Đề tài Biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này. Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành

doc19 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1637 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, người thầy thiên tài của cách mạng Việt Nam, một nhà mácxít – lêninnít lỗi lạc, nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một chiến sĩ kiên cường của phong trài giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX. Có thể nói, đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là từ việc xác định con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đến việc xác định được một con đường cách mạng, một hướng đi và tiếp theo đó là một phương pháp để thức tỉnh hàng trăm triệu người bị áp bức trong các nước thuộc địa lạc hậu. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, nó trường tồn, bất diệt, là tài sản vô giá của dân tộc ta bởi không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa, tư tưởng “vĩnh cửu” của loài người, trong đó của yếu là chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Trong đó, tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. BIỆN CHỨNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc. Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhỏ từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Mác và Ănghen nêu lên quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và Đảng của họ về vấn đề dân tộc. Lênin vừa phát triển quan điểm này thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc về dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc. Sự phát triển của vấn đề dân tộc, theo Lênin có 2 xu hướng trong điều kiện của CNTB: - Sự thức tỉnh ý thức dân tộc, phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn đến hình thành các nước dân tộc độc lập. - Với chuyện tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc sẽ dẫn tới chuyện phá hủy hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, thiết lập sự thống nhất quốc tế của CNTB, của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội... Cũng theo Lênin, giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong xã hội là do sự ra đời và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của những người lao động làm thuê, những người nô lệ, bị áp bức về chính trị - xã hội và bị bóc lột về kinh tế chống lại sự áp bức và bóc lột đó; tức là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích kinh tế và chính trị xã hội giữa giai cấp thống trị và bị thống trị ở những phạm vi và mức độ khác nhau. Đấu tranh giai cấp nảy sinh do sự đối lập về lợi ích căn bản và không điều hòa được của các giai cấp có địa vị khác nhau trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Thông qua đấu tranh giai cấp mà mâu thuẫn lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được giải quyết, trên cơ sở đó thúc đẩy xã hội phát triển. Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. - Vai trò của giai cấp đối với dân tộc Quan hệ giai cấp dân tộc xét cho cùng quy định sự hình thành dân tộc, xu hướng, bản chất xã hội, tính chất quan hệ giữa các dân tộc. Áp bức giai cấp là cơ sở, nguyên nhân của áp bức dân tộc. Nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc. - Vai trò của dân tộc đối với giai cấp Vấn đề dân tộc là vấn đề hàng đầu của Cách mạng vô sản. Áp bức dân tộc tác động mạnh mẽ tới áp bức giai cấp, nuôi dưỡng áp bức giai cấp, làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Đấu tranh dân tộc tác động mạnh mẽ tới đấu tranh giai cấp. Dân tộc là cơ sở của giai cấp, nuôi dưỡng đấu tranh giai cấp, tạo cơ sở cho sức mạnh giai cấp. Ở Đông Dương, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển, nên sự phân hóa giai cấp chưa triệt để, vì thế “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”. Xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét “về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời Trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”. “Những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ”. “Nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn..., nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc; người thì chẳng có công đoàn, kẻ thì chẳng có tơ rớt... Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm tối thiểu. Điều đó, không thể chối cãi được”. Trái lại, giữa họ vẫn có sự tương đồng lớn: dù là địa chủ hay nông dân, họ đều chịu chung số phận là người nô lệ mất nước. Kính trọng Mác, thấy rõ học thuyết của Mác phù hợp với các xã hội tư bản, nhưng Hồ Chí Minh cho rằng: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó không phải là cả thế giới”. “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không có được”. Người đặt vấn đề “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”. II. Quan điểm của Hồ Chí Minh Khi các nước đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, chúng thực hiện sự áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa đối với các nước bị xâm chiếm thì vấn đề dân tộc trở thành vấn đề dân tộc thuộc địa. Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại cách mạng vô sản đầu thế kỷ XX có mấy luận điểm cơ bản sau: 1. Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống và chủ nghĩa Mác – Lênin về quan hệ giai cấp – dân tộc có thể nói đã được kết hợp nhuần nhuyễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện thành quan điểm của Người về quan hệ giai cấp – dân tộc. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào việc phân tích kết cấu xã hội – giai cấp ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng trong các giai cấp của xã hội Việt Nam thì công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc đều có kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến. Do đó, theo Hồ Chí Minh, cách mạng phải là sự nghiệp của toàn dân, tức là của bốn giai cấp này. Đồng thời, khi phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc thì Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam. Người cho rằng lãnh đạo được hay không là do đặc tính giai cấp chứ không phải do số lượng nhiều hay ít của giai cấp đó. Giai cấp công nhân là giai cấp có nhiều đặc tính tiến bộ và có hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin nên giai cấp công nhân ắt phải là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nhưng Hồ Chí Minh cũng cho rằng, giai cấp công nhân Việt Nam muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì phải lập nên Đảng Cộng sản. Đảng là điều kiện quan trọng hàng đầu để cách mạng giành thắng lợi. Xuất phát từ nhận thức như thế, Hồ Chí Minh đã nỗ lực chuẩn bị mọi mặt để thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930. Đồng thời với việc xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, giai cấp lãnh đạo cách mạng là công nhân, Hồ Chí Minh cũng xác định vai trò, vị trí của các giai cấp trong cấu trúc của lực lượng cách mạng qua các giai đoạn lịch sử. Trước khi Đảng ra đời, Người xác định: Động lực của cách mạng là công nhân, nông dân; bầu bạn của cách mạng là tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Nhưng qua thử thách của thời gian, động lực của cách mạng được Hồ Chí Minh xác định là công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc là lực lượng cách mạng, người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Trên cơ sở xác định vai trò, vị trí các giai cấp như thế, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân đoàn kết, thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng: Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ, phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước phương Tây. Ngược lại, chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị TW VIII, năm 1941 do Người chủ trì: “ Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Có thể nói, những lời kêu gọi vang dậy núi sông của Người đối với toàn thể quốc dân đồng bào là quá trình thể hiện cụ thể tư tưởng của Người về lực lượng cách mạng. Nhờ đó cách mạng Việt Nam đã giành thắng lợi to lớn trong giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy dựa vào chủ nghĩa Mác – Lênin, kết hợp với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống, Hồ Chí Minh đã phân tích cơ cấu xã hội – giai cấp ở Việt Nam, thấy được vai trò vị trí của các giai cấp này. Trên cơ sở đó Người khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đó là luận điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp – dân tộc. 2. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc. Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam – một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hòa bình và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hòa bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri. Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự. Độc lập trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề của chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo nguyên tắc: nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập tự do là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp 1791, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”. Hòa bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hòa bình không thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hòa bình thật sự thì phải có độc lập thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. 3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – con đường giải quyết triệt để giai cấp và dân tộc Theo Hồ Chí Minh, ở Đông Dương giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân tộc là điều kiện hàng đầu để giải quyết giai cấp. Bởi vì Hồ Chí Minh cho rằng , trong các mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam thì mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với chủ nghĩa đế quốc là mâu thuẫn chủ yếu. Mặt khác, nếu vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là hai yếu tố song sinh thì trong mọi giai đoạn của lịch sử Việt Nam, vấn đề dân tộc luôn luôn chiếm vị trí nổi bật. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng độc lập dân tộc là điều kiện hàng đầu để giải phóng giai cấp. Đó là một bộ phận trong tư tưởng của Người về quan hệ giai cấp – dân tộc. Nhưng sau khi giành độc lập thì dân tộc sẽ thực hiện quyền tự quyết theo con đường nào? Tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa? Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì mới giải quyết triệt để giai cấp và dân tộc. Người viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Chiến lược này vừa đáp ứng được nguyện vọng trước mắt, vừa đáp ứng được nguyện vọng mục tiêu lâu dài của nhân dân nên đã lôi cuốn được đông đảo nhân dân đi theo, tạo ra lực lượng vô cùng to lớn cho cách mạng. Khi đó quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân được khẳng định và củng cố vững chắc. Tức là toàn dân được giải phóng đến đâu thì giai cấp công nhân được giải quyết đến đó, quan hệ giải phóng dân tộc sẽ luôn luôn hài hòa, xoắn xít bên nhau. Có thể nói rằng tính chất và giá trị của nền độc lập Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã được thay đổi nhiều. Dân tộc được giải phóng đến đâu thì giai cấp sẽ được giải phóng theo nấc thang tương ứng đến đó. Quan hệ giai cấp – dân tộc theo đó cũng được giải quyết tốt hơn của giai đoạn sau so với giai đoạn trước. Như thế, theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường giải quyết triệt để quan hệ giai cấp – dân tộc. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các châu lục Âu, Phi, Mĩ, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của cônng nhân, nông dân lao động ở “chính quốc” cũng như thuộc địa.Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ(1776) Pháp(1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu “tự do”, “bình đẳng”, nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: tiếng là cộng hòa, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyễn Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng tháng 10 Nga, đến với Lênin, như một tất yếu lịch sử. Cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi là một sự kiên chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt động cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc “sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng định: “ chỉ có Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”, rằng: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, tư tưởng của chủ nghĩa Mac- Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN thì mới dành được thắng lợi hoàn toàn”. Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động “chính quốc” với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thuộc địa. Trong đại hội Tua, thành lập Đảng cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế theo đuổi bọn thực dân phản động từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại các đai hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mac- Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng cộng sản chính quốc. Các đảng cộng sản này tuy thừa nhận 21 điều kiện của quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 các Đảng cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa. Đối với Đảng công sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong “Chinh cương vắn tắt” do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc ngắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khói ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân – điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc.Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN .Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tièn đề cho bước chuyển sang thời kì quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự. Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế công sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như ph. Ăng-ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác- Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng có sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Nếu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường giải quyết triệt để quan hệ giai cấp dân tộc thì ngược lại, Hồ Chí Minh cũng cho rằng CNXH là điều kiện đảm bảo độc lập thực sự, hoàn toàn. Đó là một nền độc lập về mọi mặt và nhân dân có quyền tự quyết. Người viết: “chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi áp bức nô lệ ”. Bởi vì Hồ Chí Minh cho rằng học thuyết CNXH rất phù hợp với văn hóa và các giá trị truyền thống của Việt Nam, rất dễ cắm sâu vào xã hội Việt Nam, giúp Việt Nam giành được độc lập hoàn toàn, độc lập thực sự. Trên thực tế, sự du nhập của học thuyếũaCNH vào Việt Nam, thông qua Hồ Chí Minh đẫ giúp Việt Nam giành độc lập năm 1945 và giải phóng Miền Bắc năm 1954. Sau 1954, Miền Nam Việt Nam vẫn chưa được giải phóng, Hồ Chí Minh cho rằng Miền Bắc phải đi lên CNXHthì mới tạo điều kiện giải phóng Miền Nam, hoàn thành độc lập dân tộc trên cả nước. Chế độ CNXH ở Miền Bắc là nền tảng cho sự nghiệp thống nhất này. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đãkiểm chứng quan điểm này của Hồ Chí Minh. Như vậy vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể Việt Nam, TTHCM về QHGC- DT đã được xác lập. Nội dung của nó là khẳng định lực lược cách mạng là toàn dân; người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân; phương hướng tiến lên của cách mạng là CNXH. 4. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc lập. Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với tư cách là chủ nghĩa yêu nước chân chính của các dân tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào. Theo Người, “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm nghìn đắng cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân chủ mới”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính “là một bộ phận của tinh thần quốc tế”, “khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động”. Xuất phát tự sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, và Người cho đó là “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”. 5. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp a. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện: khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam; chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù; thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân; gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. b. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội Khác với các con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến (cuối thế kỷ XIX), hoặc chủ nghĩa tư bản (đầu thế kỷ XX), con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Năm 1960, Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột, thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, mới bảo đảm cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói: “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Do đó, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người được sung sướng tự do. Người khẳng định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. c. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc. Tháng 5 – 1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. d. Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của dân tộc bị áp bức. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình”, và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như Ph.Ănghen từng nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. III.VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ GIAI CẤP - DÂN TỘC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Thực trạng giải quyết quan hệ giai cấp - dân tộc trong thời kỳ đổi mới vừa qua và những vấn đề đặt ra Vấn đề dân tộc và giai cấp trong thời kỳ đổi vừa qua đã được giải quyết đạt những thành tựu và những hạn chế còn tồn đọng như sau: Về thành tựu: Đảng đã từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới, xác định những nét chính của mô hình CNXH ở Việt Nam với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Bản chất và linh hồn của những chủ trương đổi mới trên đây của Đảng ta là nắm vững ngọn cờ ĐLDT và CNXH, thực hiện lợi ích dân tộc trên quan điểm, lập trường giai cấp công nhân. Trong thời kỳ 1991 - 2000, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Nền kinh tế đất nước chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, định hướng XHCN; Hệ thống chính trị hoàn thiện từng bước; bản sắc văn hoá dân tộc và nhiều giá trị văn hoá được phát huy. Về khuyết điểm tồn tại: Nền kinh tế nước ta còn đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nều kinh tế phát triển chưa cân đối; tăng trưởng kinh tế chưa thực sự gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội; Trên lĩnh vực chính trị tư tưởng đang diễn ra xu hướng tuyệt đối hoá lợi ích và các giá trị vật chất, xem nhẹ và coi thường các giá trị tinh thần; chủ nghĩa cá nhân thực dụng đang lây lan với quy mô khá rộng. Nhìn chung đát nước đứng trước nhiều nguy cơ lớn, đe doạ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Những thành tựu và khuyết điểm yếu kém tồn tại trong sự nghiệp đổi mới đang đặt ra nhu cầu là: phát huy những thành tựu đã đạt được, đẩy lùi những nguy cơ to lớn, đe doạ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. 3.2. Một số phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường quan hệ giai cấp - dân tộc ở nước ta hiện nay Thứ nhất: Kiên định con đường XHCN với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vấn đề QHGC - DT hiện nay thể hiện tập trung ở đường lối và quan điểm phát triển. Con đường mang tính quy luật của Việt Nam là con đường ĐLDT gắn liền với CNXH. Nó cho phép kết hợp hài hoà lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Lịch sử dân tộc ta hơn 70 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của con đường này. Tuy nhiên thực tiễn của phong trào XHCN thế giới hiện nay làm cho một số người ở nước ta mất niềm tin vào con đường ĐLDT gắn liền với CNXH. Họ muốn quay sang phía CNTB. Nhưng tỉ lệ giữa các nước tư bản phát triển trên tổng số các nước thế giới không chứng minh được tính ưu việt của CNTB. Hiện nay CNXH thế giới đang khủng hoảng, nhưng nó sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn sau. Và ở nước ta ĐLDT gắn liền với CNXH là con đường phát triển tất yếu của lịch sử. Thứ hai: Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Trước yêu cầu của thời kỳ mới, hơn lúc nào hết, chúng ta phải ra sức củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo thành sức mạnh và động lự to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Tinh thần cơ bản, nhiệm vụ bao trùm của đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn này phải được tiến hành theo quan điểm của đại hội IX của Đảng đã chỉ ra. Muốn vậy cần phải quán triệt mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, hướng tới dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; quán triệt đại đoàn kết trong các chủ trương chính sách của Đảng, trong xây dựng bộ máy nhà nước, trong xây dựng và mở rộng mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo trong xã hội; gắn quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích riêng của mỗi người với nghĩa vụ công dân, trong đó lợi ích dân tộc là trung tâm. Thứ ba: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước cụ thể hoá tiếp theo trong chủ trưởng củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, được tiến hành trên lĩnh vực kinh tế. Phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN là dựa vào công cụ kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu CNXH. Trên thực tế mức tăng trưởng của kinh tế nước ta thời kỳ 1991 - 2002 theo mô hình này đạt được khá cao, bình quân mỗi năm tăng hơn 7%, nhưng còn rất nhiều hạn chế. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay nếu không bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao, ôn định theo mô hình kinh tế này thì sẽ đe doạ lợi ích giai cấp và dân tộc. Vì vậy chúng ta phải tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN để thực hiện mục tiêu chiến lược của sự nghiệp đổi mới. Muốn vậy đòi hỏi chúng ta phải tập trung đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước; mở rộng và đa dạng hoá các hình thức kinh tế nhà nước; đa dạng hoà và áp dụng một cách phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước; hướng dẫn khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển; khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài. KẾT LUẬN Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này. Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp. Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25388.doc
Tài liệu liên quan