xã văn hoá, xã hội công bằng - dân chủ - văn minh. * Đối với bản thân: Qua đợt thực tế này, mà cụ thể là việc đi sâu tìm hiểu vấn đề bạo hành trong gia đình ở một cộng đồng dân cư, là cơ hội tốt để tôi có thể áp dụng những phương pháp và lý thuyết đã học (phương pháp thực hành công tác xã hội, các lý thuyết về xã hội hoc, các kiến thức về gia đình học ) vào thực tiễn cuộc sống. Đồng thời qua quá trình thực hiện đề tài, tôi tiếp thu được nhiều kiến thức về vấn đề gia đình và hiểu thêm về một cộng đồng dân cư với những bản sắc riêng. Từ đó giúp em được kiểm nghiệm thực tế, qua đó rút ra và tích luỹ cho mình được những kinh nghiệm quý báu cho bản thân để phục vụ cho công việc sau nay. 3. Mục tiêu nghiên cứu: 3.1. Mục tiêu tổng quát: Đề tài này được thực hiện với một nhận thức rõ ràng rằng bạo hành gia đình là vấn đang rất được quan tâm ở Việt Nam hiện nay.Vì vậy trên cơ sở xem xét các mối quan hệ trong gia đình, đề tài mong muốn đưa đến một cách nhìn mới về vai trò của người phụ nữ và thực trạng bạo hành trong gia đình hiện nay. Qua đó lắng nghe và cảm thông chia sẻ với những nạn nhân bị bạo hành. Từ đó hướng tới các giải pháp nâng cao năng lực cho nữ giới và thực hiện bình đẳng giới có hiệu quả. 3.2. Mục tiêu cụ thể: - Tìm hiểu thực trạng bạo hành trong gia đình ở Tứ Hạ: những hoàn cảnh, và những lý do. - Tìm hiểu cách nhìn nhận, đánh giá về vấn đề bạo hành trong gia đình ở địa phương . - Tìm hiểu nguyên nhân và kiến nghị các giải pháp nhằm hạn chế nạn bạo hành trong gia đình có hiệu quả. - Nâng cao nhận thức cho cán bộ và người dân địa phương, làm thay đổi lối tư duy cũ, lạc hậu, giúp họ có cách nhìn nhận đúng đắn về vấn đề bình đẳng giới và bạo hành gia đình. 4. Đối tượng – Khách thể - Phạm vi và mẫu nghiên cứu. 4.1. Đối tuợng nghiên cứu: Tình hình bạo hành trong gia đình ở Tứ Hạ: Những hiện tượng bất bình đẳng còn tồn tại, nguyên nhân và giải pháp. 4.2. Khách thể nghiên cứu: Phụ nữ và nam giới trong các gia đình trên địa bàn, cán bộ phụ nữ, đại diện chính quyền địa phương, trưởng các khu vực dân cư. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài: 1 2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn: 2 2.1. Ý nghĩa lý luận 2 2.2. Ý nghĩa thực tiễn 2 3. Mục tiêu nghiên cứu: 3 3.1. Mục tiêu tổng quát: 3 3.2. Mục tiêu cụ thể: 3 4. Đối tượng – Khách thể - Phạm vi và mẫu nghiên cứu. 3 4.1. Đối tuợng nghiên cứu: 3 4.2. Khách thể nghiên cứu: 3 4.3. Phạm vi nghiên cứu: 3 4.4. Mẫu nghiên cứu: 4 5. Phương pháp nghiên cứu. 6 5.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: 6 5.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: 7 5.3. Phương pháp xử lý dữ liệu: 7 PHẦN NỘI DUNG 8 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 8 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu: 8 2. Một số khái niệm công cụ: 8 2.1. Bạo hành gia đình: 8 2.2. Các dạng bạo hành gia đình: 9 2.2.1. Bạo hành về thể chất: 9 2.2.2. Bạo hành tinh thần: 9 2.2.3. Bạo hành tình duc: 10 2.2.4. Bạo hành kinh tế: 10 2.2.5. Bạo hành xã hội: 11 CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 12 1. Tổng quan về địa bàn thực tế Huyện Hương Trà và Thị trấn Tứ Hạ 12 1.1. Về Huyện Hương Trà: 12 1.2. Tổng quan về Thị trấn Tứ Hạ 12 1.2.1. Vị trí địa lí: 12 1.2.1. Hệ thống chính trị 12 2. Tổng quan về bạo hành gia đình ở Việt Nam: 16 3. Kết quả nghiên cứu: 19 3.1. Thực trạng bạo hành gia đình ở Thị trấn Tứ Hạ: 19 3.2. Những yếu tố làm tăng nguy cơ bạo hành: 24 4. Hậu quả của bạo hành: 24 4.1. Đối với nạn nhân là phụ nữ: 24 4.1.1. Hậu quả về thể chất: 24 4.1.2. Hậu quả về tinh thần: 25 4.1.3. Các hậu quả khác: 25 4.2. Đối với gia đình: 25 4.3. Đối với xã hội: 26 5. Nguyên nhân của bạo hành gia đình: 27 6. Một số giải pháp hạn chế và khắc phục nạn bạo hành gia đình: 28 CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 30 1. Kết luận: 30 2. Khuyến nghị: 31 MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HOẠ TRONG CHUYẾN THỰC TẾ TẠI HƯƠNG TRÀ – THỪA THIÊN HUẾ: 32 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 16747 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bạo hành gia đinh: Thực trạng - Nguyên nhân và Giải pháp (Trường hợp nghiên cứu ở Thị trấn Tứ Hạ, Hương Trà, Thừa Thiên Huế), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghĩ đến ly hôn ¨ - Tìm ra nguyên nhân dẫn đến bạo hành ¨ * Thái độ của chồng chị khi dùng bạo hành lần đầu? - Tỏ ra ăn năn hối lỗi ¨ - Xin lỗi chị và làm mọi việc trong nhà ¨ - Tìm kiếm chị khi chị bỏ đi ¨ - Tỏ ra nghe lời chị và tôn trọng ý kiến của chị ¨ - Không có thái độ gì cả ¨ * Theo chị cách phòng chống bạo hành là gì? - Tuyên truyền giáo dục về một gia đình văn hoá ¨ - Cần có sự can thiệp của pháp luật ¨ - Cả 2 ý kiến trên ¨ * Theo chị dấu hiệu nhận biết bạo hành là gì? - Dùng bạo lực ¨ - Đe doạ dùng bạo lực ¨ - Cư xử gây phiền nhiễu, hành hạ tình dục ¨ - Cả 3 ý kiến trên ¨ * Khi được các tổ chức tư vấn khuyên bảo thái độ của anh ra sao? - Giảm dùng bạo hành với chị ¨ - Không giảm mà tỏ ra hung hãn hơn ¨ - Tỏ ra hối hận ¨ - Không còn hành hạ vợ con ¨ * Theo chị bạo hành gia đình có ảnh hưởng như thế nào đến con cái? - Ảnh hưởng lớn về mặt tinh thần, trẻ trở nên lỳ lợm, khó bảo ¨ - Trẻ hay đánh bạn cùng trang lứa do ảnh hưởng từ người thân ¨ - Trẻ trở nên khó bảo, không nghe lời bố mẹ ¨ * Một số câu hỏi gợi ý: - Chị nghĩ như thế nào về thái độ của anh ấy đối với chị? - Anh ấy đã làm việc này trước đây chưa? Làm thế nào để chị có thể bảo vệ mình? - Sau khi bị chồng đánh, mối quan hệ giữa hai vợ chồng chị như thế nào? - Chị có kể với ai việc này chưa? Ai có thể hỗ trợ chị về mặt tinh thần? Gia đình, bạn bè, người thân đã giúp đỡ chị như thế nào? - Nếu đến bác sỹ chữa vết thương bị chồng đánh, chị có nói thật lý do đó với bác sỹ không? - Để cải thiện tình hình chị đã có những giải pháp nào? Có kết quả không và chị có biết vì sao những biện pháp ấy chưa có kết quả như mong muốn? - Các con chị đã tỏ thái đọ như thế nào khi thấy bố đánh mẹ? Trước thái đọ đó chị đã ứng xử như thế nào? - Có bao giờ chị định tố giác hành vi bạo lực của chồng trước cơ quan an ninh không? - Thường chồng chị có tỏ ra ăn năn, hối hận hay lại là chứng nào tật ấy? - Làm thế nào để chúng tôi có thể giúp chị? - Chị nghĩ như thế nào về những giải pháp mà chúng ta đang thảo luận? Chỗ nào thấy khó thực hiện hoặc không phù hợp? Vì sao? - Khi tình hình trở nên nghiêm trọng hơn, chị đã có kế hoạch gì để bảo vệ bản thân và các con chưa? - Chị đã hoặc sẽ thổ lộ nổi bức xúc của mình với ai trong gia đình, bạn bè hoặc xã hội và đề nghị họ ủng hộ, hoặc giúp đỡ chị chưa? Chị có thể làm được việc này không và chị thấy khó khăn gì? 5. Phương pháp nghiên cứu. 5.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Lựa chọn, phân tích, thu thập các số liệu, thông tin cơ bản từ địa phương từ các dự án đã triển khai, các văn bản chính sách liên quan, báo cáo tình hình hằng năm của hội phụ nữ về vai trò, nhiệm vụ của phụ nữ, tình hình bình đẳng giới, chống bạo lực gia đình. 5.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: - Tiến hành điều tra, khảo sát, thu nhận thông tin thực tế về cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng, chính quyền địa phương liên quan đến vấn đề bình đẳng giới thông qua các phương pháp sau: - Phỏng vấn sâu cá nhân: Tiến hành phỏng vấn sâu 10 người,trong đó có 6 người dân (2 nam, 4 nữ), 1 trưởng thôn, 1 hội trưởng phu nữ khu vực, hội trưởng hội phụ nữ Thị trấn, 1 đại diện chính quyền địa phương ,cán bộ y tế huyện Hương Trà - Phương pháp quan sát: Trong 10 ngày thực tế ở Tứ Hạ, sống với dân, tôi có cơ hội quan sát những hoạt động trong cuộc sống sinh hoạt gia đình, trong lao động sản xuất và 1 số hoạt động xã hội của bà con nhân dân. - Lập phiếu điều tra: Tiến hành phát phiếu điều tra cho 60 đối tương ở 3 khu vực (mỗi khu vực 20 phiếu). - Lập bảng hỏi. 5.3. Phương pháp xử lý dữ liệu: - Phân tích thông tin, tài liệu: Đọc và phân tích những tài liệu về chính sách, chủ trương phát triển giới, thực hiện bình đẳng giới; tài liệu bạo hành và chống bạo hành gia đình, những báo cáo có liên quan đến sự phát triển của nữ giới và vấn đề bình đẳng giới ở địa phương; một số bài báo,tạp chí có liên quan đến vấn đề bạo hành gia đình. - Kiểm tra thông tin bằng phương pháp so sánh, đối chất các thông tin, các nguồn tư liệu. - Tổng hợp, đánh giá các dữ liệu. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu: Bạo hành trong gia đình là một vấn đề bức xúc của xã hội và đây là một đề tài rất được nhiều người quan tâm. Đây không còn là đề tài nóng hổi nhưng nó lại là đề tài mang nhiều ý nghĩa. Giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về tình trạng bạo hành, hiểu biết về bạo hành của người dân và có những cách giải quyết bền vững cho tình trạng này… Ở VN, mặc dù đã có nhiều văn bản pháp luật được ban hành (Bộ Luật hình sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Công ước CEDAW...), cũng như có nhiều cơ quan pháp luật, tổ chức xã hội có chức năng chống bạo hành gia đình (BHGĐ), những tổ chức bảo vệ quyền lợi phụ nữ như Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam các cấp, các tổ chức phi chính phủ như Ford Foundation, mạng lưới DOVIPNET, CSAGA, thế nhưng việc tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực này còn gặp rất nhiều khó khăn trở ngại và hầu như không hiệu quả, bởi chưa có những biện pháp chế tài cụ thể. Do vậy, đề tài “Bạo hành trong gia đình” hoàn toàn không phải là một “phát kiến” một chủ đề mới trong hoạt động cũng như nghiên cứu. Thế nhưng cái hay của đề tài này đó là giải quyết được phần nào vấn đề bạo hành gia đình, từ thực trạng đến hậu quả của nó. Biết được tình hình, diễn biến, nguyên nhân và có những hướng giải quyết tình trạng đó. 2. Một số khái niệm công cụ: 2.1. Bạo hành gia đình: Luật Gia Đình (Family Law Act) định nghĩa “bạo hành trong gia đinh” bao gồm những hành vi hay các mối đe doạ của một người nhắm vào một thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản của họ. Bạo hành trong gia đình cũng bao gồm việc chứng kiến những hành vi hay mối đe doạ như vừa kể (chẳng hạn như trẻ em chứng kiến cảnh bạo hành). Trong những trường hợp có sự đe doạ bạo hành hoặc chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình, một người phải có lý do lo sợ chính đáng hoặc lo sợ trong tình trạng an sinh hoặc an toàn cá nhân của mình. 2.2. Các dạng bạo hành gia đình: Bạo hành không chỉ là hành động bạo lực về thể chất mà còn diễn ra dưới nhiều hình thức. 2.2.1. Bạo hành về thể chất: Là kiểu hành hạ, đánh đập, ngược đãi phụ nữ. Dù người phụ nữ được pháp luật bảo vệ khỏi các vụ ngược đãi nhưng hiện tượng đánh đập, ngược đãi ít khi bị khởi tố trừ khi nạn nhân bị đánh trọng thương hoăc gây thương tích dẫn đến tử vong. Thực tế cho thấy, bạo lực thể chất đối với phụ nữ trong gia đình là một căn bệnh truyền nhiễm mà không được mọi người trong xã hội chú ý ngăn chặn. Bạo lực thể chất ở Việt Nam chiếm 15% tổng số các hình thức bạo hành gia đình. Bạo hành thể chất được biểu hiện qua các hành vi thô bạo, như hành hung, thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Không vừa ý là cứ nện cho một trận là cạch đến già. Hành động có mục đích gây thương tích cho nạn nhân như đánh, đạp, xô, đẩy, tát, nắm tóc kéo lê, vặn cổ tay, đâm bằng dao. Giới hạn sử dụng phương tiện duy trì sức khoẻ như dấu dược phẩm, thực phẩm, nước uống; phá rối không cho ngủ hoặc ép dùng rượu, cần sa, ma tuý, bỏ rơi nơi đường vắng vẻ nguy hiểm… 2.2.2. Bạo hành tinh thần: Ở Việt Nam, bạo hành tinh thần chiếm tỷ lệ cao nhất (đến 80% trong số nạn nhân bạo hành về giới). Bạo hành tinh thần không gây hậu quả nghiêm trọng đến cơ thể người phụ nữ, nhưng có nhiều trường hợp người phụ nữ cùng đường phải tìm đến cái chết để thoát khỏi hiện thực. Bạo hành tinh thần phổ biến, âm ỉ và dai dẳng hành hạ người phụ nữ. Nạn nhân phải chịu các kiểu hành hạ như chửi mắng, hạ nhục với lời lẽ thô thiển, nặng nề xâm phạm đến nhân phẩm và danh dự. Không những thế, bạo hành tinh thần nhiều khi còn tồn tại dưới nhiều dạng, đe doạ tinh thần, khủng bố tâm lý gây nên sự phẫn uất, khủng hoảng ý thức và tâm sinh lý phụ nữ. Khác với kiêu hành hạ bằng lời là kiểu hành hạ bằng tình cảm, nghĩa là người chồng tỏ ra thờ ơ, lạnh nhạt, vô trách nhiệm đối với người vợ, thậm chí đem so sánh người phụ nữ khác, kể lại một cách diễu cợt những vụ tình ái riêng… 2.2.3. Bạo hành tình duc: Trong các hình thức bạo hành, bạo hành tình dục ít bị phát hiện và nạn nhân không được bảo vệ, vì ở nước ta tình dục là vấn đề hết sức tế nhị khó tìm hiểu. Bạo hành tình dục là hành vi ép buộc bằng bạo lực, gạ gẫm, đe doạ, gạ gẫm, lừa gạt hoặc dùng kinh tế để có quan hệ tình dục với người khác trái với ý muốn của họ. Dùng các thủ đoạn khiến nạn nhân lệ thuộc hay trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu. Theo Tổ chức Y tế thế giới WHO, trên thế giới cứ 4 người phụ nữ, thì có 1 người bị bạo hành tình dục ít nhất một lần. Ở Việt Nam, bạo hành tình dục chiếm khoảng 20%, nghĩa là cứ 5 người phụ nữ thì có ít nhất 1 người bị bạo hành tình dục. Trong lĩnh vực tình dục, nạn nhân nữ chịu ảnh hưởng nặng nề của các chuẩn mực đạo đức, các giá trị văn hoá truyền thống chi phối. Họ không có quyền đòi hỏi, phải thụ động trong quan hệ tình dục và với người chồng, họ phải có nghĩa vụ phục tùng thậm chí còn phải bị ép buộc phải sinh thêm con, không dùng các biện pháp tránh thai và bị cưỡng ép quan hệ tình dục khi họ không muốn. Tạp chí Gia đình và Trẻ em kỳ 1 tháng 4 năm 2004 cho biết, tại Trung tâm Linh Tâm - tổng đài 1080, từ năm 1997 đến 2003 có 250.361 trường hợp gọi tư vấn trên các lĩnh vực thì có 33.107 trường hợp liên quan đến bạo hành gia đình, trong đó có1.870 trường hợp là bạo hành tình dục. 2.2.4. Bạo hành kinh tế: Ở Việt Nam loại bạo lực này chưa có thống kê đầy đủ, tuy nhiên thực tế cho thấy đây là hình thức phổ biến rộng rãi. Bởi Việt Nam là một nước thuần nông, người dân phần lớn sống ở môi trường thiếu kiến thức về bình đẳng giới; Quan hệ hôn nhân gia đình, vai trò vợ chồng chỉ được nhìn nhận dưới góc độ các quan niệm phong kiến, đặc biệt là tư tưởng Nho giáo như các quan niệm “tam tòng”, “tứ đức”, “trọng nam khinh nữ” . Từ lâu, người phụ nữ chỉ biết đến vai trò ở chốn “phòng the, bếp núc”. Mỗi ông chồng là một ông vua trong gia đình, có quyền quyết định mọi việc mà ít khi quan tâm đến ý kiến của người vợ. Đối với kinh tế, người đàn ông có nghĩa vụ làm ra tiền cùng người vợ đảm bảo cuộc sống gia đình. Nhưng có những người làm ra tiền mà không đưa cho vợ, hay người chồng bỏ bê việc nhà, không lao động sản xuất mà chỉ lo hưởng thụ trên sức lao động của người vợ, hay kiểm soát tiền bạc, bắt bạn đời phụ thuộc vào tiền nong, nhục mạ khi người bạn đời không có kinh tế, làm cho gánh nặng kinh tế đè lên vai người phụ nữ. 2.2.5. Bạo hành xã hội: Đối với xã hội, người phụ nữ sống trong tình trạng bị cô lập, tách biệt với xã hội bên ngoài. Cắt đứt mối quan hệ với những người thân trong họ hàng nhà vợ, bạn bè thân hữu. Cô lập người bạn đời trong nhà không cho giao tiếp với bất cứ ai. Họ bị ngăn cản không được tham gia bất kỳ hoạt động nào của xã hội như đi học, đi làm hoặc phải sống phụ thuộc một cách miễn cưỡng vào người đàn ông, không tham gia các tổ chức xã hội, không được hưởng các quyền lợi chính đáng của mình. Hiện nay, mặc dù người phụ nữ được tham gia vào nhiều các hoạt động xã hội nhưng phần lớn họ không được chồng chia sẻ các việc gia đình. Con số điều tra 150 gia đình ở Hà Nội mà cả hai vợ chồng đều đi làm, thì phụ nữ phải làm thêm việc nhà trung bình 2 giờ 28 phút, trong khi nam giới chỉ mất 32 phút, nghĩa là người chồng làm ít hơn người vợ 4 lần. Đó là chưa kể co khoảng 8% đàn ông hầu như không tham gia vào việc gia đình (Tạp chí Gia đình và Trẻ em, tháng 11 – 2006) CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Tổng quan về địa bàn thực tế Huyện Hương Trà và Thị trấn Tứ Hạ 1.1. Về Huyện Hương Trà: Hương Trà là một huyện nghèo của tỉnh Thừa Thiên Huế, đây là huyện cửa ngõ phía bắc của thành phố Huế. Tổng diện tích của huyện là 555km2. Người dân ở Hương Trà dựa vào nông nghiệp là nguồn thu quan trọng, 50% dân số sống bằng nghề làm nông. Phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập từ nông nghiệp nên Hương Trà vẫn là một huyện nghèo. Tỉ lệ nghèo là 20,55%, 24%số hộ thiếu ăn ít nhất 2 tháng một năm. Tình trạng này chiếm tỉ lệ cao hơn ở các xã miền núi và bán sơn địa như Hồng Tiến, Hưong An, Hương Thọ, Bình Thành. 1.2. Tổng quan về Thị trấn Tứ Hạ 1.2.1. Vị trí địa lí: Phía Đông giáp với huyện Quảng Điền, phía Tây giáp với xã Hương Văn, phía Nam giáp xã Hương Vân, phía Bắc giáp xã Hương Điền. Nằm trên con đường giao thông quan trọng Quốc lộ 1A. Thị trấn Tứ Hạ là địa bàn trung tâm chính trị- kinh tế- xã hội của huyện Hương Trà, có hơn 70 cơ quan, xí nghiệp của Trung ương, Tỉnh huyện đóng trên địa bàn, đặc biệt các nhà máy xi măng Luck Việt Nam. Diện tích tự nhiên là 845.4 ha, về dân số có 1921 hộ với 8511 khẩu và hàng ngày có hàng ngàn người qua lại làm ăn. Hộ theo Phật và Thiên chúa giáo có 102 hộ với 386 khẩu. Là địa bàn được huyện xác định là trọng điểm về an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội, có hai chùa và hai niệm phật đường. Thị trấn Tứ Hạ được phân chia làm 10 khu vực dân cư để quản lí và điều hành, cơ cấu kinh tế của thị trấn được xác định là: dịch vụ - thương mại - tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp để phù hợp với yêu cầu phát triển đô thị. 1.2.1. Hệ thống chính trị Đảng bộ Thị trấn có 14 chi bộ trực thuộc trong đó: Có 2 chi bộ quân sự công an Có 2 chi bộ trường học Có 10 chi bộ khu vực dân cư Có 222 Đảng viên đang sinh hoạt nơi cư trú trên địa bàn thị trấn. - Mặt trận và các đoàn thể quần chúng Mặt trân Tứ Hạ bao gồm có 10 ban công tác mặt trận Hội cựu chiến binh gồm có 9 chi hội với 203 hội viên Hội phụ nữ gồm có 10 chi hội với 972 hội viên Đoàn Thanh niên gồm có 13 chi đoàn với 218 đoàn viên * Tình hình phát triển kinh tế Trong những năm qua tình hình Thị trấn tiếp tục phát triển, cơ sở hạ tầng đô thị từng bước được đầu tư xây dựng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh doanh dịch vụ - tiểu thủ công nghiệp, giải quyết nhiều viêc làm cho người lao động, đời sống của nhân dân Thị trấn từng bước được nâng cao. - Về dịch vụ thương mại: Được xác định là một trong những chương trình kinh tế trọng điểm của Thị trấn năm 2008. Trong năm qua UBND đã tích cực vận động, khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân mạnh dạn đầu tư và mở rộng kinh doanh dịch vụ. Vì vậy kinh doanh dịch vụ tiếp tục được phát triển tốc độ khá trên cả 3 vùng 9(vùng trung tâm, vùng nhà máy, vùng cua phú ốc), đặc biệt sau khi cầu Tứ Phú được đưa vào sử dụng tình hình phát triển của thị trấn có khá hơn, các tuyến đường nội thị ở khu vực trung tâm, đường bờ sông ở khu vực dân cư 8, kinh doanh buôn bán ở chợ được phát triển hơn so với trước, các loại hình như dịch vụ vận tải, dịch vụ nhà ở từng buớc phát triển mở rộng. Tổng giá trị thương mại - dịch vụ ước đạt 34,6 tỷ đồng, đạt 100,2% so với kế hoạch, tăng 19,7% so với năm 2007 - Về phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp: Cũng là mộ trong những chương trình trọng điểm đã đượcc Thị trấn tập trung mọi nguồn lực, phối hợp với các ban nghành cấp huyện quy hoạch chi tiết, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng mặt bằng và kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh và tạo mọi điều kiện thuận lợi vay vốn, đồng thời phối hợp với phòng công thương mở lớp tập huấn khởi sự doanh nghiệp cho các đối tượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đầu tư sản xuất, các nghành nghề thủ công nghiệp như cơ khí, mộc dân dụng, khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng, thêu ren… đã có những chuyển biến hơn và thu hút được nhiều lao động tham gia. Tổng giá trị thủ công nghiệp ước đạt 29,5 tỷ đồng, đạt 101,7% tăng 20% so với năm 2006. - Về sản xuất nông nghiệp; a. Trồng trọt: Tổng diện tích gieo trồng cả năm 306,57ha, giảm 2,53ha so với năm 2006. Trong đó: Diện tích lúa cả năm 170,68 ha, đạt 98,53% so với kế hoạch. Năng suất lúa bình quân cả năm đạt 106 ta/ha, tăng 9,01 tạ/ha, sản lượng lúa 901,27tấn, đạt 98,2% so với kế hoạch, tăng 41,05 tấn so với năm 2006. Sản xuất giống lúa xác nhận cả năm là 5,05ha, năng suất bình quân 54,21tạ/ha, sản lượng 27,33tấn, đưa giống lúa xác nhận vào sản xuất 90% diện tích. Diện tích lạc 59,25ha, năng suất 24 tạ/ha, đạt 96% kế hoạch, tăng 5,2tạ/ha,sản lượng đạt 122 tấn. Diện tích cây sắn 59,25ha, tăng 0,35ha, năng suất 195 tạ/ha, sản lượng 1155,37tấn. Diện tích xen canh các loại cây trồng khác 24ha, sản lượng 15,5 tấn. Về chuyển đổi cơ cấu cây trồng đã đưa 0,5ha màu ở khu vự dân cư 4 của chương trình phát triển nông thôn hỗ trợ đầu tư trên 7 triệu đồng b. Chăn nuôi: Động viên nhân dân tiếp tục đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc theo hướng bán công nghiệp, đàn lợn, đàn dê, nuôi cá lồng, cá hồ tự nhiên từng bước được đầu tư chăn nuôi hiệu quả. Đến nay tổng đàn lợn 4600 con, đàn bò có 54 con, tăng 19 con; đàn trâu có 167 con, tăng 9 con; đàn dê có 100 con, tăng 40 con; cá lồng có 25 lồng. c. Về cải tạo và phát triển kinh tế vườn và trồng cây xanh lâm nghiệp. Công tác cải tạo kinh tế vườn có nhiều chuyển biến trong tư tưởng người dân, trong năm cải tạo và trồng mới được 5,45ha các loại cây ăn quả, trong dó có trồng mới 128 nhành thanh trà. Về trồng cây lâm nghiệp tiếp tục vận động nhân dân chăm sóc rừng tái sinh. Tổng giá trị nông ngư nghiệp đạt 19,9 tỉ đồng. Tình hinh chinh trị kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh. Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nghị quyết của hội đồng nhân dân thị trấn Tứ Hạ, tình hình chính trị, kinh tế xã hội tiếp tục ổn định là cơ sở tạo điều kiện để phát triển nhanh trên các lĩnh vực kinh tế xã hội có những bước chuyển biến tích cực. Đời sống của nhân dân từng bước được nâng cao. d. Về tình đời sống và thu nhập của nhân dân: Xuất phát từ nền kinh tế thị trường thị trấn Tứ Hạ được phát triển trong những năm qua góp phần tăng thêm nguồn thu nhập cho người dân ngày càng cao. Thu nhập bình quân đầu người từ 2.866.000 đồng/người/năm cuả năm 2000 lên 5000.000 đồng/người/năm của năm 2004, đến nay là 8000.000đồng/người /năm. Thị trấn Tứ Hạ có 1921 hộ, qua khảo sát đánh giá có: Hộ giàu 431 hộ, chiếm 22,5% so với tổng số hộ. Hộ khá 769 hộ chiếm 40,17% so với tổng số hộ. Hộ trung bình 625 hộ chiếm 32,68% so với tổng số hộ. Hộ nghèo 63 hộ chiếm 3,27% so với tổng số hộ Cùng với sự phát triển của kinh tế, bên cạnh đó tình hình xây dựng nhà ở trong nhân dân ngày càng phát triển. Hiện nay trên thị trấn tỉ lệ nhà xây kiên cố, bán kiên cố chiếm 86,1%, nhà xây không kiên cố chiếm 11,08%, nhà phên tre xiêu vẹo, tạm bợ chiếm 2,82%. Tỷ lệ hộ dùng dùng điện 99,5%, hộ dùng nước sàch chiếm 81,52%, tỷ lệ có máy diên thoại chiếm 52,83%. Tuy vậy do nhiều lí do khác nhau, hiện nay trong thị trấn vẫn con 63 hộ nghèo chiếm 3,27% so với tổng số hộ. e. Về văn hoá xã hội: Kết thúc năm học 2007-2008 có nhiều chuyển biến tích cực trong việc thực hiện cuộc vận động nói không với tiêu cực trong thi cử, tỷ lệ học sinh bỏ học ngày càng giảm, có 100% học sinh lớp 5 hoàn thành tiểu học, học sinh khá giỏi trong các cấp ngày cành tăng. f. Về công tác y tế: Thực hiện có hiệu quả mục tiêu, chương trình y tế quốc gia, quốc tế làm tốt công tác chăm sóc bà mẹ trẻ em, tiếp tục thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ dưới 6 tuổi. Quan tâm công tác y tế dự phòng, đã chủ động phòng dịch, đạc biệt là ô nhiễm môi trường sau lũ. Những thuận lợi và khó khăn: * Thuận lợi: Đời sống của nhan dân thị trấn từng bước được cải thiện nhân dân có truyền thống cách mạng đoàn kết, gắn bó xây dựng quê hương. Được sự lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng chính quyền địa phương quan tâm tạo điều kiện về tinh thần lẫn vật chất. * Khó khăn: Nền kinh tế của thị trấn phát triển chưa mạnh, một số mặt chưa vững chắc, đời sống của một bộ phận nhân dân còn gặp khó khăn, một bộ phận nhân dân chưa có việc làm ổn định. Đạo đức lối sống của một bộ phận thanh thiếu niên đang là vấn đề bức xúc đặt ra, ý thức tuân thủ pháp luật đang còn hạn chế. Bên cạnh dó các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách phá ta trên mọi lĩnh vực, phá hoại công cuộc đổi mới của Đảng, sự nghiệp cách mạng của nhân dân, bằng âm “DBHB” thông qua hoạt động kinh tế, lợi dụng vào tôn giáo, tham gia lập hội trái phép, mục đích tập hợp quần chúng đối trọng với Đảng, nhà nước, gây chia rẽ nội bộ nhân dân để khi có điều kiện sẽ thực hiện âm mưu bạo loạn, lật đổ, xáo bỏ vai trò lanh đạo cuả Đảng, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. 2. Tổng quan về bạo hành gia đình ở Việt Nam: Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, cuộc sống tinh thần của con người cũng ngày càng được cải thiện, đặc biệt sự bình đẳng về giới, quan hệ vợ chồng được nhìn nhận trên nhiều khía cạnh tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn nạn, trong đó có bạo hành gia đình, không chỉ làm đau đầu các cơ quan chức năng mà còn làm tổ ấm gia đình mất đi nền tảng vốn có của nó. Trước hết xin giới hạn đối tượng của bạo hành gia đình là những người phụ nữ, có thể nói như vậy bởi theo các con số thống kê của các tổ chức quốc tế cũng như ở Việt Nam, những người phải chịu đựng các hành vi bạo lực trong gia đình hầu hết là phụ nữ. Theo bà Susan Wood, phụ trách Chương trình Giới của Ford Foundation, phụ nữ là những người hiểu rõ nhất hành vi bạo lực gia đình, thống kê cho thấy 69% phụ nữ phải chịu đựng hành vi bạo lực từ người chồng, 1/4 phụ nữ bị bạo lực khi mang thai. Còn ở Việt Nam, theo kết quả khảo sát chọn mẫu của Ủy ban các vấn đề xã hội ở 8 tỉnh, thành thì có đến 23% gia đình có hành vi bạo lực về thể chất, 25% có hành vi bạo lực về tinh thần, 30% cặp vợ chồng có hành vi bạo lực tình dục và nạn nhân là phụ nữ. Trên thực tế, số liệu có thể còn cao hơn con số thống kê bởi các vụ bạo hành gia đình thường chỉ xảy ra trong nhà và bởi lý do tế nhị nên nhiều phụ nữ cam chịu, không dám nói ra. Ở Việt Nam vấn đề bạo lực gia đình luôn là một vấn đề nhạy cảm, bởi xã hội nước ta, tư tưởng gia trưởng và những chuẩn mực đạo đức của Nho giáo vẫn áp đặt lên vai người phụ nữ hết sức nặng nề. Đặc biệt gia đình ít được nhắc tới vì nạn nhân luôn muốn che dấu nổi bât hạnh của mình, có khi họ lại không tìm thấy sự chia cảm thông, chia sẻ của cộng đòng xung quanh. Vì thế Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong luật Hôn Nhân và Gia Đình ngày 22/ 06/ 2000 và đặc biệt là ngày 21/ 11/ 2006 Quốc Hội thông qua luật bình đẳng giới. Tuy nhiên bạo lực gia đình nước ta khó giải quyết triệt để vì đây là vấn đề hết sức nhạy cảm và khó nhận biết nếu như bản thân phụ nữ không lên tiếng phản kháng. Thực tế tình trạng bạo hành gia đình ở nước ta luôn tồn tại phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Năm 2007 được coi là năm "báo động đỏ" về tình trạng bạo hành gia đình và học đường, khi mà báo chí liên tục thông tin về các vụ bạo hành gia đình và trường học gây bức xúc trong dư luận. Năm 2007, cơ quan chức năng phát hiện vụ một người chồng bắt vợ cởi quần áo, chui vào cũi chó và khóa lại, sau đó gọi mẹ vợ sang chứng kiến. Rồi lại vụ người vợ xin ly hôn vì bị bạo hành quá nhiều lần đã bị người chồng cắt hai núm vú bỏ vào cốc rượu , vụ bị chồng cắt cổ ngay tại nhà mẹ đẻ.... Vụ em Bình bị hành hạ đã gây làn sóng bất bình trong dư luận. Thủ tướng Chính phủ cũng đã có ý kiến chỉ đạo về vụ việc, rồi Bộ Lao động Thương binh và Xã hội có đề nghị rà soát tất cả các trẻ em giúp việc trong gia đình ở Hà Nội . Trong khi vụ việc em Bình vừa tạm lắng xuống thì ơ quan công an lại phát hiện thêm vụ việc ông chủ Nguyễn Lê Thắng (SN 1979), trú tại phố Hồng Mai, phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng - Hà Nội đã đi "thu lượm" những bé trai lang thang để dụ dỗ các em, nếu về làm việc cho hắn, thì sẽ được nuôi ăn, ở và trả lương. Sau đó ép các em quan hệ đồng giới với hắn. Ai không chịu sẽ bị Thắng đánh, cầm gậy phang vào người. Tại Việt Nam, chưa có con số chưa có con số thống kê chính xác về số lượng, tính chất và mức độ nghiêm trọng của bạo lực gia đình gây ra, tuy nhiên những con số mà chúng ta có được về các trường hợp bạo lực gia đình rất đáng quan tâm. Theo số liệu của Bộ công an, cứ 2 – 3 ngày thì có 1 người chết liên quan đến bạo hành gia đình. Theo báo cáo của Bộ Y tế, năm 2005 ở đồng bằng Sông Cửu Long có 1011 người tự tử, Tây Nguyên có 215 người tự tử vì bạo hành gia đình. Toà án nhân dân tối cao chỉ rõ từ năm 2000 đến năm 2005, toà án các cấp xử 186,954 vụ ly hôn do bạo hành gia đình (Nguồn: Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc Hội 2006). Theo số liệu từ các cuộc khảo sát được tiến hành trên một vùng của Việt Nam những năm qua, có tới 60 – 75% phụ nữ đã từng các dạng bạo lực gia đình, không ít trong số họ đã chịu cả bạo lực thân thể, bạo lực tinh thần, bạo lưc tình dục. Hầu hết các câu chuyên về phụ nữ bị bạo hành vẫn còn “ở sau cánh cửa” của mỗi gia đình Việt Nam mà chưa được sự quan tâm, chia sẻ và hỗ trợ đúng mức của các ban ngành chức năng, của các nhà hoạt động xã hội. Trước tình trạng bạo hành gia tăng và để lại hậu quả nghiêm trọng. Quốc Hội đã xây dựng dự thảo Luật phòng chống bạo hành gia đình. Trong thời gian tới khi luật này được thông qua chúng ta hi vọng nó sẽ có tác động tích cực tới việc ngăn chặn việc bạo hành gia đình, góp phần bảo vệ sức khoẻ và danh dự cho người phụ nữ. 3. Kết quả nghiên cứu: 3.1. Thực trạng bạo hành gia đình ở Thị trấn Tứ Hạ: Năm 2008, Thị trấn Tứ Hạ xảy ra 19 vụ bạo hành gia đình và có 2 vụ nặng nhất phải đưa đi viện. Từ trước tới nay, vấn đề bạo hành gia đình ở Thị trấn Tứ Hạ vẫn thường bị coi nhẹ, là bởi nó vẫn được xem như “việc riêng của các gia đình” và ít được phơi bày trước công luận. Người trong cuộc không nói ra thì người ngoài cuộc cũng không ai biết. Nạn nhân bị chồng ngược đãi cứ âm thầm chịu đựng, còn những nhân chứng duy nhất trong gia đình là con cái cũng không dám nói ra. Ở VN, mặc dù đã có nhiều văn bản pháp luật được ban hành (Bộ Luật hình sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Công ước CEDAW...), cũng như có nhiều cơ quan pháp luật, tổ chức xã hội có chức năng chống bạo hành gia đình (BHGĐ), thế nhưng việc tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực này còn gặp rất nhiều khó khăn trở ngại và hầu như không hiệu quả, bởi chưa có những biện pháp chế tài cụ thể. Khi hỏi về vấn đề bạo hành gia đình, Bà Lê Thi Thừa - Chủ tịch Hội Phụ nữ Thị trấn Tứ Hạ cho biết: “Toàn Thị trấn có 1921 hộ, vậy mà từ đầu năm đã có 19 vụ bạo hành. Đó là năm nay, chứ còn các năm trước cũng có nhiều vụ lắm.” Đây chỉ là theo thống kê của Thị trấn còn “đằng sau cánh cửa” của các gia đình nếu thống kê hết thì con số không biết bao nhiêu. Tiếp xúc với những người bị bạo hành, thoạt nhìn đã thấy nổi buồn và sự khắc khổ in hằn trên khuôn mặt của họ. Phần lớn những gia đình này khi bước chân vào ta cảm thấy sự trống vắng, buồn tẻ, lạnh lẽo và một không khí nặng nề. Phụ nữ ở đây chủ yếu bận rôn, bôn bề và vất vả với nghề nông. Qua thông tin từ chính quyền Thị trấn, tôi được biết chị Lê Thị Hương ở khu vực 6 đã bị chồng đánh đập và hành hạ nhiều lần. Tôi tiến hành lên kế hoach để tiếp cận với thân chủ. Phải nói rằng để tiếp cận được với chị không phải là điều dễ dàng. Một phần là vì công việc bận rộn, một phần vì sự tự ty và không muốn cho ai biết đến chuyện đó nên chị tỏ ra không hồ hởi khi đón tiếp. Song với kỹ năng của một nhà công tác xã hội, với sự cảm thông chia sẻ chân thành chị đã dần dần bày tỏ và hé mở nhiều điều. Khi được hỏi “Tại sao anh ấy lại đánh đập chị ?” Chị không ngần ngại và có phản ứng ngay: “Mấy ông ấy thích đánh chứ cần gì phải có nguyên nhân, có bữa uống rượu ở đâu về say mèm lôi tôi ra đánh, có bữa đi làm về thấy tôi đang nấu cơm cũng lôi tôi ra đánh. Nhiều lúc tôi không thể chịu nổi chỉ muốn chết đi cho xong. Cũng làm người mà sao có người sướng người khổ vậy hả chú ?”Quan sát gia đình anh chị thì thấy thuộc loại nghèo, nhà cũng đã xây nhưng theo kiểu tạm bợ, ruộng vườn cũng ít. Chồng chị ngoài việc chính là làm ruộng thì còn có nghề phụ là nghề thợ xây. Gia đình chị Hương có 3 đứa con, nhưng đều là con gái, trông 3 đứa con chị mà lòng tôi đầy trắc ẩn và thương cảm. Bố mẹ đi làm quần quật suốt ngày nên ít có thời gian để ý chăm sóc chúng. Mặt mày đứa nào đứa đấy lem luốc, quần áo xộc xệch, bẩn thỉu. Đứa chị chỉ cách đứa em một năm. Nhìn cảnh nheo nhóc của mấy đứa con chị mà lòng tôi không dấu nổi cảm xúc. Chị nhìn tôi và nói: “Chị chỉ mong muốn làm sao cho gia đình khá giả hơn để có tiền chăm sóc con cái và có tiền cho chúng ăn học, để chồng chị không pahỉ đi làm vất vả …” Tiếp xúc với người chồng của chị, tôi nhận thấy anh có khuôn mặt và cặp mắt khá hiền. Mạnh dạn tiếp xúc và bắt chuyện với anh mới biết anh vốn mang bản tính hiền lành nhưng do điều kiện sống vất vả, sinh con một bề, bị bạn bè khích bác, rồi nhiều yếu tố xung quanh tác động dẫn đến về nhà trút hết bực dọc lên đầu người vợ yêu thương. Chia tay với gia đình anh chị, tôi không quên hướng cho họ biết phải làm thế nào để thoát nghèo. Phải mạnh dạn vay vốn để làm giàu, đầu tư vào phát triển kinh tế gia đình. Tuyên truyền cho anh hiểu được sinh con trai hay con gái thì vẫn thế, phải nuôi dạy con thật tốt để sau này để con cái có điều kiện phát triển và phụng dưỡng cha mẹ. Thời đại ngày nay không còn phân biệt con trai hay con gái bởi con nào mà chẳng phải con mình miễn sao sau này nó có hiếu với cha mẹ là được. Còn vợ là người “đầu gối tay ấp”, là một phần của cuộc đời anh sao lại mang ra hành hạ, đánh đập. Đừng nghe lời khích bác của bạn bè xấu để rồi về hành hạ người vợ yêu thương. Tóm lại, điều trước mắt mà tôi đạt được ở thân chủ này đó chính là sự cảm thông, động viên chia sẻ, lắng nghe chị giải bày và hơn nữa là có được lời hứa của người chồng là sẽ cố gắng làm một người chồng, người cha tốt. Bạo hành gia đình cũng diễn ra theo một chu kỳ: Đánh – làm lành - rồi lại đánh. Những người phụ nữ đánh nhiều thành ra cam chịu, luôn luôn sống trong tình trạng lo lắng, sợ sệt, thiếu niềm tin vào chính bản thân mình, vào những người xung quanh. Trường hợp chị Vi Thị Hoài ở khu vực 2 là một điển hình chẳng hạn. Từ khi lấy chồng, cứ dăm bữa nửa tháng, mọi người lại nghe thấy tiếng la hét từ nhà chị. Ngay cả khi mang bầu gần đến ngày sinh nở mà hàng xóm vẫn thấy mặt mũi tay chân chị bầm tím nhưng chưa đến mức nhập viện như lần này. Không chỉ bản thân chị mà ngay cả hai đứa con của chị cũng thường xuyên là nạn nhân của ông chồng vũ phu. Không ai biết được nguyên nhân những cơn giận của ông chồng, chỉ biết là thường xuyên họ phải nghe tiếng kêu thét đau đớn lúc thì của người phụ nữ, lúc của hai đứa trẻ từ ngôi nhà ấy. Cứ đánh xong lại làm hoà, làm hoà xong lại đánh. Nó đã trở thành chu kỳ bạo lực với người phụ nữ và hai đứa con. “Bị đánh như chị Hoài còn được coi” là nhẹ đấy – Bà Nguyễn Thị Ngân (cán bộ phụ nữ nơi chị Hoài sinh sống) kể tiếp: “Như trường hợp của chị bạn bên khu vực 4 mà tôi biết, lấy chồng đã gần 30 năm, con cái đã lấy vợ lấy chồng, có cháu nội ngoại cả rồi mà vẫn thường xuyên bị chồng đánh, việc bị nhập viện vì gãy xương, bó bột hay khâu vài mũi là chuyện thường tình. Có lần ông chồng uống say đuổi chị ra khỏi nhà. Con cái ở xa không có chỗ nào để đi, mấy ngày liền chị phải lang thang ngủ nhờ khắp nơi. Khi không nhờ vả ai được nữa, bí quá chị phải giải chiếu nghỉ tạm ngay ở cửa nhà mình…” Tôi tìm gặp chị Hoài, chị tâm sự “Nhiều lúc chị cũng muốn tự giải thoát cho mình nhưng nghĩ thương mấy đứa con, gia đình tan tác…”. Nhiều lần chị cũng nhờ đến sự can thiệp của chính quyền, các tổ dân cư nhưng sau mỗi lần tổ hoà giải đến hoà giải, nhắc nhở, chồng chị càng trở nên hung bạo hơn, những trận đánh “Thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” diễn ra thường xuyên hơn “cho chừa cái thói mách lẻo” như lời chồng chị có lần nói… Không thể thống kê một cách chính xác hiện nay ở Thị trấn Tứ Hạ có bao nhiêu phụ nữ bị bạo hành gia đình. Thông thường, các nạn nhân luôn giấu kín, chỉ đến khi vết thương quá nặng phải nhập viện thì họ mới thú nhận là bị chồng đánh. Khi những vụ bạo hành bị “vỡ lở” nhiều người ngạc nhiên không hiểu tại sao những người phụ nữ ấy lại có thể chịu đựng bị đánh đập trong một thời gian dài như vậy mà không một lời kêu ca hoặc có ý định tự bảo vệ mình. Tôi tìm đến Bệnh viện Huyện Hương Trà. Bác sỹ Nguyễn Thị Long không khỏi bức xúc: “Bệnh viện chúng tôi gần khu dân cư nên thỉnh thoảng có những ca cấp cứu… Ngoài chuyên môn: gãy xương, dập lá lách… vì bị chồng đánh. Thông thường sau một thời gian điều trị thì người bệnh phục hồi sức khoẻ, nhưng cũng có nhiều trường hợp bị thương tật vĩnh viễn, giảm khả năng lao động đáng kể”. Đấy là những ảnh hưởng về mặt sức khoẻ có thể nhìn thấy được. Nhưng những trận bạo hành còn để lại những ảnh hưởng “vô hình”, những căn bệnh về tâm lý nhiều khi không thể chữa trị được như trầm cảm, hoang tưởng thậm chí tâm thần phân liệt… Trong nhiều trường hợp, những người phụ nữ bị bạo hành là thành phần lao động chính trong gia đình nên khi không thể lao động được, họ lại càng rơi vào tình trạng khó khăn, cùng quẫn. Tìm gặp công an Thị trấn Tứ Hạ, tôi được anh Lê Tiến Dũng - Trưởng công an cho biết: “Đối với những vụ bạo hành gia đình trong địa bàn dân cư, công an chỉ can thiệp khi có một trong hai người trình báo. Cảnh sát khu vực cùng đại diện tổ dân cư, hội phụ nữ đến lập biên bản mời hai vợ chồng lên đồn viết tường trình, rồi giải thích, giáo dục, bắt cam kết không tái phạm. Nếu người vợ bị đánh thương tích thì cấp giấy cho đi khám chứng thương. Nếu muốn đưa người chồng ra toà xử lý theo pháp luật thì trước hết người vợ phải làm đơn kiện, có giấy chứng nhận thương tật mất 11% sức khoẻ, sau đó công an mới thu thập tài liệu để truy cứu trách nhiệm hình sự… Nói tóm lại là quy trình rất phức tạp rầy rà, hơn nữa ít có người vợ nào chịu theo kiện chồng đến cùng. Anh Dũng nhận xét, 13 năm làm công an khu vực anh thấy nạn bạo hành gia đình ngày càng gia tăng và tính chất cũng nghiêm trọng hơn nhưng 13 năm chưa có trường hợp nào đưa được ông chồng ra toà hoặc cho đi cơ sở giáo dục. Những phụ nữ bị chồng bạo hành thường tự giải quyết bằng biện pháp ly hôn. Theo điều tra Xã hội học thì tỷ lệ ly hôn ở những cặp vợ chồng mới kết hôn 5 năm nhiều hơn những cặp kết hôn trên 5 năm. Đó cũng vì khi yêu nhau chúng ta không còn tỉnh táo để nhận ra những thói hư tật xấu của nhau cho đến khi kết hôn thành vợ thành chồng thì lúc đó mọi tật xấu thói hư mới bộc lộ và khi nhận ra thì cũng đã là vợ là chồng của nhau rồi. Có 69% cho rằng 5 năm đầu từ khi kết hôn quan hệ vợ chồng không có nhiều trục trặc, có 4% cho rằng thường xảy ra trục trặc trong quan hệ vợ chồng là khi mới cưới. Khi mang thai và sinh con đầu lòng chỉ chiếm 1%. Và khi mới ra ở riêng, môi trường sống có nhiều thay đổi là 25%. Bạo hành gia đình trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn chiếm 61%, 27% cho rằng bạo hành gia đình trong hoàn cảnh gia đình bình thường và 22% cho rằng bạo hành xảy ra trong hoàn cảnh kinh tế khá giả. Một câu hỏi thường được nêu ra là tại sao nạn nhân không chịu dứt khoát xa lánh người đã hành hạ mình. Nhiều lý lẽ được nêu ra: - Chia tay là một việc cần sửa soạn chứ không phải đùng đùng xách gói ra đi. - Vẫn còn thương yêu. - Phụ thuộc tài chánh; không chịu trả tiền trợ cấp. - Muốn con cái có cột trụ là người cha. - Sợ chồng đe dọa lấy mất con, đe dọa tính mệnh mình hay thân nhân, phá hủy đồ đạc, tài sản. - Tự trách mình đã làm chồng phật ý vì vụng về, thiếu duyên dáng. - Tôn giáo, gia đình không cho phép dứt bỏ. Nhiều anh chồng vũ phu cũng lắm đòn phép, tỏ vẻ hối hận ăn năn, thề thốt sẽ không bao giờ đụng tới chân lông của vợ. Vợ nhẹ dạ, cả tin, cho chồng cơ hội để thay đổi để rồi ngựa quen đường cũ, đâu vẫn hoàn đó. Cuối cùng thì đa số cũng vẫn phải ra đi vì sự an toàn của mình nhưng sau những sửa soạn, quyết tâm, với nhiều nghị lực bản thân và hỗ trợ từ bên ngoài. Họ phải tập trung vào việc làm sao để nếp sống riêng rẽ được ổn định: sẵn sàng về sức khỏe thể xác, tinh thần, an toàn tài chánh, bảo hiểm sức khỏe, có nơi ăn ở, trường học cho con cái. 3.2. Những yếu tố làm tăng nguy cơ bạo hành: Người lạm dụng với phụ nữ có thể là người chồng, người tình, người chồng cũ. Trong thâm tâm họ, nhiều lý do hoặc chính đáng hoặc ngụy tạo được nêu ra để bào chữa cho hành động của mình. Đồng thời cũng có những hoàn cảnh, những xáo trộn trong đời sống đưa đẩy khiến họ bạo hành. - Sự nghiện ngập. Kết quả nhiều nghiên cứu cho hay, có đến một nửa trường hợp bạo hành là do người nghiện rượu gây ra. Khi say, lý trí bị tê liệt, họ có những hành động không hợp lý. Nhưng đôi khi họ cũng giả say hành hạ vợ để tránh lưới pháp luật. - Ghen tuông. Người chồng thường buộc tội vợ dan díu lăng nhăng với người khác, đôi khi vợ có bầu với mình nhưng cứ ngược ngạo nói là con người nào đó rồi hành hung vợ. - Gia đình có khó khăn tài chánh, công việc của người chồng có nhiều trở ngại, căng thẳng, nội tình xáo trộn vì bệnh tật, vì mâu thuẫn giữa bố mẹ, con cái. - Một số người còn ôm lấy cái quan niệm cũ xưa cho rằng vợ con là sở hữu của họ, muốn chứng tỏ họ là chúa, nên khi chỉ một bực mình nhỏ nhặt là họ mang vợ ra hành hạ. Nhiều người không cần nại lý do, muốn hành hung lúc nào là làm. - Có người khi còn bé chứng kiến bạo lực xảy ra giữa bố mẹ rồi cho sự hành hung vợ là chuyện bình thường trong mọi hôn nhân. 4. Hậu quả của bạo hành: 4.1. Đối với nạn nhân là phụ nữ: 4.1.1. Hậu quả về thể chất: - Phụ nữ bị đánh đập thâm tím, tổn thương và chấn thương. - Tổn thương các cơ quan, bộ phận cơ thể. - Nhiều phụ nữ bị tàn phế suốt đời. - Phụ nữ bị chết do thương tật quá nặng. - Có thai ngoài ý muốn. - Phụ nữ mang thai có nguy cơ sẩy thai. - Nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục HIV/AIDS, các bệnh phị khoa khác. - Bạo lực không chỉ diễn ra ở phụ nữ mà còn ảnh hưởng đến con cái, họ hàng, láng giềng. 4.1.2. Hậu quả về tinh thần: - Ức chế thần kinh, uất ức, căm phẫn. - Lo lắng, sợ hãi. - Tự ti, cảm giác bị phụ thuộc. - Ám ảnh xấu. - Căng thẳng sau chấn thương. - Tuyệt vọng bi quan dẫn đến tự tử. - Các rối loạn tinh thần khác. 4.1.3. Các hậu quả khác: - Những người phụ nữ bị đánh đập cần nhiều chi phí cho sự chữa trị và phục hồi sức khoẻ. - Những phụ nữ bị thương tật do bị đánh đập thường phải nghỉ việc để chữa trị hoặc dành nhiều thời gian cho quá trình ra toà. Họ phải nghỉ làm việc trong nhiều ngày. - Phụ nữ bị hành hạ đánh đập, họ không còn điều kiện tham gia đầy đủ vào các hoạt động xã hội để phát triển toàn diện khả năng, năng lực vốn có của họ. - Kìm hãm sự tiến bộ của phụ nữ, hạn chế sự đóng góp của phụ nữ đối với sự phát triển của xã hội. 4.2. Đối với gia đình: - Tạo nên những mối bất hoà trong gia đình và ảnh hưởng đến tâm lý của mọi thành viên. - Làm tổn thương hình ảnh người chồng, người vợ, người cha, người mẹ trong gia đình, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, tình cảm và thể chất. - Làm mất đi sự đóng góp tích cực của nạn nhân đối với sự phát triển gia đình. - Gây thiêt hại đến kinh tế gia đình do đập phá đồ đạc, phải chữa chạy vết thương và bệnh tật… - Huỷ hoại hạnh phúc gia đình, gia đinh đổ vỡ, ly hôn, mọi thành viên đề phải chịu hậu quả, con cái thiếu sự chăm sóc giáo dục của cha mẹ là một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội gia tăng. - Có những trẻ em bỏ nhà ra đi vì không chịu được cảnh bạo hành gia đình, tình trạng nguyên nhân này gây tác hại xấu cho trẻ. - Những trẻ em sống trong gia đình xảy ra nhiều bạo lực thường cảm thấy cô đơn buồn chán và mặc cảm. Trẻ em có khuynh hướng trở nên ác độc, lì lợm và hay xúc phạm những người khác. Chính những đứa trẻ phải chứng kiến và làm quen với bạo lực từ tuổi ấu thơ sẽ là người nuôi sống bạo lực từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hậu quả này không thể lường hết được. - Những người bạo lực đánh đập vợ con cũng bị thành viên còn lại trong gia đình và những người ngoài xã hội coi thường. - Họ đánh mất tình yêu của chính gia đình mình. - Đôi khi người gây ra bạo lực có thể bị bỏ tù. - Ảnh hưởng đến chuyện học hành. Trẻ em đôi khi gặp khó khăn trong việc kết bạn. - Nhiều đứa trẻ bị thương tật, xây xát khi trẻ em cố bảo vệ mẹ trong những lần bị đánh đập. - Bà mẹ bị bạo lực trong quá trình mang thai, trẻ em sinh ra thường thiếu tháng, tỷ lệ nhiễm bệnh và tử vong cao. 4.3. Đối với xã hội: - Một xã hội có bạo hành gia đình không thể là một xã hội văn minh. - Tạo cơ hội cho tư tưởng bạo lực và thống trị trong gia đình. - Hạn chế sự bền vững của mô hình gia đình, nguyên nhân trực tiếp phá vỡ cuộc sống chung của nhiều gia đình. - Bạo hành gia đình là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng mất đoàn kết trong cộng đồng, ảnh hưởng đến trật tự trị an, làm gia tăng các tệ nạn xã hội. - Gây phiền hà cho xóm làng, hạ thấp sự tôn trọng của những người xung quanh đối với nạn nhân. - Tăng gánh nặng cho các cơ quan y tế, các tổ chức đoàn thể như công an, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, tổ hoà giải, tổ dân phố… - Bạo lực đối với phụ nữ làm tiêu hao ngân sách Nhà nước. 5. Nguyên nhân của bạo hành gia đình: - Do quan niệm phong kiến lạc hậu, tư tưởng trọng nam khinh nữ, các chuẩn mực đạo đức, các giá trị truyền thống chi phối. Các quan niệm như “Trai năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên một chồng” hay “Tam tòng tứ đức”, làm cho vị trí của người phụ nữ trong xã hội thấp hơn so với nam giới, đó là chưa nói đến vị thế về xã hội, kinh tế, nghề nghiệp của người đàn ông luôn nổi trội tạo nên những quan điểm chênh lệch về bình đẳng giới. Đặc biệt là tính cách luôn muốn thể hiện nam tính, khả năng điều khiển, dạy vợ của người đàn ông. Trong quan điểm “dạy” vợ bao gồm cả sự bảo ban và bạo lực. - Do điều kiện kinh tế khó khăn tạo nên những áp lực nặng nề cho cả hai người. Các giá trị tốt đẹp của gai đình ít được quan tâm hơn tạo nên các mâu thuẫn trong gia đình, bởi gánh nặng kinh tế đều do trách nhiệm của người đàn ông đảm bảo. - Do ý thức cộng đồng còn quá coi nhẹ hành vi bạo hành gia đình. Không nhận thức đúng tính nghiêm trọng của nó, ít can thiệp, không có lời khuyên, lời đánh giá đúng khi nạn nhân lâm vào tình cảnh của sự ngược đãi, bạo hành. Khi người phụ nữ bị bạo hành điều trước nhất là được cảm thông, chia sẻ, được giúp đỡ, giải quyết đúng đắn phù hợp với quyền lợi của họ. Ngược lại, phần lớn cộng đồng xung quanh còn ngại ngần nhìn nhận như là nội nộ gia đình không nghiêm trọng, nên đã không ngăn chặn giải quyết triệt để. - Do người phụ nữ quen cam chịu, văn hóa Việt Nam quy định người phụ nữ tốt phải là người biết nhẫn nhục, chịu đựng, biết hy sinh, bảo vệ uy tín cho chồng dù chồng có làm sai hay cả khi gây bạo hành đối với mình. Khi xung đột, cãi vã xảy ra, người phụ nữ sẽ bị chê bai là không biết giữ cho gia đình yên ấm dù lỗi không thuộc về ai. - Do hệ thống các tổ chức, các cơ quan đoàn thể bảo vệ các quyền phụ nữ và giáo dục bình đẳng giới ở nước ta còn mỏng, thiếu đồng bộ, đặc biệt ở khu vực nông thôn, nhận thức bình đẳng giới còn hạn chề và tồn tại nhiều hủ tục, quan niệm lạc hậu bất lợi cho người phụ nữ. Ở nông thôn, người phụ nữ ít khi ra khỏi luỹ tre làng, một hệ thống các luật lệ vô hình chi phối hoạt động của họ. Bên cạnh đó, nhiều nguyên nhân gây hậu quả không nhỏ như mâu thuẫn giữa vợ và các thành viên trong gia đình người chồng, nạn nghiện rượu, ma tuý, nạn ngoại tình và vấn đề liên quan đến tình dục… 6. Một số giải pháp hạn chế và khắc phục nạn bạo hành gia đình: Bạo hành gia đình dù ở khía cạnh nào đều là hiện tượng không thể chấp nhận trong xã hội của chúng ta và càng không thể chấp nhận được trong thời đại văn minh của con người. Nam nữ đều có quyền bình đẳng trước pháp luật. Bạo hành đối với phụ nữ xảy ra làm hạn chế việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, làm cản trở đóng góp của phụ nữ trong việc xây dựng xã hội bền vững. Vì vậy cần có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn đi đến xoá bỏ mọi hình thức bạo lực đối với phụ nữ không chỉ trong phạm vi gia đình mà cộng đồng, các cấp chính quyền, quốc gia và quốc tế. Vừa qua, tại kỳ họp thứ 12, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Phòng, chống bạo lực gia đình với 6 chương, 46 điều quy định từ đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh đến các nguyên tắc, nghĩa vụ, quyền hạn của những nạn nhân bạo lực gia đình; chính sách của Nhà nước về phòng, chống nạn bạo hành; trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong công tác này;... Đây là cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho các nạn nhân bạo lực gia đình có sự bảo vệ của pháp luật, những hành vi xúc phạm thân thể, nhân phẩm phụ nữ sẽ không chỉ bị lên án về mặt đạo đức, mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Và một sự phối hợp, liên kết giữa các cơ quan, tổ chức nghiên cứu, bảo vệ quyền lợi phụ nữ với các cơ quan thông tấn, báo chí mang tính thường xuyên là điều cần thiết. Trước hết cần tăng cường công tác truyền thông về vai trò của người phụ nữ, về bình đẳng giới trong gia đình và xã hội. Cần tập trung tuyên truyền cho các đối tượng, đặc biệt là nam giới. Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống gia đình, vợ - chồng đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Mọi hành vi bạo lực và phân biệt đối xử với phụ nữ là vi phạm nhân quyền và không đúng với đạo lý làm người. Tăng cường phổ biến kiến thức pháp luật cho người dân. Nâng cao nhận thức cho người dân về bình đẳng giới, về qụyền con người cũng như nâng cao hiểu biết về pháp luật. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, các hành vi bạo hành và phân biệt đối xử với người phụ nữ trong gia đình. Cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa hội phụ nữ, chính quyền địa phương và công an trong việc bảo vệ phụ nữ trước nạn bạo lực gia đình. Phải nghĩ đến phương án xây dựng nơi tạm lánh cho phụ nữ trong thời gian xảy ra bạo hành gia đình ở cơ sở. Nghành Y tế cần có chính sách giúp đỡ phụ nữ là nạn nhân của bạo lực. Xây dựng mô hình gia đình không có bạo lực, cộng đồng bình yên và hình thành các câu lạc bộ “chống phân biệt đối xử trong gia đình”… Các cấp chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội, đặc biệt là hội phụ nữ các cấp, tổ dân phố... cần phát huy hơn nữa vai trò giáo dục, tuyên truyền về xây dựng gia đình văn hóa trong cộng đồng. Và hơn hết, chính bản thân phụ nữ, phải nhận thức được quyền và trách nhiệm của mình trong xây dựng gia đình theo chuẩn mực văn hóa. CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận: Những kết quả mà báo cáo này nêu ra chỉ mang tính chất tương đối. Vì thời gian hạn chế, địa bàn điều tra đã bị thu hẹp. Những số liệu điều tra được chỉ mang tính chất minh hoạ, song nó cũng thể hiện được phần nào thực trạng bạo hành trong gia đình ở Thị trấn Tứ Hạ, giúp cho người dân nhận ra những hiện tượng bạo hành vẫn diễn ra trong cuộc sống hàng ngày mà trước đó họ đã không quan tâm tới. Tại Thái Lan, nước xếp thứ 4 trong số 11 nước, khoảng 65% tổng số phụ nữ bị ngược đãi là do bạn tình, hoặc chồng. Trung tâm Giải quyết khủng hoảng khẩn cấp thuộc Bộ Y tế công cộng nước này thông báo trong thời gian từ tháng 10/2004 đến tháng 10/2005, tổng cộng có 10.241 nạn nhân đã tới 97 bệnh viện trên cả nước để điều trị vì bị ngược đãi. Đặc biệt một nước còn đậm dấu ấn phong kiến như Việt Nam thì bạo hành trong gia đình còn đáng lo ngại hơn. Để đạt được sự bình đẳng thật sự giữa nam và nữ là một quá trình lâu dài còn nhiều khó khăn và thử thách. Đây là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lac hậu. Đợt thực hành Công tác xã hội 2 đã để lại trong tôi rất nhiều kinh nghiệm và hiểu biết. Vẫn còn nhiều gia đình sống trong cảnh bạo hành, sống lom âu, sợ hãi trong chính ngôi nhà của mình. Nhiều phụ nữ, trẻ em hoang mang lo sợ khi phải đối mặt với chính người chồng, người cha của mình. Họ cần một nơi nào đó để trút bỏ tâm sự, cùng chia sẻ để vơi đi nổi đau. Họ cần một người chồng hiểu và thông cảm cho mình. Họ mong muốn có một gia đình hoà thuận, hạnh phúc và ngập tràn niềm vui. “Sau cơn mưa trời lại sáng”. Tôi tin rằng những người phụ nữ hiền lành cam chịu ấy sẽ được hạnh phúc, những người chồng kia sẽ bừng tỉnh sau những cơn say kịp thời sửa chữa lỗi lầm với vợ con để trở thành người chồng, người cha tốt và “nói không với bạo hành gia đình”! 2. Khuyến nghị: Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn đến cuộc sống của mỗi gia đình, đặc biệt là gia đình có bạo hành và trong đó phụ nữ và trẻ em là những người gánh chịu hậu quả nhiều nhất. Cần xây dựng và củng mô hình gia đình văn hóa, làng xóm văn hoá để thu hút sự tham gia của các gia đình. Đưa đến một xã hội văn hoá không còn bạo hành. Cần mở ra các trung tâm chăm sóc sức khoẻ cho những nạn nhân bị bạo hành gia đình nói chung và bạo hành gia đình nói riêng. Mở các trung tâm, tổng đài tư vấn và trị liệu tâm lý cho các nạn nhân bạo hành để họ có chổ để được tâm sự, chia sẻ và được cảm thông. Ở cơ sở cần mở ra các tổ hoà giải, các trung tâm bảo vệ nạn nhân bị bạo hành để những lúc bị bạo hành nạn nhân có thể tìm đến để yêu cầu giúp đỡ. Nên lập ra những tổ chức giúp đỡ và chống bạo hành gia đình tại các cơ sở ở mỗi địa phương để có thể kịp thời bảo vệ cho những nạn nhân bị bạo hành. Đồng thời qua đó mở các lớp tập huấn nhằm trao chuyển kinh nghiệm, tìm ra lý do, đưa ra các phương pháp phòng tránh và giảm thiểu về nạn bạo hành nhằm giúp cho mỗi nạn nhân bị bạo hành tự phòng vệ và giải quyết vấn đề của bản thân. Xây dựng Chiến lược truyền thông mang tính rộng khắp đến các đối tượng trong xã hội, từ phụ nữ là những đối tượng chính cần bảo vệ đến nam giới (cả những người đàn ông trưởng thành đến các trẻ em nam trong các trường học), đến các phương tiện truyền thông như các đài, báo và toàn thể cộng đồng về bình đẳng giới, chống nạn bạo hành gia đình,... Phụ lục: MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HOẠ TRONG CHUYẾN THỰC TẾ TẠI HƯƠNG TRÀ – THỪA THIÊN HUẾ: Ngày đầu về địa bàn thực tế Sinh viên lớp CTXH – K29 trong chuyến thực tế DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …O0O… [1] Bản báo cáo khái quát chung về thị trấn Tứ Hạ của UBND thị trấn [2] Báo cáo của ban dân số,gia đình và trẻ em [3] Các báo cáo của hội LH Phụ nữ thị trấn Tứ Hạ [4] Bản thành tích thi đua 2007 [5] Bản thành tích thực hiện chương trình tín dụng vay vốn 5 năm [6] Kế hoạch chương trình hành động thực hiện nghị quyêt số 11 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước [7] Mai Huy Bích(2003) “xã hội học gia đình”, NXB Khoa học xã hội [8] Lê Thi (1998) “Phụ nữ và bình đẳng trong đổi mới ở Việt Nam”, NXB Phụ nữ Hà Nội [9] Tương Lai(1991) “Những nghiên cứu xã hội học về gia đình ở Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội [10] Nguyễn Hữu Nhân(2004) “Phát triển cộng đồng”,NXB Đại học quốc gia Hà Nội [11] Nguyễn Thị Kim Hoa(2006) “Giới và giới tính”,Tập bài giảng [12] Trần Hồng Vân(2001) “Tìm hiểu xã hội học về giới”, NXB Phụ nữ [13] Hoàng Bá Thịnh(2002), “Vai trò của người phụ nữ nông thôn trong CNH nông nghiệp hoá nông thôn” [14] Luât bình đẳng giới(21/11/2006) [15] “Quan hệ giới”, Trích trong báo cáo Việt Nam tiếng nói người nghèo(11/1999) [16] Tạp chí phụ nữ Thừa Thiên Huế,số xuân mậu tý 2008 [17] Tập bài giảng “Xã hội học gia đình” của TS Nguyễn Xuân Hồng - Đại học khoa học Huế. [18] Nguyễn Văn Mạnh, Công tác xã hội ở Miền trung, Nxb Thuận Hoá. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbao_cao_thuc_te_hue_4688.doc