Đề tài Biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến môi trường nước ở thành phố Hồ Chí Minh

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Những năm gần đây, vấn đề môi trường đang diễn ra ngày càng phức tạp và ảnh hưởng mạnh đến tự nhiên và đời sống con người, môi trường trở thành một vấn đề nóng đang được quan tâm trên toàn thế giới. Song hành cùng vấn đề môi trường là biến dổi khí hậu toàn cầu. Sự thay đổi của khí hậu mang tính chất toàn cầu đã ảnh hưởng rất lớn và ngày càng nghiêm trọng đối với tài nguyên thiên nhiên và con người. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh – trung tâm kinh tế - xã hội lớn nhất của cả nước cũng đang bị tác động mạnh bởi biến đổi khí hậu toàn cầu, dẫn đến những hiện tượng thời tiết thất thường liên tục xảy ra. Thiên tai và nhân tai là những thuật ngữ mà con người đang đề cập đến khi các hiện tượng ấy xảy ra. Trong đó, ngập lụt, triều cường, ô nhiễm môi trường . là những hiện tượng phổ biến. Vậy, xuất phát từ tình hình thực tế đó tôi quyết định chọn đề tài “Biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến môi trường nước ở TP Hồ Chí Minh” để tìm hiểu kỹ hơn về những hệ quả của mối quan hệ khí hậu – môi trường và con người. 2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi của đề tài 2.1. Mục đích Chọn đề tài “Biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến môi trường nước ở TP Hồ Chí Minh” mong muốn bản thân sẽ tìm hiểu thêm được nhiều thông tin và kiến thức về biến đổi khí hậu toàn cầu và ảnh hưởng của nó, mà cụ thể nhất là ảnh hưởng đến môi trường nước ở TP Hồ Chí Minh. Nghiên cứu đề tài cũng nhằm tìm hiểu kỹ hơn mối quan hệ giữa khí hậu với môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng. Sự thay đổi của khí hậu diễn ra như thế nào theo quy luật tự nhiên, và điều đó đã tác động ra sao lên đời sống và sự tồn tại của con người. Đây còn là vấn đề chung của toàn nhân loại nên tìm hiểu đề tài này cũng như giáo dục con người mà trước hết là tự giáo dục bản thân trước những thay đổi lớn của Trái Đất. Từ đó nhận thức được trách nhiệm của bản thân trong việc xây dựng hành tinh chung của con người. 2.2. Nhiệm vụ Để thực hiện nghiên cứu tốt đề tài đã lựa chọn, điều cần thiết là thu thập những tài liệu, thông tin và số liệu liên quan rồi tổng hợp và phân tích vấn đề dựa trên những kiến thức lí luận chung của bộ môn khí hậu và môi trường trong cái nhìn tổng quan nhất. Bên cạnh đó tham khảo những tài liệu, đề tài đã được nghiên cứu về đề tài này hoặc liên quan để có sự đánh giá, nhận xét vấn đề được chính xác hơn. 2.3. Phạm vi đề tài nghiên cứu - Về không gian: Tên đề tài đã cho thấy phạm vi nghiên cứu được phân tích thành hai cấp độ. Cấp độ lớn là nghiên cứu những vấn đề chung về biến dổi khí hậu mang tính chất toàn cầu, phần này được thể hiện thông qua việc lấy ví dụ cụ thể ở một số khu vực trên thế giới. Còn cấp độ vi mô là ảnh hưởng của biến đồi khí hậu toàn cầu đến môi trường nước ở TP Hồ Chí Minh, phần này được nghiên cứu cụ thể trên địa bàn TP Hồ Chí Minh. - Về thời gian: Các số liệu và thông tin trong đề tài nghiên cứu chủ yếu được lấy trong những năm từ cuối thế kỷ XX trở lại đây. Nhất là phần cụ thể ở TP Hồ Chí Minh thì chủ yếu sử dụng nhiều số liệu ở các năm gần đây, đôi khi có sử dụng cả những số liệu của năm 2011 để cho thấy tính thời sự và cấp bách của vấn đề. - Về nội dung: Nội dung đề tài nghiên cứu xoay quanh các vấn đề lí luận, hiện trạng, nguyên nhân và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu lên tự nhiên và con người. Từ đó tìm hiểu những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến môi trường nước hiện nay ở TP Hồ Chí Minh và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế các ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu toàn cầu cho môi trường nước ở khu vực TP Hồ Chí Minh. 2.4. Lịch sử nghiên cứu đề tài Biến đổi khí hậu không phải là vấn đề mới hoàn toàn, chỉ có điều ngày nay vấn đề này đang xảy ra đến mức nghiêm trọng nên không thể không thu hút sự chú ý của con người. Bàn về biến đổi khí hậu toàn cầu đã được nghiên cứu từ cuối thế kỷ XX đến nay. Gần đây thời sự và báo chí liên tực đưa tin về những thảm họa thiên nhiên, trong đó có một phần là các nhân tai . Đó là những hệ quả của biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp. Hay một số kết quả nghiên cứu về biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của nó đến Việt Nam, đến tài nguyên thiên nhiên, đến môi trường sinh thái, đến thành phần loài sinh vật . Cụ thể hơn là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lên TP Hồ Chí Minh, hay có đề tài nghiên cứu và đưa ra kịch bản biến đổi khí hậu và đói nghèo ở Việt Nam . Tuy nhiên, xét ở một góc độ nào đó, biến đổi khí hậu là một đề tài lớn có thể khai thác ở nhiều khía cạnh khác nhau để tìm hiểu nhiều hơn về bản chất biến đổi khí hậu. Hi vọng đề tài tiếp theo “Biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến môi trường nước ở TP Hồ Chí Minh” sẽ cung cấp them một khía cạnh nữa trong nghiên cứu biến đổi khí hậu toàn cầu. 3. Những quan điểm và phương pháp nghiên cứu 3.1. Những quan điểm 3.1.1. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ Nghiên cứu đề tài được dựa trên quan điểm tổng hợp lãnh thổ. Đề tài phân tích dựa trên lãnh thổ cụ thể là TP Hồ Chí Minh trong thể tổng hợp lãnh thổ vùng Đông Nam Bộ - vùng lãnh thổ thuộc hệ thồng sông Sài Gòn – Đồng Nai và vùng bán bình nguyên thấp dần từ tây sang đông là vùng ven biển. Đề tài đề cập đến môi trường nước nhưng cũng được phân tích trên sự phân tích tổng hợp các điều kiện tự nhiên và môi trường tự nhiên khác trong khu vực. 3.1.2. Quan điểm hệ thống Các nội dung được nghiên cứu là quá trình hệ thống các vấn đề liên quan không chỉ Riêng môi trường nước ở TP Hồ Chí Minh. Và biến đổi khí hậu cũng được nghiên cứu trên cơ sở một hệ thống lôgic các khoa học liên quan như các quy luật trong tự nhiên, các tài nguyên thiên nhiên, các tác động từ phía con người . Tất cả theo một trình độ từ chung đến riêng, từ chung đến cụ thể, từ lớn đến nhỏ, từ vĩ mô đến vi mô. 3.1.3. Quan điển lịch sử - viễn cảnh Đây là vấn đề vừa mang tính quy luật của tự nhiên vừa mang tình xã hội do có sự tác động của con người nên vấn đề được nghiên cứu dựa trên những hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ và hiện tại đến việc mô phỏng và xây dựng kịch bản có thể xảy ra trong tương lai. Đề tài được nghiên cứu trên quan điểm thống nhất giữa lịch sử và viễn cảnh tương lai – những khả năng có thể xảy ra. 3.2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp thu thập tài liệu, tư liệu và thông tin liên quan rồi tổng hợp lại, sau đó phân tích và đánh giá vấn đề. Bên cạnh đó có tham khảo một số đề tài có liên quan để bổ sung thông tin cho đề tài được hoàn chỉnh hơn. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 PHẦN MỞ ĐẦU 5 1.Lí do chọn đề tài 5 2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi của đề tài 5 2.1. Mục đích 5 2.2. Nhiệm vụ 5 2.3. Phạm vi nghiên cứu 6 2.4. Lịch sử nghiên cứu đề tài 6 3. Những quan điểm và phương pháp nghiên cứu 7 3.1. Những quan điểm 7 3.1.1. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ 7 3.1.2. Quan điểm hệ thống 7 3.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh 7 3.2. Phương pháp nghiên cứu 7 PHẦN NỘI DUNG 8 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 8 1.1. Các khái niệm 8 1.1.1. Khí hậu và thời tiết 8 1.1.2. Biến đổi khí hậu 8 1.1.3. Môi trường 8 1.1.4. Môi trường nước 9 1.2. Hiên trạng biến đổi khí hậu 9 1.2.1. Sự nóng lên của khí quyển và Trái Đất 9 1.2.2. Sự dâng cao mực nước biển do băng tan 9 1.2.3. Những biểu hiện khác 10 1.3. Nguyên nhân biến đổi khí hậu 10 1.4. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu 11 1.4.1. Tác động lên môi trường 11 1.4.2. Đối với con người 13 CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 15 2.1. Tổng quan về môi trường nước ở TP Hồ Chí Minh 15 2.1.1. Nước mặt 15 2.1.2. Nước dưới đất 19 2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước 20 2.2.1. Tính chất vật lý 20 2.2.2. Tính chất hóa học 20 2.3. Tình hình ô nhiễm môi trường nước ở TP Hồ Chí Minh 23 2.3.1. Môi trường nước trên mặt và tình trạng ngập lụt 23 2.3.2. Nguồn nước ngầm 28 2.4. Các nguyên nhân 29 2.4.1. Ảnh hưởng từ tự nhiên 29 2.4.2. Hoạt động của con người 30 2.4.3. Ảnh hưởng do phát triển nông nghiệp 31 2.4.4. Ảnh hưởng do phát triển công nghiệp và dịch vụ 31 2.4.5. Các nguyên nhân khác 32 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 32 3.1. Bảo vệ nguồn nước 32 3.2. Biện pháp xử lý nước 35 3.2.1. Đối với nước nhiễm sắt, phèn 35 3.2.2. Xử lý Hydrogen sulfite H2S 35 3.2.3. Xử lý nước cứng 35 3.2.4. Khử trùng nước sinh hoạt 36 3.3. Trách nhiệm của nhà nước, chính quyền và nhân dân 36 3.3.1. Trách nhiệm của nhà nước và chính quyền địa phương 36 3.3.2. Trách nhiệm của người dân 37 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 38 TÀI LIỆU THAM KHẢO 39

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4365 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến môi trường nước ở thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa khí hậu toàn cầu nên các lớp băng tuyết sẽ bị tan nhanh trong những thập niên tới. Trong thế kỷ XX, mực nước biển tại châu á dâng lên trung bình 2,4 mm/năm, riêng thập niên vừa qua là 3,1 mm/năm, dự báo sẽ tiếp tục dâng cao hơn trong thế kỷ XXI khoảng 2,8mm - 4,3 mm/năm. Mực nước biển dâng lên có thể nhấn chìm nhiều vùng rộng lớn, nơi ở của hàng triệu người sống ở các khu vực thấp ở Việt Nam, Bangladesh, Ấn Độ và Trung Quốc,… làm khan hiếm nguồn nước ngọt ở một số nước châu Á do biến đổi khí hậu đã làm thu hẹp các dòng sông băng ở dãy Hymalayas. Việt Nam là một trong 5 nước sẽ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng. Theo tính toán của các chuyên gia nghiên cứu biến đối khí hậu, đến năm 2100, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng lên 30C và mực nước biển có thể dâng 1m. Theo đó, khoảng 40 nghìn km2 đồng bằng ven biển Việt Nam sẽ bị ngập. Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là những vùng trũng nên bị ảnh hưởng nhiều nhất khi xảy ra ngập lụt, xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết xấu. Trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh ĐBSCL bị ngập hầu như toàn bộ, và có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng 10%. Nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng như đợt xâm nhập mặn vào năm 2005. 1.4.1.3. Tài nguyên khí Môi trường không khí được xem là môi trường trung gian tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các môi trường khác. Nó là nơi chứa các chất độc hại gây nên biến đổi khí hậu, và chính biến đổi khí hậu sẽ tác động ngược lại môi trường không khí, làm cho chất lượng không khí ngày càng xấu hơn Nhiệt độ toàn cầu có thể tăng 4oC, đến năm 2050 nếu phát thải khí nhà kính vẫn có xu hướng tiếp tục tăng như hiện nay. Bên cạnh đó, núi lửa phun ra những nham thạch nóng và nhiều khói, khí CO2, CO, bụi giàu sulphua, ngoài ra còn metan và một số khí khác. Bụi được phun cao và lan tỏa rất xa. Bão bụi cuốn vào không khí các chất độc hại như NH3, H2S, CH4… Cháy rừng sinh ra nhiều tro và bụi, CO2, CO,… 1.4.1.4. Sinh quyển Mất đa dạng sinh học ngày nay đang diễn ra một cách nhanh chóng chưa từng có, kể từ thời kỳ các loài khủng long bị tiêu diệt cách đây khoảng 65 triệu năm và tốc độ biến mất của các loài hiện nay ước tính gấp khoảng 100 lần so với tốc độ mất các loài trong lịch sử Trái đất, và trong những thập kỷ sắp tới mức độ biến mất của các loài sẽ gấp 1.000 -10.000 lần (MA 2005) . Có khoảng 10% các loài đã biết được trên thế giới đang cần phải có những biện pháp bảo vệ, trong đó có khoảng 16.000 loài được xem là đang có nguy cơ bị tiêu diệt. Trong số các loài thuộc các nhóm động vật có xương sống chính đã được nghiên cứu khá kỹ, có hơn 30% các loài ếch nhái, 23% các loài thú và 12% các loài chim (IUCN 2005), nhưng thực tế số loài đang nguy cấp lớn hơn rất nhiều. 1.4.2. Đối với con người 1.4.2.1. Sức khỏe Kết quả nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu đối với con người do Tổ chức Global Humanitarian Forum của cựu tổng Thư ký LHQ Kofi Annanvừa công bố cho biết, hiện nay, biến đổi khí hậu đã cướp đi mạng sống của 300.000 người mỗi năm và ảnh hưởng đến cuộc sống của 300 triệu người trên trái đất do tác động từ những đợt năng nóng, lũ lụt và cháy rừng gây ra. Các nhà khoa học ước tính rằng sự tăng nhiệt độ lên 1 độ C sẽ khiến cho năng lực sản xuất lương thực giảm tới 17%. Do vậy, giá lương thực sẽ tăng cao và nạn đói sẽ gia tăng ở các quốc gia hiện đang phải đối mặt với những vấn đề này. “Ngày nay có một tỷ người đang thiếu dinh dưỡng. Nếu như xuất hiện bùng nổ dân số ở Trung Quốc hay Ấn Độ vào cuối thế kỷ này thì một nửa dân số thế giới có thể lâm vào tình trạng thiếu ăn”. Những căn bệnh hiện nay đang hoành hành chủ yếu tại các khuvực nhiệt đới và cận nhiệt đới như sốt rét, viêm màng não, sốt xuất huyết.. sẽ lan rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Đến năm 2080 số người mắc bệnh sốt rét sẽ tăng thêm 260 - 320 triệu người. Sẽ có 6 triệu người mắc bệnh sốt xuất huyết ( hiện tại con số này là 3,5 triệu người). Điều này đòi hỏi phải có sự tổ chức lại hệ thống chăm sóc sức khỏe, trong đó có huấn luyện nhân viên y tế để họ có thể đối phó với những căn bệnh nguy hiểm nói trên. 1.4.2.2. Kinh tế Tất cả các nước đều bị tác động của BĐKH, nhưng những nước bị tác động đầu tiên và nhiều nhất lại là những nước và cộng đồng dân cư nghèo nhất, mặc dù họ đóng góp ít nhất vào nguyên nhân BĐKH. Tuy nhiên, hiện tượng thời tiết bất thường, bao gồm lũ lụt, hạn hán, bão tố... cũng đang gia tăng ngay cả ở các nước giàu. Nếu không thay đổi tư duy về đầu tư hiện nay và trong những thập niên tới, thì chúng ta có thể gây ra những nguy cơ đổ vỡ lớn về kinh tế và xã hội ở một quy mô tương tự những đổ vỡ liên quan tới cuộc đại chiến thế giới và suy thoái kinh tế trong nửa đầu thế kỷ XX. Khi đó sẽ rất khó khăn để đảo ngược được những gì có thể xảy ra. Chi phí thực hiện hành động ứng phó và thích ứng với BĐKH giữa các lĩnhvực, các ngành trong một quốc gia hoặc giữa các nước trên thế giới không giống nhau. Các nước phát triển phải chịu trách nhiệm cắt giảm khí thải ở mức 60% - 80% vào năm 2050, các nước đang phát triển cũng phải có những hành động thiết thực và đáng kể đóng góp vào việc hạn chế thải khí gây hiệu ứng nhà kính phù hợp với điều kiện mỗi nước. Tuy nhiên, các nước đang phát triển không thể tự mình phải gánh chịu những khoản chi phí để thực hiện những hành động này. Do "thị trường các-bon" đã hình thành, nên các nước phát triển sẵn sàng bơm những dòng tiền đầu tư để hỗ trợ phát triển kỹ thuật, công nghệ sử dụng ít năng lượng hóa thạch, kể cả thông qua cơ chế phát triển sạch. Sự chuyển đổi hình thức đầu tư của những dòng tiền này là rất thiết thực nhằm hỗ trợ cho những hành động ứng phó với BĐKH ở quy mô toàn cầu. CHƯƠNG 2 ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. Tổng quan về môi trường nước ở TP Hồ Chí Minh 2.1.1. Nước mặt Là nguồn nước từ các Sông lớn như Sông Đồng Nai, Sài Gòn, Vàm Cỏ Đông với hệ thống kênh rạch dài khoảng 7.880km, tổng diện tích mặt nước 35.500 ha. Nước nhạt được khai thác phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất. TP Hồ Chi Minh nằm ở hạ lưu lưu vực sông Đồng Nai - Sai Gòn có mạng lưới sông rạch với mật độ cao. Các sông chính là Đồng Nai, Sai Gòn, Nhà Bè, Long Tàu, Đồng Tranh, Dừa, Nga Bảy, Vàm Sát, Soài Rạp, Chợ Đệm, Cần Giuộc, Bến Lức… và hàng trăm kênh rạch. Sông, kênh, hồ đầm ở TP đang thực hiện 6 chức năng (một số sông rạch có 1, 2 chức năng, một số kênh rạch đồng thời có cả 6 chức năng này): - Cấp nước cho sinh hoạt (thí dụ sông Đồng Nai từ cầu Đồng Nai về thượng lưu; sông Sài Gòn ở Củ Chi) - Nuôi trồng thuỷ sản (sông Sài Gòn, Đồng Nai, các sông kenh rạch ở huyện Nhà Bè, Cần Giờ) - Cấp nước thuỷ lợi (các sông Sài Gòn vùng không nhiễm mặn, sông Đồng Nai, Bến Lức...) - Giải tri, thể thao dưới nước (các sông Sài Gòn, Đồng Nai, các sông ở Cần Giờ) - Giao thông thuỷ (các sông Sài Gòn, Đồng Nai, Long Tàu, Nga Bảy, Đồng Tranh, Nhà Bè, Cần Giuộc, Soài Rạp va các kênh rạch lớn) - Tiếp nhận và thoát nước thải (toàn bộ các sông kênh, rạch) Đặc điểm chất lượng nước (CLN) đoạn sông, kênh rạch ở TP Hồ Chí Minh Sông/kênh Đoạn Phân loại CLN theo WQI Đặc điểm CLN Khả năng sử dụng Đồng Nai Ngã 3 Đèn Đỏ đến P. Long Trường Q.9 III Nhiễm mặn nhẹ vào mùa khô; ô nhiễm do hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, vi sinh, độ đục, chất rắn lơ lửng (SS): trung bình Thủy lợi (vào mùa mưa); Nuôi thủy sản nước ngọt; Du lịch, thể thao dưới nước. P. Long Trường Q.9 – Cầu Đồng Nai II Nhiễm mặn nhẹ vào mùa khô, ô nhiễm do hữu cơ, dinh dưỡng, vi sinh, dầu mỡ, độ đục, SS: nhẹ Như trên Cầu Đồng Nai – Cầu Hóa An II Không nhiễm mặn. Ô nhiễm do hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS: nhẹ Cấp nước thủy lợi, thủy sản (nước ngọt). Cấp nước sinh hoạt (cần xử lý ô nhiễm do dầu mỡ, hóa chất độc hại) Sài Gòn Từ ranh giới giáp Tây Ninh – Bến Đình (Củ Chi) II Không nhiễm mặn. Ô nhiễm nhẹ do hữu cơ, dinh dưỡng, chua phèn và vi sinh: trung bình; SS, độ đục: nhẹ. Cấp nước sinh hoạt, thủy sản nước ngọt, du lịch, thể thao dưới nước. Bến Đình – X. Nhị Bình (Củ Chi) III Không nhiễm mặn. Ô nhiễm do chua phèn (axit hóa) trung bình đến nặng. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, SS, độ đục, vi sinh: trung bình Cấp nước cho thủy sản nước ngọt (không an toàn vì chua phèn) cấp nước cho nhà máy nước (cần xử lý pH), du lịch, thể thao dưới nước. Nhị Bình – Cầu Bình Phước (Quận 12) III Nhiễm mặn thời gian ngắn vào mùa khô, ô nhiễm do axit hóa nhẹ. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: trung bình. Nuôi cá nước ngọt (không an toàn do thay đổi về độ mặn, pH và ô nhiễm hữu cơ). Không phù hợp CLN cho các nhà máy nước Thể thao dưới nước, du lịch:hạn chế Cầu Bình Phước – Cầu Sài Gòn III Nhiễm mặn thời gian ngắn vào mùa khô. Không nhiễm phèn. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: trung bình đến nặng Nuôi cá nước ngọt (kém an toàn) – Không sử dụng cấp nước sinh hoạt. Thể thao dưới nước, du lịch: rất hạn chế Cầu Sài Gòn – Cảng Tân Thuận III - IV Nhiễm mặn vào mùa khô. Không nhiễm phèn. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: nặng Không sử dụng cho thủy sản, thủy lợi, sinh hoạt, thể thao dưới nước, du lịch. Cảng Tân Thuận – Ngã 3 Đèn Đỏ III Nhiễm mặn quanh năm. Không nhiễm phèn. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: trung bình đến nặng. Như trên Sông Chợ Đệm Cầu Bình Điền – Giáp huyện Bến Lức (Long An) III Nhiễm phèn: trung bình, nhiễm mặn nhẹ vào mùa khô. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: trung bình đến nặng. Không sử dụng cho thủy lợi, thủy sản, cấp nước sinh hoạt Sông Cần Giuộc – Các sông rạch ở Nam Bình Chánh – Nhà Bè Toàn bộ các sông, rạch III Nhiễm phèn: nhẹ; Nhiễm mặn vào mùa khô. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, độ đục, SS, vi sinh: nhẹ đến trung bình. Cấp nước cho thủy sản (an toàn không cao do CLN thường thay đổi). Không cấp nước cho thủy lợi (vào mùa khô) không cấp nước sinh hoạt. Sông Nhà Bè Từ hợp lưu với sông Sài Gòn đến phà Bình Khánh III Không nhiễm phèn. Nhiễm mặn quanh năm. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: nhẹ đến trung bình Có thể cấp nước cho thủy sản nước lợ, không cấp nước cho thủy lợi, sinh hoạt Sông Soài Rạp Từ phà Bình Khánh đến cửa Soài Rạp II Không nhiễm phèn. Nhiễm mặn quanh năm. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: nhẹ Cấp nước cho thủy sản (lợ, mặn), du lịch, thể thao dưới nước. Không sử dụng cho thủy lợi, cấp nước sinh hoạt. Lòng Tàu – Ngã Bảy, Vàm Sát Toàn tuyến II Nhiễm mặn quanh năm. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: nhẹ Cấp nước cho thủy sản (lợ - mặn), du lịch, thể thao dưới nước. Đồng Tranh – Gò Da Toàn tuyến II - III Nhiễm mặn quanh năm. Ô nhiễm do hữu cơ, dinh dưỡng, vi sinh: nhẹ đến trung bình (sông Gò Da: ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng: trung bình). Cấp nước cho thủy sản (lợ, mặn): không an toàn vì ảnh hưởng nước thải từ sông Thị Vải. Không sử dụng cho thủy lợi, cấp nước sinh hoạt. Có thể phục vụ du lịch, thể thao dưới nước. Thị Vải Khu vực xã Thạnh An (huyện Cần Giờ) III Nhiễm mặn quanh năm. Ô nhiễm do hữu cơ, dinh dưỡng, vi sinh: trung bình đến nặng. Cấp nước cho thủy sản: không an toàn vì nguồn thải từ thượng lưu Thị Vải. Không sử dụng cho thủy lợi, cấp nước sinh hoạt. Có thể phục vụ du lịch, thể thao dưới nước. Các kênh rạch nội thành Các lưu vực Đôi – Tẻ, Tân Hóa – Lò Gốm, NL – TN, Tham Lương – Bến Cát – Rạch Nước Lên IV-V Hầu như không nhiễm mặn. Nhiễm phèn nhẹ. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: nghiêm trọng. Không sử dụng được cho thủy lợi, thủy sản, cấp nước sinh hoạt, thể thao dưới nước, du lịch. * Nguồn: Tổng hợp của Lê Trình -  Đề tài “Nghiên cứu phân vùng CLN TP Hồ Chí Minh” 2.1.2. Nước dưới đất Riêng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, trữ lượng tiềm năng nước dưới đất tại các tầng chứa nước là: 2.501.059 m3/ngày. Phân bổ như sau: Trữ lượng nước dưới đất trong các tầng chứa nước (Đơn vị tính:1000m3/ngày) Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện có trên 100.000 giếng khai thác nước ngầm, đa số khai thác tập trung ở tầng chứa nước Pleistocen và Pliocen. 56,61% tổng lượng nước khai thác dùng cho mục đích sản xuất, còn lại dùng trong sinh hoạt. 2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước 2.2.1. Tính chất vật lý 1. Nhiệt độ: Nhiệt độ của nước ổn định và phụ thuộc vào điều kiện môi trường. Nhiệt độ của nước ảnh hưởng đến quá trình xử lý và các nhu cầu tiêu thụ. 2. Độ màu: Màu của nước do các chất lơ lửng trong nước tạo nên, các chất lơ lửng này có thể là thực vật hoặc các chất hữu cơ dưới dạng keo. Độ màu không gây độc hại đến sức khỏe. 3. Độ đục: Độ đục để đánh giá sự có mặt của các chất lơ lửng trong nước ảnh hưởng đến độ truyền ánh sáng. Độ đục không gây độc hại đến sức khỏe nhưng ảnh hưởng đến quá trình lọc và khử trùng nước. 4. Mùi vị: Các chất khí, khoáng và một số hóa chất hòa tan trong nước làm cho nước có mùi. Các mùi vị thường gặp: mùi đất, mùi tanh, mùi thúi, mùi hóa học đặc trưng như Clo, amoniac, vị chát, mặn, chua… 5. Cặn: Gồm có cặn lơ lửng và cặn hòa tan (vô cơ và hữu cơ), cặn không gây độc hại đến sức khỏe nhưng ảnh hưởng đến quá trình xử lý nước. 6. Tính phóng xạ: Nước ngầm thường nhiễm các chất phóng xạ tự nhiên, thường nước này vô hại đôi khi có thể dùng để chữa bệnh. Nhưng nếu chỉ tiêu này bị nhiễm bởi các chất phóng xạ từ nước thải, không khí, từ các chất độc hại vượt quá giới hạn cho phép thì rất nguy hiểm. 2.2.2. Tính chất hóa học 1. Độ pH: Phản ánh tính axit hay tính kiềm của nước. pH ảnh hưởng đến các hoạt động sinh học trong nước, tính ăn mòn, tính hòa tan. 2. Độ axít: Trong nước thiên nhiên độ axít là do sự có mặt của CO2, CO2 này hấp thụ từ khí quyển hoặc từ quá trình oxy hóa các chất hữu cơ trong nước thải công nghiệp (chiếm đa số) và nước phèn. Độ axít không gây độc hại đến sức khỏe con người nhưng ảnh hưởng đến quá trình xử lý nước cấp và nước thải. 3. Độ kiềm: do 3 ion chính HCO3-, OH-, CO32- làm cho nước có độ kiềm. Nước có độ kiềm cao làm cho người sử dụng nước cảm thấy khó chịu trong người. Độ kiềm ảnh hưởng đến quá trình keo tụ, khử sắt, làm mềm nước, kiểm tra độ ăn mòn, khả năng đệm của nước thải, của bùn. 4. Độ cứng: Độ cứng của nước biểu thị hàm lượng các ion Ca2+ và Mg2+. Độ cứng không gây độc hại đến sức khỏe con người, nhưng dùng nước có độ cứng cao sẽ tiêu hao nhiều xà bông khi giặt đồ, tăng độ ăn mòn đối với các thiết bị trao đổi nhiệt, nồi hơi tạo nên cặn bám, khe nứt gây nổ nồi hơi. 5. Clorua (Cl-): Clorua trong nước biểu thị độ mặn. Clorua không gây độc hại đến sức khỏe con người nhưng dùng lâu sẽ gây nên bệnh thận. 6. Sunfat (SO42-): Sunfat tiêu biểu cho nguồn nước bị nhiễm phèn hoặc nước có nguồn gốc khoáng chất hoặc hữu cơ. Sunfat gây độc hại đến sức khỏe con người vì sunfat có tính nhuận tràng. Nước có Sunfat cao sẽ có vị chát, uống vào sẽ gây bệnh tiêu chảy. 7. Sắt (Fe2+, Fe3+): Sắt tồn tại trong nước dạng sắt 3 (dạng keo hữu cơ, huyền phù), dạng sắt 2 (hòa tan). Sắt cao tuy không gây độc hại đến sức khỏe con người nhưng nước sẽ có mùi tanh khó chịu và nổi váng bề mặt, làm vàng quần áo khi giặt, hư hỏng các sản phẩm ngành dệt, giấy, phim ảnh, đồ hộp, đóng cặn trong đường ống và các thiết bị khác làm tắc nghẽn các ống dẫn nước. 8. Mangan (Mg2+): Mangan có trong nước với hàm lượng thấp hơn sắt nhưng cũng gây nhiều trở ngại giống như sắt. 9. Ôxy hòa tan (DO): Ôxy hòa tan trong nước phụ thuộc vào các yếu tố: nhiệt độ, áp suất và đặc tính của nguồn nước (thành phần hóa học, vi sinh, thủy sinh). Xác định lượng ôxy hòa tan là phương tiện để kiểm soát ô nhiễm và kiểm tra hiệu quả xử lý. 10. Nhu cầu ôxy hóa học (COD): Là lượng ôxy cần thiết để ôxy hóa hết các hợp chất hữu cơ có trong nước. Nước nhiễm bẩn sẽ có độ ôxy hóa cao phải tốn nhiều hóa chất cho công tác khử trùng. 11. Nhu cầu Ôxy sinh hóa (BOD): Là lượng ôxy cần thiết để vi khuẩn sử dụng phân hủy chất hữu cơ dưới điều kiện hiếu khí. Chỉ tiêu này để đánh giá khả năng tự làm sạch của nguồn nước. BOD càng cao chứng tỏ mức độ ô nhiễm càng nặng. 12. Florua (F-): Trong thiên nhiên, các hợp chất của florua khá bền vững, ít bị phân hủy bởi quá trình làm sạch. Nếu thường xuyên dùng nước có florua lớn hơn 1,3mg/l hoặc nhỏ hơn 0,7mg/l đều dễ mắc bệnh hư hại men răng. 13. Dihydro sunfua (H2S): Khí này là sản phẩm của quá trình phân hủy các chất hữu cơ, rác thải. Khí này làm nước có mùi trứng thối khó chịu, với nồng độ cao, nó có tính ăn mòn vật liệu. 14. Các hợp chất của axít Silicic (Si): trong nước nếu có các hợp chất axit silicic sẽ rất nguy hiểm do cặn silicát lắng động trên thành nồi, thành ống làm giảm khả năng truyền nhiệt và gây tắc ống. 15. Phốt phát (PO42-) : Có phốt phát vô cơ và phốt phát hũu cơ. Trong môi trường tự nhiên, phốt phát hữu cơ hầu hết là những chất mang độc tính mạnh dưới dạng thuốc diệt côn trùng, các vũ khí hóa học. Phốt phát làm hóa chất bón cây, chất kích thích tăng trưởng, chất tạo bọt trong bột giặt, chất làm mềm nước, kích thích tăng trưởng nhiều loại vi sinh vật, phiêu sinh vật, tảo… phốt phát gây nhiều tác động trong việc bảo vệ môi trừơng. 16. Nitơ (N) và các hợp chất chứa Nitơ (NH4+, NO2-, NO3-): Sự phân hủy của rác thải, các chất hữu cơ có trong nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp tạo thành các sản phẩm amoniac, nitrít, nitrát. Sự hiện diện của các hợp chất này là chất chỉ thị để nhận biết trạng thái nhiễm bẩn của nguồn nước. 17. Kim loại nặng: có mặt lợi và mặt hại: - Mặt lợi: với hàm lượng hữu ích, giúp duy trì và điều hòa những hoạt động của cơ thể. - Mặt hại: với hàm lượng cao gây khó chịu hoặc dẫn đến ngộ độc. 18. Các thành phần độc hại khác: Là thành phần các chất mà chỉ tồn tại trong nước với một hàm lượng rất nhỏ cũng đủ gây độc hại đến tính mạng con người, thậm chí gây tử vong, đó là các chất: Asen (As), Berili (Be), Cadimi (Cd), Xyanua (CN), Crôm (Cr), Thủy ngân (Hg), Niken (Ni), Chì (Pb), Antimoan (Sb), Selen (Se), Vanadi (V). Một vài gam thủy ngân hoặc Cadimi có thể gây chết người, với hàm lượng nhỏ hơn chúng tích lũy trong các bộ phận của cơ thể cho tới lúc đủ hàm lượng gây ngộ độc. Chì tích lũy trong xương, Cadimi tích lũy trong thận và gan, thủy ngân tích lũy trong các tế bào não. 19. Chất béo và dầu mỡ: Chất béo và dầu mỡ dễ phân tán và khuyết tán rộng. Chất béo đưa vào nguồn nước từ các nguồn nước thải, các lò sát sinh, công nghiệp sản xuất dầu ăn, lọc dầu, chế biến thực phẩm… Chất béo ngăn sự hòa tan ôxy vào nước, giết các vi sinh vật cần thiết cho việc tự làm sạch nguồn nước. 20. Thuốc diệt cỏ và trừ sâu: Thuốc diệt cỏ và trừ sâu ngoài việc gây ô nhiễm vùng canh tác còn có khả năng lan rộng theo dòng chảy, gây ra các tổn thương trên hệ thần kinh nếu tiếp xúc lâu ngày, chúng cũng có thể tích tụ trong cơ thể gây ra những biến đổi gen hoặc các bệnh nguy hiểm. 21. Tổng số vi trùng: Chỉ tiêu này để đánh giá mật độ vi trùng trong nước, các vi khuẩn này hoặc sống trong nước, hoặc từ đất rửa trôi vào nước hoặc từ các chất bài tiết. Chỉ tiêu này không đánh giá về mặt độc hại đối với sức khỏe mà chỉ đánh giá chất lượng nguồn nước. 22. Coliform: Coliform sống ký sinh trong đường tiêu hóa của người và động vật, chỉ tiêu này dùng để xem xét sự nhiễm bẩn của nước bởi các chất thải. 23. E. Coli: Chỉ tiêu này đánh giá sự nhiễm phân của nguồn nước nhiều hay ít (nhiễm phân người hoặc động vật), gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, đôi khi thành dịch bệnh lan truyền. 2.3. Tình hình ô nhiễm nước ở TP Hồ Chí Minh 2.3.1. Môi trường nước trên mặt và tình trạng ngập lụt Nuồn nước tại các sông, kênh và rạch nhìn chung bị ô nhiễm nghiêm trọng. Rác lềnh bềnh tại một nhánh kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè Số liệu quan trắc chất lượng nước TPHCM của Chi cục Bảo vệ môi trường thuộc Sở TN - MT TPHCM trong 6 tháng đầu năm 2010 đã chứng minh điều này. Tại hệ thống kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè, chảy qua địa bàn các quận Phú Nhuận, 1, 3…, dù đã và đang được nạo vét nhưng vào thời điểm nước ròng, 100% chỉ số BOD, COD (ô nhiễm chất hữu cơ) vẫn vượt quy chuẩn Việt Nam tới hơn 2 lần. Hàm lượng vi sinh có xu hướng giảm so với cùng kỳ 2009 nhưng tại một số vị trí như ở khu vực đường Lê Văn Sỹ vẫn vượt quy chuẩn 1,1 lần khi nước lớn và vượt 30 lần khi nước ròng. Giá trị pH vào khoảng 6,7 - 7, tăng nhẹ so với cùng kỳ 2009. Tại hệ thống kênh Tham Lương - Vàm Thuật, nồng độ BOD dao động trong khoảng 4,1 - 69,3mg/l, COD dao động trong khoảng 36,4 - 150mg/l. Lúc nước lớn, khoảng 50% mẫu quan trắc có chỉ tiêu BOD và COD vượt quy chuẩn Việt Nam. Lúc nước ròng, 100% mẫu quan trắc vượt quy chuẩn. Trong đó trạm ở khu vực Tham Lương có mức độ ô nhiễm hữu cơ cao hơn trạm An Lộc. So với cùng kỳ năm 2009, mức độ ô nhiễm chất hữu cơ có giảm nhưng vẫn đứng ở mức ô nhiễm cao và rất đáng lo ngại đến sức khỏe người dân quanh vùng. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm vi sinh trên hệ thống kênh Tham Lương - Vàm Thuật mới thực sự đáng sợ. Lúc nước lớn, 100% mẫu quan trắc có hàm lượng vi sinh vượt quy chuẩn tới 137 lần và lúc nước ròng, 100% mẫu quan trắc vượt quy chuẩn tới… 10.859 lần. Ở hệ thống kênh Tân Hóa - Lò Gốm, nhìn chung tình trạng ô nhiễm chất hữu đều ở mức cao. 100% mẫu quan trắc vượt quy chuẩn Việt Nam, trong đó giá trị BOD trung bình vượt quy chuẩn 5,3 lần lúc nước lớn và vượt 5,4 lần vào lúc nước ròng, giá trị COD trung bình vượt quy chuẩn 4,2 lần lúc nước lớn và vượt 5,7 lần lúc nước ròng. Khác với 3 hệ thống kênh trên, hệ thống kênh Tàu Hủ - Bến Nghé đã có những dấu hiệu tốt về chất lượng nước như mức ô nhiễm chất hữu cơ có xu hướng giảm, mức ô nhiễm vi sinh chỉ tăng nhẹ. Tuy nhiên, vào lúc nước ròng, chỉ số BOD trung bình vẫn vượt quy chuẩn Việt Nam 1,5 lần. Hàm lượng vi sinh trung bình vượt quy chuẩn tới 118 lần vào lúc nước lớn và vượt 273 lần vào lúc nước ròng. Mức độ ô nhiễm chất hữu cơ ở hệ thống kênh Đôi - Tẻ không cao như các hệ thống kênh khác nhưng hàm lượng vi sinh lại đang có xu hướng tăng 2 - 10 lần so với cùng kỳ năm 2009. Tất cả hệ thống kênh của TPHCM đều “đổ nước” ra các sông Sài Gòn, Đồng Nai… Điều này có nghĩa: sông cũng bị ô nhiễm. Nói chung toàn bộ hệ thống sông, kênh, rạch của TPHCM bị ô nhiễm. Hiện tại có 154 trên tổng số 322 xã phường của TP.HCM đã thường xuyên ngập úng. Hiện tại có 154 trên tổng số 322 xã phường của TP.HCM đã thường xuyên ngập úng. Đến năm 2050, dự báo con số này sẽ lên đến 177, chiếm 61% diện tích thành phố. Theo kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng của nước ta do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố, nếu mực nước biển dâng thêm 75cm thì khu vực TP.HCM có khoảng 204 km2 diện tích đất bị ngập chiếm 10% tổng diện tích và khi mực nước biển dâng 1m sẽ có khoảng 472 km2 bị ngập. Theo sở Tài nguyên và Môi trường thành phố trong giai đoạn 2011 - 2015, các khu dân cư nằm trong các quận huyện có cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh và thu nhập thấp gồm Cần Giờ, Hóc Môn, Bình Chánh, quận 12…là một trong những khu vực nhạy cảm nhất, chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Chính gì thế, chúng ta cần phải chủ động ứng phó với sự tác động của biến đổi khí hậu, huy động mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản, góp phần quan trọng bảo đảm cho sự phát triển bền vững của thành phố. Nguồn nước tại TP.HCM tuy dồi dào nhưng cần phải có sự điều tiết hợp lý từ thượng nguồn. Hệ thống kênh rạch thuận lợi cho giao thông đường thủy nhưng cũng tạo nên chế độ thủy văn - thủy lực phức tạp khi bị tác động từ nhiều nguồn. Thủy triều biên độ cao tuy lợi cho tiêu thoát nhưng do chế độ bán nhật triều với phần lớn thời gian xuất hiện một chân triều cao nên khả năng tiêu thoát kém, mặt đất tự nhiên nhiều nơi chỉ ở cao trình dưới 1,5 m nên thường xuyên bị ảnh hưởng của triều cường. Những năm lũ lớn, dòng lũ từ ĐBSCL cũng ảnh hưởng không nhỏ đến phần Tây Nam thành phố. Theo kịch bản biến đổi khí hậu về nước biển dâng đã được công bố do Bộ TN&MT (20-8-2009), nếu mực nước biển dâng cao khoảng 75 cm, TP.HCM có khoảng 204 km2 bị ngập (chiếm 10% tổng diện tích) và khi nước biển dâng khoảng 100 cm thì có khoảng 472 km2 diện tích đất bị ngập. Với kịch bản này, mực nước biển tăng cao sẽ dẫn đến hàng loạt các vấn đề kinh tế và xã hội, xói lở bờ biển, ảnh hưởng hệ thống cảng biển, gây hư hại các công trình xây dựng, mất dần diện tích canh tác, đất ở; ngập lụt, thiếu nước ngọt, xâm nhập mặn nước mặt và nước dưới đất, ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, hoạt động công nghiệp và sinh hoạt, làm mất sự cân bằng giữa khai thác và tái tạo của nguồn nước dưới đất… Hiện tượng biến đổi khí hậu kéo theo triều cường gây ngập úng nghiêm trọng tại TP.HCM. Theo Tài liệu báo cáo đánh giá mực nước biển, nước sông TP.HCM và vùng phụ cận thời đoạn 2005-2009, hiện nay mức độ ngập của TP.HCM xảy ra với tần suất ngày càng tăng và mức độ ngập lụt ngày một cao. Thiệt hại do ngập gây ra ngày càng nhiều, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường và ách tắc giao thông. Trong khi đó, các nghiên cứu về ngập lụt ở TP.HCM vẫn còn một số yếu điểm như: xét đến tính tổng thể trong lưu vực còn ít, chưa thấy hết nguyên nhân tiềm ẩn gây ngập; chưa xem xét đầy đủ tốc độ đô thị hóa và hệ quả của nó là nhanh chóng làm giảm vùng chứa nước, giảm khả năng tiêu thoát của hệ thống kênh rạch hiện hữu; giải pháp công trình và phi công trình chưa gắn kết với nhau. Trong đó, việc phân vùng tiêu thoát nước của các nghiên cứu còn có nhiều điểm chưa thống nhất. Thực tế cho thấy các giải pháp chống ngập cho TP.HCM phụ thuộc rất nhiều vào việc phân vùng tiêu thoát nước và tính toán hệ số tiêu nước cho các vùng. Do vậy, cần thiết phải có nghiên cứu sâu hơn về nội dung này làm cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về giải pháp phòng chống ngập đối với từng khu vực cụ thể. Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng tình hình ngập ở TP.HCM hiện nay đang gia tăng nhanh chóng do các nguyên nhân cả khách quan và chủ quan. Trong đó, khả năng thoát nước yếu kém của hệ thống tiêu thoát hiện hữu, tốc độ đô thị hóa ngày một nhanh, công tác quy hoạch và kiểm tra sau quy hoạch các dự án phát triển đô thị, san lấp mặt bằng, mở đường giao thông chậm không theo kịp yêu cầu phát triển. Tình trạng các dự án khu dân cư, khu công nghiệp và dự án giao thông có hành vi san lấp, lấn chiếm kênh rạch, thu hẹp dòng chảy đang là những nội dung quan trọng nhất cần được xem xét giải quyết sớm. Dự tính đến năm 2050, hầu hết các quận huyện, phường xã của TP sẽ chịu nguy cơ ngập lụt, kể cả những nơi trước đó chưa bao giờ bị ngập. Cụ thể, có đến 177/322 phường xã với 123.152ha (chiếm 61% diện tích của TP) sẽ chịu ngập lụt thường xuyên. Con số này có thể lên đến 265 phường xã và 141.885ha (71% diện tích TP) nếu xảy ra bão. Đáng kể hơn là độ sâu ngập sẽ tăng từ 21-40% và thời gian ngập kéo dài thêm 12-22% so với hiện nay. Bản đồ dự báo ngập nước vào năm 2050 của TP.HCM và ĐBSCL do Ngân hàng phát triển Châu Á công bố. Màu sậm là diện tích bị ngập. Và theo dự báo của nhóm nghiên cứu, nạn xâm nhập mặn dự báo sẽ lan sâu hơn, trầm trọng hơn vào năm 2050 kể cả trong mùa ngập lụt cũng như mùa khô hạn. Hậu quả là khả năng sử dụng nước sông, kênh rạch và nước ngầm ở phía nam TP phục vụ sinh hoạt, tưới tiêu cho nông nghiệp sẽ bị hạn chế. Chưa kể, khi đó nhiệt độ mặt biển ở biển Đông ấm hơn sẽ làm những cơn bão nhiệt đới đổ bộ vào các tỉnh phía Nam thường xuyên hơn, cường độ mạnh hơn và khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến TP.HCM nhiều hơn. Không dừng lại đó, nếu mực nước biển dâng khoảng 1m thì TPHCM sẽ có thêm 23% diện tích đất bị ngập. Việc ngập lụt gia tăng sẽ gây tác hại rất lớn đến tất cả lĩnh vực kinh tế - xã hội của thành phố. Cụ thể đối với ngành nông nghiệp sẽ có 53% diện tích đất canh tác nông nghiệp bị ngập, gây thiệt hại về năng suất cây trồng; giao thông có hơn 1/2 nút giao thông hiện tại và khoảng 80% nút giao thông đang trong kế hoạch xây dựng bị ngập lụt, gây tê liệt và phá hủy đáng kể hoạt động kinh tế của thành phố; cấp nước và vệ sinh mạng lưới cấp nước lộ thiên và sâu 1,5m bị tác động nghiêm trọng, khó khăn trong việc quản lý và điều phối cấp nước sinh hoạt cho người dân; năng lượng bị phá hoại các trạm, hệ thống truyền tải năng lượng, hạ tầng điện, dầu và khí ven biển và ngoài khơi cũng có nguy cơ bị phá hủy nghiêm trọng do sự gia tăng bão, triều cường, ngập lụt và sóng lớn; y tế sẽ khó khăn vì sự bùng phát một số bệnh đường ruột, tả, lỵ… do ô nhiễm nước lụt khi nước thải chảy tràn ra từ nhà vệ sinh và bể phốt vốn rất phổ biến tại thành phố… Lượng mưa ở TPHCM ngày càng gia tăng, nhiều nhà khoa học đã nhận định, các cơn bão lớn có xu hướng gia tăng ảnh hưởng đến khu vực Nam bộ. TPHCM sẽ phải đối diện với những chuỗi mưa lớn ngày càng tăng lên. Mức độ tăng của lượng mưa và của nước sông gia tăng nhanh hơn cả sự gia tăng của mực nước biển. Nguyên nhân là sự thay đổi khí hậu và sự đô thị hóa của TPHCM. Theo phân viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Môi trường cho biết lượng mưa ở các tỉnh phía bắc từ 40 năm nay có xu hướng giảm nhưng lượng mưa ở phía Nam tăng đáng kể. So với các tỉnh khác, TPHCM có sự gia tăng cường độ mưa cao hơn. Lượng mưa ở trung tâm TPHCM cao hơn khu vực xung quanh khoảng 200mm. Nếu trước đây cứ 5 năm mới có những cơn mưa có vũ lượng trên 100mm, thì nay không cần đến 3 năm đã thấy xuất hiện. Những cơn mưa có vũ lượng khoảng 100mm thì năm nào cũng xuất hiện gây khả năng ngập úng cao, khi lượng mưa gia tăng sẽ làm cho lượng nước đầu nguồn tăng, khả năng gây ngập sẽ cao hơn. Thêm vào đó, TPHCM phải đối mặt với sự gia tăng của thủy triều do sự thay đổi lưu vực sông. Từ trước những năm 90, mực nước sông Sài Gòn đo ở trạm Phú An không tăng mấy nhưng từ sau 90 tăng rất nhanh, nó khác với sự thay đổi mực nước biển ở Vũng Tàu tăng chậm hơn. Mức độ gia tăng đột biến của thủy triều lên đến 100 lần/năm, điều này cho thấy sự lặp lại rất nguy hiểm. Trong khi đó, mực nước đo ở trạm Phú An ở các sông tăng 1,5cm/năm. còn mực nước biển đo được ở Vũng Tàu tăng 0,8cm/năm. Mặc dù TPHCM đã có những cống ngăn triều nhưng khi có những trận mưa 100mm thì thành phố vẫn ngập trên 400ha, khi mưa 200mm thì sẽ ngập 900 ha Sự biến đổi của khí hậu sẽ ảnh hưởng nặng nề đến các khu dân cư mới. Khu dân cư mới của TPHCM chủ yếu phát triển ở những vùng trũng, do đó sẽ chịu nhiều ảnh hưởng. Chỉ cần nước biển tăng thêm 0,5m so với các kịch bản biến đổi khí hậu hiện nay thì TPHCM chỉ còn là hai ốc đảo. 2.3.2. Nguồn nước ngầm Khảo sát của Liên đoàn địa chất thủy văn và địa chất công trình miền Nam cho thấy, hệ thống nước ngầm TP HCM có 4 tầng chứa nước là Holocen, Pleistocen, Pliocen trên và Pliocen dưới. Tầng Holocen có bề dày lớn, phân bổ ở khu vực huyện Nhà Bè, Cần Giờ, Bình Chánh và phần thung lũng phía nam sông Sài Gòn. Tầng này nhiễm mặn, vì thế ở các khu vực trên hầu như không thể khoan giếng được và dân cư chủ yếu là mua nước ngọt để sử dụng trong sinh hoạt. Tầng Hologen nhiễm mặn sâu và lan tỏa, tác động đến các tầng khác theo hướng thu hẹp dần khối nước sạch. Ba tầng chứa nước còn lại hiện cung cấp chính cho thành phố, trong đó tầng Pleistocen và Pliocen trên được khai thác nhiều nhất do hai tầng này có trữ lượng lớn. Riêng tầng Pliocen dưới phân bổ ở khu vực Phú Mỹ Hưng, quận 8, Tân Quy Đông, Bình Hưng, Phong Phú, Đa Phước và Hóc Môn, có đặc điểm dễ nhiễm phèn, mặn. Hiện nay tổng công suất khai thác tầng nước ngầm của thành phố đạt khoảng 520.000 m3/ngày và có thể đạt đến mức 570.000 m3/ngày trong 5 năm nữa. Thế nhưng theo nghiên cứu từ Liên đoàn địa chất thủy văn - địa chất công trình miền Nam thì lượng nước ngầm bổ cập tự nhiên chỉ đạt khoảng chưa tới 200.000 m3/ngày. Điều này có nghĩa trữ lượng nước ngầm không được bổ sung kịp thời và cần phải tăng cường bổ cập nhân tạo bằng nguồn nước mưa, nước sông... 2.4. Các nguyên nhân 2.4.1. Ảnh hưởng từ tự nhiên Tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng có dấu hiệu ảnh hưởng rõ rệt và TP.HCM cũng là một trong những TP chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của vấn đề này. Theo đó, việc biến đổi khí hậu sẽ làm cho mực nước biển dâng cao, mùa khô kéo dài hơn và gây ra mưa lớn trong ngày hè. Điều này gây tác động lớn đến tài nguyên nước ở TP như gây ra tình trạng ngập lụt đô thị trong mùa mưa, gây nhiễm mặn các nguồn nước và suy thoái nguồn nước ngầm. Đối với việc nhiễm mặn các nguồn nước, nguyên nhân là do hạn hán kéo dài làm giảm lưu lượng trong mùa khô và mực nước biển dâng cao làm cho “nút ngăn mặn” di chuyển sâu hơn vào đất liền gây nhiễm mặn. Tình trạng ngập lụt trong đô thị ngày càng xảy ra nghiêm trọng là do việc biến đổi khí hậu gây mưa lớn hơn trong mùa hè, mực nước biển dâng cao dẫn đến tình trạng ngập lụt tại TP trong mùa mưa. Ngoài ra, tình trạng mùa khô kéo dài hơn cũng gây nên suy thoái nguồn nước ngầm trong TP. Hiện tượng số trận mưa lớn xuất hiện với tần suất tăng dần theo thời gian đã được giải thích bởi hiệu ứng đảo nhiệt (Heat Island Effect), mặc dù cho đến nay vẫn chưa thể tái hiện lại một mô hình vật lý đủ tin cậy cho vấn đề này. Tình trạng nhiệt độ gia tăng liên tục và ngày càng nhanh dần kể từ thập niên 90 của thế kỷ trước trùng khớp với lý thuyết của hiệu ứng đảo nhiệt và góp phần lý giải hiện tượng mưa lớn xuất hiện ngày càng thường xuyên ở các khu vực đô thị hoá. Đây không phải là vấn đề cá biệt của TP.HCM mà đã được tổng kết trên khắp thế giới từ nhiều thập niên. Tình trạng gia tăng liên tục của mực nước trên sông Sài Gòn cùng với những trận mưa có vũ lượng lớn xuất hiện ngày càng thường xuyên hơn, trong khi hệ thống thoát nước và kiểm soát triều vẫn chưa đủ khả năng đáp ứng đã làm cho tình trạng ngập lụt đô thị ở TP.HCM ngày càng trở nên trầm trọng. Hơn 70 vị trí ngập xuất hiện ở TP.HCM sau những cơn mưa có vũ lượng từ 40 mm trở lên ngay cả khi thủy triều đang ở mức thấp cho thấy dòng chảy tràn đô thị do mưa lớn vượt quá khả năng thoát nước của cống đang là tác nhân gây ngập chủ yếu hiện nay. Theo tính toán của các nhà khoa học, BĐKH và việc trái đất nóng lên có khả năng gây ra tình trạng thiếu nước vào mùa khô và tạo điều kiện cho xâm nhập mặn lấn sâu vào đất liền. Đối với TPHCM, điều này sẽ đặc biệt nguy hiểm vì nếu độ mặn của sông Sài Gòn tăng lên sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc sản xuất cũng như chất lượng nước sạch của Nhà máy nước Tân Hiệp và Thủ Đức (vì đây là nguyên liệu để sản xuất của hai nhà máy này). Trong mùa mưa, tình trạng BĐKH có khả năng gây ra những cơn mưa lớn hơn, dữ dội hơn trước và TPHCM đã được “kiểm nghiệm” điều này trong nhiều mùa mưa gần đây. Ngập tại TPHCM do nhiều nguyên nhân nhưng một trong số đó là do… mưa nhiều. Hiện nay, trong kế hoạch thích ứng với BĐKH của Trung tâm điều hành chương trình chống ngập TPHCM, đã có kế hoạch giải quyết tình trạng ngập ở TPHCM như là một trong những giải pháp thích ứng với BĐKH của đơn vị. 2.4.2. Hoạt động của con người Các dòng nước mặt (sông, kênh rạch…) đặc biệt là ở vùng đô thị đều bị ô nhiễm trầm trọng bởi rác thải, nước thải sinh hoạt từ các khu dân cư xả vào kênh rạch chưa qua xử lý. Tình trạng lấn chiếm lòng, bờ sông kênh rạch để sinh sống, xả rác và nước thải trực tiếp trên bề mặt gây ô nhiễm nước mặt, cản trở lưu thông của dòng chảy, tắc nghẽn cống rãnh tạo nước tù. Môi trường yếm khí gia tăng phân hủy các hợp chất hữu cơ, không những gây mùi hôi thối, ô nhiễm nguồn nước và môi trường mà còn gây khó khăn trong việc lấy nguồn nước mặt để xử lý thành nguồn nước sạch cấp cho nhu cầu xã hội. Nhu cầu nước sử dụng cho ăn uống, sinh hoạt và các hoạt động khác của con người gia tăng, dẫn đến tình trạng khai thác nước dưới đất tràn lan gây cạn kiệt nguồn nước và ảnh hưởng đến môi trường như sụp lún, nhiễm mặn… Nhiều giếng khoan thi công không đúng kỹ thuật (Kết cấu giếng không tốt, giếng gần khu vực nhà vệ sinh, hệ thống xử lý nước thải…), giếng khoan hư không được trám lấp là nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước. Để gia tăng môi trường sống, con người phá rừng lấp đất, sang ruộng cất nhà làm đường dẫn đến mất khả năng giữ nước của đất, lượng nước bề mặt không được thấm bổ cập vào nước ngầm mà chảy vào sông rạch ra biển. Ngoài ra còn gây ngập lụt, trược lở đất. 2.4.3. Ảnh hưởng do phát triển nông nghiệp Việc chăn nuôi gia súc gia cầm ở hộ gia đình vùng nông thôn còn chưa có ý thức tiết kiệm nguồn nước trong việc vệ sinh, vệ sinh chuồng trại, chưa có hệ thống xử lý chất thải nước thải, phần lớn cho vào ao hồ, bể tự hoại để thấm vào đất dễ gây ô nhiệm môi trường đặt biệt là nguồn nước ngầm. Nhiều giếng khoan ngoài ruộng vườn để tưới tiêu không đảm bảo kỹ thuật gây nhiễm bẫn, nhiễm các hóa chất và thuốc trừ sâu … Với tình trạng sử dụng bừa bãi, tùy tiện các loại hóa chất trong phân bón, các loại thuốc kích hoạt phát triển cây… Nhiều hệ thống kênh mương tưới tiêu nội đồng đã bị ô nhiễm nguồn nước và phát tán rộng. 2.4.4. Ảnh hưởng do phát triển công nghiệp và dịch vụ Mực nước ngầm hạ thấp nhanh, có nguy cơ cạn kiệt Việc gia tăng nhiều nhà máy, xí nghiệp từ quy mô nhỏ hộ gia đình đến quy mô lớn dẫn đến nhu cầu về nguồn nước tăng, không những nước phục vụ cho sản xuất mà còn phục vụ sinh hoạt cho một số lượng lớn công nhân từ nhiều vùng khác nhau tập trung về. Đặc biệt ở các khu vực chưa có hệ thống cấp nước, mật độ khai thác nước dưới đất sẽ gia tăng nhanh, từ đó dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn nước và sụt lún đất. Các chất thải công nghiệp như khối, bụi…tạo nên mưa axít không những làm thay đổi chất lượng nước ngọt, mà còn ảnh hưởng xấu đến đất và môi trường sinh thái. Việc xả nước thải sản xuất từ các nhà máy, khu chế xuất khu công nghiệp chưa được xử lý vào sông rạch, ao hồ gây ô nhiễm nước mặt, nước dưới đất. Thậm chí có nơi còn cho nước thải chảy tràn trên mặt đất để tự thấm xuống đất hoặc đào các hố dưới đất để xả nước thải làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các tầng nước dưới đất. 2.4.5. Các nguyên nhân khác Hệ thống kênh rạch không được nạo vét dẫn đến tích tụ một khối lượng lớn các vật chất hữu cơ từ nước thải, rác thải gây bồi lắng và ảnh hưởng đến việc tiêu thoát của dòng nước. Các bãi chôn rác không đạt yêu cầu kỹ thuật, nước rỉ ra từ rác thấm vào mạch nước ngầm hoặc cho chảy tràn trên mặt đất vào kênh rạch. Các dòng nước mặt trên sông, kênh rạch còn bị ô nhiễm do xăng dầu của các tàu bè đi lại, hoặc các sự cố vận chuyển khác trên sông, biển. Ảnh hưởng do chưa có ý thức về sử dụng và bảo vệ nguồn nước như sử dụng bừa bãi hoang phí, không đúng mục đích sử dụng. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP HẠN CHẾ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 3.1. Bảo vệ nguồn nước Việc bảo vệ nguồn tài nguyên nước có thể nói là không khó khăn, tuy nhiên việc này đòi hỏi sự thống nhất đồng lòng của tất cả mọi người trong xã hội. 1. Thường nạo vét sông rạch để khơi thông dòng chảy. Không lấn chiếm lòng sông, kênh rạch để xây nhà, chăn nuôi thủy hải sản. Việc nuôi thủy sản trên các dòng nước mặt phải theo quy hoạch. 2. Trong sản xuất nông nghiệp phải có chế độ tưới nước, bón phân phù hợp. Tưới cây khi trời mát, ủ gốc giữ ẩm cho cây. Tránh sử dụng thuốc trừ sâu dư thừa, không rõ nguồn gốc. Nên áp dụng các phương pháp sinh học để tiêu diệt sâu bọ côn trùng. 3. Trong chăn nuôi gia súc, gia cầm nên nuôi trong chuồng trại có hệ thống xử lý chất thải. Không chăn thả rong dễ dẫn đến ô nhiễm nguồn nước và môi trường. 4. Sử dụng nước mặt (nước sông, hồ …), nước từ các công trình cấp nước công cộng để hạn chế khai thác nước dưới đất và tránh gây ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước. Nếu có công trình khai thác nước dưới đất thì phải khai thác đúng kỹ thuật và sử dụng hợp lý, tiết kiệm: BẢO VỆ TÀI NGUYÊN NƯỚC Sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích Không gây thất thoát nước Không làm ô nhiễm môi trường nước Tạo điều kiện tích lũy nguồn a. Khai thác nước dưới đất đúng kỹ thuật Khoan đúng kỹ thuật: cần có hiểu biết về kỹ thuật khoan, hiểu biết sơ cấp về cấu trúc địa chất do đó khi muốn khoan giếng phải thuê đơn vị có chức năng hành nghề khoan (đơn vị có giấy phép hành nghề khoan giếng). Phải trám lấp giếng hư: Các giếng khoan hư hoặc không còn sử dụng phải trám lấp đúng quy trình kỹ thuật để tránh xâm nhập nước bẫn vào tầng chứa nước. Có đới bảo vệ vệ sinh giếng: Các giếng khai thác nước phải cách xa nhà vệ sinh, hệ thống xả thải, hệ thống xử lý nước thải từ 10m trở lên. Không khoan giếng gần đường giao thông, không bố trí các vật dụng dễ gây ô nhiễm như hóa chất, dầu nhớt … gần khu vực giếng. Các giếng phải được xây bệ cao, có nắp đậy. Có chế độ khai thác hợp lý: trước khi khai thác phải đánh giá khả năng cấp nước, chất lượng nguồn nước và độ hồi phục nước của tầng chứa nước khai thác từ đó có chế độ khai thác hợp lý. Có chế độ kiểm tra bảo trì giếng và thiết bị khai thác hàng năm để hạn chế rủi ro hư giếng. Đối với các công trình khai thác lớn nên có hệ thống quan trắc nội bộ để theo dõi mực nước và chất lượng nước thường xuyên. Kiểm tra chất lượng nước và xử lý nước đạt tiêu chuẩn theo mục đích sử dụng. b. Sử dụng hợp lý Tùy theo mục đích sử dụng có thể dùng nước sạch, nước giếng, nước mưa, nước sông, nước tái sử dụng … Sử dụng nước cho ăn uống, sinh hoạt vệ sinh cá nhân, sản xuất thực phẩm, các ngành sản xuất cần nước tinh sạch ta sử dụng nước sạch từ công ty cấp nước, nước giếng hoặc nước sông đã qua hệ thống xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép. Sử dụng để tưới cây, vệ sinh công nghiệp, vệ sinh chuồng trại…Có thể sử dụng nước giếng, nước sông rạch hoặc nước thải đã được xử lý. c. Sử dụng tiết kiệm Tập thói quen tiết kiệm nước từ những việc nhỏ trong hộ gia đình: Chỉ mở vòi nước khi cần sử dụng và chỉ mở mạnh vừa đủ dùng, không mở quá mạnh hoặc để chảy tràn. Phải khóa vòi nước cẩn thận sau khi sử dụng. Khi rửa tay, rửa mặt, đánh răng … nên mở vòi nước khi nào cần dùng, hoặc hứng sẵng trong thau, ca, trách để vòi chảy tự do gây lãng phí nước. Khi rửa thức ăn, rửa bát đĩa và các vật dụng khác nên hứng nước vào chậu hoặc bồn lavabo vừa đủ dùng, nhằm tiết kiệm nguồn nước sử dụng đồng thời có thể giữ lại phần nước dư sau cùng dùng cho các mục đích khác. Thường xuyên kiểm tra và sửa chữa ngay khi bể đường ống dẫn nước, hư khóa van nước. Không để nước rò rỉ lâu ngày. Nên sử dụng các thiết bị tiết kiệm nước như: + Sử dụng bồn cầu có chế độ điều chỉnh cơ cấu xả nước điều chỉnh phù hợp nhằm giảm thể tích nước xả. + Khuyến khích các nơi công cộng, trường học, văn phòng, siêu thị, chợ sử dụng sản phẩm tiết kiệm nước như vòi nước có chức năng ngắt nước nhất định, ngắt nước cảm ứng nhiệt, bồn vệ sinh cảm ứng nhiệt… + Sử dụng vòi sen có nhiều tia phun nước mạnh sẽ giảm được lượng nước sử dụng. Ngâm đồ bẩn trước khi giặt. Hạn chế giặt đồ làm nhiều lần trong ngày. Khi tưới cây, rửa xe, tắm rửa gia xúc, vệ sinh chuồng trại, phun làm mát… dùng vòi nước có gắn thêm nòng phun vừa đáp ứng được yêu cầu sử dụng, vừa tiết kiệm được nguồn nước sử dụng. Khuyến khích sáng tạo các hình thức sử dụng nước tiết kiệm nhưng vẫn đạt mục đích sử dụng. Ví dụ: + Sử dụng nước tuần hoàn trong giải nhiệt máy móc thiết bị… + Phương pháp tưới tiết kiệm nước: hệ thống tưới máng thủy canh… 5. Có hình thức xả thải phù hợp: Phải xử lý nước thải trước khi xả vào cống, sông hồ, kênh rạch. Không đổ nước thải chưa xử lý vào hố để tự thấm hoặc để chảy tràn lan trên mặt đất. Không chôn nước thải, rác thải nguy hại vào lòng đất. Rác thải không được xả bừa bãi trên đường, hè phố, sông rạch ao hồ mà phải thu gôm phân loại theo đúng quy định. Nhà vệ sinh, chuồng trại nuôi gia súc phải xây hệ thống xử lý như hầm biogas. 3.2. Biện pháp xử lý nước 3.2.1. Đối với nước nhiễm sắt, phèn Đối với nước nhiễm phèn, ta xử lý ô nhiễm bằng vôi sống. Lấy 10g vôi sống cho vào 140l nước, sau đó để nước lắng xuống, gạn lấy nước trong. Nước nhiều sắt thường có màu vàng, mùi tanh. Cách đơn giản để làm sạch nước nhiễm sắt là đổ nước vào thùng, khoắng lên nhiều lần rồi để lắng, chắt lấy nước trong. Có thể dùng phèn chua để xử lý nước nhiễm phèn sắt. Phèn chua giã nhỏ (nửa thìa cho 25 lít nước) đổ vào thùng quấy nhiều lần để sắt và phèn kết tủa lắng dần xuống đáy. Ngoài ra có thể xử lý bằng phương pháp sục khí, qua giàn mưa và bồn lắng, lọc để khử sắt. Làm giàn mưa bằng ống nhựa, khoan 150 - 200 lỗ có đường kính từ 1,5mm đến 2mm tùy theo công suất máy bơm đang sử dụng. Dưới cùng của bể lọc là lớp sỏi dày khoảng 1 gang, trên lớp sỏi là lớp cát dày khoảng 2,5 - 3 gang. Phương pháp này có thể kết hợp xử lý được một số chất khác với hàm lượng thấp như: Hydrogen sulfite H2S, Amoniac, Asen. 3.2.2. Xử lý Hydrogen sulfite H2S Nước chứa H2S thường không gây tác hại cho sức khoẻ, nhưng nó làm cho nước có mùi và vị của trứng thối. Nước cấp có chứa hàm lượng H2S thấp khoảng 1,0 ppm đã có đặc tính ăn mòn, làm xỉn màu các đố dùng bằng bạc hay đồng, làm cho quần áo và đồ gốm có vết đen. Nước có chứa hàm lượng H2S thấp có thể được xử lý bằng cách cho lọc qua than. H2S được hấp phụ trên bề mặt của các hạt than. Chúng ta phải định kỳ thay các hạt than trong bể lọc (tùy thuộc vào khả năng hấp phụ của than và hàm lượng H2S trong nước). 3.2.3. Xử lý nước cứng Nước cứng là thuật ngữ dùng để chỉ nước có chứa hàm lượng lớn các ion như Ca2+, Mg2+; loại nước này thường ảnh hưởng đến tuổi thọ các thiết bị sử dụng nước hằng ngày. Các cách xử lý đơn giản: Cách 1: Đun sôi nước sẽ làm các ion này kết tủa. Cách 2: Dùng thiết bị có ngăn chứa các hạt lọc cationit. Theo quá trình trao đổi ion, hạt cationit tích điện âm sẽ hút các thành phần đá vôi trong nước, làm sạch nước. 3.2.4. Khử trùng nước sinh họat Để đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế, nước sinh hoạt bắt buộc phải được khử trùng. Phương pháp khả thi rẻ tiền là dùng nước Javen (hypochlorit natri hoá học). Cách xử lý khác là sục clo khí hoặc pha chế bột Clorine vào nước. Cũng có thể khử trùng nước bằng ozone hay tia cực tím, nhưng không phù hợp với việc nước sau khử trùng phải tiếp tục lưu chuyển trong đường ống và bể chứa. 3.3. Trách nhiệm của nhà nước, chính quyền và nhân dân 3.3.1. Trách nhiệm của nhà nước và chính quyền địa phương Xây dựng và phổ biến các văn bản Luật, Nghị định, Quy định về sử dụng và bảo vệ Tài nguyên nước. * Một số văn bản Luật đã được ban hành rộng rãi: - Luật Tài nguyên nước và thông tư hướng dẫn thực hiện. - Các văn bản xử lý xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường * Các văn bản đang soạn thảo: - Chính sách tính thuế Tài nguyên nước, thu phí và lệ phí nhằm giới hạn mức sử dụng và nâng cao ý thức tiết kiệm trong vấn đề sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên nước. - Chương trình giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của việc sử dụng tiết kiệm và bảo vệ Tài nguyên nước. Chính sách khen thưởng, khuyến khích các công trình nghiên cứu sử dụng tiết kiệm nước. Hướng dẫn các hình thức khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên nước đúng kỹ thuật để bảo vệ Tài nguyên nước. Điều tra, khảo sát đánh giá nguồn tài nguyên và lập kế họach phân vùng khai thác hợp lý. Điều tra đánh giá những tác động gây ảnh hưởng đến Tài nguyên nước. Tuyên truyền vận động và tổ chức nhiều cuộc thi về ý thức sử dụng tiết kiệm và bảo vệ Tài nguyên nước trong nhân dân từ cấp quận đến cấp phường xã. 3.3.2. Trách nhiệm của người dân - Nêu cao ý thức sử dụng tiết kiệm và bảo vệ Tài nguyên nước: Người dân phải nhận thức được sự nghiệp bảo vệ Tài nguyên nước không chỉ cho hiện tại mà còn vì thế hệ tương lai, do đó phải tìm hiểu và nắm vững các quy định pháp luật về bảo vệ Tài nguyên nước thông qua báo, đài phát thanh, truyền hình... và tích cực phát huy hàng ngày ý thức sử dụng tiết kiệm và bảo vệ Tài nguyên nước. - Nêu cao tinh thần tự giác: Tự giác chấp hành nghiêm chỉnh các quy định pháp luật của nhà nước về bảo vệ Tài nguyên và môi trường - Quyết tâm phối hợp với Nhà nước trong công tác bảo vệ Tài nguyên nước + Phát hiện và mạnh dạng tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của nhà nước trong sử dụng và bảo vệ Tài nguyên và Môi trường, không bao che cố tình làm trái; +Tham gia các phong trào kêu gọi hành động vì mục đích bảo vệ Tài nguyên và Môi trường. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Sau khi nghiên cứu đề tài này, có thể nhận định rằng biến đổi khí hậu toàn cầu đang ngày càng tác động mãnh liệt lên Trái Đất, làm cho tự nhiên và con người không tránh khỏi những thảm họa bất ngờ. Số lượng các thảm họa và thiên tai ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Điều đó như lời cảnh tỉnh con người đang đứng trước một thời kỳ thiên nhiên đầy biến động. Không đâu xa, TP Hồ Chí Minh là một trong những thành phố bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu toàn cầu. Từ đó cho thấy, môi trường nước ở TP Hồ Chí Minh đang ngày càng diễn biến xấu đi, các hiện tượng ngập lụt, mưa lớn và triều cường ngày càng phức tạp và dày hơn về số lần tái diễn, làm cho toàn bộ môi trường nước nói chung ở đây đang dần ô nhiễm nặng, gây nguy cơ thiếu nước trầm trọng cho toàn thành phố. Vậy vấn đề đặt ra là không nhỏ. Chúng ta phải làm gì để hạn chế tình hình trước mắt và đảm bảo sự bình yên phát triển lâu dài? Tôi xin đề xuất với các Ban, Ngành liên quan, đến Sở Tài nguyên và Môi trường của thành phố cần đẩy mạnh hơn nữa công tác điều tra và quản lý tài nguyên nước ở thành phố trong các mục đích sử dụng hiện nay. Cần đầu tư lâu dài cho việc xây dựng và tu bổ các công trình cấp thoát nước trong toàn thành phố. Đồng thời ban lãnh đạo thành phố cần có những quy định cụ thể hơn về việc sử dụng nước của cư dân và đặc biệt là các khu công nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp. Không chỉ dừng lại ở quy định mà cần quản lý tốt hơn các hệ thống xử lý nước, xử lý nghiêm trọng đối với các đối tượng liên quan. Mặt khác, trong việc thiết kế hạ tầng cần lưu ý đến những khu vực có khả năng ngập lụt nhiều để đảm bảo sự ổn định cho khu vực này. Chúng ta cũng cần quan tâm đến việc tuyên truyền giáo dục cho người dân có ý thức chung tay bảo vệ Trái Đất trước biến đổi khí hậu toàn cầu và ý thức bình tĩnh sống chung với sự thay đổi của khí hậu toàn cầu. Đảm bảo rằng, con người vẫn luôn có thể chủ động trước những thay đổi của thiên nhiên. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. GS. TSKH. Lê Huy Bá (2009). Môi trường, NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 2. GS. TSKH. Lê Huy Bá (2009). Môi trường khí hậu biến đổi, NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 3. TS Ngyễn Quốc Định. Một số ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới Việt Nam, Viện khoa hoc khí tượng thủy văn 4. GS TSKH Nguyễn Ngọc Trân. Ứng phó với biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng 5. Bộ Tài nguyên và Môi trường. Kịch bản biến đổi khí hậu Việt Nam. 6. Website: http:// baomoi.com/Chu-dong-ung-pho-voi-su-tac-dong-cua-bien-doi-khi-hau/144/5542648.epi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbien_doi_khi_hau_5289.doc
Tài liệu liên quan