Đề tài Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại thương mại kinh doanh thép vật tư Hà Nội

Đây là nguồn tự tài trợ có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Bởi quỹ này phản ánh độ lớn các khoản khấu hao TSCĐ và gián tiếp phản ánh tốc độ đổi mới của doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp muốn nâng cao khả năng cạnh tranh trên thương trường thì một yếu tố cực kỳ quan trọng có thể giúp công ty thắng được các đối thủ cạnh tranh là yếu tố công nghệ. Do đó tốc độ khấu hao chậm, các doanh nghiệp không thể bắt kịp tốc độ phát triển của công nghệ bởi tài cũ chưa khấu hao hết, nguồn tích luỹ từ khấu hao thấp không đủ để mua máy móc thiết bị mới. Theo quy định của Bộ Tài Chính tỷ khấu hao cơ bản áp dụng cho các loại TSCĐ giao động từ 5 - 18%/ năm đây là một tỷ lệ quá thấp, các doanh nghiệp khó có thể tái đầu tư chiều sâu từ nguồn khấu hao TSCĐ. Vì vậy, các doanh nghiệp cần đặt ra kế hoạch khấu hao nhanh những tài sản có giá trị, có công nghệ cao. Tuy điều cũng còn rất nan giải do vấp phải vấn đề khấu hao nhanh sẽ kéo theo tăng giá thành sản phẩm, dẫn đến cầu sản phẩm giảm, giảm doanh thu.

doc62 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại thương mại kinh doanh thép vật tư Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a, việc các doanh nghiệp mua chứng khoán để dự trữ thay tiền mặt là chưa phổ biến.Đối với Công ty thép và vật tư Hà Nội, hoạt động này cũng chư phổ biến. Do vậy, số vốn bằng tiền của Công ty chủ yếu là tiền để lại Công ty và tiền gửi ngân hàng. Bảng 2.8: Một số chỉ tiêuvề tiền mặt của Công ty. Đơn vị: Triệu đồng. STT Chỉ tiêu 1997 1998 1 Tổng vốn bằng tiền 11.780 15.148 2 Tổng TSCĐ 154.280 141.833 3 Nợ ngắn hạn 115.859 93.587 4 Tỷsuất thanh toán của VLĐ (1)/(2) 0,076 0,1068 5 Tỷ suất thanh toán tức thời (1)/(3) 0,102 0,162 Từ số liệu trên ta thấy, tỷ suất thanh toán của vốn lưu động của Công ty là khá lớn. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản lưu động. Thực tế cho thấy, chỉ tiêu này sẽ không tốt nếu lớn hơn 0,5 hoặc nhỏ hơn 0,1vì sẽ gây ứ đọng vốn hoặc thiếu tiền để thanh toán. Đối với tỷ suất thanh toán tức thời, thực tế cho thấy nếu tỷ suất này lớn hơn 0,5 thì thanh toán của Công ty tương đối khả quan; còn nếu nhỏ hơn 0,5 thì Công ty có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Tuy nhiên nếu tỷ suất này quá cao sẽ phản ánh tình hình không tốt vì vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay vốn bằng tiền sẽ chậm, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Theo kết quả bảng trên thì Công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn; song Công ty lại gặp khó khẳn trong việc thanh toán các khoản nợ hiện hành ( nợ đến hạn, nợ quá hạn). Vì thế đơn vị phải có biện pháp thu hồi các khoản nợ; phải thu sao cho nhanh nhất, hiệu quả nhất nhằm đáp ứng khả năng thanh toán của mình. 2.2. Tình hình dự trữ của Công ty. Vì là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thương mại nên hàng tồn kho của Công ty còn tuỳ thuộc vào thị trường ; hơn nữa sản phẩm của Công ty có tính mùa vụ. Do đó có lúc hàng tồn kho của Công ty rất lớn nhưng cũng có lúc hàng tông kho còn lại ít do nó vưà được tiêu thụ hoặc vào mùa mà nhu cầu về hàng hoá trên thị trường giảm. Tóm lại, Công ty nên tuân thủ nguyên tắc “mua nhanh, bán nhanh”, và không nên để mất cơ hội khi nhu cầu trên thị trường tăng cao. Bảng 2.9: Một số chỉ tiêu về tình hình dự trữ của Công ty. Đơn vị :Triệu đồng STT Chỉ tiêu 1997 1998 1 Tổng TSLĐ 154.280 141.833 2 Nợ ngắn hạn 115.859 93.614 3 Dự trữ 64.317 28.862 4 VLĐ vòng(=(1)-(2)) 38.421 48.219 5 Khả năng thanh toán nhanh (1-3)/(2) 0,776 1,2068 6 Dự trữ/VLĐ vòng 1,674 0,598 7 Doanh thu thuần 433.759 652.701 8 Dự trữ bình quân 44.668 46.589 9 Vòng quay dự trữ 9,71 14 Ta thấy dự trữ năm 1997 của Công ty quá cao đã làm cho khả năng thanh toán nhanh của Công ty năm 97 thấp hơn năm 98. Sang năm 1998, do hàng tồn kho của Công ty giảm mạnh nên khả năng thanh toán nhanh của Công ty đã được cải thiện, tỷ lệ này đã tăng từ 0,776 lên 1,2068, chứng tỏ Công ty không chỉ có khả năng thanh toán mà còn có khả năng thanh toán rất cao. Điều này cho thấy, khoản vốn lưu động của Công ty dưới dạng hàng hoá dự trữ năm 1998 quá thấp, tức hàng hoá trong kho của Công ty đã được tiêu thụ với số lượng lớn. Tình rạng này có thể dấn đến hai trường hợp, hoặc là Công ty không bị ứ đọng vốn khi hàng khó bán hoặc khi cầu trên thị trường tăng cao đột ngột thì Công ty sẽ không đủ nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu đó . Do đó Công ty đã bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh này. Như vậy việc xác định mức dự trữ tối ưu có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Trong thời gian tới, muốn tồn tại và phát triển công ty cần xây dựng được kế hoạch dự trữ một cách hợp lí, tránh ứ đọng vốn. 2.3. Tín dụng thương mại Ngày nay, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành cũng như các doanh nghiệp cùng kinh doanh những mặt hàng giống nhau đang diễn ra gay gắt. Nên việc mở rộng qui mô kinh doanh đối với mỗi doanh nghiệp là vấn đề rất nan giải, cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng và điều quan trọng là doanh nghiệp phải bứt lên trong cuộc cạnh tranh này. Chính sách tín dụng thương mại là một trong những yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp bứt phá trong cuộc cạnh tranh, song nó có thể giúp doanh nghiệp tăng doanh thu nhưng đồng thời các khoản thu khó đòi cũng theo đó mà tăng lên. Do vậy, chính sách này rất được các doanh nghiệp cân nhắc kỹ lưỡng và áp dụng những phương thức đa dạng tuỳ vào từng tình hình cụ thể. Đi vào tình hình công ty ta thấy: bình quân các khoản phải thu của công ty tăng lên trong đó chiếm phần lớn là các khoản phải thu khách hàng. Đầu năm 1998, các khoản phải thu của công ty tăng lên hơn 2 lần so với năm 1997, đồng thời nợ quá hạn của công ty cũng tăng hơn cuối năm 1997 cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng các khoản phải thu, trong đó tỷ lệ nợ quá hạn trong khoản trả trước cho khách hàng chiếm tỷ lệ khá cao: 26,84% trong tổng số tiền trả cho khách. Điều này cho thấy, công ty nên xem xét kỹ tình hình kinh doanh của khách hàng và các điều khoản đưa ra trong hợp đồng nêu rõ ràng nhằm làm giảm các khoản nợ quá hạn trong việc trả trước cho khách. Tuy vậy, đến cuối năm 1998, tổng nợ quá hạn của công ty cũng đã giảm đi đáng kể, trong đó nợ quá hạn của các khoản trả trước cho khách hàng giảm phần lớn (từ 8,5 tỷ đồng xuống còn 49 triệu đồng) còn nợ quá hạn trong các khoản phải thu khách hàng tăng lên. Như vậy, ta thấy trong tín dụng thương mại, các khoản nợ tăng lên đồng thời cũng kéo theo sự tăng lên của nợ quá hạn. Và thường cuối chu kì kinh doanh, nợ quá hạn sẽ giảm xuống vì lúc đó khách hàng mới trả nợ. Nhưng nhìn chung, nợ quá hạn của công ty vẫn còn quá cao. Thêm nữa, trong các khoản phải thu của công ty, còn có những khoản tiền tranh chấp mất khả năng thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản phải thu vẫn chưa được giải quyết, trong đó chủ yếu là sự tranh chấp trong khoản trả trước cho khách hàng (chiếm khoảng 8 tỷ đồng trong hơn 10 tỷ đồng tiền tranh chấp). Điều này càng chứng tỏ rằng việc cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đặt tiền trước cho người bán và các điều khoản trong hợp đồng rõ ràng là các yếu tố rất quan trọng để hạn chế số tiền mất khả năng thanh toán giữa công ty và khách hàng. Do các khoản phải thu tăng, đồng thời nợ phải trả của công ty cũng giảm từ 115 tỷ đồng xuống còn 93 tỷ đồng dẫn đến tỷ lệ nợ phải thu trên nợ phải trả của công ty năm 1998 cao hơn năm 1997. Năm 97, tỷ lệ này là 63,47% điều này cho thấy năm 97 công ty đi chiếm dụng vốn của các đơn vị khác và đi vay là chủ yếu. Năm 1998, tỷ lệ này đã tăng đang kể 99,57%. Như vậy, trong năm này số tiền khách hàng chiếm dụng của công ty cũng gần bằng số tiền công ty chiếm dụng và đi vay. Chứng tỏ công việc kinh doanh của công ty đã có nhiều tiến bộ rõ rệt, vốn dùng cho hoạt động kinh doanh của công ty đã ổn định hơn, giúp cho hoạt động thanh toán của công ty diễn ra theo đúng kế hoạch, tránh nợ quá hạn, tạo được uy tín đối với các nhà cung cấp. Việc công ty mở rộng tín dụng khách hàng đã làm cho kì thu tiền của công ty tính bình quân các khoản phải thu trên doanh thu bình quân một ngày đã tăng từ 44 ngày lên 46 ngày. Theo kết quả tính toán, tốc độ tăng doanh thu bán chịu thực của công ty tăng nhanh hơn tốc độ tăng bình quân các khoản phải thu. Số ngày trung bình để thu được các khoản phải thu của công ty vẫn là quá lâu gây ra tình trạng ứ đọng vốn lưu động. Đó cũng là một trong những vấn đề làm giảm đi hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty trong thời gian qua. Tóm lại, về tình hình các khoản phải thu của công ty gặp nhiều vấn đề cần phải được giải quyết kịp thời. Đó là số ngày trung bình để thu được các khoản phải thu vẫn còn quá cao trong đó một phần nguyên nhân do công ty chưa kiên quyết trong công tác thu hồi nợ, một phần do các cán bộ kinh doanh thiếu trách nhiệm trong khâu đánh giá tình hình kinh doanh của khách hàng dẫn đến trường hợp nợ quá hạn tăng, tỷ lệ rủi ro đối với khoản nợ này là rất lớn. Điều đó cho thấy công ty cần lưu ý tới việc xét duyệt cho khách hàng được hưởng chính sách tín dụng thương mại sao cho hợp lí, nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. 2.4. Đánh giá chung tình hình sử dụng vốn lưu động của công ty. Qua các chỉ tiêu trên cho thấy sức sản xuất của vốn lưu động năm 1998 tăng cao hơn năm 1997. Nếu như năm 1997, một đồng vốn lưu động bình quân được bỏ ra chỉ thu lại 3,757 đồng doanh thu thuần nhưng năm 1998, số doanh thu thuần thu được đã tăng lên 4,408 đồng, tăng 17,32%. Với sức sinh lợi của vốn lưu động tăng lên theo cả lợi nhuận thuần và lãi gộp, chứng tỏ rằng hoạt động kinh doanh của công ty đã đi đúng hướng và ngày càng phát triển. Vòng quay vốn lưu động của công ty năm 1998 tăng hơn năm 1997, như vậy đã làm giảm thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động từ 96 ngày xuống còn 82 ngày. Việc tăng vòng quay vốn lưu động đã giúp công ty tiết kiệm được lượng vốn lưu động bình quân là: (82-96) Số VLĐ tiết kiệm do thay = ----------------- * 148.056,5 = 21.591,57 đổi tốc độ luân chuyển 96 Như vậy, thời gian một vòng luân chuyển giảm xuống 14 ngày giúp cho công ty tiết kiệm được một khoản vốn lưu động bình quân xấp xỉ 21.59 tỉ đồng. Đây là lượng vốn đáng kể, công ty cần phát huy ưu điểm này. Trên thực tế, chỉ tiêu hệ số đảm nhiệm vốn lưu động năm 1998 nhỏ hơn năm 1997 càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của công ty tăng lên và số vốn tiết kiệm được cũng tăng lên. Đây là dấu hiệu đáng khích lệ đối với sản xuất kinh doanh của công ty. Nó cho thấy công ty đã tìm được hướng đi đúng đắn của mình trong kinh doanh. Bảng 2.10 Một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty STT Chỉ tiêu 1997 1998 Chênh lệnh 01 Doanh thu thuần 433.758,8 652.700,8 +218.942 02 Vốn lưu động bình quân 115.446,6 148.056,5 +32.609,9 03 Lợi nhuận thuần -1.200 756 04 Lãi gộp 14.394,7 22.713,7 +8.319 05 Sức sản xuất VLĐ (01)/(02) 3,757 4,408 +0,651 06 Sức sinh lợi của VLĐ Theo lợi nhuận thuần (03)/(02) -1% +0,5% Theo lãi gộp (04)/(02) 12,46% 15,34% 07 Số vòng quay của VLĐ (01)/(02) 3,757 4,408 +0,651 08 Thời gian một vòng luân chuyển (ngày) 96 82 -14 09 Hệ số đảm nhiệm VLĐ (02)/(01) 0,266 0,227 Chương 3 Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở DNTM Sử dụng vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh là một khâu có tầm quan trọng quyết định đến hiệu quả của kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn kinh doanh lại là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu, các bộ phận trong sản xuất kinh doanh, từ phương hướng sản xuất kinh doanh đến các biện pháp tổ chức thực hiện cũng như quản lý, hạch toán, theo dõi kiểm tra nghệ thuật kinh doanh và cơ hội kinh doanh. Mục đích của sủ dụng vốn trong sản xuất kinh doanh là nhằm đảm bảo nhu cầu tối đa về vốn cho việc phát triển sản xuất kinh doanh trên cơ sở nguồn vốn có hạn được sử dụng một cách hợp lý tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Để đạt được mục đích này yêu cầu cơ bản của sử dụng vốn đó là. Thứ nhất: Phải đảm bảo sử dụng vốn đúng phương hướng, đúng mục đích và đúng kế hoạch. Thứ hai: Chấp hành đúng quy định và chế độ quản lý lưu thông tiền tệ của Nhà nước. Thứ ba: Hạch toán đầy đủ, chính xác kịp thời số vốn hiện có về tình hình sử dụng vốn kinh doanh cuả doanh nghiệp. I - Hoàn thiện công tác kế hoạch hoá và quản lý Đây là biện pháp chung nhất để tổ chức quản lý sử dụng vốn và là công cụ chủ yếu nhất để tiến hành quản lý kinh tế. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì phải quản lý được việc sử dụng vốn. Vì vậy các doanh nghiệp thương mại cần: Phân công cán bộ chuyên theo dõi về công tác sử dụng vốn, các khoản thu chi phát sinh. Cán bộ này phải có năng lực thực hiện công việc. Ngoài việc theo dõi trong kỳ phải tông hợp được các báo cáo về quá trình sử dụng vốn, phân tích đầy đủ các nguyên nhân chủ quan, khách quan ảnh hưởng đến sử dụng vốn, phân tích những điểm hợp lý và bất hợp lý để đưa ra các kiến nghị, biện pháp để khắc phục tồn tại. Phát huy điểm mạnh một cách kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Báo cáo về kế hoạch vốn, chi tiêu thực hiện lập kế hoạch phải có căn cứ cụ thể rõ ràng, được sự tham gia của tất cả các bộ phận có liên quan để đưa ra những thông số phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. Trong từng kỳ phải tổ chức họp tổng kết, đánh giá tình hình sử dụng vốn và đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. II - Hoàn thiện công tác tổ chức và quản lý lao động Thật vậy, bất cứ một doanh nghiệp muốn thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển đều. Trước tiên phải chú ý đến đó là nguồn nhân lực và sự sắp xếp nguồn nhân lực đó vào dây truyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình tức là chú ý đến hoạt động tổ chức và sử dụng nguồn nhân lực đó như thế nào. Một điều hiển nhiên rằng không doanh nghiệp nào có thể phát triển sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp đó có nhà lãnh đạo thiếu trình độ chuyên môn không quyết đoán, không có khả năng điều hành giải quyết mọi việc. Do đó, chính sách “ hướng vào con người ” và phát triển nguồn nhân lực phải được đưa lên vị trí hàng đầu trong các chiến lược và biện pháp quản lý của Nhà nước và tất cả các doanh nghiệp. Để thực hiện chính sách cơ bản này các doanh nghiệp cần phải tuân theo một số nguyên tắc quản lý. Cơ cấu bộ máy quản lý tinh giảm và gọn nhẹ. Xây dựng triết lý kinh doanh hướng vào mục tiêu phát triển lâu dài. Từng doanh nghiệp đề ra triết lý hoạt động của mình để làm sao có hiệu quả cao. Hướng vào khách hàng mà phục vụ bằng cách không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá sản phẩm. Phát huy sáng kiến và đổi mới đội ngũ cán bộ: Khả năng sáng tạo chính là nguồn tài sản lớn nhất mà các công ty hiện có nhưng khai thác nó không đơn giản vì nó không lộ ra ngoài như tiền mặt hay tài sản mà nằm trong bộ não của các nhà quản lý và đội ngũ nhân viên của họ. Nhưng không một doanh nghiệp nào có khả năng phát triển lâu bền nếu không biến nguồn tài sản tiềm năng, vô hình này trở thành hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường. III - Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 1. Đối với vốn cố định 1.1. Các doanh nghiệp cần quản lý chặt chẽ TSCĐ : Tài sản cố định của doanh nghiệp rất đa dạng, nhiều chủng loại với giá trị tương đối lớn, lại quản lý không tập trung. Cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm làm giảm mất mát hao mòn và tăng thời gian sử dụng giảm bớt chi phí sửa chữa dần đến tăng giá trị TSCĐ . Như vậy đơn vị có nhu cầu về TSCĐ phải đề nghị với lãnh đạo, được lãnh đạo chấp nhận khi đó kế toán trưởng mới lệnh cho thủ quĩ xuất tiền mua TSCĐ. Việc xác nhận bàn giao gồm các bộ phận sau: -Bộ phận nhận. -Tên tài sản, mã số, ký hiệu, năm sản xuất, nơi sản xuất. -Ngày tháng nhận, tên người nhận, tên người quản lý. -Mức thưởng phạt... áp dụng mô hình này có một số ưu điểm như: có căn cứ để quản lý xác định được đơn vị sử dụng, tình hình sử dụng, địa điểm sử dụng và có căn cứ để xử lý thưởng phạt. 1.2. Tăng sức sản xuất TSCĐ: Tăng sức sản xuất TSCĐ mà góp phần làm tăng giá trị hao mòn vô hình đồng thời làm giảm giá thành sản phẩm. 1.3. Nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ: Đối với những doanh nghiệp thương mại kinh doanh theo mùa thì sẽ không sử dụng hết tiềm lực, kho bãi, nhà xưởng bị để không. Số tài sản này có thể cho thuê nhưng hoạt động này cũng không diễn ra thường xuyên. Vì không phải lúc nào cũng tìm được người thuê ưng ý. Trước thực trạng này doanh nghiệp có thể đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh đồng thời nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh doanh . Ngoài ra doanh nghiệp có thể khai thác tốt hơn cơ sở kho bãi hiện có thông qua các hình thức đầu tư liên doanh, mở rộng sản xuất kinh doanh. 1.4. Giảm bớt hao mòn hữu hình và vô hình: Tài sản cố địng bị hao mòn dưới hai dạng: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Trong quá trình sản xuất cần cứu những biện pháp nhằm giảm bớt tổn thất cho hao mòn vô hình. Vì vậy trong quá trình sử dụng cần nghiên cứu những biện pháp nhằm giảm bớt tổn thất hai loại hao mòn gây ra như nâng cao trình độ sử dụng TSCĐ cả về mặt thời gian và cường độ, nâng cao chất lượng, hạ giá thành xây lắp TSCĐ, thiết bị tổ chức tốt công tác bảo quản và sửa chữa máy móc thiết bị, nâng cao ý thức kỹ thuật lao động cho công nhân nhằm thu hồi nhanh vốn. Để thu hồi nhanh vốn đầu tư doanh nghiệp có thể nghiện cứu áp dụng phương pháp khấu hao cố định. Khai thác sử dụng hết công suất máy móc thiết bị giảm chi phí khấu hao trong giá thành, gán trách nhiệm vật chất cao cho từng người, từng phân xưởng, phòng ban để có ý thức bảo vệ TSCĐ. 1.5. Thanh lý kịp thời TSCĐ hết thời hạn sử dụng: Doanh nghiệp phải tiến hành có định kỳ việc kiểm kê và đánh giá lại TSCĐ. Với những TSCĐ có hiệu suất sử thập như kho bãi, xưởng thường xuyên để không, không cho thuê được do không có vị trí thuận tiện hoặc những dây chuyền gia công chế biến sản phẩm đã quá lạc hậu, năng suất lao động thấp thì nên thanh lý, nhượng bán để đầu tư những TSCĐ khác có hiệu suất sử dụng cao hơn những TSCĐ đến thời hạn thanh lý mà không được thanh lý kịp thời sẽ làm tăng chi phí bảo quản, ứ đọng vốn... Tuy vậy, khi đầu tư mua sắm mới TSCĐ, doanh nghiệp phải xem xét mức độ cần thiết của tài sản ấy đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trình độ công nghệ ra sao, hao mòn hữu hình và vô hình như thế nào, lợi nhuận do tài sản mới đem lại so với chi phí cơ hội cho việc đầu tư tài sản mới. 1.6. Tài sản cố định thuê tài chính: Hình thức này cho phép các doanh nghiệp thiếu vốn có thể sử dụng máy móc thiết bị nhưng không phải chủ sở hữu. Nó giúp cho doanh nghiệp không phải bỏ vốn ra để mua sắm tài sản, tiền vốn không bị ứ đọng trong tài sản cố định. Phương thức kinh doanh thuê thiết bị máy móc có ba phương thức cơ bản: *Phương thức leasing: Là phương thức cho thuê dài hạn các hợp đồng có thể từ 15 năm trở lên, phương thức này thường áp dụng đối với loại thiết bị công nghiệp, thiết bị toàn bộ. *Phương thức renting: Là phương thức cho thuê ngắn hạn, hợp đồng có thể từ 3 đến 7 năm. Phương thức này thích hợp với các thiết tiêu chuẩn hoá: ôtô, phương tiện vận tải, phương tiện xếp dỡ... *Phương thức thuê mua ( lease - purchase): Có hai loại hợp đồng (1) Hợp đồng tài chính: là hình thức người cho thuê thiết bị cung cấp tài chính cho công ty thuê thiết bị, công ty thuê thiết bị sẽ tìm nguồn thiết bị trên thị trường rồi thông báo cho công ty cho thuê kiểm tra đánh giá và ký hợp đồng mua để công ty thuê thiết bị thuê lại. Cách này phải có sự hài hòa giữa ba bên. Hợp đồng tài chính Công ty leasing Công ty thuê Hãng sản xuất thiết bị Ký hợp đồng Thiết bị mua thiết bị (2) Hợp đồng thuê sử dụng: được ký kết giữa người chủ sở hữu thiết bị với người thuê thiết bị, đơn vị đi thuê dài hạn và được bên cho thuê trao quyền quản lý và sử dụng trong hầu hết thời gian tuổi thọ của tài sản. Những hình thức trên hiện nay rất đang phổ biến trên thế giới tuy nhiên ở Việt Nam nó còn rất mới mẻ. Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ quen với hình thức mua sắm tài sản thiết bị bằng nguồn vốn của mình. Nhưng ở Việt Nam hầu như chưa có tổ chức nào đứng ra cho thuê tài sản cố định, Thuê từ chính trong lĩnh vực hoạt động của công ty vì vậy việc áp dụng được phương thức này còn rất khó khăn. Tuy nhiên theo quy luật cung cầu: ở đầu có cầu thì ở đó sẽ có cung đáp ứng. Vì vậy, các doanh nghiệp nên mạnh dạn, tự mình chủ động tìm đối tác nước ngoài hoặc trong nước. Doanh nghiệp sẽ vừa tiết kiệm được chi phí vừa thực hiện được công việc của mình, đạt được mục tiêu an toàn về vốn. 1.7. Sử dụng hợp lý quỹ khấu hao cơ bản: Đây là nguồn tự tài trợ có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Bởi quỹ này phản ánh độ lớn các khoản khấu hao TSCĐ và gián tiếp phản ánh tốc độ đổi mới của doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp muốn nâng cao khả năng cạnh tranh trên thương trường thì một yếu tố cực kỳ quan trọng có thể giúp công ty thắng được các đối thủ cạnh tranh là yếu tố công nghệ. Do đó tốc độ khấu hao chậm, các doanh nghiệp không thể bắt kịp tốc độ phát triển của công nghệ bởi tài cũ chưa khấu hao hết, nguồn tích luỹ từ khấu hao thấp không đủ để mua máy móc thiết bị mới. Theo quy định của Bộ Tài Chính tỷ khấu hao cơ bản áp dụng cho các loại TSCĐ giao động từ 5 - 18%/ năm đây là một tỷ lệ quá thấp, các doanh nghiệp khó có thể tái đầu tư chiều sâu từ nguồn khấu hao TSCĐ. Vì vậy, các doanh nghiệp cần đặt ra kế hoạch khấu hao nhanh những tài sản có giá trị, có công nghệ cao. Tuy điều cũng còn rất nan giải do vấp phải vấn đề khấu hao nhanh sẽ kéo theo tăng giá thành sản phẩm, dẫn đến cầu sản phẩm giảm, giảm doanh thu. Việc sử dụng quỹ khấu hao cơ bản vào hoạt đông sản xuất kinh doanh cần được xem xét kỹ lưỡng, khoản tiền này so với vốn kinh doanh của doanh nghiệp chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, nhưng nó cần phải được bảo toàn và phát triển để đảm bảo doanh nghiệp có thể đầu tư được máy móc thiết bị mới. Hơn nữa,vốn dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn còn phải đi vay thì việc đưa khoản tiền này vào kinh doanh là hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn sẽ được cải thiện đáng kể. 2. Đối với vốn lưu động Mục đích của quản lý vốn lưu động là làm thế nào để đạt hiệu quả tốt nhất trong việc sử dụng vốn lưu động. Để đạt được mục tiêu này, các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp cần trả lời những cầu hỏi sau: Doanh nghiệp nên sử dụng một lượng tiền mặt là bao nhiêu? Doanh nghiệp có nên bán chịu hay không? Nên bán chịu cho những loại đối tượng nào? Đơn vị nên đi vay để trả tiền ngay hay nên mua chịu? Nếu đi vay thì vay như thế nào và ở đâu...? Nói chung có rất nhiều câu hỏi đặt ra cho công tác quản lý vốn lưu động. Quản lý dự trữ: Một trong những vấn đề quan trọng đặt ra cho công tác quản lý vốn lưu động là cần xác định cho được mức dự trữ tiền mặt một cách hợp lý và có hiệu quả nhất. Tuy nhiên các nhà kinh tế cho rằng để tìm được mức dự trữ tiền mặt một cách hợp lý thì trước hết cần phải dựa vào mức dự trữ vật tư. Mức dự trữ vật tư hợp lý sẽ quyết định mức cân đối tiền mặt hợp lý. Giả sử rằng, một doanh nghiệp đã xác định nhu cầu bán ra trong một năm của một loại hàng hoá là 100 đơn vị mà nhập làm nhiều lần. Giả định rằng, mỗi lần cửa hàng nhập số lượng là Q thì nghĩa là trong một năm doanh nghiệp phải nhập 100/Q lần. Trước khi nhập sản phẩm doanh nghiệp có dự trữ bằng 0 ( bởi vì bán hết doanh nghiệp mới nhập tiếp ). Sau khi nhập, cửa hàng có dự trữ bằng Q. Vậy mức dự trữ bình quân của cửa hàng là : Q Mức dự trữ bình quân = -------- 2 Dự trữ cũng sinh ra những chi phí nhất định. Có thể chia chi phí dự trữ thành 2 loại: -Loại thứ nhất bao gồm chi phí của vốn đầu tư vào dự trữ và các chi phí khác như kho tàng, chúng ta có thể coi loại chi phí này là chi phí cơ hội. -Loại chi phí thứ hai là chi phí đặt hàng. Giả sử mỗi lần doanh nghiệp đặt hàng phải mất một khoản chi phí cố định để làm thủ tục là X. Ta có thể thấy rằng quy mô của mỗi lần đặt hàng tăng lên sẽ làm tổng chi phí đặt hàng giảm đi. Mức giảm di của tổng chi phí đặt hàng phụ thuộc vào quy mô đặt hàng bình quân. Số lượng hàng bán chi phí cho mỗi lần Mức giảm cận biên trong năm ´ đặt hàng của chi phí đặt hàng = ---------------------------------------------------- Q2 Mối quan hệ giữa quy mô của mỗi lần đặt hàng và tổng chi phí đặt hàng của doanh nghiệp được thể hiện thông qua bảng sau: Quy mô của mỗi lần đặt hàng Số lần đặt hàng trong năm Tổng chi phí đặt hàng 1 2 3 4 . . 10 . . 100 100 50 33.3 25 . . 10 . . 1 100X 50X 33.3X 25X . . 10X . . 1X Nhìn vào bảng trên ta thấy khi doanh nghiệp tăng qui mô cho mỗi lần đặt hàng thì số lần đặt hàng giảm đi nhưng mức dự bình quân tăng lên. Như vậy, có hai tác động xảy ra: Chi phí đặt hàng giảm đi khi số lần đặt hàng giảm đi. Chi phí cơ hội tăng lên khi số lần đặt hàng giảm đi ( bởi nhiều mức dự trữ tăng lên ) . Vậy qui mô đặt hàng tối ưu sẽ là điểm mà tại đó hai tác động trên loại trừ lẫn nhau một cách hoàn toàn. Khi đó, mức giảm cận biên của chi phí đặt hàng sẽ bằng chi phí cơ hội cận biên. Tức là : Mức tiêu thụ ´ chi phí một lần đặt hàng Chi phí cơ hội ------------------------------------------------ = ---------------------- Q2 2 Vậy quy mô tối ưu cho một lần đặt hàng là: 2 * mức tiêu thụ * chi phí cho một lần đặt hàng Q = ------------------------------------------ -------------------- chi phí cơ hội của một đơn vị dự trữ Cũng có một cách tiếp cận khác để xác định mức dự trữ tối ưu là so sánh giữa chi phí cơ hội của dự trữ với chi phí cơ hội do thiếu dự trữ. Khi doanh nghiệp dự trữ càng nhiều thì chi phí cơ hội càng cao ( bởi vì tiền dùng vào dự trữ sẽ bị mất lãi suất nếu như nó được dùng để đầu tư vào một lĩnh vực nào đó). Tuy nhiên, dự trữ là cần thiết bởi vì nếu không có dự trữ hoặc dự trữ không đủ sẽ dẫn đến ngừng sản xuất kinh doanh và gây ra chi phí rất lớn. Như vâỵ chúng ta thấy rằng có hai tác dụng ngược chiều nhau đó là chi phí cơ hội và chi phí do thiếu dự trữ. Mức dự trữ tối ưu sẽ được xác định khi hai tác dụng ngược chiều này triệt tiêu nhau hoàn toàn. 2.2 Quản lý tiền mặt: Giả sử rằng doanh nghiệp có một lượng tiền mặt và phải dùng nó để trả cho các hoá đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền mặt đã hết, doanh nghiệp phải bán các tín phiếu kho bạc để có một tiền mặt như thời kỳ đầu. Chi phí cơ hội của việc gữi tiền mặt chính là chi phí để bán các tín phiếu kho bạc. Vậy làm như thế nào để doanh nghiệp có thể quản lý được việc cân đối tiền mặt của nó nếu như doanh nghiệp không thể dự đoán được mức thu chi ngân sách hàng ngày? Chúng ta sẽ xem xét mô hình của Miler – Orr Mức cân đối tiền mặt Giới hạn trên Mức tiền theo mặt thiết kế Giới hạn dưới > thời gian Nhìn vào đồ thị trên ta thấy mức cân đối tiền mặt dao động lên xuống không thể nào dự đoán được cho đến khi nó đạt được mức giới hạn trên. Tại giới hạn trên doanh nghiệp có thể sử dụng số tiền vượt quá mức tiền theo thiết kế để mua chứng khoán và cân đối tiền mặt trở về mức dự kiến. Với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cân đối tiền mặt lại tiếp tục dao động cho đến khi tụt xuống giới hạn dưới là điểm mà doanh nghiệp cần phải có sự bổ sung tiền mặt để đáp ứng chi những hoạt động cần thiết, do vậy tại giới hạn dưới doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có một lượng tiền mặt ở mức dự kiến. Như vậy mô hình này cho phép việc nắm giữ tiền mặt ở những mức độ hoàn toàn tự do trừ phi nó đạt đến điểm giới hạn trên hoặc dưới. Tại giới hạn trên hoặc dưới doanh nghiệp sẽ điều chỉnh bằng cách mua hoặc bán chứng khoán để có mức tiền mặt theo như thiết kế ban đầu. Doanh nghiệp nên để mức cân đối tiền mặt dao động trong khoảng nào đó. Mô hình này chỉ ra rằng khoảng dao động của mức cân đối tiền mặt phụ thuộc vào ba yếu tố. Nếu như mức dao động của thu chi ngân quĩ hàng năm rất lớn hoặc là chi phí cố định của việc mua hoặc bán chứng khoán cao thì doanh nghiệp nên quy định khoảng dao động tiền mặt lớn. Ngược lại, nếu như mức lãi suất cao, thì doanh nghiệp nên thu hẹp khoảng dao động tiền mặt. Mức tiền mặt theo thiết kế được xác định như sau: Mức tiền mặt theo thiết kế = Mức tiền mặt giới hạn dưới + Khoảng dao động tiền mặt 3 Mô hình của Miler - Orr trên đây chỉ ra rằng : Nếu doanh nghiệp luôn luôn duy trì được mức cân đối tiền mặt theo như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối thiểu hoá được chi phí giao dịch và chi phí do lãi suất gây ra. Trên thực tế, việc sử dụng mô hình Miler - Orr rất dễ dàng. Bước doanh nghiệp cần xác định giới hạn dưới của cân đối tiền mặt. Giới hạn dưới có thể bằng 0 cũng có thể lớn hơn 0 để đảm mức an toàn tối thiểu. Bước thứ hai doanh nghiệp cần phải ước tính phương sai của thu chi ngân quỹ. Bước thứ ba là bước quan sát lãi suất và giao dịch của mỗi lần mua và bán chứng khoán. Bước cuối cùng là tính toán giới hạn trên và mức tiền mặt theo thiết kế đồng thời đưa ra những thông tin để các nhân viên tài chính thực hiện chiến lược kiểm soát theo giới hạn được xác định. 2.3 Quản lý tín dụng thương mại: Trên thực tế, doanh nghiệp bán sản phẩm mình cho các doanh nghiệp khác hoặc các cơ quan Nhà nước nhưng không thu được tiền ngay. Các hoá đơn chưa trả tiền được gọi là tín dụng thương mại. Các khoản tín dụng thương mại này tạo thành các khoản phải thu của doanh nghiệp. Do vậy, quản lý tín dụng thương mại là quản lý các khoản phải thu - một trong nhiệm vụ quan trọng của quản lý vốn lưu động. Những tác động của chính sách tín dụng thương mại: Tác động của doanh thu: Nếu doanh nghiệp bán chịu( tức là cấp tín dụng thương mại cho người mua) thì tất nhiên doanh nghiệp sẽ bị chậm trễ trong việc thu tiền, trong khi đó người mua lại có lợi trong việc trả tiền chậm. Tuy nhiên doanh nghiệp có thể bán với giá cao hơn nếu doanh nghiệp cấp tín dụng cho người mua và điều này có thể làm tăng lượng hàng bán được, do đó tổng doanh thu có thể tăng lên. Tác động của chi phí: Khi doanh nghiệp cấp tín dụng cho người mua thì không thu tiền ngay. Trong trường hợp doanh nghiệp bán và thu tiền ngay cũng có những chi phí nhất định ( bởi vì doanh nghiệp phải chấp nhận giá thấp hơn ).Việc chọn phườn thức bán thu tiền ngay hay phương thức bán chịu là việc doanh nghiệp cần phải cân nhắc . Dù theo phương thức nào đi chăng nữa thì doanh nghiệp đều phải tốn phí cho nợ. -Chi phí của nợ nần: Khi doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại cho người mua thì doanh nghiệp cần phải sắp xếp những hoạt động tài chính có liên quan đến các khoản phải thu. Như vậy, chi phí vay ngắn hạn của doanh nghiệp sẽ là một nhân tố quyết định xem doanh nghiệp có nên cấp tín dụng thương mại cho người mua hay không?. -Xác suất trả tiền của người mua: Nếu doanh nghiệp cấp tín dụng cho người mua thì cũng có một khả năng nhỏ là người mua không trả tiền. Tất nhiên điều này sẽ không xảy ra trong trường hợp doanh nghiệp bán và thu tiền ngay. -Chiết khấu tiền mặt: Khi doanh nghiệp áp dụng chiết khấu tiền mặt như là một bộ phận trong các điều khoản tín dụng thương mại của doanh nghiệp, thì một số khách hàng sẽ lựa chọn việc trả tiền sớm để giành được lợi thế của chiết khấu. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải xem xét khi nào thì nên cấp tín dụng thương mại cho khách hàng. Xét trong trường hợp đơn giản: Có một khách hàng mới muốn mua một sản phẩm theo phương thức bán chịu với giá P’/ sản phảm. Nếu như doanh nghiệp từ chối việc bán chịu thì người khách hàng này sẽ không nữa. Giả định, doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng thì một tháng sau người khách hàng này có thể trả tiền và cũng có thể không trả tiền. Xác suất để khách hàng này không trả tiền là p. Trong trường hợp này xác suất p có thể được coi là tỷ lệ phần trăm của những khách hàng mới sẽ không trả tiền. Trong hoạt động kinh doanh, giả định khách hàng chỉ mua hàng một lần. Cuối cùng doanh lợi đòi hỏi về các khoản phải thu là k/tháng, chi phí của các khoản phải thu là v/ sản phẩm. Nếu như doanh nghiệp không bán chịu cho khách hàng thì thu tăng thêm vào ngân quỹ là bằng 0. Nếu doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng thì doanh nghiệp phải mất một khoản chi phí biến đổi là v trong tháng này và trờ để được (1-p)* P’ trong tháng sau. Giá trị hiện tại thuần của cấp tín dụng thương mại này là: (1- p)* P’ NPV = -v + ------------ (1 + R) Với V = 20 đơn vị, R = 0,02 ; P’ = 50 và tỷ lệ khách hàng không trả tiền là p = 20% , ta có: ( 1 - 0,2 ) * 50 NPV = -20 đơn vị + ___________________ = 19,22 ( đơn vị ) ( 1 + 0,2 ) Như vậy, công ty nên cấp tín dụng thương mại cho khách hàng. Đối với khách hàng mới thì doanh nghiệp có thể cấp tín dụng kể cả trong trường hợp xác suất để khách hàng không trả tiền là cao. Xác suất để doanh nghiệp hoà vốn trong trường hợp này có thể được xác định bằng việc đặt NPV = 0 và từ đó tìm được giá trị của T: ( 1- p ) * 50 NPV = -20 đv + __________________ = 0 ( 1 + 0,02 ) ị p = 0,592 = 59,2% Doanh nghiệp sẽ mở rộng việc bán hàng theo phương thức tín dụng thương mại cho đến khi cơ hội thu được trên chỉ còn: ( 1- 0,592 ) = 0,408 = 40,8% Trong phân tích tín dụng thương mại, trước khi đi đến quyết định có nên cấp tín dụng thương mại cho khách hàng hay không, doanh nghiệp cần phải đánh giá tín dụng và cho điểm tín dụng. -Năm yếu tố để đánh giá tín dụng thương mại: Đặc điểm: sự sẵn sàng của khách hàng trong việc thực hiện nghĩa vụ của tín dụng thương mại. Năng lực: khả năng của khách hàng để thực hiện nghĩa vụ tín dụng thương mại. Vốn: dự trữ tài chính của khách hàng. Tài sản thế chấp: tài sản cam kết dùng để thế chấp trong trường hợp vỡ nợ. Các điều kiện: các điều kiện kinh tế nói chung trong hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. -Cho điểm tín dụng: Đây là hoạt động để đánh giá khách hàng một cách cụ thể dựa trên những thông tin thu được nhằm đưa ra quyết định là sẽ bán chịu cho khách hàng hay từ chối việc bán chịu. Người ta có thể cho điểm từ 1 cho tới 10. Điểm 1 là rất tồi và điểm 10 là rất tốt. ở một số nước, các doanh nghiệp cho điểm theo từng yếu tố trong 5 yếu tố kể trên. Điểm số để xem có cấp tín dụng thương mại hay không là tổng số điểm đã cho đối với 5 yếu tố để xem xét tín dụng thương mại. Theo kinh nghiệm của một số nước, nếu khách hàng đạt từ 30 điểm trở lên thì doanh nghiệp nên cấp tín dụng thương mại cho khách hàng. IV - Hoàn thiện chương trình Marketing Thực hiện tốt chương trình Marketing đó là qui trình từ phân tích khả năng thị trường, soạn thảo chương trình Marketing-Mix đến việc tiến hành hoạt động Marketing cụ thể. Đây là điều kiện đảm bảo tiêu thụ hàng hoá với khối lượng lớn, thời gian nhanh, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến vòng quay của vốn, tới thời gian chu chuyển. Để thực hiện một chu trình Marketing hiệu quả, điều đầu tiên và quan trọng nhất là trong mọi doanh nghiệp phải thiết lập được cơ cấu tổ chức trong bộ phận Marketing thích hợp, có đội ngũ làm Marketing giỏi, sau đó xây dựng chiến lược Marketing cụ thể cho từng giai đoạn. Dưới áp lực ngày càng tăng lên một cách mạnh mẽ của cạnh tranh, trong điều kiện của một nền kinh tế dư thừa hàng hoá, khả năng tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp ngày càng khó khăn phức tạp hơn, dự trữ trong sản xuất kinh doanh ngày càng lớn hơn. Để tìm kiếm khả năng tốt hơn, chắc chắn hơn và hạn chế rủi ro đến mức cao nhất có thể được doanh nghiệp cần phải có cách thức tiếp cận và chinh phục khách hàng theo tư tưởng định hướng Marketing. Tư tưởng kinh doanh định hướng Marketing bao gồm: Định hướng mục tiêu: thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Mục tiêu cuối cùng của hoạt động kinh doanh luôn được xác định là lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này thì nhà kinh doanh bắt buộc phải thực hiện tốt các mục tiêu trung gian: tiêu thụ được sản phẩm, mục tiêu này cũng nhằm đảm bảo lợi ích của tổ chức. Tiêu thụ sản phẩm tốt khi doanh nghiệp có khả năng thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng. Khi đã xác định mục tiêu thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, các mục tiêu cụ thể: chất lượng, giá cả ... sẽ có một định hướng cụ thể để thoả mãn. Các chính sách về sản phẩm, giá cả, quảng cáo, sẽ có đối tượng cụ thể để phát triển, sẽ đúng hơn và có tiềm năng hấp dẫn hơn. Mục tiêu thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng đặt ra yêu cầu cho nội dung “dự đoán” trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài các thông tin khác của thị trường có ảnh hưởng chung đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, để hiểu được khách hàng và chinh phục họ cần nắm vững các thông tin cơ bản: + Nhu cầu của khách hàng và xu hướng vận động. + Cách thức ứng xử và hành vi mua sắm của khách hàng. + Các tác nhân kích thích và các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và xu hướng vận động của nhu cầu cũng như quá trình ra quyết định mua hàng của khách hàng. Định hướng chiến lược trong hoạt động thương mại: Cơ hội để thành công trong thương mại xuất phát và nằm ở khách hàng với nhu cầu của họ. Trong điều kiện của kinh tế thị trường, nhu cầu của khách hàng rất đa dạng, liên tục thay đổi và phát triển. Để có thể thỏa mãn đúng và tốt nhu cầu của khách hàng, nhà kinh doanh không phải chỉ nắm vững mà còn phải thích ứng một cách kịp thời với sự phát triển nhu cầu của họ. Trong hoạt động thương mại, luôn xuất hiện hai nhóm tham số cơ bản vận động theo các tốc độ khác nhau nhưng liên hệ chặt chẽ với nhau: + Nhóm 1: nhóm tham số thuộc môi trường kinh doanh: thị trường, khách hàng với nhu cầu của họ ... + Nhóm 2: nhóm tham số thuộc doanh nghiệp. Trong thực tế, nhóm 1 luôn là các tham số động, liên tục biến động và thay đổi ; nhóm 2 luôn mang yếu tố của các tham số tĩnh, không dễ thay đổi, ví dụ: mục tiêu, chiến lược và nhất là các tham số tổ chức, quản lý ... Sự vận động không đồng thời dẫn đến sự khác biệt giữa nhóm một và nhóm hai và đó là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự không thành công trong kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Về nguyên tắc, để giành và đạt đến cơ hội tiêu thụ, nhà kinh doanh phải điều chỉnh các yếu tố thuộc nhóm hai một cách hợp lý, kịp thời và tương thích với nhóm một. Giải pháp để có thể giải quyết mâu thuẫn giữa hai nhóm cho đến nay chỉ có thể là kinh doanh được thực hiện theo định hướng mang tính chiến lược. Một chiến lược dài hạn được xác định một cách khoa học dựa trên việc nghiên cứu khoa học nhu cầu và dự đoán chính xác xu hướng vận động của nhu cầu để thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong kinh doanh. Quan điểm thương mại theo hệ thống: Sản xuất kinh doanh là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều khâu, nhiều bộ phận, nhiều yếu tố có mối liên hệ biện chứng với nhau và có ảnh hưởng đến nhau cũng như cùng có ảnh hưởng chung đến kết quả cuối cùng của toàn bộ quá trình là tiêu thụ và lợi nhuận. Từng khâu, từng bộ phận có vai trò khác nhau và đều có tác động tích cực, tiêu cực đến kết quả chung. Khi giải quyết tốt từng khâu, từng bộ phận, từng yếu tố không có nghĩa là sẽ có một kết quả chung cũng tốt. Điều này cũng có thể xảy ra, nhưng nếu không có định hướng chung đúng sẽ hoàn toàn mang tính tự phát, cục bộ. Như vậy cần: + Sắp xếp, đặt đúng vị trí và liên kết toàn bộ các khâu, các bộ phận, các yếu tố trong một hệ thống kinh doanh thống nhất. + Giải quyết các mục tiêu từng khâu, từng bộ phận phải đặt trong hệ thống mục tiêu chung. Mục tiêu (Thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng) Dự đoán (Nhu cầu và Xu hướng vận động nhu cầu của khách hàng Biện pháp điều khiển (Bao vây, lôi kéo và thúc đẩy khách hàng mua hàng bằng Marketing hỗn hợp) V - Cổ phần hoá doanh nghiệp Cổ phần hoá doanh nghiệp là một biện pháp tích cực trong việc huy động cũng như sử dụng vốn bởi hình thức này giúp doanh nghiệp tập trung được nhân tài phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Thực chất của cổ phần hoá là nhằm chuyển hình thức kinh doanh một chủ với sự sở hữu Nhà nước toàn phần trong doanh nghiệp thành Công ty cổ phần hay hỗn hợp Nhà nước-tư nhân hoặc Công ty cổ phần tư nhân và tạo điều kiện xác lập tài chính mà cốt lõi là thị trường chứng khoán để chuyển phương thức vay mượn từ ngân hàng sang huy động vốn từ thị trường tài chính. Theo nghị định số 44/1998/NĐ-CP thì mục tiêu việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau: 1.Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. 2.Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản của Nhà nước, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Với hai mục tiêu được nêu ra trong chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp đã tạo ra một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường và đáp ứng được các yêu cầu trong kinh doanh hiện đại. Mô hình công ty cổ phần đã đem lại những đặc điểm mới, cho phép thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường mà những hình thức khác không thể đáp ứng được. Xét về mặt pháp lý, công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân mà vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần. Khác với doanh nghiệp chung vốn, các cổ đông-người cấp vốn cho công ty chỉ chịu trách nhiệm với các cam kết từ tài chính của công ty trong giới hạn số tiền mà họ đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu, nghĩa là các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số tiền mà họ bỏ ra. Như vậy, nhờ đặc điểm hình thức công ty cổ phần mà mọi cổ đông bây giờ chỉ chịu trách nhiệm pháp lý hữu hạn và công ty là hình thức pháp lý đầy đủ thuận lợi để kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, đã góp phần khắc phục được phần lớn các lo ngại đặt ra cho hình thức kinh doanh chung vốn. Nó bổ sung cho doanh nghiệp một hình thức pháp lý gần như hoàn hảo để huy động những số lượng vốn lớn trong xã hội. Xét về mặt huy động vốn, công ty cổ phần đã giải quyết hết sức thành công. Bởi vì với số tiền nhờ dành dụm được của nhiều gia đình nếu để riêng không đủ lập một doanh nghiệp nhỏ thì rõ ràng sự có mặt của công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho họ có cơ hội đầu tư một cách có hiệu quả Xét về mặt hiệu quả, Công ty cổ phần cũng có những thế mạnh hơn hẳn, bởi bộ máy doanh nghiệp gọn nhẹ, gồm những thành viên năng động sáng tạo, dễ thích nghi với cơ chế thị trường hiện nay. Theo báo cáo của Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung Ương đến ngày 19/3/1999, trong cả nước có 150 doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa xong, và chuyển sang công ty cổ phần. Từ ngày 19/3/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hàng loạt quyết định phê duyệt danh sách doanh nghiệp Nhà nước tiến hành cổ phần hóa trong năm 1999. Các doanh nghiệp thuộc Bộ Thương mại (đợt 1) có 19 doanh nghiệp trong đó 4 doanh nghiệp chuyển từ 1998 sang. Để khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang hình thức công ty cổ phần, theo điều 13 của Nghị định 44 CP qui định các doanh nghiệp cổ phần được hưởng những ưu đãi sau: Doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần là hình thức đầu tư mới, được hưởng những ưu đãi theo qui định của luật khuyến khích đầu tư trong nước. Trường hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo qui định của luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức (Thuế thu nhập doanh nghiệp) trong 2 năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp Nhà nước thành sở hữu của công ty cổ phần. Được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như đã áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước. Được tiếp tục xuất nhập khẩu hàng hoá theo các chế độ qui định hiện hành như đối với doanh nghiệp Nhà nước trước khi cổ phần hoá. Trước khi cổ phần hóa được chủ động sử dụng số dư quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi (bằng tiền) chia cho người lao động đang làm việc (không phải nộp thuế thu nhập) để mua cổ phần. Các khoản chi phí thực tế, hợp lý và cần thiết cho quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước theo mức qui định của Bộ Tài chính. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp Nhà nước còn triển khai chậm công tác cổ phần hoá do một số nguyên nhân. Vì vậy, Chính phủ cần xem xét và tiếp tục đổi mới chế độ và chính sách cổ phần hoá. VI - Giải pháp về phía Nhà nước Mỗi doanh nghiệp là một hạt nhân của nền kinh tế, chịu sự điều khiển chung của các cơ quan Nhà nước. Để doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì sự điều chỉnh này phải có mục đích đúng đắn, đảm bảo sự công bằng, tạo ta môi trường thuận lợi ... Trong giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá, nhu cầu về vốn để đổi mới công nghệ và phát triển của các doanh nghiệp là rất lớn. Vì vậy Nhà nước cần phải có giải pháp cho vấn đề vốn ở các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và doanh nghiệp thương mại nói riêng. Khơi nguồn tạo dòng vốn đầu tư: Để hình thành và thúc đẩy các nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp Nhà nước, Chính phủ cần ban hành đồng bộ, đầy đủ cơ chế chính sách về huy động vốn để tạo ra hành lang pháp lý cho doanh nghiệp Nhà nước thực hiện việc huy động vốn. Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Nhà nước cần có chính sách lãi suất tiền vay hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế hiện tại của các doanh nghiệp ; có chính sách chú trọng việc mở rộng vay dài hạn để doanh nghiệp vừa có khả năng đổi mới công nghệ thiết bị, vừa cân đối khả năng trả nợ ... Muốn vậy, Nhà nước cần tiếp tục cải cách chính sách tiền tệ, tạo ra điểm gặp nhau giữa cung và cầu về vốn, mục tiêu chính là giải quyết 3 vấn đề: chính sách lãi suất, tỷ giá và quản lý ngoại hối. Đối với các tổ chức xã hội và đoàn thể: khuyến khích các tổ chức xã hội (Bảo hiểm xã hội và các công ty bảo hiểm thương mại ...) tham gia cho các doanh nghiệp vay vốn để tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi của các cơ quan này, đồng thời mở rộng thị trường vốn trong nước, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước. Đối với quần chúng nhân dân, người lao động: xây dựng một chính sách huy động vốn cụ thể, trong đó, qui định lãi suất trần, hình thức vay, trả ... Nếu gắn lợi ích của người lao động với hình thức huy động vốn như việc làm, thu nhập ... Đối với khu vực doanh nghiệp: Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hình thức thuê, mua vận hành. Đây là những giải pháp thích hợp cho doanh nghiệp thiếu vốn muốn đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị. Song, để áp dụng hình thức này, chúng ta cấn hình thành những công ty cho thuê mua có chức năng hỗ trợ doanh nghiệp trong việc lựa chọn bạn hàng, đánh giá tốt chất lượng máy móc thiết bị ... (hiện tại, hình thức này đã xuất hiện ở Việt Nam nhưng chưa thực sự phổ biến). Thực hiện việc liên doanh, liên kết giữa doanh nghiệp Nhà nước với các thành phần kinh tế khác để thu hút nguồn tài chính, trình độ quản lý, công nghệ của những đối tác này. Song có một vấn đề mà Nhà nước cần quan tâm là quyền lợi của các doanh nghiệp trong liên doanh. Hiện tại, hình thức liên doanh mới được triển khai đối với đối tác nước ngoài nhưng quyền lợi của phía Việt Nam vẫn còn nhỏ, luôn bị các đối tác nước ngoài chèn ép. Hình thức liên doanh, liên kết giữa doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nước chưa được phát triển. Đây cũng là một vấn đề cần phải được chú trọng trong thời gian tới. Cho phép những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả vay lại những nguồn vốn viện trợ của nước ngoài.Chính phủ cần phải xúc tiến, đẩy mạnh việc thị trường chứng khoán để tạo môi trường cho việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Tiếp tục sắp xếp, củng cố khu vực doanh nghiệp Nhà nước, đẩy mạnh công tác cổ phần hoá. Việc sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước thời gian qua đã có những bước tiến đáng mừng: thu hẹp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này. Trong thời gian tới, Nhà nước phải tiếp tục rà soát, chấn chỉnh các doanh nghiệp Nhà nước, mạnh dạn cho giải thể, phá sản những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, những doanh nghiệp có mức vốn thấp hơn qui định. Tiếp tục đẩy mạnh công tác cổ phần hoá trong thời gian tới cần phải xem là nhiệm vụ bắt buộc đối với các cán bộ, ngành, địa phương và đối với các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hoá. Bên cạnh việc tổ chức tuyên truyền để quần chúng hiểu rõ hơn về cổ phần hoá, cần lấy ý kiến từ các công ty cổ phần, từ các địa phương để hoàn thiện cơ chế, chính sách về cổ phần hoá, đồng thời đổi mới thủ tục xét duyệt đề án cổ phần hóa để rút ngắn thời gian thực hiện, tránh sự hoài nghi, chán nản của người lao động và của các nhà đầu tư. Sử dụng và quản lý tốt nguồn vốn trong doanh nghiệp: Để thực hiện tốt công tác này phải có sự kết hợp từ hai phía: Nhà nước và doanh nghiệp, trong đó khuyến khích nâng cao tinh thần trách nhiệm của doanh nghiệp (cá nhân và tập thể cán bộ, công nhân viên), Nhà nước chỉ đóng vai trò giám sát: Nhà nước cần sớm triển khai việc đánh giá hệ số tín nhiệm đối với các doanh nghiệp để từ đó áp dụng những ưu đãi với mức độ khác nhau đối với từng doanh nghiệp, những doanh nghiệp có hệ số tín nhiệm cao sẽ được ưu tiên vay vốn trước, vay với số lượng lớn, trong trường hợp cần thiết có thể lấy uy tín làm yếu tố đảm bảo vay. Bất kỳ một dự án vay vốn nào của doanh nghiệp đều phải được xem xét tính hiệu quả và khả năng trả nợ mới được phép triển khai. Tăng cường công tác hoạt động kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện những sai phạm trong việc huy động vốn doanh nghiệp, việc lập đề án, việc sử dụng vốn, việc tích luỹ vốn trả nợ. Cơ quan quản lý doanh nghiệp cần xây dựng những nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát, thường niên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, chế độ giám sát tình hình sử dụng và huy động vốn tại doanh nghiệp, có ý kiến kịp thời trước sự thay đổi nguồn vốn tại doanh nghiệp, phải gắn quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ quản lý doanh nghiệp trước sự thiếu hụt, mất mát tài sản, tiền vốn. Kết luận Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, đối với bất cứ mọi loại hình doanh nghiệp nào, thuộc mọi thành phần kinh tế, điều kiện tiên quyết để cho doanh nghiệp có thể hoạt động được là phải có vốn sản xuất kinh doanh. Với sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng vững thì bằng mọi cách phải sử dụng có hiệu quả đồng vốn của mình, đó là hiệu quả kinh tế hay hiệu quả kinh tế xã hội. Do vậy, đòi hỏi các nhà quản trị tài chính phải có những phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung. Đối với mỗi doanh nghiệp cụ thể thì cần có những biện pháp bảo toàn và phát triển vốn theo tình hình cụ thể của doanh nghiệp đó. Bài viết trên chỉ nêu lên một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp thương mại nói riêng và các doanh nghiệp Nhà nước nói chung. Muốn cho doanh nghiệp Nhà nước trở thành đầu tàu-có vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế thì cần phải có sự cố gắng nỗ lực của mỗi doanh nghiệp và sự hướng dẫn chủ đạo của Nhà nước. Do trình độ còn hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi những sai sót. Mong thầy cô và các bạn sinh viên tận tình góp ý. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn. tài liệu tham khảo I. Sách Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp Chủ biên: TS - Vũ Duy Hào 2. Giáo trình: Phân tích hoạt động kinh doanh Chủ biên: PGS-TS Phạm Thị Gái 3. Giáo trình: Kinh tế và tổ chức sản xuất doanh nghiệp Chủ biên: PGS- TS Phạm Hữu Huy II. Tạp chí 1. Tạp chí tài chính 2. Con số và sự kiện 3. Kinh tế dự báo 4. Kinh tế và phát triển 5. Tạp chí công nghiệp Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0086.doc
Tài liệu liên quan