Đề tài Các giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình hình thành các công ty cổ phần ở nước ta

CTCP là một biện pháp quan trọng nhằm sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nước. Nó đã gặt hái được không ít những thành công và thể hiện sự phù hợp của nó trong cơ chế thị trường. Công tác CPH đã được sự quan tân của Đảng và Nhà nước ta bằng việc ban hành một loạt những văn bản để triển khai công tác này trên thực tế. Tuy nhiên, đây là một vấn đề còn mới mẻ, và sự mới mẻ nào lại không mang theo những khó khăn, biết khắc phục những khó khăn ấy thì sẽ là một con đường dẫn đến thành công. Như vậy ta phải có những biện pháp để đẩy mạnh và nâng cao vai trò của CTCP trong phát triển kinh tế như: hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển CTCP, nhanh chóng đưa thị trường chứng khoán được hoạt động mạnh mẽ.v.v. CTCP chắc chắn sẽ chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Chúng ta hy vọng rằng với những biện pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện công tác CPH nêu trên thì CTCP sẽ góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ một cách nhanh chóng.

doc46 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình hình thành các công ty cổ phần ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bằng cổ phiếu vào các doanh nghiệp nhà nước sẽ được tiến hành cổ phần hoá. + Ngoài ra, với những kinh nghiệm thực tế phong phú từ các nước trên thế giới trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ là những bài học quý giá và bổ ích để nhà nước tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức trực hiện công việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Với những điều kiện thuận lợi như vậy, cùng với sự quyết tâm của nhà nước ta thì chắc chắn trong một thời gian ngắn nữa, công ty cổ phần sẽ phát triển mạnh mẽ ở nước ta. Vậy có những cách nào để tiến tới cổ phần hoá một doanh nghiệp? Hay con đường nào để hình thành công ty cổ phần? 2- Con đường hình thành công ty cổ phần 2.1- Lựa chọn hình thức cổ phần hoá Tuỳ theo tình hình và yêu cầu cụ thể, các doanh nghiệp nhà nước có thể lựa chọn và vận dụng một trong bốn hình thức cổ phần hoá dưới đây: Giữ nguyên giá trị phần vốn hiện có của Nhà nước tại các doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu, thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. Theo hình thức này thì giá trị cổ phần của Nhà nước góp vào công ty bằng giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp trừ chi phí cổ phần hoá, giá trị ưu đãi cho người lao động và giá trị phần trả dần của người lao động nghèo theo quy định của Nhà nước. Bán một phần giá trị vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Theo hình thức này thì Nhà nước sử dụng một phần giá trị thực tế vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để bán cho các cổ đông. Tách một bộ phận của doanh nghiệp để cổ phần hoá. Theo hình thức này thì một bộ phận của doanh nghiệp có thể hoạt động độc lập và hạch toán riêng giá trị tài sản, được tách ra để cổ phần hoá (phân xưởng sản xuất, cửa hàng, bộ phận dịch vụ..). Bán toàn bộ giá trị vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. Theo hình thức này, Nhà nước không tham gia cổ phần ở công ty cổ phần. 2.2- Các bước tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước gồm 3 bước chủ yếu: - Bước 1: Doanh nghiệp cổ phần hoá lập Ban quản trị, để phổ biến chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp cho toàn bộ cán bộ công nhân viên, xác định lại giá trị doanh nghiệp, lập đề án cổ phần hoá doanh nghiệp, dự thảo điều lệ doanh nghiệp cổ phần, lập dự toán chi phí cho công tác cổ phần hoá. Các cơ quan quản lí nhà nước có nhiệm vụ hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các công việc nói trên. Xem xét và kiểm tra đề án cổ phần hoá và dự thảo điều lệ của doanh nghiệp cổ phần để xác định tính thực thi của đề án. Bước 2: Là giai đoạn sử lí các tồn tại trước khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần: doanh nghiệp phải tổ chức báo cáo công nợ, xử lí các tài sản vật tư ứ đọng, không cần dùng…, mời công ty kiểm toán họp pháp xác định giá trị doanh nghiệp, đăng kí danh sách các cổ đông mua cổ phần, hoặc người lao động trong doanh nghiệp vay để mua chịu cổ phần . Bước 3: Là bước thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Sau khi đã có quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, doanh nghiệp báo cáo việc thực hiện cổ phần của doanh nghiệp trên thông tin đại chúng, mở sổ đăng kí cổ đông, mở tài khoản kho bạc, tổ chức thu tiền của cổ đông đã đăng kí mua cổ phần, tiến hành Đại hội cổ đông và đăng kí kinh doanh với các cơ quan chức năng. 2.3- Con đường hình thành công ty cổ phần Công ty cổ phần là những công ty được hình thành trên cơ sở kiên hiệp nhiều cá nhân bằng cách phát hành và bán cổ phiếu. Lợi nhuận của công ty được phân phối giữa các cổ đông theo số lượng cổ phiếu, tuỳ theo pháp luật từng nước mà công ty cổ phần được tổ chức dưới các hình thức khác nhau. Nước ta, việc hình thành và phát triển công ty cổ phần về cơ bản được thực hiện qua 3 con đường: Con đường truyền thống: ở nước ta sau nhiều năm do nôn nóng, chủ quan duy ý chí và giáo điều nên đã xoá bỏ nền kinh tế tư nhân, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, khu vực kinh tế tư nhân nói chung đã được khôi phục và phát triển trong chừng mực nhất định, nên đã xuất hiện một số công ty trách nhiệm hữu hạn. Nước ta đi nên CNXH từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, sản xuất nhỏ là chủ yếu, nên lực lượng tư nhân năng lực về vốn không lớn, lại do ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp làm cho mai một. Việc hình thành công ty cổ phần theo con đường này đòi hỏi phải có một quá trình, đặc biệt là phụ thuộc vào chính sách khuyến khích và giúp đỡ của Nhà nước đối với nền kinh tế tư nhân nói chung. - Con đường cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Bằng con đường này, các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá sẽ tồn tại nhiều dạng khác nhau: + Doanh nghiệp nhà nước bán một phần cổ phiếu cho công nhân viên của doanh nghiệp. + Doanh nghiệp bán một phần cổ phiếu cho cả người trong và ngoài doanh nghiệp. + Loại doanh nghiệp nhà nước được giữ nguyên, nhưng có phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng vốn. + Doanh nghiệp nhà nước được thành lập bằng cách phát hành và bán cổ phiếu ngay từ đầu khi thành lập. + Tách một phần vốn của doanh nghiệp nhà nước ra để tạo lập doanh nghiệp mới. Con đường thông qua liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư nhân tư bản trong nước và nước ngoài. Đây là con đường phát triển công ty cổ phần được hình thành khá nhanh ở nước ta. Cho đến nay đã có khoảng 50 công ty nhà nước góp vốn với tư nhân trong nước. Các công ty liên doanh này phát triển ngày càng nhiều là rất cần thiết nhằm tạo thế và lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng nhanh sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài trên thị trờng trong nước và quốc tế. Trong 3 con đường cổ phần hoá thì cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ phát triển nhiều nhất ở nước ta. Bởi vì hiện nay doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 80% tổng số vốn của toàn bộ nền kinh tế nước ta, song chỉ đóng góp 44% GDP, do vậy cần cải tổ lại doanh nghiệp nhà nước bằng cách bán đứt, cho thuê, giải thể, sát nhập hoặc chuyển thành công ty cổ phần, trong đó nhà nước có một phần vốn. Đây là xu hướng phù hợp với điều kiện Việt Nam và xu thế thế giới. 3- Loại hình công ty cổ phần 3.1- Loại hình công ty cổ phần trên thế giới Trên thế giới có những loại hình công ty cổ phần sau: + Công ty vô danh: Là một loại công ty trách nhiệm hữu hạn, trong đó các cổ đông của công ty chỉ chịu trách nhiệm với công ty trong phạm vi phần vốn hoặc cổ phần mà họ đóng góp vào công ty. Các công ty vô danh đều được tổ chức theo mô hình : Đại hội cổ đông- hội đồng quản trị- giám đốc điều hành, bên cạnh còn có ban kiểm soát với chức năng thay mặt các cổ đông kiểm tra giám sát các hoạt động của công ty. + Công ty trách nhiệm hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn về cơ bản có nhiều điểm giống với công ty cổ phần, song có một số điểm khác: Pháp luật thường quy định số cổ đông tối đa đối với các công ty loại này; công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều cổ đông không được phát hành cổ phần và trái phiếu trong quá trình kinh doanh, trong trường hợp thiếu vốn thì công ty có thể huy động các cổ đông đống góp thêm: công ty được tổ chức gọn nhẹ,có thể do một ban quản trị điều hànhhoặc chỉ do một người đứng lên quản lý công ty do đại hội cổ đông bầu ra. + Công ty dân sự: Là công ty trách nhiệm vô hạn có tư cách pháp nhân, trong đó có các cổ đông có trách nhiệm vô hạn với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, có nghĩa là cổ đông phải đem sản nghiệp riêng của mình ra để bảo đảm cho công việc kinh doanh cuả công ty. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, công ty không được phát hành cổ phiếu mà chỉ được huy động vốn từ các cổ đông. + Công ty hợp tư cổ phần: Trong hoạt động kinh doanh thường xuất hiện những mâu thuẫn một số người có vốn nhưng pháp luật không cho phép họ kinhh doanh, hoặc một số người có vốn song lại không có năng lực kinh doanh. Bên cạnh đó lại có những người có trình độ kinh doanh nhưng lại không có vốn. Vì vậy họ đã gặp nhau và hợp nên những công ty hợp tư cổ phần. Các hội viên quản trị có trách nhiệm và nghĩa vụ giống như hội viên của công ty hợp doanh. Các hội viên gồm những người có vốn góp vào công ty, họ không có quyền lãnh đạo công ty mà chỉ được hưởng lợi tức cổ phần. + Công ty hợp doanh: Là công ty trách nhiệm vô hạn có tư cách pháp nhân. Các thành viên tham gia công ty hợp doanh chịu trách nhiệm như một người đồng mắc nợ. Trường hợp công ty hợp doanh không thanh toán được cho các chủ nợ thì các chủ nợ này đòi các thành viên phải thanh toán. Các thành viên không có quyền từ chối trả nợ. 3.2- Loại hình công ty cổ phần ở Việt Nam Đặc trưng của công ty cổ phần là có nhiều chủ sở hữu. Sự can thiệp của mỗi chủ sở hữu vào công ty ảnh hưởng đến mức độ nào, trước hết là tuỳ thuộc vào số lượng cổ phiếu mà họ nắm giữ, cổ đông nào nhiều cổ phiếu sẽ chi phối hoạt động của công ty. Dựa trên đặc điểm này, tức là từ góc độ sở hữu, có thể chia công ty cổ phần thành các loại hình sau: + Công ty cổ phần 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước. Trong công ty này, các doanh nghiệp nhà nước dùng vốn của mình để mua lại hoặc góp thêm vốn dưới hình thức cổ phần, từ đó biến một doanh nghiệp nhà nước thuần tuý theo kiểu mô hình truyền thống sang công ty cổ phần. + Công ty cổ phần có trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, phần vốn còn lại thuộc sở hữu của khu vực kinh tế tư nhân. + Công ty cổ phần có dưới 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, thậm chí có rất ít hoặc hoàn toàn không có vốn nhà nước tham gia. Loại hình công ty cổ phần này hoạt động theo luật công ty và hoàn toàn theo nguyên tắc thị trường, vì khả năng can thiệp và quyền lực của nhà nước với tư cách là cổ đông lớn ít hơn, ngoại trừ một vài trường hợp nhà nước có quy định riêng. Với mục tiêu cổ phần hoá hiện nay, cần chú trọng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo hướng chuyển nhượng một phần quyền sở hữu nhà nước sang các thành phần kinh tế. Trường hợp nhà nước ít cần can thiệp đến có thể chuyển sang công ty cổ phần trong đó nhà nước ít hoặc thậm chí không tham gia ở các công ty cổ phần đó. II/ Vai trò của công ty cổ phần ở nước ta hiện nay 1- Tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trong thời gian gần đây và những thành công bước đầu trong việc thí điểm công ty cổ phần. Doanh nghiệp nhà nước(DNNN) là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà nước. Sự hình thành và phát triển các DNNN ở Việt Nam đã có lịch sử hơn 40 năm. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sự ra đời ồ ạt hàng loạt DNNN, việc thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho nền kinh tế dần dần trở thành một “công trường thống nhất” nhưng thiếu sức sống, kém năng động, linh hoạt, hiệu quả kinh tế rất thấp. Chúng ta đã không thấy ngay điều đó bởi vì, quy luật chiến tranh và viện trợ của nhiều nước trên thế giới không thúc bách chúng ta phải tính toán chặt chẽ hiệu quả kinh tế. Sau đó, những thắng lợi của cuộc trường kỳ kháng chiến đã khoả lấp tính không hợp lí của cơ cấu kinh tế đã hình thành, trong đó quốc doanh và hợp tác xã chiếm tỉ trọng gần như tuyệt đối. Nhưng từ cuối những năm 70, tình hình trong nước và trên thế giới có những thay đổi, nguồn viện trợ của các nước giảm sút nhiều, nền kinh tế phải đương đầu với những khó khăn chồng chất do mất cân đối vật tư, hàng hoá, buộc chúng ta phải xem xét lại cơ cấu và cơ chế kinh tế. Chúng ta bắt đàu nhận ra những mặt bất hợp lí của cơ cấu kinh tế, thấy rõ một bộ phận lớn các DNNN sản xuất kinh doanh trì trệ, thua lỗ triền miên. Đầu những năm 80, nền kinh tế đang suy thoái, các mâu thuẫn xuất hiện liên tục ở khắp mọi nơi, mọi chỗ trong khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể. Những quan điểm giáo điều về “ cải tạo XHCN ” đã cản trở những tìm tòi đổi mới kinh tế nói chung , đổi mới DNNN nói riêng. Từ thực tiễn hoạt, nghiên cứu tìm tòi, thể nghiệm những chủ trương, giải pháp cải tiến quản lý kinh tế – xã hội đầu những năm 80, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Trong đổi mới kinh tế, cùng với chủ trương phát triển nhiều thành phần kinh tế, Đảng đã đặt ra vấn đề phải nhanh chóng tổ chức, sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh và đổi mới quản lý các DNNN nhằm phát huy vai trò củakinh tế quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần. Để cải cách và sắp xếp lại các DNNN, từ đầu những năm 90, nhà nước ta đã chủ trương CPH các doanh nghiệp. Và sau gần 10 năm thực hiện, đã thu được những kết quả khả quan. Tính từ năm 1991 đến năm 1997 mới CPH được 18 DNNN với tổng số vốn 121.348 triệu đồng. Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức CPH thì sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động đều có lợi. Những kết quả cụ thể như sau: - Đối với Nhà nước( số liệu của 18 doanh nghiệp): do sản xuất phát triển, doanh thu tăng lên, nên tiền thuế của các CTCP nộp cao hơn khi còn là DNNN. Ngoài ra, Nhà nước còn thu được 37.784 triệu đồng từ các nguồn sau: + Tiền thu về bán cổ phần: 30.207 triệu đồng. + Phần lợi tức của Nhà nước từ các CTCP: 6,995 triệu đồng + Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của các cán bộ công nhân viên: 5,22 triệu đồng chưa kể số tiền cán bộ công nhân viên trong các CTCP mua chịu cổ phiếu là 14.749 triệu đồng sau 5 năm phải trả Nhà nước) - Đối với doanh nghiệp: Vốn bình quân tăng 45%/năm, doanh thu tăng bình quân 56,9%/năm, lợi nhuận tăng bình quân 70,2%/năm, nộp ngân sách tăng bình quân 98%/năm, thu nhập người lao động tăng bình quân 20%/năm, tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu 19,1%/năm, tỉ suất lợi nhuận trên vốn 74,6%/năm. - Đối với người lao động và xã hội: thu nhập của người lao động cao hơn khi còn là quốc doanh từ 1,5-2 lần chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần khoảng 22-24%/năm. Những số liệu trên thể hiện những kết quả thu được từ 18 doanh nghiệp được CPH trước năm 1998. Đến tháng 6/1998 cả nước ta đã CPH được 30 DNNN. Đến 31-12-1999 có thêm 340 DNNN được chuyển thành CTCP. Riêng năm 1999 đã có 250 doanh nghiệp , gấp 8 lần so với 7 năm trước. Như vậy về mặt số lượng, thì tốc độ CPH đã được đẩy mạnh lên rất nhiều. Nhiều bộ, ngành, địa phương, tổng công ty Nhà nước đã tích cực thực hiện và có nhiều kết quả đáng khích lệ. Ta có những kết quả cụ thể sau: Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: qua kết quả báo cáo hoạt động năm 1999 của 20 doanh nghiệp đã CPH có thời gian hoạt động trên 1 năm kể cả những doanh nghiệp trước đó hoạt động thua lỗ cho thấy doanh thu tăng bình quân gần 2 lần, lợi nhuận tăng bình quân hơn 2 lần, vốn tăng gần 2,5 lần ( bao gồm cả tích luỹ từ lợi nhuận và cả từ thu thêm vốn đàu tư từ bên ngoài), nộp ngân sách Nhà nước tăng bình quan 2 lần so với trước khi CPH. Về thu nhập và việc làm: các DNNN được CPH bảo đảm việc làm và thu nhập của người lao động được ổn định và có chiều hướng tăng lên. Do mở rộng sản xuất, số lao động ở các doanh nghiệp tăng bình quân 12%, thu nhập của người lao động làm việc trong CTCP tăng bình quân hàng năm gần 20%, chưa kể thu nhập từ cổ tức. Là chủ nhân thực sự của CTCP, người lao động đã nâng cao tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày được nâng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, cho doanh nghiệp, và cho xã hội. Về huy động vốn: tại thời điểm CPH 370 DNNN CPH có giá trị phần vốn nhà nước 1.349 tỉ đồng, qua thực hiện CPH đã thu hút thêm 14,32 tỉ đồng của các cá nhân , pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác đầu tư vào các CTCP, đồng thời Nhà nước cũng đã thu hồi lại được 714 tỉ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và giải quyết một số chính sách cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần. Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH khi được xác định lại, nhìn chung đều tăng từ 10-50% so với giá trị ghi trên sổ sách. Như vậy, khi thực hiện CPH, vốn Nhà nước không những không mất đi, được bảo tồn mà còn tăng thêm. Nguồn vốn nhàn rỗi được thu hút từ ngoài xã hội được huy động thêm vào doanh nghiệp, góp phần đổi mới công nghệ của từng doanh nghiệp CPH. 2- Các mục tiêu CPH doanh nghiệp Việc CPH các doanh nghiệp nhà nước là nhằm các mục tiêu sau: Nâng cao hiệu quả hoạt động các DNNN và giảm thâm hụt ngân sách là mục tiêu đầu tiên và trực tiếp. Xoá bỏ độc quyền được Nhà nước quy định cho một số DNNN, buộc những doanh nghiệp này phải phát huy cạnh tranh để nâng cao hiệu quả so với khu vực kinh tế tư nhân, và do đó thu hút các nhà đầu tư tư nhân vào các ngành, các lĩnh vực lâu nay Nhà nước độc quyền nhưng xét thấy không còn cần thiết nữa. Nhà nước có điều kiện để tập trung vào những ngành then chốt, mũi nhọn đòi hỏi hàm lượng vốn và khoa học kĩ thuật cao để nâng cao sức canh tranh các sản phẩm quan trọng của đất nước trên thị trường quốc tế, cũng như tập trung vào các chức năng ổn định kinh tế vĩ mô. Thực hiện một sự phân phối bình đẳng có lợi cho những người có thu nhập thấp, tạo sự ổn định về mặt xã hội trong giai đoạn nền kinh tế đang bị trì trệ. Giảm các khoản nợ nước ngoài đang ngày càng tăng do phải bù đắp các khoản thâm hụt ngân sách để trợ cấp cho các DNNN Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài để đổi mới kỹ thuật và học tập quản lý, tạo ra nột nền kinh tế thị trường mở cửa để tăng sức cạnh tranh của các DNNN, nâng cao các chất lượng hàng hoá và dịch vụ trong nước. Tạo dựng và phát triển một thị trường tài chính gồm thị trường tư bản, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ hoàn chỉnh trong nước. Huy động một lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp và sau đó nhà nước sẽ cơ cấu lại khu vực Nhà nước, nhằm tạo động lực nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. 3- Vai trò của CTCP trong phát triển kinh tế Việc tiến hành CPH là hình thức sản xuất kinh doanh cá khả năng huy động được nhiều vốn đầu tư ở cả trong và ngoài nước. Điều này góp phần giúp cho công ty có một lượng vốn tương đối lớn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, tiếp thu kinh nghiệm quản lí tiên tiến, ứng dụng công nghệ hiện đại. Trong CTCP, quyền lợi của những người lao động trong công ty, đồng thời cũng là quyền lợi của các cổ đông, gắn liền với sự thành bại của hoạt động sản xuất kinh doanh, vì thế họ rất đoàn kết gắn bó và thống nhất trong việc tìm kiếm và đưa ra những phương hướng hoạt động phù hợp nhất đối với doanh nghiệp, nhằm củng cố tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm do họ sản xuất ra, họ quan tâm đến công việc của công ty và lao động tích cực với tinh thần trách nhiệm cao. Người lao động làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, một mặt vì quyền lợi của mình, mặt khác họ yêu cầu Hội đồng quản trị, giám đốc điều hành phải chỉ đạo và lãnh đạo công ty hoạt động có hiệu quả để có lợi nhuận cao hơn. Điều này đã tạo ra một động lực mới cho công ty. Việc CPH cũng làm cho phương pháp quản lý, điều hành doanh nghiệp thay đổi. Lãnh đạo công ty từ việc là giám đốc DNNN do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầu ra Hội đồng quản trị, ban kiểm soát và ban giám đốc. Do đó, trách nhiệm của Hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành cao hơn, hoạt động của công ty có tính đến hiệu quả cụ thể hơn. Việc CPH đã khắc phục việc buông lỏng quản lý tài sản của Nhà nước, xoá bỏ tình trạng vô chủ của doanh nghiệp. Trước đây, mặc dù đã có chủ trương trao quyền tự quản cho các doanh nghiệp nhà nước và đã đạt được một số thành quả nhất định, nhưng mới chỉ đẩy lùi được chế độ bao cấp của nhà nước đối với DNNN, cho nên tình trạng vô trách nhiệm, lãng phí của công vẫn chưa được khắc phục. Khi chuyển DNNN sang CTCP thì mặc nhiên điều này sẽ không còn tồn tại. Các giám đốc CTCP phải tính toán chi li từng đồng, do đó đòi hỏi người giám đốc phải năng động, có tinh thần trách nhiệm cao, nếu xí nghiệp lỗ thì phải chịu một phần trách nhiệm, và nếu tiếp tục thua lỗ thì phải bãi miễn chức. CPH là chuyển từ hình thức sở hữu nhà nước sang sở hữu của nhiều cổ đông, tạo điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp, khai thác và động viên mọi nguồn vốn trong xã hội vào hoạt động kinh doanh, làm cho tài sản xã hội tăng lên. CPH huy động được nguồn vốn trong xã hội, cung cấp cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển, một mặt vừa góp phần tháo gỡ được khó khăn cho ngân sách Nhà nước; không phải chu cấp cho doanh nghiệp; mặt khác, vốn và tài sản của DNNN, nhờ CPH được thu hồi lại sẽ được đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng thêm tài sản cố định...góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Việc CPH cũng có vai trò kích thích sự phát triển của các công ty, bởi vì, sự bao cấp của Nhà nước mất đi, Nhà nước chỉ góp một lượng vốn nhất định trong mỗi doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp phải tự thân vận động, nếu hoạt động không hiệu quả, bị thua lỗ thì sẽ phải giải thể, hoặc sát nhập vào với doanh nghiệp khác, giám đốc thì bị cách chức, cả ban giám đốc và người lao động cùng bị ảnh hưởng đến lợi ích. Do đó cả ban giám đốc và người lao động đều cố gắng hoạt động sao cho có hiệu quả. Như vậy, với những vai trò nêu trên, CPH sẽ góp phần tolớn vào việc phát triển nền kinh tế nước ta. Chính vì ý thức được vai trò của nó mà Nhà nước ta đã đẩy mạnh tiến trình CPH, và chắc chắn trong vài năm tới đây CTCP sẽ phát huy hết chức năng của nó và đưa nền kinh tế nước ta tiến lên phát triển mạnh mẽ hơn. Chương III Các giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình hình thành và nâng cao vai trò của CTCP ở nước ta. I/ Tại sao CPH vẫn chậm? Thời gian gần đây, tốc độ CPH diễn ra có nhanh hơn so với trước đây. Tính riêng 8 tháng đầu năm 1999 đã CPH được 98 doanh nghiệp,trong khi hơn 7 năm trước (từ tháng 5-1990 đến hết năm 1998) chỉ CPH được 108 doanh nghiệp. Có thể nói đây là tiến bộ vượt bậc về CPH. Tuy nhiên so với chỉ tiêu mà chính phủ đề ra cho năm 1999 là 400 doanh nghiệp thì mới chỉ đạt 24,5%. Như vậy tiến độ CPH vẫn còn rất chậm. Vậy những nguyên nhân nào khiến cho việc CPH lại chậm như vậy? 1-Về phía khách quan Chúng ta tiến hành CPH DNNN trong bối cảnh nền kinh tế đanh thực hiện những bước quá độ từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh đó, các điều kiện khách quan cần thiết cho việc triển khai CPH còn nhiều bất cập. Trình độ xã hội hoá sản xuất chưa thật chín muồi. Từ một nền sản xuất nhỏ, cái thiếu lớn nhất của ta là cái “cốt vật chất” của một nền kinh tế phát triển. Ngoài một số ít lĩnh vực và cơ sở kinh tế được trang bị máy móc, thiết bị hiện đại, còn phần lớn đều là thủ công ( hiện còn 54,3% số DNNN trung ương và 94% DNNN địa phương ở trình độ thủ công). Vì thế năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của ta còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới (mỗi ngày một người dân Việt Nam chỉ thu nhập khoảng 1 USD, trong khi đó của Trung Quốc là 2,3 USD, Malãyia 9,5 USD, Indonexia 2,9 USD ). Phân công lao động ở trình độ thấp kém: hơn 70% lực lượng lao động và gần 80% dân số trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. Trình độ kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng cho sản xuất rất yếu kém. Nền kinh tế đó phản ánh tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất đang ở trình độ rất thấp. Theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì ở nước ta chưa thật sự có những cơ sở điều kiện chín muồi để các hình thức tổ chức kinh tế mang tính chất xã hội hoá rộng rãi như CTCP ra đời và phát triển. - Nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành. Hiện nay nước ta có trên 40.000 doanh nghiệp và công ty, song hoạt động của chúng chưa thực sự được thương mại hoá. Tính đến hết tháng 8/1999 mới có khoảng 400 doanh nghiệp cổ phần. Như vậy số CTCP mới chiếm khoảng 1% trong tổng số doanh nghiệp hiện có của nền kinh tế. Điều đó chứng tỏ rằng hình thức CTCP chưa phải là phổ biến ở nước ta hiện nay. Các loại thị trường phát triển chưa đồng bộ. Hiện tại ta có thì trường hàng tiêu dùng và dịch vụ, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường các yếu tố sản xuất khác như sức lao động, vốn…đang ở trình độ sơ khai, thị trường chứng khoán chưa hình thành. Theo lôgic của sự phát triển thì CTCP là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất xã hội hoá và của nền kinh tế thị trường phát triển. Nhưng ở nước ta, nền sản xuất đang trong giai đoạn đầu của xã hội hoá, nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành. Vì vậy, các điều kiện kinh tế liên quan trực tiếp đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của CTCP, cũng như việc triển khai CPH DNNN ở nước ta chưa phải là đã hình thành đầy đủ và đồng bộ như ở các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển . Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ: Xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, lại nhiều năm vận hành trong cơ chế cũ nên trình độ kiến thức và yếu tố tâm lý của ta còn nặng nề, chưa thích ứng với cơ chế mới. Theo điều tra mới đây của Bộ Lao động- Thương binh và xã hội, số người có trình độ đại học, cao đẳng trở nên của ta mới chỉ chiếm khoảng 1,3% dân số. Số lao động giản đơn chiếm tỉ lệ rất cao: 87,8%, trong khi số lao động có trình độ trung cấp và sơ cấp lại rất thấp khoảng 4% trong tổng số lao động hiện có. Kiến thức thiếu hụt nhất trong nhân dân và cán bộ ta hiện nay là về kinh tế thị trường, công nghệ, tin học và ngoại ngữ. Ngay cả đội ngũ giám đốc các doanh nghiệp nhà nước cũng phần lớn chưa ngang tầm nhiệm vụ được giao. Qua khảo sát 506 DNNN có 37 giám đốc chưa tốt nghiệp văn hoá phổ thông, chỉ có 187 người sử dụng được ngoại ngữ nhưng chưa thành thạo. Đội ngũ này trình độ đào tạo mới chỉ được nâng lên về hình thức. Ngay cả những người làm công tác đào tạo cũng chưa được đào tạo lại. Vì vậy, những tri thức về thị trường, kinh doanh…chưa được chuyển tải kịp thời và đầy đủ cho đội ngũ cán bộ doanh nghiệp. Đây là những lực cản không nhỏ đối với tiến trình CPH. - Về mặt tâm lý xã hội: do bị ảnh hưởng tư tưởng của xã hội cổ truyền và những năm bao cấp, nên nhân dân ta còn mang nặng tâm lý “đồng tiền đi liền khúc ruột”, chưa quen với việc đầu tư tiền vào việc mua cổ phiếu. Theo điều tra, ước tính của Bộ Kế hoạch và đầu tư và Tổng cục thống kê, nguồn vốn trong dân cư hiện có từ 6-8 tỉ USD, trong đó: 44% dành để mua vàng, ngoại tệ; 20% mua nhà, đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt; 17% gửi tiết kiệm, chủ yếu loại ngắn hạn; chỉ có 19% dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư, nhưng chủ yếu là đầu tư ngắn hạn. nhiều hiện tượng lừa đảo tham nhũng, coi thường kỷ cương phép nước… đã có ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý đầu tư vào mua cổ phiếu của người có vốn. Thực tế, vốn trong dân có nhiều, nhưng do môi trường pháp lý chưa thực sự đảm bảo nên họ không dám đầu tư. 2- Về phía chủ quan Trong điều kiện khách quan như trên, để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, song trong thời gian qua, nhân tố này có nhiều vướng mắc, do đó nó cũng làm chậm tiến trình CPH ở nước ta. - Thứ nhất, chưa làm tốt việc thấu suốt quan điểm, chủ trương CPH DNNN của Đảng và chính phủ. Cho đến nay vẫn còn các cấp, ngành, địa phương chưa hưởng ứng tích cực chủ trương CPH vì cho rằng CPH chẳng khác gì tư nhân hoá, nó sẽ làm chệch định hướng XHCN, làm suy yếu vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Từ đó họ do dự, chần chừ, chờ đợi, nghe ngóng, thiếu chủ động. Một số bộ, tỉnh, thành phố xuất phát từ những lợi ích cục bộ, muốn có trong tay một số doanh nghiệp để chi phối nên cũng không muốn cổ phần hoá. Một số lãnh đạo, đạc biệt là các giám đốc của DNNN không nhiệt tình với công tác cổ phần hoá. Họ cho rằng làm giám đốc DNNN thì nhẹ nhàng hơn, trách nhiệm không nặng nề như làm giám đốc CTCP, trong khi đó thì quyền lực, lợi ích và địa vị xã hội lại cao hơn, vả lại nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thậm chí bị phá sản thì vẫn được nhà nước bảo trợ. Họ viện lý do củng cố, sắp xếp tổ chức lại doanh nghiệp để trì hoãn công việc này. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến việc phối hợp chỉ đạo giữa các cấp uỷ, chính quyền đoàn thể không đồng bộ, thiếu thống nhất, làm cho công tác CPH bị chậm trễ ngay từ khâu xây dựng phương án tại cơ sở. Lại có những bộ, tỉnh, thành phố do chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của chủ trương này nên việc lựa chọn DNNN để CPH làm qua loa, đại khái. Có nhiều doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh thấp, tình hình tài chính không lành mạnh cũng đưa vào kế hoạch cổ phần hoá. Vì thế triển khai không được, kéo dài, chậm trễ. Công ty tuyên truyền, vận động từ trong Đảng, ttrong bộ máy nhà nước, trong cán bộ công nhân viên và toàn xã hội chưa được đẩy mạnh. Thậm chí có những công nhân đã mua cổ phần ở doanh nghiệp CPH, song cũng không hiểu biết gì về chủ trương này. Thực chất họ “nộp ” tiền mua cổ phần là để tiếp tục được làm việc tại công ty. Họ không biết rằng mình đã trở thành cổ đông của công ty, rằng mình sẽ có quyền lợi và nghĩa vụ tương ứng với số cổ phần mà mình đã mua.v.v… Tất cả những điều đó là do công tác tuyên truyền, vận động, giải thích về chủ trương cổ phần hoá chưa được quán triệt, chưa làm đến nơi đến chốn và đó là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến trình này. - Thứ hai, việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng. Điều này trước hết thể hiện ở một số nội dung trong các văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai chưa rõ ràng và thiếu tính hệ thống. Chẳng hạn: CPH là tự nguyện hay bắt buộc đối với các doanh nghiệp nhà nước? Giá trị đất đai có tính vào giá trị tài sản doanh nghiệp để CPH không? Trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong triển khai CPH như thế nào? Những doanh nghiệp nào thì CPH, những doanh nghiệp nào thì chưa hoặc là không CPH?… Sự chậm trễ và lúng túng trong việc triển khai CPH còn thể hiện ở chỗ cho đến nay chính phủ vẫn còn chưa có chương trình CPH tổng thể mang tầm vĩ mô cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân để làm căn cứ cho việc xác định tiến độ CPH, chưa có một đạo luật hay pháp lệnh CPH DNNN làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện, vẫn còn những tỉnh, thành phố chưa thành lập ban chỉ đạo CPH. Ngay cả những tỉnh, thành phố đã có ban này, song trong chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai còn nhiều vướng mắc không được tháo gỡ kịp thời vì đa số cán bộ đều là kiêm nhiệm và chưa được đào tạo có hệ thống. Việc giải quyết các thủ tục pháp lý có liên quan đến nhà xưởng, đất đai, xác định vốn, nợ cho các doanh nghiệp CPH còn nhiều phiền phức và vướng mắc, nhất là khâu xử lí nợ và xác định giá trị doanh nghiệp. Cho đến nay vẫn chưa có cơ chế xử lí nợ trong các DNNN CPH và các hình thức chuyển đổi sở hữu khác, đặc biệt là các khoản nợ của doanh nghiệp đối với ngân sách nhà nước, nợ ngân hàng. Vì thế, làm cho tiến trình CPH chậm lại. Thêm vào đó, việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp để CPH còn nhiều khâu rườm rà, không thông thoáng, vừa gây chi phí tốn kém,vừa làm mất nhiều thời gian. Mặt khác, do nước ta chưa có thị trường chứng khoán, nên việc xác định giá trị doanh nghiệp mới chỉ có một bên là Nhà nước ấn định, vì thế giá cả không hợp lí, phải xác định lại nhiều lần. Một số chính sách, chế độ cụ thể đối với các doanh nghiệp CPH chưa đủ sức hấp dẫn, chưa lôi cuốn các doanh nghiệp tiến hành CPH. - Thứ ba, chế độ, chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp CPH chậm được ban hành, sửa đổi và chưa đủ sức hấp dẫn. Theo Nghị quyết 44/1998/NĐ-CP, các doanh nghiệp CPH được hưởng một số ưu đãi, tuy nhiên vẫn chưa được bình đẳng so với các DNNN. Các DNNN được hưởng ưu đãi hơn so với các doanh nghiệp cổ phần về mức vay, khoanh nợ, xoá nợ tại ngân hàng thương mại, lại chưa phải nộp tiền thuế đất. Các DNNN được vay vốn bằng tín chấp của cơ quan Nhà nước, còn các doanh nghiệp CPH phải thế chấp mới được vay…Thực tế này đã níu kéo các DNNN, không khuyến khích họ hưởng ứng cổ phần hoá. Mặc dù chính phủ đã ban hành và sửa đổi nhiều chế độ, chính sách đối với người lao động trong các doanh nghiệp CPH song cho đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc. Chẳng hạn, việc thực hiện Nghị định 44/1998/NĐ-CP đã dẫn đến hiện tượng ở doanh nghiệp này người lao động được mua đủ 10 cổ phần ưu đãi trong một năm, nhưng ở doanh nghiệp khác người lao động chỉ được mua 6 cổ phiếu ưu đãi cho một năm, 4 cổ phiếu, thậm chí còn ít hơn. Bộ Tài chính đã trình đề án thành lập quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN để giải quyết tình trạng trên, song đến nay vẫn chưa được phê duyệt. Đối tượng lao động được đào tạo và đào tạo lại nghề cũng chưa có quy định cụ thể…Đối với người lao động, điều mà họ quan tâm nhất là khi chuyển sang CPH thì quyền lợi, thu nhập của họ có được đảm bảo bằng hoặc cao hơn so với khi làm cho DNNN hay không, và họ cũng quan tâm đến việc thực hiện các chính sách về bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi mua cổ phần…Điều này ảnh hưởng đến tâm lí người lao động, họ sợ bị thiệt thòi, sợ bị mất việc…Họ quen với chế độ bao cấp, chế độ biên chế suốt đời. Sức ỳ này làm cho họ ngại cổ phần hoá. Đất nước ta còn nghèo, các DNNN làm ăn kém hiệu quả, người lao động chưa có thói quen chịu rủi ro khi họ đầu tư mua cổ phiếu. Hơn nữa, nhìn chung rất nhiều người lao động còn cho rằng CPH tức là một hình thức chuyển DNNN thành doanh nghiệp tư nhân. Nếu như vậy thì người nào có nhiều tiền sẽ có cổ phần lớn và họ sẽ nắm quyền điều hành công ty, một giới chủ mới sẽ nảy sinh, các tổ chức Đảng và tổ chức công đoàn cũng như các đoàn thể quần chúng sẽ không còn vai trò gì nữa, người lao động sẽ mất chỗ dựa khi bị chèn ép, ngược đãi sẽ không có ai, không có tổ chức nào đứng ra bảo vệ…Đây thực sự là một yếu tố tâm lí cần sớm được giải toả. Tóm lại, CPH đến nay vẫn còn chậm trễ là do tác động của cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, chứ không đơn thuần từ phía chủ quan như một số người đã nhận định. Vậy những biện pháp nào để thúc đẩy quá trình cổ phần hoá? II/ Nâng cao vai trò của CTCP và đẩy nhanh quá trình hình thành Công ty cổ phần 1-Chức năng của Nhà nước Trong việc thúc đẩy nhanh quá trình CPH, Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì sự chậm trễ trong công tác CPH còn nhiều vướng mắc về phía nhà nước. Do đó Nhà nước ta cần phải có những biện pháp để thúc đẩy quá trình cổ phần hoá. - Ban hành đồng bộ và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật: Trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, sự xuất hiện những doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau phù hợp với lợi ích của các chủ doanh nghiệp và những điều kiện kinh tế xã hội là một tất yếu. Với tư cách là cơ quan đại biểu cho lợi ích của nhân dân và là người chủ sở hữu đối với một phần không nhỏtư liệu sản xuất của đất nước, Nhà nước càng phải đề cao vai trò quản lý của mình đối với nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, yêu cầu phải có một loại các văn bản pháp luật về tự do cạnh tranh, phá sản, ngăn ngừa độc quyền, chống tàn phá tài nguyên và ô nhiễm môi trường, chống tệ nạn xã hội và các hệ quả khác của nền kinh tế thị trường. Hiện nay một thực tế đang diễn ra đặc biệt nghiêm trọng là nhiều xí nghiệp, công ty ở mọi thành phần kinh tế đang lợi dụng tình hình phức tạp để làm ăn phi pháp (gian lận, tham nhũng , buôn bán trái phép…). Do đó cần khẩn trương nghiên cứu ban hành và hoàn chỉnh những văn bản pháp luật chống làm ăn gian lận, lừa đảo, làm ăn trái phép, tạo ra môi trường pháp lý vững chắc, bảo đảm sản xuất kinh doanh tự do và cạnh tranh bình đẳng trong các tổ chức và kỷ luật cao. Ban hành và hoàn thiện một hệ thống văn bản luật về thuế, để thuế trở thành một công cụ chủ yếu của nhà nước trong quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Hiện nay những văn bản pháp ký liên quan đến sự ra đời, tổ chức và hoạt động của CTCP ở Việt Nam còn thiếu đồng bộ. Mặc dù cho đến nay đã có luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, luật phá sản, ngoài ra luật thương mại luật khuyến khích đầu tư trong nước đã được thông qua, nhưng việc sửa đổi, bổ xung ban hành các văn bản pháp quy liên quan đến các luật, nhất là luật công ty còn chậm. Những quy định hiện nay trong luật công ty còn chưa được đầy đủ, một số quan điểm còn chưa rõ ràng, còn mâu thuẫn và thiếu đồng bộ về mặt pháp lý. Trong luật công ty, những quy định liên quan đến việc thành lập, hoạt động của một số loại hình công ty cổ phần còn chưa đề cập tới…Vì vậy cần phải tiếp tục sửa đổi, đồng bộ, đầy đủ, cụ thể, không mâu thuẫn, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho quá trình hình thành CTCP và CPH. Bên cạnh đó việc ra đời và hoàn thiện từng bước toà án kinh tế cũng góp phần quan trọng vào việc giữ gìn cho mọi hoạt động kinh tế được diễn ra lành mạnh, vừa ngăn chặn vừa chế tài các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự pháp lý cho các hoạt động kinh tế. Chỉ có vậy mới tạo ra môi trường pháp lý cho sự hoạt động của các CTCP, do đó mới có thể tạo ra môi trường hoạt động đảm bảo sự an toàn, xoá bỏ những nghi ngại của các nhà đầu tư. Đồng thời phải giúp các CTCP điều chỉnh lại điều lệ cho phù hợp với quy định mới. Chú trọng việc hướng dẫn thi hành các điều khoản về CTCP trong Luật doanh nghiệp mới có hiệu lực thi hành từ 1-1-2000. -Tạo lập môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển CTCP: + Giảm tốc độ lạm phát, ổn định tiền tệ là điều kiện quan trọng nhất. Tiền tệ ổn định là một điều kiện quan trọng cho sự ra đời của CTCP, tiền tệ là yếu tố tác động đến nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ là vật ngang giá chung, có vai trò nối liền tất cả các loại thị trường và nó chỉ phát huy được chức năng khi có sự ổn định tiền tệ. Sự ổn định tiền tệ sẽ thúc đẩy sự ra đời của các doanh nghiệp mới, trong đó có CTCP. Một khi các doanh nghiệp mới ra đời nó sẽ tác động tích cực trở lại đối với nền kinh tế nói chung, cũng như tiền tệ nói riêng. Bởi vì, những doanh nghiệp mới ra đời có nghĩa là một khối lượng tiền tệ trong xã hội được di chuyển vào hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó hạn chế được những cơn sốt giá cả. Với ý nghĩa đó cần có những chính sách kinh tế vĩ mô tạo điều kiện ổn định tiền tệ kích thích tiết kiệm và chuyển tiền tiết kiệm vào hoạt động đầu tư. Về thực chất người mua cổ phiếu là đầu tư tài chính với mục đích là có lợi nhuận cao hơn và đều có yêu cầu chung là phải an toàn trong khoản đầu tư đó. Nếu lạm phát thì họ sẽ không muốn giữ các khoản tiết kiệm dưới dạng tiền tệ và do đó không sẵn sàng mua cổ phiếu của CTCP. Lạm phát cao sẽ hạn chế khả năng phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp vì trong trường hợp này lợi tức cổ phiếu, trái phiếu cao, doanh nghiệp sẽ không phát hành cổ phiếu nữa. Lạm phát thấp sẽ thúc đẩy nhanh sự ra đời và phát triển thị trường vốn. + Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thể hiện vai trò điều tiết quản lý vĩ mô về mặt tiền tệ. Sự can thiệp của ngân hàng Nhà nước trên thị trường sẽ quyết định việc gia tăng hay thu hẹp khối lượng tiền tệ cung ứng trong nền kinh tế, tuỳ theo yêu cầu của nền kinh tế trong những thời điểm nhất định. Các chính sách của ngân hàng trung ương tác động đến sự hình thành và phát triển thị trường vốn. Ngân hàng thương mại có vai trò then chốt trong việc hình thành và phát triển thị trường vốn, quản lý chứng khoán cho khách hàng và tổ chức các thị trường chứng khoán. Khi xí nghiệp muốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu họ có thể nhờ dịch vụ phát hành của một ngân hàng, ngân hàng này sẽ giúp họ lựa chọn loại chứng khoán, phát hành, tư vấn về các vấn đề như lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn đề kinh tế khác. Ngân hàng thương mại có thể hành động với tư cách trung gian mua bán chứng khoán, đây là dịch vụ ngân hàng phát triển sau này được gọi là dịch vụ trung gian chứng khoán để có được kinh nghiệm và kĩ thuật chuyên môn của họ. Như vậy, ngân hàng cũng có vị trí rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển công ty cổ phần, do đó ở nước taviệc nâng cao nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng cũng là một yêu cầu cấp thiết. + Hình thành thị trường chứng khoán để tác động tích cực góp vốn đầu tư phát triển CTCP. Sự ra đời của thị trường chứng khoán sẽ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư của dân chúng. Nếu thị trường chứng khoán ra đời thì việc mua bán chứng khoán được dễ dàng, đưa vốn vào sản xuất tốt hơn. Thị trường chứng khoán và CTCP có tác dụng tương hỗ tích cực cho nhau, thị trường chứng khoán là “chợ trao đổi hàng hoá cổ phiếu” cho công ty cổ phần. Công ty cổ phần là tiền đề đáp ứng hàng hoá cổ phiếu cho yêu cầu của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán tạo thói quen đầu tư, thu hút nguồn tiết kiệm tiềm tàng trong dân chúng. Nó cũng là nơi điều tiết việc phát hành cổ phiếu, là nơi bảo đảm an toàn cho các nhà đầu tư bằng cách xem xét, đánh giá các loại cổ phiếu trước khi cho phép đem ra mua bán. Ngoài ra nó còn có thể hướng các đơn vị kinh tế đầu tư vào những ngành hay lĩnh vực được khuyến khích. Thị trường chứng khoán vừa giúp sàng lọc những công ty làm ăn không lành mạnh, kém hiệu quả để đảm bảo yên tâm cho người mua cổ phiếu đóng góp vốn, vừa tạo điều kiện luân chuyển, lưu động nhanh vòng quay vốn của các cổ đông và thông qua thị trường chứng khoán các cổ đông có quyền nhượng bán cổ phiếu để thu hồi vốn cho các yêu cầu khác cấp bách hơn, hoặc để đầu tư nơi khác có lợi nhuận tối ưu hơn. Như vậy việc hình thành thị trường chứng khoán cũng tạo môi trường thuận lợi tác động tích cực đến việc CPH các DNNN và hoạt động của các CTCP. - Sử dụng nhiều hình thức để CPH. Để thúc đẩy quá trình CPH, Nhà nước cần sử dụng nhiều hình thức CPH, bao gồm những hình thức sau: + Doanh nghiệp Nhà nước bán cổ phần cho công chúng (ưu tiên bán cho công nhân viên trong xí nghiệp ) để giảm bớt phần vốn của Nhà nước trong doanh nghiệp tạo thành sở hữu hỗn hợp có phần vốn của công nhân. + Doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ nguyên và gọi thêm vốn bằng cách phát hành cổ phiếu trong công chúng và nước ngoài. + Doanh nghiệp Nhà nước lập CTCP mới và gọi vốn công chúng cả trong và ngoài nước. - Một nguyên nhân gây chậm trễ cho quá trình CPH là do việc quần chúng còn băn khuăn, chưa nắm bắt được rõ hoạt động của CTCP, vì vậy một công tác quan trọng là phải chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương chính sách về CPH. Đây là công tác chiếm vị trí trọng yếu trong quá trình chuyển DNNN thành CTCP. Khi thực hiện công tác này cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau: + Xác định nội dung thiết thực: ngoài những nội dung chung về CTCP và chính sách chuyển DNNN thành CTCP, cần xác định nội dung trọng tâm cần phổ biến, tuyên truyền cho từng loại đối tượng cụ thể, tránh dàn trải. Chẳng hạn, người lao động quan tâm nhất đến những quyền lợi được hưởng và trách nhiệm phải gánh chịu khi doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức CTCP. + Thực hiện dưới những hình thức đa dạng và coi trọng hiệu quả của công tác phổ biến tuyên truyền. Cần bảo đảm thực sự dân chủ và cởi mở để mỗi người bộc bạch một cách công khai và thẳng thắn nhưngx vướng mắc về nhận thức. Những thắc mắc của người lao động, dù lớn hay nhỏ, phổ biến hay cá biệt, đều phải được giải đáp cụ thể. + Công tác tuyên truyền, phổ biến cần được quán xuyến trong cả quá trình CPH. Cần nắm diễn biến tư tưởng, phát hiện kịp thời những khó khăn, vướng mắc của người lao động để có biện pháp giải quyết kịp thời. - Phổ biến rộng rãi về quyền lợi và những ưu đãi đối với người lao động cũng như với người chủ doanh nghiệp. Một trong những mục tiêu của CPH DNNN là tạo động lực huy động vốn và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh . Việc thực hiện mục tiêu này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó những ưu đãi về kinh tế được coi là động lực hàng đầu. Nên chăng có quy định cho hẳn người lao động một cổ phần nhất định tuỳ theo thâm niên công tác và mức độ cống hiến của người đó với doanh nghiệp. Mặt khác, cần có sự phân biệt mức độ ưu đãi cho người lao động theo ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, khắc phục tình trạng dàn trải có tính chất bình quân như hiện nay. Cũng trên tinh thần đó, những ưu đãi đối với doanh nghiệp CPH cần được rà xét lại để bảo đảm giá trị của một động lực kinh tế thực thụ. Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ CPH và sắp xếp lại DNNN trong việc giải quyết lao động dôi dư, hỗ trợ kinh phí để đào tạo lại, trợ cấp cho người lao động tự nguyện thôi việc…Do mức sống và mức giá sinh hoạt khác nhau theo mỗi vùng, vì vậy cần điều chỉnh tiêu chuẩn xác định lao động nghèo trong doanh nghiệp để hưởng chế độ ưu đãi mua chịu cổ phiếu và trả chậm cho Nhà nước theo hướng có phân biệt theo vùng. - Đổi mới tổ chức chỉ đạo CPH DNNN. Xác định doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành CTCP trên cơ sở phương án sắp xếp lại và đổi mới quản lý các DNNN. Không chờ đợi sự tự nguyện đăng ký của các DNNN, mà kết hợp giữa chỉ định của cơ quan chủ quản và việc tuyên truyền vận động CPH. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch CPH DNNN. Trong cơ quan chủ quản của doanh nghiệp, kế hoạch này được xây dựng trên cơ sở phương án sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và xác định rõ doanh nghiệp sẽ chuyển thành CTCP, các bước công việc và tiến độ thời gian thực hiện, phân công theo dõi thực hiện. Hoàn thiện các văn bản mẫu về hướng dẫn phương án kinh doanh. - Hoàn thiện việc xác định giă trị doanh nghiệp và giải quyết những tồn đọng về tài chính. Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp- là giá trị toàn bộ tái sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm CPH mà người mua và người bán đều chấp nhận được- là phù hợp với nguyên tắc thị trường. Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp phải đảm bảo không gây thất thoát tài sản của Nhà nước, đồng thời cũng lại phải tạo điều kiện tiền đề thuận lợi cho CTCP hoạt động có hiệu quả. Theo đó, xin đề nghị mấy vấn đề sau đây: + Phân loại tài sản của Nhà nước đã đầu tư cho doanh nghiệp để có phương án xử lý thích hợp. CTCP tiếp nhận những tài sản phù hợp với phương án kinh doanh mới, Nhà nước sẽ điều chuyển cho doanh nghiệp khác hoặc tổ chức bán đấu gía những tài sản còn lại để thu hồi lại vốn, không ép buộc công ty phải nhận lại toàn bộ tài sản Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. + Với tài sản doanh nghiệp tự vay vốn đầu tư và đã hoàn trả hết vốn vay lên chia thành hai phần: một phần tính vào vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp; một phần tính cho người lao động trong doanh nghiệp, coi đó là phần Nhà nước ưu đãi khuyến khích tính tích cực, chủ động của tập thể người lao động trong phát triển doanh nghiệp. + Xác định hợp lý, hợp tình những tồn đọng tài chính của DNNN mà CTCP sẽ thừa kế. Có thể xoá bỏ những khoản nợ khó đòi, khoản lỗ phát sinh do những nguyên nhân khách quan như lạm phát, thay đổi tỉ giá hối đoái…gây nên. + Đổi mới tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp. Thu hút những chuyên gia thực sự có năng lực vào việc đánh giá tài sản, đề cao vai trò của đại diện doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. Mở rộng phân cấp trong việc quyết định giá trị doanh nghiệp theo nguyên tắc: cơ quan ra quyết định thành lập ( thành lập lại) DNNN có quyền quyết định giá trị doanh nghiệp khi chuyển đổi hình thức sở hữu, không kể giá trị doanh nghiệp ở mức nào. Điều này sẽ tạo điều kiện thực tế rút ngắn thời gian chuyển DNNN thành CTCP. Như vậy, để thúc đẩy CPH DNNN, bên cạnh những giải pháp bổ xung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tăng cường khâu tổ chức, thực hiện, cần phải có những giải pháp nhằm thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển, xây dựng thị trường chứng khoán, hoàn thiện thị trường vốn và sức lao động, tạo môi trường pháp lý đảm bảo…chỉ có thực hiện đồng bộ các giải pháp trên mới có thể đẩy nhanh tiến độ CPH trong thời gian tới. Kết luận Công ty cổ phần ra đời là một tất yếu khách quan. Nó không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ một lực lượng nào mà nó là một quá trình kinh tế khách quan, tuân theo quy luật phát triển của nền kinh tế: quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích tụ và tập trung tư bản; do sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp – cơ khí, của tiến bộ kỹ thuật; do sự phát triển mạnh mẽ của chế độ tín dụng; do mục đích phân tán tư bản để tranh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh về quản lý. CTCP ra đời từ rất lâu trên thế giới, nhưng nó mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam khoảng một thập kỷ. Mặc dù mới ra đời được vài năm nhưng CTCP đã góp phần không nhỏ vào việc cải cách khu vực kinh tế nước ta. Nó cũng góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế, thay đổi tư duy kinh tế, tăng thu nhập cho người lao động, tăngviệc tích tụ và tập trung vốn.v.v. CTCP tuy có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội, nhưng không phải là nó không có những hạn chế như mặc dù nó đem lại nhiều thuận lợi trong việc phát triển sản xuất kinh doanh, nhưng lại chuyển bớt rủi ro cho các cổ đông, nhưng trong việc kinh doanh muốn thành công thì phải mạo hiểm, do đó muốn đạt được lợi nhuận thì các cổ đông phải đầu tư vào kinh doanh. Như vậy, hình thức CTCP cũng góp phần vào việc kích thích kinh doanh. CTCP là một tổ chức có tính dân chủ cao trong kinh tế phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn, do đó quyền kiểm soát công ty trên thực tế vẫn ở trong tay các cổ đông lớn. CTCP là một biện pháp quan trọng nhằm sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nước. Nó đã gặt hái được không ít những thành công và thể hiện sự phù hợp của nó trong cơ chế thị trường. Công tác CPH đã được sự quan tân của Đảng và Nhà nước ta bằng việc ban hành một loạt những văn bản để triển khai công tác này trên thực tế. Tuy nhiên, đây là một vấn đề còn mới mẻ, và sự mới mẻ nào lại không mang theo những khó khăn, biết khắc phục những khó khăn ấy thì sẽ là một con đường dẫn đến thành công. Như vậy ta phải có những biện pháp để đẩy mạnh và nâng cao vai trò của CTCP trong phát triển kinh tế như: hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển CTCP, nhanh chóng đưa thị trường chứng khoán được hoạt động mạnh mẽ.v.v. CTCP chắc chắn sẽ chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Chúng ta hy vọng rằng với những biện pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện công tác CPH nêu trên thì CTCP sẽ góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ một cách nhanh chóng. Tài liệu tham khảo 1 - Nguyễn Hải Hà Kinh tế và dự báo Số 8/2000 2 - Trần Quang Hà Nghiên cứu kinh tế Số 241, tháng6/1998 3 - Đoàn Văn Hạnh CTCP và chuyển DNNN sang CTCP NXB Thống kê, 1998 4 - Ngô Xuân Lộc Cộng sản Số 17/1998 5 - Phan Thanh Phố Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam - NXB Giáo dục, 1996 6 - Nguyễn Ngọc Quang CPH DNNN: cơ sở lí luận và thực tiễn 7 - Tôn Tích Quý Nghiên cứu kinh tế Số 239, tháng 4/1998 8 - Nguyễn Thị Thơm Kinh tế và phát triển Số 32,tháng 9+10/1999 9 - Đặng Cẩm Thuý Nghiên cứu kinh tế Số 225, tháng 2/1997 10- Nguyễn Kế Tuấn Nghiên cứu trao đổi Số 12, tháng 6/2000 11- Lê Đình Tường Thương mại Số 22/1997 12 - Một số tài liệu khác…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35085.doc
Tài liệu liên quan