Đề tài Biện chứng cái đẹp, cái đẹp trong trang phục Việt Nam (dân tộc Việt)

A. BIỆN CHỨNG CÁI ĐẸP 1 PHẦN I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ CÁI ĐẸP 2 1. Cái đẹp là gì ? 2 1.1. Vị trí của cái đẹp trong quan hệ thẩm mĩ 2 1.2. Bản chất của cái đẹp 3 1.3. Đặc điểm cơ bản của cái đẹp 4 2. Cái đẹp trong xã hội 4 PHẦN II: BIỆN CHỨNG CÁI ĐẸP TRONG XÃ HỘI QUA NGŨ LUÂN 5 1. Quan hệ vua tôi 5 2. Quan hệ thầy trò 8 3. Quan hệ cha mẹ - con cái 9 4. Quan hệ vợ - chồng 11 5. Quan hệ anh em, bạn bè, hàng xóm 12 5.1. Quan hệ anh em 12 5.2. Tình bạn bè 13 PHẦN III: KẾT LUẬN CHUNG 14 B. CÁI ĐẸP TRONG VĂN HÓA MẶC CỦA DÂN TỘC VIỆT 15 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 27

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2306 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện chứng cái đẹp, cái đẹp trong trang phục Việt Nam (dân tộc Việt), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Biện chứng cái đẹp, cái đẹp trong trang phục Việt Nam (dân tộc Việt) A. BIỆN CHỨNG CÁI ĐẸP Khi nghiên cứu các phạm trù của khách thể thẩm mĩ, phạm trù cái đẹp là một phạm trù mà không một nhà nghiên cứu nào có thể bỏ qua. Điều đó không có gì là khó hiểu cả, bởi “trong cuộc sống của con người, cái đẹp luôn là người bạn đồng hành, có mặt khắp mọi nơi; cái đẹp vây quanh con người trong mỗi bước đi, mỗi việc làm, mỗi hành vi ứng xử. Ở đâu có cuộc sống của con người là ở đó có cái đẹp. Cái đẹp đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc, nâng đỡ con người trong mọi khó khăn, tiếp thêm sức mạnh để con người vượt qua thử thách. Nhờ có cái đẹp mà con người không mất lòng tin vào cuộc sống, vào chân lí, vào ngày mai. Cái đẹp luôn là khát khao vươn tới của con người”. (Lê Văn Dương) Cái đẹp được biểu hiện qua muôn vàn những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh ta. Có những cái đẹp của thế giới tự nhiên do tạo hoá sinh ra như sông, núi, biển, trời, trăng, sao…; cũng có những cái đẹp do chính bàn tay con người làm ra - họ chính là những người nghệ sĩ, bằng tài năng và tâm huyết của mình, đã tạo ra những tác phẩm độc đáo, sinh động làm đẹp cho đời (được gọi là cái đẹp trong nghệ thuật). Tuy nhiên, điều mà chúng ta muốn đề cập đến ở đây lại là cái đẹp tồn tại trong một trạng thái khác, đó là cái đẹp trong xã hội. Chúng ta sẽ phần nào hiểu rõ hơn về nó khi đi vào tìm hiểu nếp sống tình cảm của con ngươì thông qua Ngũ luân. Và lẽ dĩ nhiên, theo quy luật tất yếu, trước khi đi vào nghiên cứu sâu một khía cạnh nào đó của vấn đề đặt ra, chúng ta phải có nền tảng chung, hay nói cách khác là, phải có hiểu biết nhất định về vấn đề đó. Bởi vậy, để hiểu rõ được cái đẹp trong xã hội thông qua Ngũ luân, những hiểu biết chung về cái đẹp là một điều hết sức cần thiết. Dưới đây sẽ là những phần mà bài viết đề cập đến: * Phần I: Tìm hiểu chung về cái đẹp. * Phần II: Biện chứng cái đẹp trong xã hội thông qua Ngũ luân. * Phần III: Kết luận chung PHẦN I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ CÁI ĐẸP 1. Cái đẹp là gì ? 1.1. Vị trí của cái đẹp trong quan hệ thẩm mĩ Trong lịch sử tư tưởng mĩ học, cái đẹp là phạm trù thẩm mĩ xuất hiện sớm nhất. Mặc dù những quan điểm cụ thể về cái đẹp có thể rất khác nhau, thậm chí là đối lập nhau đối với những trường phái mĩ học khác nhau, song có một điểm chung không thể phủ nhận là: bao giờ cái đẹp cũng được coi là tiêu chuẩn quan trọng nhất, phổ biến nhất, là điểm tựa trung tâm để con người đánh giá đời sống về mặt thẩm mĩ. Với tư cách là chủ thể thẩm mĩ, con người luôn đi tìm cái đẹp, khám phá cái đẹp và cao hơn là sáng tạo ra cái đẹp. Bởi vậy, con người cũng đánh giá các sự vật, hiện tượng xung quanh mình theo tiêu chí đẹp hay không đẹp. Cứ thế, nhu cầu cái đẹp của con người là vô tận, khát khao vươn tới cái đẹp của con người là không cùng. Nếu như đứng ở góc độ khách thể thẩm mĩ mà xét, các phạm trù thẩm mĩ như: cái xấu, cái bi, cái hài, cái trác tuyệt đều ẩn chứa trong đó mối quan hệ với cái đẹp, dù là trực tiếp hay gián tiếp: - Phạm trù cái xấu: là phạm trù đối nghịch với phạm trù cái đẹp. - Phạm trù cái bi, bản chất của nó chính là sự xung đột trực diện giữa một bộ phận ưu tú của cái đẹp với toàn bộ cái xấu. Trong qúa trình giao tranh ấy, một bộ phận ưu tú của cái đẹp bị cái xấu tiêu diệt. - Phạm trù cái hài, bản chất của nó là sự xung đột giữa cái đẹp với một bộ phận của cái xấu. Một bộ phận của cái xấu tìm cách chui vào thế giới của cái đẹp hòng lũng đoạn, khống chế cái đẹp. Chỉ khi nào cái đẹp đủ sức phát sáng, đuổi cái xấu xa ra khỏi thế giới của mình thì cái hài xuất hiện. - Phạm trù cái trác tuyệt, là phạm trù liên quan trực tiếp và gần gũi nhất với cái đẹp. Nói như Hegel, đó là “cái đẹp ở mức tuyệt đỉnh” là cái đẹp mang một tầm vóc lớn lao, phi thường, là cái đẹp quá mức bình thường. Như vậy, ở mức độ này hay mức độ káhoàn cảnh thì cái đẹp đều liên quan, chi phối đến các phạm trù khác. Nó được xem là tiêu chuẩn, là điểm tựa để khái quát nên các phạm trù khác. Nếu không có cái đẹp thì nghĩa là không có các phạm trù kia. Tóm lại, dù xét từ phương diện nào, khách thể hay chủ thể, thì cái đẹp bao giờ cũng đứng ở vị trí trung tâm trong mối quan hệ thẩm mĩ của con người với hiện thực. 1.2. Bản chất của cái đẹp Cái đẹp là một phạm trù hết sức phức tạp, vì thế không dễ gì nhận diện được bản chất mang tính khái quát của nó. Trước khi mĩ học Mác - Lênin ra đời, lịch sử tư tưởng mĩ học đã từng ghi nhận ít nhất là có ba khuynh hướng quan niệm khác nhau về bản chất của cái đẹp: khuynh hướng duy tâm khách quan, duy tâm chủ quan và khuynh hướng duy vật. Mỗi học thuyết đều có lí riêng của mình. - Mĩ học duy tâm khách quan (Platon, Hêgel…) không tìm thấy cơ sở của cái đẹp ở trong các sự vật, hiện tượng của thế giới hiện thực, họ lí giải nguồn gốc của nó trong thế giới ý niệm. Bởi vậy, cái đẹp, theo họ là một phạm trù vĩnh cửu, bất biến. - Mĩ học duy tâm chủ quan (Hume, Lalo, Kant…) lại có quan niệm khác, họ tuyệt đối hoá cái đẹp theo quan niệm chủ quan, tìm nguồn gốc cái đẹp trong ý thức của chủ thể, trong cảm xúc chủ quan của cá nhân. “Cái đẹp không ở trên đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong con mắt của kẻ si tình”. - Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, mĩ học duy vật trước Mác lại tập trung sự chú ý vào phương diện khách quan của cái đẹp. Họ cho rằng, cái đẹp là một thuộc tính tự nhiên, vốn có của sự vật, sự vật tự nó đã đẹp rồi, con người chẳng qua chỉ là kẻ thưởng ngoạn vẻ đẹp ấy một cách bị động mà thôi. - Mĩ học Mác - Lênin đã lí giải về bản chất của cái đẹp trên một chất lượng mới. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mĩ học Mác xít quan niệm rằng, bản chất của cái đẹp là sự thống nhất biện chứng giữa hai nhân tố khách quan và chủ quan. Với cách nhìn biện chứng như vậy, mĩ học Mác - Lênin đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình khi nó chỉ nhìn thấy mặt khách quan của cái đẹp; đồng thời cũng chỉ ra tính chất phiến diện của chủ nghĩa duy tâm khi họ quan niệm rằng cái đẹp chỉ là kết quả của cảm xúc chủ quan của con người. 1.3. Đặc điểm cơ bản của cái đẹp a- Cái đẹp vừa mang tính lịch sử, thời sự; vừa mang tính muôn thủa, vĩnh viễn. Có những cái đẹp chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng cũng có cái đẹp tồn tại mãi với thời gian. b- Cái đẹp bao gồm những phẩm chất: hài hoà, cân đối, mực thước, chất lượng, tiến bộ. Trong bất cứ cái đẹp nào, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy những phẩm chất đó. c- Cái đẹp có hai hệ tiêu chí: đó là chân, thiện, mĩ và tính nhân dân, tính dân tộc, tính nhân loại. Để đánh giá cái đẹp một cách chính xác, toàn diện, chúng ta cần căn cứ trên hai hệ tiêu chí đó. 2. Cái đẹp trong xã hội Như chúng ta đá biết, cái đẹp biểu hiện ở trên ba lĩnh vực: cái đẹp trong tự nhiên, cái đẹp trong nghệ thuật và cái đẹp trong xã hội. Tuy nhiên, trong phạm vi của bài tiểu luận nhỏ này, chúng ta chỉ đi sâu vào nghiên cứu cái đẹp trong xã hội. Khác với cái đẹp trong tự nhiên là sản phẩm khách quan của tạo hoá, cái đẹp trong xã hội là kết quả của hoạt động thực tiễn của con người. Cái đẹp ấy được biểu hiện qua tập quán, lễ nghi, phép ứng xử của con người với tự nhiên, con người với xã hội trong một phạm vi hẹp vi mô là gia đình đến một phạm vi rộng vĩ mô là xã hội, mà nếu quy lại, chúng được gọi là văn hoá ứng xử. Ta có thể định nghĩa văn hoá ứng xử như sau : “Văn hoá ứng xử là lối sống, lối suy nghĩ, hành động của con người với con người, con người với tự nhiên, con người với xã hội qua những luân thường đạo lý”. Bản chất của văn hoá ứng xử là Tâm và Nhẫn : Tâm (tim) là nơi thiêng liêng nhất, quan trọng nhất. Tâm còn có nghĩa là lương tâm, đạo đức, tư cách, nhân ái. Theo Chu Dịch và Kinh Dịch của Chu Công Đán và Chu Văn Vương (sau này được Khổng Tử phát triển thành Kinh Dịch). Tâm có nghĩa là Đạo và Đức: Đạo là ngũ thường, bao gồm: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Đạo là Ngũ luân, trong nó bao hàm các mối quan hệ giữa : vua - tôi, thầy - trò; bố mẹ - con cái, vợ - chống và anh em, bạn bè, hàng xóm . “Đạo” là cái lí tự nhiên của trời đất, là con đường rộng ai cũng phải theo mà đi, tức là cái công lệ trung chính để làm quy tắc cho hành động của người đời. Ai theo đạo ấy mà ăn ở là hay, là người quân tử, không theo được đạo cũng là dở, là kẻ tiểu nhân”. (Khổng Tử) Qua Ngũ luân, ta sẽ thấy được phần nào cái đẹp trong xã hội PHẦN II: BIỆN CHỨNG CÁI ĐẸP TRONG XÃ HỘI QUA NGŨ LUÂN 1. Quan hệ vua tôi Trong Ngũ luân, quan hệ vua tôi là mối quan hệ đầu tiên mà nó đề cập đến. Theo tư tưởng của Nho giáo thì quân quyền phải để một người giữ cho rõ cái mối thống nhất. Người giữ quân quyền gọi là đế hay vương, ta thường gọi là vua. Vua phải lo việc trị nước, tức là lo sự sinh hoạt, sự dạy dỗ và sự mở mang cho dân. Ở trong nhà thì con phải hiếu với cha mẹ, ở tỏng nước thì thần dân phải trung với quân. Vua thay trời trị dân. Vua muốn làm điều gì là trời muốn làm điều ấy, không ai được cưỡng lại. Tuy nhiên, khổng giáo còn quan niệm trời với dân là cùng đồng một thể, toàn dân muốn thế nào là trời muốn thế ấy. Ông vua chỉ là một phần trong toàn thể. Hễ ông vua làm điều gì trái với lòng dân, tức là trái mệnh trời. Thành thử ông vua tuy đối với trời được thay quyền trời nhưng đối với dân phải chịu hết cả các trách nhiệm. Mà dân thì tuy phải chịu quyền ông vua cai trị nhưng vẫn có quyền bắt vua phải theo điều lành mà làm. Lòng tự nhiên của dân là muốn điều lành, ghét điều ác, theo cái lòng ấy mà trị dân thì tất là dân yêu mến như cha mẹ. Nếu ông vua nào trị dân mà yêu cái ghét của dân và ghét cái mà dân yêu tức là trái mệnh trời thì người khác có quyền “điếu dân phạt tội”, nghĩa là cứu dân mà đánh người có tội. Tư tưởng trung quân của Nho giáo đã thực sự góp phần rõ nét vào chủ nghĩa yêu nước. Trong lịch sử Việt Nam đã có biết bao tấm gương sáng lưu lại muôn đời. Hẳn trong chúng ta, không một ai có thể quên được sự kiện Lê Lai liều mình chết thay cho Lê Lợi trong lúc ông và quân đội của ông lầm vào tình trạng: “Khi Linh sơn lương cạn mấy tuần Lúc khôi huyện quân không một lữ”. Hẳn câu trả lời của Phan Đình Phùng với Hoàng Cao Khải, khiến không ít người trong chúng ta phải suy nghĩ: “Nước mình mấy ngàn năm nay đất nước chẳng rộng, quân lính không mạnh, tiền của chẳng giàu, cái chỗ dựa để dựng nước là nhờ ở gốc vua tôi, cha con theo năm đạo thường mà thôi”. Hay như câu trả lời của Nguyễn Quang Bích trước quân Pháp: Nó mộc mạc, chân thành tới mức ta có cảm giác ông đang bộc bạch về nỗi lòng mình, bộc bạch đấy nhưng hết sức cứng rắn và cương quyết: “… Nhưng chúng tôi lại nghĩ đến vua tôi đứng trong trời đất mà không hề quản cái phận hoa di đã rõ ràng như sông Kinh, sông Vị, không dám quên phận của mình, ấy chính cũng chỉ quyết giữ trọn cái nghĩa ấy thôi… Thà chịu tội với quý quốc, quyết không chịu tội với nhà vua … chúng tôi cam lòng chịu chết vì nghĩa vua tôi…” Là một người con của đất Việt, lẽ nào bạn lại không cảm thấy tự hào trước những tấm lòng đầy nghĩa khí như vậy? Không chỉ có thế, thấm nhuần tư tưởng trung quân, các đế vương Việt Nam đều coi nước là của mình, Lí Thường Kiệt viết : “Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành ranh định phận ở sách trời…”. Lê Thánh Tông cũng nói: “Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được… Kể nào dám đem một thước núi, một tấc đất của vua Lê Thái Tổ để làm mồi cho giặc thì kẻ đó phải bị trừng trị nặng”. Hết lòng vì nước, vì dân, rất nhiều bậc đế vương đã hoàn thành tốt trách nhiệm cao cả của mình - trách nhiệm “thay trời hành đạo”. Ví như Vua Thuấn bên Tàu, vua Pie ở nước Nga, vì muốn hiểu rõ đời sống của thần dân, muốn biết dân có hài lòng về mình không đã cải trang làm dân thường đi vi hành khắp nơi. Hay như dưới thời vua Hammurabi ở Lưỡng Hà cổ đại, người dân nơi đây đã thực sự được sống trong cảnh thanh bình, no ấm, lòng đầy tự hào về vị vua anh minh của mình. Cũng với tinh thần như vậy, ở Việt Nam ta, hiểu rõ tầm quan trọng của dân trong việc trị nước, suốt cả cuộc đời mình, vua Minh Mệnh đã nêu tấm gương làm việc bền bỉ không biết mỏi: “Ta là vua của một nước, vẫn nghĩ sâu sắc rằng, mình là gốc của phong hoá phải làm gương cho thiên hạ”. Khi nghe tin Bắc Kì bị tai nạn lũ lụt, Minh Mệnh đã ra chỉ dụ: “Trẫm là cha mẹ của dân, sao nỡ vui nơi yến tiệc. Bắt đầu từ hôm nay, dâng cơm ngự thiện phải giảm một nửa, bãi bỏ tất cả các việc ca nhạc…”. Tuy nhiên, có lẽ cũng là việc thường tình, trong lịch sử nhân loại, chuyện những vị vua dựa vào quyền lực của mình, hà hiếp dân lành, ăn chơi trác táng, ham mê tửu sắc, không quan tâm đến triều chính cũng không phải là hiếm. Chẳng hạn, ở Việt Nam ta, đó là hình ảnh của chúa Trịnh Sâm, Lê Long Đĩnh hay bù nhìn Khải Định… và dĩ nhiên, những vị vua ấy đã không thể ngồi vững trên ngai vàng của mình hẳn những câu ca dao này đã phần nào phản ánh được quy luật tất yếu đó. “Con vua thì lại làm vu Con sãi ở chùa lại quét lá đa Bao giờ dân nổi can qua Con vua thất thế lại ra quét chùa”. Việc vua thì đã vậy, còn long dân ? Bên cạnh những tấm gương cương trực như chúng ta đã biết, còn có những kẻ vì lợi ích cá nhân, vì cái lợi trước mắt đã làm những việc trái lương tâm, đạo đức của con người. Chắc chắn những kẻ bán mình, phản bội nhân dân, đất nước sẽ mãi bị lên án, người người căm ghét. 2. Quan hệ thầy trò Đã từ lâu, những câu tục ngữ như : “Không thầy đố mày làm nên”, “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”… đã trở thành những câu cửa miệng, quen thuộc với mọi người dân Việt Nam. Qua những câu nói ấy, vai trò to lớn của người thầy, truyền thống “tôn sư trọng đạo” được bộc lộ rõ nét. Trong Ngũ luân, mối quan hệ thầy trò được đặt lên trước mối quan hệ cha mẹ với con cái bởi: cha mẹ cho ta thân xác, hình hài - cái đó được gọi là tiểu ngã; còn người thầy cho ta kiến thức, vốn sống để làm người- cái đó được gọi là đại ngã. Vì thế, đại ngã được đề cập trước tiểu ngã là điều đương nhiên. Người thầy cần phải có đủ đức và tài để truyền đạt kiến thức cho học trò của mình, phải là tấm gương sáng để trò mình noi theo. Còn trò, phải biết lòng kính trọng thầy, học hành chăm chỉ và đỗ đạt cao để không phụ công thầy. Trong câu chuyện “Người thầy đầu tiên” của nhà văn Ai-ma-dốp, hình ảnh người thầy giáo Duy xen đã tự nguyện về một vùng quê nghèo, vận động các gia đình cho con em mình đi học chữ đầy gian truân, khó khăn hẳn đã làm không ít người trong chúng ta cảm phục về tấm lòng của một người thầy. Người thầy ấyđã tự mua sách vở cho các em, đã tự mình sửa lại đường đi để các em đi học được dễ dàng… Người thầy ấy đã được học trò của mình hết sức yêu mến và kính trọng. Ở Việt Nam ta, người thầy giáo Chu Văn An sẽ còn sống đến muôn đời. Học trò của Thầy, ai cũng đỗ đạt cao, làm quan to, song với thầy, họ lúc nào cũng hết mực kính trọng, biết ơn. Tôi chắc tất cả chúng ta còn nhớ như in câu chuyện về người con trai Thuỷ thần được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Cảm phục trước tài đức của thầy, người con ấy đã xin thầy theo học. Khi trần thế bị hạn hán lâu ngày, tưởng chừng như không thể chịu nổi, người học trò ấy đã làm theo tâm nguyện của thầy, sẵn sàng hi sinh tính mạng để đem lại cuộc sống bình yên, no ấm cho tất cả mọi người. Ngày 20/11 hàng năm, nhà nước ta lấy đó làm ngày Nhà giáo Việt Nam - ngày mà toàn xã hội hướng về những người thầy, người cô hết mình cống hiến cho sự nghiệp giáo dục nước nhà. 3. Quan hệ cha mẹ - con cái Nho giáo coi sơi dây thiêng liêng ràng buộc người này với người khac sau khi ra đời là tình nghĩa người con với người mẹ. Khi bắt đầu có tình cảm, tư duy, trẻ con phải bắt đầu học tập để giữ đạo làm con. Người có hiếu trước hết phải là người biết nuôi cha mẹ. Nuôi thì phải kính, chứ không kính thì không phải là hiếu. Khi cha mẹ còn sống, không bao giờ làm điều gì để cho cha mẹ lo buồn. Bởi vậy không nên đi đâu xa, có đi xa thì phải nói cho cha mẹ biết chỗ đi để cha mẹ khỏi lo. Khi cha mẹ có làm điều gì trái đạo thì con phải dùng cách ôn hoà mà can ngắn. Việc giữ cái danh tiết của cha mẹ được trong sạch là bổn phận người con hiểu đạo hiếu. Hiếu là thước đo của đạo đức, là gốc của nhân luân, tạo nên phẩm cách con người. Nói về đạo làm con, ca dao Việt Nam ta phản ánh rất sinh động và chân thực. “Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Hay : “Đói lòng ăn bát chà là Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”. Hoặc: “Dẫu con đi hết cuộc đời cũng không đi hết những lời mẹ ru…” Không chỉ trong ca dao, trong tất cả các lĩnh vực nghệ thuật khác, ví như trong các tác phẩm văn chương ở các thể loại khác, đạo làm con cũng được bộc lộ rõ. Nàng Thuý Kiều trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã hi sinh tuổi thanh xuân của mình để cứu cha. Hay như trong tích chèo Trương Viên- Thị Phương, cô con dâu Thị Phương đã thay chống làm tròn đạo hiếu với người mẹ già. Người con dâu ấy đã chấp nhận mọi nguy hiểm, tai ương để cứu lấy mẹ, them chí cô còn lấy thịt từ người mình cho mẹ ăn để mẹ khỏi chết đói. Trong cổ tích Việt Nam, chuyện Chử Đồng Tử nhường cho cha cái khố duy nhất khi cha mất cũng phản ánh sâu sắc lắm tấm lòng của người làm con… Phận làm con thì đã hẳn là như vậy, phận làm cha mẹ cũng phải biết sửa mình để ngay thẳng gia đình, lấy nghĩa lí dạy con trai, lấy nữ công nữ tắc dạy con gái… Cha mẹ còn luôn dành những tình cảm thương yêu nhất cho những đứa con của mình. Hình ảnh Lão Hạc ăn uống kham khổ, tiết kiệm, thu nhặt từng đồng, từng hào danh dụm cho con hẳn không phải là vô nghĩa. Rồi như bà cụ Tứ, trước cái khổ, cái đói, với tấm lòng nhân hậu, thương con của một người mẹ, bà vừa lo lắng cho con, vừa động viên con nhằm mang lại niềm tin vào cuộc sống cho những đứa con của mình, và có ai trong chúng ta lại không lớn lên từ tiếng à ơi, ru hời ngọt ngào, nồng ấm của mẹ: “Gió mùa thu, mẹ ru con ngủ Năm canh dài, mẹ thức đủ năm canh…” … Mạch cảm hứng khơi nguồn sáng tạo từ mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái là vô tận, không cùng; nhưng cái chính là chúng ta đã cảm nhận được cái vẻ đẹp chân thành, đầy ý nghĩa trong cách ứng xử của mối quan hệ đó. 4. Quan hệ vợ - chồng Cái đạo vợ chồng cũng là một mối cương thường rất quan trọng trong Ngũ luân. Ở với nhau mà biết thương yêu nhau, quý trọng nhau thì rất là phải đạo lắm. Tục ngữ ta có câu. “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn” Hay : “Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thường mình bấy nhiêu”. Rồi : “Chồng em áo rách em thương Chồng người áo gấm xông hương mặc người” Trong truyện Phạm Công - Cúc Hoa, đôi vợ chồng ấy dù gặp bao trắc trở, dù kẻ âm người dương, nhưng họ vẫn luôn hướng về nhau và cuối cùng hạnh phúc thực sự đã m,ỉm cười với họ. Chiến tranh - sự kiện ấy cũng là một thử thách khắc nghiệt trong quan hệ vợ chồng. Tôi đã cực kì xúc động khi nghe kể về chuyện một ngươidf vợ đằng đẵng chờ chồng trong suet hai mươi năm dù không một lá thư, không chút tin tức (vì anh là một tình báo). Hai mươi năm sau, anh trở về, chi ôm anh vào lòng, không giấu được nước mặt, chị nói : “Cảm ơn cuộc đời, cuộc đời đã cho chị nhiều lắm!”. Một hình tượng nữa, dù hết sức giản dị song tình cảm vợ chồng cũng được biểu hiện rất sâu sắc - đó chính là hình tượng núi vọng phu. Nhưng tục ta lại trọng nam khinh nữ. Người vợ trên phải phụng dưỡng cha mẹ, có khi phải nuôi chống; giữa thì giúp chồng lo lắng công kia việc khác, gánh vác giang sơn cho nhà chồng, dưới thì săn sóc nuôi em… trong khi đó nghĩa vụ của người chồng chỉ ở cho đúng đắn, biết yêu vợ, quí trọng vợ. Đối với người phụ nữ, chỉ cần có một người chồng hiểu mình, thương mình, thông cảm cho những nỗi gian truân, vất vả của mình đó đã là một điều vô cùng hạnh phúc. Họ sẵn sàng làm tất cả, hi sinh tất cả để làm tròn bổn phận của mình : “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông” “Thương vợ - Tú Xương). Đó là những nét đẹp trong quan hệ vợ chồng 5. Quan hệ anh em, bạn bè, hàng xóm 5.1. Quan hệ anh em Đi lion với đức hiếu là đức đễ. Đễ là mối quan hệ giữa anh chị em trong một gia đình. Bổn phận của người anh là phải quan tâm, chăm sóc và nhường nhịn đàn em. Ngược lại, người làm em phải hết lòng kính trọng và ngoan ngoãn vâng lời anh chị của mình. Tục ngữ ta vẫn nói “Anh em như chân với tay”, “Môi hở răng lạnh”, “chị ngã, em nâng”, “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”… Ca dao cũng đề cập đến mối quan hệ này. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. Hoặc : “Anh em như chân với thay Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”… Và những người làm anh, làm chị chắc sẽ không thể quên được tích “Trầu cau” của dân tộc ta- một tích truyện đầy xúc động về tình anh em, nghĩa vợ chồng gắn bó keo sơn, thuỷ chung muôn đời; hay như câu chuyện “Tình anh em” chẳng hạn, đức đễ đã thật sự được toả sáng. Cha mẹ mất đi để lại cho anh em một mảnh ruộng. Hai anh em làm chung, đến mùa thu hoạch lúa, họ chia làm hai đống đều nhau và để ở ngoài đồng. Đêm đến, người em nghĩ : mình chỉ có một thân một mình, chẳng phải lo lắng cho ai cả, còn anh trai mình đang có cả một gia đình phải lo, mình sẽ khuân bớt đống lúa của mình sang đống của anh, làm thế anh sẽ không biết mà từ chối. Người anh thì lại nghĩ: Ta thì chẳng sao, nhưng em ta chỉ có một thân một mình, vì thế ta sẽ nhường cho em một ít lúa của ta. Sáng hôm sau ra đồng, cả hai anh em đều vô cùng ngạc nhiên khi thấy cả hai đống vẫn rất bằng nhau. Sau một vài đêm như vậy, hai anh em quyết tìm hiểu rõ nguyên nhân và họ đã gặp nhau trong cảnh mỗi người đang ôm những bó lúa của mình sang đống của nhau… Hai anh em họ đã ôm lấy nhau mà khóc… 5.2. Tình bạn bè Sống ở đời ai cũng cần có bạn. Khổng Tử dạy: Bạn với người nhân từ, trung chính thì học được nết hay, bạn với người gian tà quỷ quyệt thì nhiếm lấy điều dở. Bởi thế cho nên ta phải chọn bạn mà chơi. Bạn hữu chơi với nhau phải lấy điều phải trái hay dở mà khuyên bảo nhau, nhưng việc gì cũng phải giữ cho phải nghĩa thì thôi. Chưa thấy một người nào không có bạn mà thành người được bao giờ. Bá Nha đã đập hang cây đàn của mình khi Chung Tử Kì - người bạn tri âm - đi sang một thế giới khác. Dương Lễ cũng không hề ngần ngại khi để người vợ thứ ba của mình là Châu Long đi nuôi bạn ăn học. Cụ Nguyễn Khuyến đã khóc cụ Dương Khuê khi cụ mất: “Ai chả biết chán đời là phải Vội vàng chi đã mải lên tiên. Rượu ngon không có bạn hiền Không mua không phải không tiền không mua! Câu thơ nghĩ đắn đo không viết Viết đưa ai, ai biết mà đưa ? Giường kia treo những hững hờ Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”… Tình bạn giúp cho mỗi người thấyđược niềm tin vào cuộc sống. 5.3. Tình làng nghĩa xóm : Nhân dân ta vẫn nói : “Bán anh em xa mua láng giềng gần”, “Hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”… Bởi vậy, mỗi người cần phải sống đúng mực để thắt chặt tình làng nghĩa xóm. Mỗi khi mình có việc cần họ hàng, làng xóm nhiệt tình đến giúp; ngược lại, nếu mọi người cần mình, chúng ta cũng không nên do dự, ngại ngần gì cả. Làm được như vậy, cuộc sống của tất cả chúng ta có ý nghĩa hơn rất nhiều. Trong truyện Lều Chõng của Ngô Tất Tố, ngày Văn Hạc sắp đi thi, bà con hàng xóm ai cũng đến nhà. Người cho quà, người cho tiền, người khuyên nhủ… ai ai cũng đều vui vẻ với chính sự quan tâm của mình… Trong làng, gia đình nào đó tổ chức đám cưới cho con cái, mọi người trong xóm đều đến góp mặt choc mừng, chia vui, nếu gia đình nào đó có đám tang, có chuyện buồn, mọi người cũng tự nguyện đến chia buồn, đưa tiễn… Không ai có thể sống tách ra khỏi xóm làng, bởi vậy, thắt chặt mối quan hệ với hàng xóm láng going là một việc cần thiết. PHẦN III: KẾT LUẬN CHUNG Tìm hiểu các mối quan hệ trong Ngũ Luân, chúng ta thấy được những nét đẹp, mực thước trong cách ứng xử giữa con người với con ngươidf trong một phạm vi hẹp là gia đình, và trong một phạm vi rộng hơn là xã hội. Tuy nhiên, thế giới hiện thực luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển; hơn nữa bản thân các quan niệm mà Ngũ Luân đề cập đến không phải là không có những hạn chế, bởi vậy những quan niệm mà nó đưa ra có thể phù hợp với thời kì này, xã hội này song trở nên lạc hậu, bảo thủ trong thời kì khác, xã hội khác là điều không thể tránh khỏi. Đối với đất nưcớ ta, hiện nay đang ở trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đang phấn đấu xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới. Sự nghiệp đó đòi hỏi những quan hệ giữa người với người trên đất nước chúng ta phải từng bước xã hội hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa. Nói xã hội hoá những quan hệ giữa người với người không có nghĩa là tách nghĩa cha con, mẹ con, vợ chồng… trong gia đình và tình bạn ý hợp tâm đầu riêng không còn nữa. Trái lại, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, quqn hệ và tình cảm gia đình, quan hệ và tình cảm bạn hữu càng lành mạnh, trong sáng hớn. Cái chính là lợi ích và tình nghĩa riêng (gia đình, bạn hữu) không cao hơn, càng không lấn át lợi ích công cộng và tình cảm gắn bó với xã hội, với tập thể, mà phải phục tùng một cách trung thực lí tưởng và lợi của ích tập thể, của xã hội. B. CÁI ĐẸP TRONG VĂN HÓA MẶC CỦA DÂN TỘC VIỆT (Qua các thời kỳ lịch sử) Trang phục là một nhu cầu thiết yếu trong đồi sống con người. Nó quan hệ đến nhiều lĩnh vực trong xã hội như địa lý, lịch sử, kinh tế, lễ giáo, đẳng cấp, phong tục tập quán v.v... Nhất là ở lĩnh vực văn hóa tinh thần nó thể hiện cụ thể rõ nét về trình độ và thị hiếu them mỹ của mỗi con người, mỗi dân tộc, mỗi thời đại... Quả thật trang phục (là kiểu cách quần áo, mũ, khăn, giầy dép, đồ trang sức...), có tầm ảnh hưởng rất lớn tới đời sống con người - các mối quan hệ xã hội thị hiếu them mỹ, đời sống tinh thần của con người Việt Nam , Ông cha ta đã tong dạy rằng: “Hơn nhau tấm áo manh quần Thả ra bóc trần ai cũng như ai. Đó là bằng “con mắt trang phục”, và xét ở góc độ bình đẳng của cogt. Nhưng thực tế phũ phàng ta cho cho ta thấy, trong xã hội cũ, chỉ vì “cái ao, manh quần “ấy” mà biết bao người lao động nghèo đã phải đau khổ lên tiếng. “Cha đì cái áo cách này Mất chúng mất bạn vì mày áo ơi” Nhưng nếu chỉ nhìn nhận cái áo, cái quần ở góc độ là những vật che thân đơn thuần thì tức là chỉ nhìn bằng con mắt thực dụng. Bởi nó còn mang những ý nghĩa sâu sắc về mặt văn hóa xã hội, về xu hướng them mỹ, của tong dân tộc, của từng con người lịch sử cho thấy đã bao lần quân xâm lược phương Bắc xâm lược nước ta, và cố gắng bằng mọi cách đề đồng hóa lối sống, phong tục của dân ta, bắt dân ta ăn mặc theo kiểu phương Bắc nhưng đã gặp phải sự đấu tranh mãnh liệt của dân ta để bảo vệ đất nước, bảo vệ phong tục cổ truyền. “Đánh cho để dài tóc đánh cho để răng đen”... Vì vậy trang phục (hay văn hóa mặc): không chỉ là vật để che thân mà còn mang những ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa tinh thần dân tộc. Đó là vẻ đẹp tinh túy của mỗi dân tộc, là bàn tay khéo léo, khối óc tinh tế của người Việt xưa trong việc cố kết hợp trang phục, sự cách điệu tinh tế cho trang phục của mình trở nên đẹp đẽ hơn để phù hợp đời sống xã hội hiện đại. Trong bài tiểu luận này, tôi muốn trình bày sâu vào vấn đề “Cái đẹp trong văn hóa mặc của dân tộc Việt – qua các thời kỳ lịch sử”. -Trang phục thời Hùng Vương -Trang phục thời phong kiến -Trang phục từ cách mạng tháng 8 đến nay. TRANG PHỤC THỜI HÙNG VƯƠNG Cách đây khoảng 2500 – 2700 năm, thời đại Hùng Vương (với sự ra đời của nhà nước đầu tiên – nhà nước Văn Lang – văn hóa đồng thau). Người dân đã biết sinh sống, bằng săn bắn, trồng trọt biết rang gai, đay, dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt vải không còn phải dùng vỏ cây làm quần áo nữa). Theo một số hiện vật còn gìn giữ và thu được ở một số di chỉ, và theo nghiên cứu của các nhà văn hóa học – khảo cổ học trang phục thời kỳ này khó phong phú. Phụ nữ mặc áo ngắn đến bong, xẻ ngực, bó sát vào người, phía trong mặc yếm kín ngực. Chiếc yếm có cổ tròn rất cổ, có trang trí hình chấm hạt gạo. Cũng có những dạo áo cánh ngắn, cổ vông, để hở một phần vai và ngực hoặc kín ngực, hổ một phần vai và trên lưng. Trên áo có hoa văn trang trí. Thắt lưng có 3 hàng chấm trang trí, cách điệu nhau, quấn ngang bong, làm cho thân hình thêm tròn lẳn. Đầu và cuối thắt lưng thả xống phía trước và sau người, tận cùng bằng những tua rua. Váy kín bó sát sát vào thân cũn cỡn trang trí đẹp. Đàn ông đóng khố là một dải vải, ciều ngang khoảng 10cm (20cm thì gập đôi lại), chiều dài khoảng 1,2m hoặc dài hơn. Tùy theo chiều dài của khổ, người ta quấn thành một hoặc nhiều vòng quanh bong, thả đuôi khố về phía sau hoặc phía trước. Đàn ông Đông Sơn thường cởi trần. Đàn ông và đàn bà đều búi tóc tròn sau gáy. Một hình thức khác là tóc búi ngược một phần lên đỉnh đầu, một phần thả ra sau lưng. Cũng có thể cả nam và nữ đều xòa tóc sau lưng (nam thường xõa tóc kín cổ, nữ thường xõa tóc sau lưng). Qua quan sát trên trống đồng ta thấy: trong các hoạt động tập thể, các ngày lễ hội người ta còn mặc những chiếc váy làm bằng lông vũ, hoặc bằng lá cây xòa ra rất đẹp, trên đầu họ là chiếc mũ cũng bằng lông vũ có trang trí thêm những bông lau ở phía trước. Người dân thời kỳ này cũng đeo rất nhiều loại trang sức. Những vòng đeo tai đa dạng: có loại đơn giản chỉ là một sợi dây đồng uốn tròn sơ sài, hay được đúc lion, có loại vòng tròn có hang khóa. Đặc biệt là có những vòng hoa tai gắn quả nhạc hay đôi hoa ai bằng đá, hình con thú. Những chuỗi hạt thường thấy. Gồm các loại hạt hình tru, trái xoan, hình cầu. Ngoài ra còn có nhẫn bằng đồng đeo ở ngón tay có gắn quả nhạc. Đàn ông thường có tục săm mình (ban đầu với mục đích vẽ lên mình để khi xuống nước nó không bị giao long hãm hại. Sau được nâng lên thành hình thức trang điểm cho cơ thẻ). Đàn ông đàn bà đều nhuộm răng đen, và có tục ăn trầu. Tuy rằng những trang phục thời kỳ nào còn đơn giản, đồ trang sức còn tô sớ, nhưng với điều kiện chế tác hạn chế, ta thấy được rằng; con người thời khỳ bấy giờ đã có trình độ thẩm mỹ, óc tưởng tượng cao, đã quan tâm nhiều tới vấn đề làm đẹp cho cơ thể, đồng thời khi thể hiện bàn tay khéo léo cần căn cứ hoạt động. Thời nhà Lý. Có nền kinh tế phát triển tạo điều kiện phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Với ý thức dân tộc, nhà vua chủ trương dùng gấm vó trong nước: Năm 1059 Vua Lý Thánh Tông định triều phục cho các quan vào chầu vua các quan phải đi tất, đi hia, đội mũ phác đầu, mặc áo bào tía, cầm hốt ngà, thắt đai da. Vu mặc áo màu vàng, quần tía, búi tóc, cài trâm vàng. Trang phục võ tướng thời Lý khá hoàn chỉnh: mũ chùn kín tai, áo dài đến đầu gối, cánh tay áo được may gọn gàng, chật, bó sát cổ tay, có những mảnh giáp, hoặc diềm vải trang trí hình xoắn ốc hay hình bông hao nhiều cánh to ở trước ngực. Rất nhiều đường viên song song, hình cong hoặc xoắn ốc, tiếp dưới là những quả nhạc nhỏ, hoặc những tua rủ rồi mới đến hàng quả nhạc. Dây lưng bằng vải thì buông rủ hai đầu xuống phía trước. Nếu là đai lưng bằng da thì sát vào bụng, đều làm nổi lên đường nét khoẻ, đẹp cho cơ thể. Đôi hia ở dưới chân cao đến đầu gối và được trang trí đơn giản. Các vũ nữ, tóc thường búi cao lên đỉnh dầu, trên trán có một điểm trang trí, cổ đeo những chuỗi hạt, mặc váy ngán có nhiều nếp. Trang phục của nhân dân: thời kỳ này “quá nửa người dân làm sư sãi”. Tượng phật ADi Đà (từ năm 1057) còn lại tại chùa Phật Tích cho ta thấy: tấm áo pháp khoác ngoài có đường cong, đường thẳng gấp khúc hay buông rủ, rất sinh động. Nếp áo nổi lên như những đường gân của tấm lá ren dính sát cơ thể. Khi đi dồn dập chảy suôi, chỗ thì vắt chéo mềm mại, hay chạy vòng như sóng lượn, chỗ thì nhẹ nhàng, vài đường nằm ngang cho thấy tấm áo vừa rộng, vừa gợi tả được độ mỏng và mịn của vải dù tượng làm bằng đá. Người dân cũng có tục săm mình, đàn bà đeo khuyên bạc vũ nữ thường búi tóc xao và buộc diềm hoa trên đầu. Trang phcu thời Trần. Đây là thời kỳ có nhiều loại vải mới. Vải bông, vải gai, lụa lĩnh, sa, the, nái, sồi, đoạn, gấm vóc,… Nghề thêu cũng phát triển. Năm Hưng Long thứ 8 (1300). Quan võ dùng kiểu mũ áo mới. Quan văn đội mũ chữ Đinh ( ) màu đen. Cửa tay áo các quan văn, võ rộng từ 9 tấc đến 1 thước 2 tấc. Năm 1395 Lịch Triều tạp kỷ quy định: Nhất phẩm thì màu tía, nhị phẩm màu đại hồng, tam phẩm màu đào hồng, tứ phẩm, ngũ phẩm màu lục; thất phẩm màu biếc, bát cửu phẩm màu xanh. “Trang phục nhân dân: Đàn ông thường cởi trần hoặc mặc áo tứ thân màu đen, cổ cáo tròn bằng the, quần mỏng bằng lụa thâm. Đại đa số trọc đầu, đi đất, có người đi giầy da. Tục xăm mình cũng rất phổ biến. Trang phục thời Lê-Mạc. Trang phục triều đình: Đời vùa Lý Thánh Tông (từ năm 1934) khi hành đại lễ: vua mặc áo long cổn, đầu đội mũ miện, còn lễ thượng triều thì mặc áo hoàng bào, đội mũ xung thiên. Chúa Trịnh trong các đại lễ, và ngày thường không khác vua Lê là mấy chỉ khác về màu ắc (vua dùng màu vàng, chúa dùng màu tía) thể hiện sự lấn quyền nghiêm trọng. 1486 định kiểu mũ chầu: các quan van võ vào chầu, đội mũ ô sa, hai cánh chuồn phải nhất luật hơi hướng về đằng trước, khong được tự ý làm ngang, hay lệch. Triều đình lại định thể trang phục khi tiếp sứ nhà Minh các công hầu, bá, nh phò mã, và các quan văn võ, đều phải màu sẫm, cáo có cổ bằng gai, tơ, sa là sắc xanh dài cách đất một tấc (3,3cm) tay rộng 1 thước hai tấc (40cm). Sự quy định về trang phục thể hiện lòng tự tôn dân tộc, không để cho nước ngoài coi thường. Mũ của hoàng thân trang sức bằng vàng, quan văn quan võ trang sức bằng bạc: áo dùng áo tía, hinh con kỳ lân: quan văn có hình con tiên hạc; quan võ hình con sư tử. Mệnh phu mặc theo với phẩm trật của chồng - người đàn bà nào chính bản thân làm nên sang hiển thì không phải kém mũ áo của chồng. Đến năm 1720 đổi lại: áo của hoàng thânm, vương thân mùa xuân mùa hạ dùng sa tầu; đội mũ lông đuôi ngựa, màu thu, mùa đông dùng đoạn tầu màu trầm trượng. Trang phục người dân: Đàn bà lao động thường mặc yếu cổ xây, cánh tay để trần, mặc váy ngắn, thắt lưng thả phía trước. Đầu thường dùng khăn lượt để cuốn tóc lúc yết kiến bậc tôn trưởng lại xoà xuống để kính lễ. Đàn ông lao động cởi trần, đóng khố. Đàn ông - đàn bà đội nón xuân lôi, tiểu lạp (nón rọ nhỏ). Người ở kinh thành đội nón liên diệp. Các ông già đội nón ngoan sác, con nhà quan và học trò đội nón phương đẩu đại. Họ hàng nhà quan và một số ông già đội nón cổ câu v.v… Trang phục thời này khá phong phú, độc đáo cảu sức sống mãnh liệt được gìn giữ tới ngày nay. Trang phục thời Nguyễn - Pháp thuộc. Đầu thời Nguyễn trang phục cũng được quy định rất ỉ mỉ. Nhưng đầu thời Nguyễn trang phục cũng được quy định rất tỉ mỉ. Nhưng do sự pha tạp của yếu tố Đông - Tây càng làm trang phục thêm lố bịch lai căng (đặc biệt là tầng lớp thống trị). Trang phục triều đình: Vua có mũ miện, xiêm, đai, hia, hốt, mũ miện: thân hình tròn ống, đan bằng dây thau, canh trước canh sau, đeo 24 dây tua bằng vàng, sâu 300 hột san hô. Trân châu pha lê và 400 hạt vàng. Đỉnh mũ đính 2 chữ vạn thọ. Xung quanh mũ có 12 hình rồng vàng, 6 hình ngọn lửa cũng bằng vàng lại dát hình hoa sen, đám mây bằng 256 hột vàng. Áo long cổn bằng sa tanh màu thanh niên thêu nhiều hoạ tiết, mặt trời trăng sao, rồng. Đai làm bằng da bọc đoạn màu vàng, giữa đính một viên ngọc hình vuông, xung quanh gắn 6 viên ngọc hình quả trám, bịt vàng, 392 hạt châu ngọc bên trong có 6 khuy để dính vào áo. Hốt bằng ngọc dài một thước hai tấc ngang ba tấc có túi gấm đưng. Quan quan lính triều Nguyễn cũng có quy định rõ rệt. Càng về sau trang phục của giai cấp phong kiến triều Nguyễn đặc biệt là tầng lớp trên, càng biểu hiện sự lố lang kệch cỡm lai căng (như hình ảnh Khải Định). Trang phục người dân cũng có nhiều thay đổi. Các bà các cô ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ thường mặc áo cánh ngắn bên trong là tấm yếm màu vàng tơ tằm hay bằng vải màu hoa hiên hoặc màu nâu non. Hai đầu cổ yếm có hai dải nhỏ để buộc ra sau gáy. Áo dài Áo ài: là loại áo hai vạt phía trước đều nhau buông thả xuống không cài khuy. Người nào cũng nuôi tóc dài và vấn khăn. Nếu đuôi tóc dài hơn khăn, sẽ rủ xuống cạnh tai trái của người phụ nữ. Tác đuôi gà là hình thức trang điểm được ưa chuộng thời đó: “Một thương tóc bỏ đuôi gà. Hai thương ăn nói mặn mà có duyên” Mùa rét phụ nữ ở miền Bắc và Bắc trung bộ còn chít trên đầu một chiếc khăn vuông màu thâm, khi chít gập chéo khăn lại, đặt lên đầu, 2 góc khăn buộc lại dưới cằm tại được phủ kín. Cũgn có kiểu đặt mép khăn dưới gần trán, kéo hai bên khăn về hai phía cho thành một hình mỏ quạ ở giữa rồi buộc hai đầu khăn xuống dưới cằm hoặc quặt hai đầu khăn buộc ra sau gáy gọi là chít khăn mỏ quạ. Phụ nữ miền Nam và Nam Trung bộ ưa mặc màu đen áo cánh dài cúc giữa, mặc quần không mặc váy, dùng khăn vải màu sáng hoặc kẻ ô gập lại vắt trên đầu để tránh nắng. Chiếc ao mớ ba mớ bảy trong ngày xuân chảy hội của cô gái Kinh Bắc là một nét đẹp đậm đà. Đó là một bộ áo dài ba chiếc, ngoài cùng là chiếc áo tứ thân bằng the, màu thâm hoặc màu tam giang, hai chiếc bên trong màu mỡ gà, và màu cánh sen, màu vàng chanh hay màu hò thuỷ. Chị em còn dùng một số loại nón như nón ba tầng, nóng thúng, nón giang v.v… Trang phục đàn ông trong cả nước thời kỳ này tương đối giống nhau. Khi lao động thường mặc bằng vải Đồng Lâm nhuộm nâu, áo cánh ngắn bốn thân cài cúc. Đặc biệt là ở miền Trung có loại áo Lác: là loại áo đan bằng cỏ lác để dùng khi giá rét, là một hình chữ nhật gập đôi với một lỗ khoét ở giữa làm cổ, một sợi dây buộc làm thắt lưng bó sát vào người. Mặc quần đùi hoặc quần lá toạ khi lao động. Để tóc dài và búi lên đỉnh đầu. Thời tiết nóng bức, đàn ông thường cởi trần. Nón của đàn ông thường là hình chóp. Một số người vẫn để tóc dài và cuốn khăn, với kiểu chít khăn, kiểu quấn khăn nhiều vòng. Đàn ông ra đồng gặp mưa thường mang ô dù trắng, hoặc đen (còn gọi là ô cánh giơi). Từ 1930 phong trào cắt tóc ngắn rẽ ngôi lệch càng rầm rộ, người đứng tuổi mặc áo dài - đội khăn xếp được làm sẵn, khi dùng chụp lên đầu rất tiện. Người đi làm (viên chức) còn mặc com lê, quần tây, áo sơ mi đi dày tây bằng da đen, đội mũ cát trắng v.v… Nói chung trong giai đoạn này, có những sự đổi thay đáng kể trong trang phục so với giai đoạn trước. Tuy rằng có những thay đổi tây hoá nhưng thường chỉ là ở tầng lớp quan chức, viên chức. Nhiều nét văn hoá trong trang phục vẫn được lưu giữ và cách điệu đẹp hơn cho phù hợp ưđiều kiện lao động - sinh hoạt. Trang phục phục từ cách mạng tháng 8 đến nay. Từ khi đất nước độc lập, tự do cả trong nam và ngoài bắc đều diễn ra sôi nổi các phong trào hoạt động, lao động xây dựng đất nước. Mọi người sống hoà đồng hơn. Những gia đình giàu có bớt ăn mặc diêm dúa mà theo mọi người tham gia hoạt động công ích. Các em nhỏ thiếu niên trong trường học mặc đồng phục, tham gia các phong trào đoàn đội đã xoá đi ranh giới: con ông chủ, chị sen, con ông đốc, anh thợ. Với hoàn cảnh lịch sử mới, chị em phụ nữ cũng thay đổi cách ăn mặc cho phù hợp với hoạt động, ăn mặc gọn gàng giản dị hơn: áo cánh nâu, cổ tròn, hay cổ quả tim, trong mặc áo lót không tay quần đen bằng vải phin hay láng. Những người thoát ly làm cán bộ mặc áo kiểu sơ mi đại cán, tay thẳng, cổ hình cánh nhạn, áo thường may bàng vải xanh hoà bình, hay ka ki màu xi măng, màu be hồng, đi dép cao su đen. Suốt trong những năm tháng đấu tranh để giải phóng miền Nam, có những đóng góp đáng kể của người phụ nữ. Với những chiếc áo ba ba khăn rằn trên đầu hay vắt vai, và đặc biệt là đôi dép cao su truyền thống cùng với hình ảnh chiếc mũ tai bèo, những đội quân “tóc dài” anh dũng đã làm cho giặc Mỹ bao phen điêu đứng. Hình ảnh những cô dân quân áo cánh nâu non, chít khăn vuông đen mỏ quạ, chiếc thăt lưng da to bản, thắt ngang người vai đeo súng là một hình ảnh đẹp mới của người phụ nữ Việt Nam. Nữ công nhân mặc bộ quần áo bảo hộ lao động, màu tím than hay áo sơ mi trắng quần tím than liền yếm, tóc cặp gọn lên cao, cắt ngắn hay uốn. Đội mũ lưỡi trai hay chùm bao tóc bằng vải hoặc buộc chéo trên đầu chiếc khăn nhiều màu, chân đi giày ba ta, giầy vải thấp cổ hay đi dép cao su đen. Áo bờ lu dài màu trắng, quần vải trắng đội mũ tòn trắng khi làm việc là trang phục của chị em ngành Y tế. Chị em mậu dịch viên mặc áo sơ mi cổ hai ve, tay thẳng rộng màu xanh hoà bình hay màu trắng. Những bộ trang phục ấy toát lên vẻ nhẹ nhàng, thanh lịch từ ngàn xưa đúc lại, đồng thời còn thể hiện sức sống mạnh mẽ của vẻ đẹp truyền thống đã được gìn dữ bao đời nay. Trang phục đàn bà từ 1975 đến nay. Phụ nữ đứng tuổi ở thị thành, ngày thường mực áo cánh, áo bà ba, áo sơ mi Hồng Kông, áo ớ mi triết ly, với các loại cổ, hình quả tim, cổ thìa, cổ vuông, hình chữ V, cổ cánh nhạn, cổ hai ve. Nữ thanh niên có nhiều kiểu áo: áo bộ đồ mặc ở nhà, áo chui, áo mớ, áo sơ mi chiết ly, áo sơ mi Hồng Kông, áo vai bồng, vai liền, vai tra, vai chéo, áo có hoặc không có cầu vai, có các loại cổ: như cổ chữ B, cổ một ve, cổ hai ve tròn, cổ hai ve nhọn, cổ hai ve liền, cố lá sen tròn, cổ lá sen nhọn, cổ hai ve liền. Cổ đứng, cổ cánh nhạn; cổ lính thuỷ: cổ Nhật Bản, cổ con bát v.v… Mùa hè thì dùng nhiều loại vải phù hợp với khí hậu Việt Nam như phin nõn, lụa, xoa. Mùa đông phát triển rất mạnh áo vét, cáo len dài tay, áo len ngắn tay, không tay, áo khoác hiểu măng tô có đai thắt eo, áo chui đầu cổ cao. Guốc, dày vẫn có các kiểu, gót nhọn, gót vuông, gót bằng. Chất liệu giày bằng da, dep bằng nhựa nhiều màu, guốc bằng gỗ sơn nhiều màu, hay sơn mài, guốc có nhiều hình trang trí, hoa văn. Nói chung giai đoạn này cách ăn mặc của phụ nữ 3 miền không khác nhau là mấy (do điều kiện giao lưu, hoạt động khi đất nước đã thống nhất). Và đặc biệt chiếc áo dài dù có những nét cách diệu hơi khác nhau nhưng nó đã trở thành chiếc áo đặc trưng, đẹp mà duyên dáng cho cả phụ nữ ba miền và là thành tựu của sự sáng tạo độc đáo của sự đấu tranh bền bỉ của cái tốt thắng cái xấu, nét độc đáo chân chính phải thắng văn hoá lai căng kệch cỡm. Trang phục đàn ông: Thời kỳ đổi mới, cách ăn mặc của nam giới cũng có những nét thay đổi mới phù hợp chuyển biến linh hoạt theo thời đại. Sau cách mạng tháng 8-1945 trnag phục đàn ông ở vùng tự do có nhiều thay dổi, cách ăn mặc giữa cán bộ và dân thường hoà đồng với nhau. Thanh niên nông thôn bắt đầu mặc áo sơ mi, quần âu, trong khi đó nhiều cán bộ đã mặc quần áo nâu để dễ thâm nhập và quần chúng nông thôn. Sau này chiếc áo vải ka ki đại cán bốn túi mặc ngoài phổ biến (kiểu áo Tôn Trung Sơn được Việt hoá). Mùa rét chiếc áo kaki có hai túi cheo, màu tím than là màu vỏ áo chùm ra ngoài một nền bông máy ô vuông rất phổ biến, phù hợp với cuộc sống lao động và giai đoạn thời chiến. Đôi dép cao su làm bằng lốp ô tô được dùng phổ biến (vì rẻ tiền, tiện lợi). Ở miền trrong (vùng địch tạm chiếm). Cách ăn mặc cũng không khác, không phức tạp nhiều ở các vùng nông thôn. Đàn ông nhiều tuổi vẫn mặc áo the, áo sa tanh đen hay màu lam áo gấm hoa hình chữ thọ, quần trắng ống sớ, đầu đội khăn xếp, đi dày da láng hay dày da đen, một số mặc âu phục trung niên, thanh niên mặc sơ mi, áo vét tông, thắt cravat mũ lưỡi trai. Các loại quần âu du nhập vào Việt Nam cũng được biến đổi cho phù hợp với con người Việt Nam. Về áo: nam giới thường mặc áo sơ mi may bó, ve cổ áo và mang sét to bản, có người mặc áo chiết ly, gấu ao lượn, vạt ôm lấy mông, có người mặc áo phông, áo dệt kim ba lỗ: Mùa đông cũng như nhữn ngày lễ, hội, đàn ông thành thị mặc comlê các màu gần đây ưa màu sáng như màu sữa màu ghi nhạt. Mọi người đi dép cao su đen có 2 quai chéo phía mũi dép và hai quai ngang đằng sau, hay dép cao su cải tiến đế cao từ 3 - 7 cách mạng, có hai quai chéo như xăng đan, xăng đan bằng da, đế da hay đế kếp dép nhựa hoặc săm pô các loại,dày tây, dày ba ta cũng được sử dụngk ngày lễ ngày tết đi dày tây các kiểu. Nhìn chung trang phục của đàn ông trong cả nước nhất là ở thành thị đã được may theo kiểu trang châu Âu có phần gọn gàng thuận tiện và theo phong tục cũng như điều kiện khí hậu, nưhngx trang phục này cũng được cải tiến nhiều cho phù hợp. Không còn thấy rõ sự phân biệt tầng lớp xã hội qua các trang phục như xã hội cũ nữa. Trang phục lễ cưới. Người dân ta vẫn quan niệm rằng: chuyện đám cưới là chuyện “trăm năm” vì vậy trang phục trong lễ cưới cũng được người Việt ta rất lo toan chu đáo. Thời xưa, những bộ trang phục cho cô dâu chú rể trong ngày cưới là những bộ trang phục truyền thống còn ngày nay trang phục lễ cưới được bổ sung thêm, đẹp hơn phong phú hơn. Ở thành thị, cô dâu trang điểm son phấn, còn thêm bông hoa hồng trắng bằng voan ở ngực trái, tay ôm bó hoa layơn trắng, tượng trưng cho sự trong trắng, mặt khác cũng để đôi tay đỡ ngượng ngiụ. Chú rể mặc com lê thắt caravat hay cài nơ ở cổ đo dày da. Chú rể mặc com lê bằng vải trơn màu sáng đeo cravat, cai một bông hoa trắng trên ngực hoặc đơn giản hơn có thể mặc áo sơ mi dài tay và thắt crầt nếu trời nóng lực. Nói chung sự hướng trang phục lễ cưới về sau càng theo hướng giản dị tránh trang điểm loè loẹt, và quay trở về với truyền thống. Những chiếc áo dài truyền thống vẫn được sử dụng rộng rãi trong các lễ cưới của nhân dân miền Nam và miền Trung (xứ Huế). Những trang phục cưới của thanh nhã giữ được những nét cổ truyền của dân tộc như trên càng làm tôn vẻ đẹp cho các cô dâu càng được nhiều người ưa thích. Trang phục của người Việt Nam trải qua cả một quá trình lịch sử lâu dài, nhiều loại trang phục khác nhau được ra đời và đôi lúc có những loại trang phục do anh từ bên ngoài đã du nhập vào Việt Nam. Nhưng dù thế nào đi nữa văn hoá dân tộc luôn được bảo tồn và phát huy và chỉ có những trang phục phù hợp với con người điều kiện tự nhiên Việt Nam mà mang đậm bản sắc dân tộc được lưu giữ tới ngày nay. Đó chính là nhờ bàn tay tài hoa, óc sáng tạo của cha ông đã biết gìn giữ những cái đẹp từ nghìn xưa để lại tạo nên những cái đẹp thẩm mỹ tinh tế trong trang phục của Việt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Mỹ học đại cương - Nxb ĐHQG HN Đỗ Văn Khang Mỹ học đại cương - Nxb GD. Lê Văn Dương - Lê Đình Phúc - Lê Hồng Vân. Nếp sống tình cảm người Việt - Nxb LĐ - 2003. ảnh hưởng của nho giáo với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống - Nxb KH-XH 2000 Lịch sử triết học - Nxb Chính trị Quốc gia - Nguyễn Hữu Vui Cơ sở văn hoá Việt Nam - Nxb Giáo dục - Trần Ngọc Thâm. Những phạm trù mĩ học cơ bản - Bo - Rép Đại cương Triết học Trung Hoa Bàn về đạo Nho 10. Kho tàng ca dao người Việt. 11. Nho giáo Việt Nam và văn hoá Việt Nam trung cận đại. 12. Chuyện hay sử cũ - Quỳnh Cư, Mai Quốc Liên, Văn Phác. 13. Văn hoá giao tiếp, ứng xử. Đinh Viễn Trí - Đông Phương Tri. 14. Mỹ học đại cương - TS. Thế Hùng, Nxb Văn hoá thông tin. 15. Cẩm nang ứng xử - Bí quyết trẻ lâu, sống lâu - TS Thế Hùng. Nxb Văn hoá thông tin. 16. Tìm hiểu trang phục Việt Nam (Dân tộc Việt) 17. Cơ sở văn hoá Việt Nam - Trần Ngọc Thêm MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMyhoc (21).doc