Đề tài Các giải pháp đề xuất đối với việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay

Bước và thập niên 90, các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam đã dần thích nghi và phát triển trong nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp Nhà nước cũng bộc lộ rõ những yếu kém trong quá trình quản lý kinh tế và khả năng chủ động kinh doanh. Chính vì thế Đảng ta đã đưa ra chủ trương cổ phần hóa là đúng thời điểm và hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam. Mục tiêu lớn nhất của việc “Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước” là làm phát huy tính tự chủ của doanh nghiệp, huy động sức mạnh tổng hợp, tinh thần làm chủ của các thành viên trong doanh nghiệp, huy động thêm nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác tham gia vào quá trình điều hành và quản lý doanh nghiệp. Chính phủ đã có những điều chỉnh thích hợp với điều kiện kinh tế nói chung và tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. Điều này đã tạo cho mô hình cổ phần hóa ở Việt Nam có những điểm riêng biệt độc đáo. Đó là doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Trong quá trình cổ phần hóa, các doanh nghiệp đã có khá nhiều thuận lợi, được quyết định kế hoạch sản xuất-kinh doanh phát huy sức sang tạo của thành viên trong doanh nghiệp, huy động vốn từ nhiều nguồn phục vụ cho phát triển sản xuất và đầu tư trang thiết bị cải thiện kỹ thuật, chủ động tìm kiếm thị trường, ký kết hợp đồng cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, được quyết định giá mua vào, bán ra, tự chủ trong tuyển lao động.

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp đề xuất đối với việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng cơ hoạt động của các doanh ngiệp Nhà nước chỉ nhằm cố gắng tránh né sự thẩm xét của các cơ quan cấp trên trước những sản phẩm và dịch vụ đối với người tiêu dùng cũng như tránh né sự xung đột trong nội bộ, tránh né những sự cải tổ, đổi mới tổ chức quản lý để nâng cao hiệu quả, đảm bảo cho xí nghiệp có điều kiện hoạt động dễ chịu và ổn định. Do đó, mua sắm trang bị ngày càng dư thừa, biên chế ngày càng phình to dẫn đến chi phí quá mức so với nguồn thu. Thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng thúc đẩy các nước phải tiến hành cổ phần hoá vì các khoản trợ cấp ngày càng lớn cho khu vực kinh tế quốc doanh để đảm bảo Nhà nước kiểm soát giá cả sản phẩm hoặc trang trải các chi phí về giá vốn được duy trì thấp để ổn định sản xuất ở một số ngành. Ngoài ra các khoản trợ cấp trực tiếp còn có khoản gián tiếp bị che giấu như ưu tiên vốn và ngoại tệ để nhập khẩu cho các doanh nghiệp Nhà nước với giá cả không phản ánh được tính khan hiếm của chúng. Kết quả tài chính nghèo nàn của các doanh nghiệp Nhà nước làm tăng sự phụ thuộc của chúng vào ngân sách Nhà nước. Thực tế, các nguồn tài chính có thể được Chính phủ huy động và vay nợ để trang trải thâm hụt ngân sách ngày càng suy giảm đã làm bộc lộ nghiêm trọng sự yếu kém của các doanh nghiệp Nhà nước và điều này đã làm cho việc đánh giá lại vai trò của khu vực kinh tế này ngày càng trở nên cấp bách. Sự thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Đây là nguyên nhân nhận thức dựa trên thực tiễn đã thay đổi về tình hình phát triển kinh tế theo hướng trì trệ và hiệu quả thấp ở hầu hết các nước. Vấn đề đa dạng hoá sở hữu được đặt ra và thực hiện do sự thay đổi nhận thức từ chỗ nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước đến chỗ tôn trọng nhiều hơn vào khu vực kinh tế tư nhân và vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Đây cũng là một bước phát triển mới về nhận thức đối với nền kinh tế thị trường hỗn hợp, trong đó vai trò Nhà nước được coi như một biến số của sự phát triển kinh tế - nó chỉ có tác dụng thúc đẩy khi sự can thiệp và điều tiết ở mức độ hợp lý dựa trên sự tôn trọng các quy luật thị trường. 2. Thực chất của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Xét về mặt hình thức, cổ phần hoá là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình cho các đối tượng tổ chức hoặc tư nhân trong và ngoài nước hoặc cho cán bộ quản lý và công nhân của xí nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Xét về mặt thực chất, cổ phần hoá chính là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh hiện đại. 3. Các mục tiêu cố phần hóa doanh nghiệp Nhà nước Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau: a) Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. b) Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng lượng kinh tế đất nước. 4. Các phương pháp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. * Bán cổ phần cho công chúng Nhà nước bán toàn bộ hay một phần sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp cho công chúng. Việc bán này thường được thực hiện thông qua sở giao dịch chứng khoán hay một tổ chức tài chính trung gian. Việc bán cổ phần hoá cho công chúng đòi hỏi doanh nghiệp phải có tỷ lệ sinh lợi hấp dẫn; đã có các thông tin, quản lý để thông báo công khai trên thị trường chứng khoán; có cơ chế tổ chức để thu hút các nguồn đầu tư trong xã hội. Thông qua việc bán cổ phần cho công chúng cho phép các tầng lớp dân cư rộng rãi có thể mua được cổ phần và phù hợp với mong muốn của Chính phủ khuyến khích việc mở rộng và đa dạng hoá cơ cấu sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác, biện pháp này cũng làm giảm sự tập trung tài sản kinh tế của các nhóm tư nhân, mở rộng quy mô và chiều sâu của thị trường chứng khoán. * Bán cổ phần cho tư nhân Nhà nước bán một phần hay toàn bộ số cổ phần của doanh nghiệp thuộc sở hữu một phần hay hoàn toàn của Nhà nước cho một số cá nhân hay một nhóm nhà đầu tư tư nhân thông qua đấu thầu có tính cạnh tranh hay những người mua đã được xác định trước. Các lý do đưa đến việc áp dụng rộng rãi phương pháp cổ phần hoá này bao gồm: 1) Tính linh hoạt của nó trong các điều kiện cụ thể. 2) Tính đơn giản về các yêu cầu pháp lý khi chuyển nhượng. 3) Tốc độ triển khai thực hiện nó nhanh hơn. Mặt khác, do những đặc tính trên, phương pháp này thường được ưu tiên sử dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động yếu kém hay những doanh nghiệp Nhà nước cần những người chủ đủ mạnh và có kinh nghiệm về kỹ thuật, tài chính, quản lý và thương mại, hay những doanh nghiệp có quy mô không đáng kể để có thể bán rộng rãi cho công chúng. Phương pháp cổ phần hoá này thường được lựa chon để thực hiện đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Phương pháp này cũng tạo ra sự khuyến khích lớn đối với việc tăng năng suất lao động, đồng thời, cũng là cách giải quyết vấn đề lao động trong trường hợp doanh nghiệp sắp bị giải thể. Trở ngại chính với áp dụng phương pháp này là thiếu nguồn tài chính và tín dụng bảo đảm việc chuyển giao doanh nghiệp cho cán bộ quản lý và người lao động. Các biện pháp hỗ trợ về tài chính và tín dụng được nhiều Chính phủ nều ra trong việc bán cổ phần như ưu tiên giảm giá, cho những người mua vay lãi suất thấp và dài hạn... Tuy vậy, sở hữu cổ phần gắn liền với rủi ro, thất bại và những người công nhân dễ dạng chấp nhận giảm tiền công để cơ cấu lại doanh nghiệp nhưng nếu mất cả vốn góp lẫn việc làm trong doanh nghiệp thì họ sẽ trở nên thờ ơ với ý định này của Chính phủ. 5. Các bước cổ phần hoá doanh nghiệp 5.1. Xác định giá trị tài sản doanh nghiệp a) Xác định giá trị tài sản cố định Tài sản cố định phải xác định rõ nguyên giá, giá trị hao mòn và giá trị còn lại, xác định cho từng tài sản đang dùng, không dùng, chưa dùng, cho thuê, chờ thanh lý. Trong trường hợp doanh nghiệp có tài sản cố định vô hình, như: bằng phát minh, sáng chế, hoặc tài sản vô hình khác cũng được xác định vào tài sản doanh nghiệp. Toàn bộ tài sản cố định sau khi đã kiểm kê và được tính theo giá trên sổ sách, doanh nghiệp căn cứ vào chất lượng còn lại và giá trị hiện hành của từng loại tài sản, giá trị tài sản vô hình để xác định lại giá trị tài sản thực còn. Riêng nhà cửa, vật kiến trúc, căn cứ vào biểu giá hiện hành của địa phương, nơi doanh nghiệp đóng trụ sở để xác định lại giá trị. Đất đai đang sử dụng: Không tính giá trị đất vào giá trị doanh nghiệp, Nhà nước cho phép các doanh nghiệp và công ty cổ phần sử dụng đất theo thời hạn nhất định. Công ty cổ phần phải nộp tiền thuê đất hàng năm, thực hiện theo luật đất đai và các quy định khác của Nhà nước về sử dụng đất. Trước khi giao cho công ty cổ phần sử dụng, doanh nghiệp Nhà nước đã nộp một số khoản, như: tiền đền bù, tiền san lấp mặt bằng, khoản tiền này được tính vào giá trị doanh nghiệp. b) Xác định giá trị tài sản lưu động. Bao gồm: vốn bằng tiền, vật tư, hàng hoá (căn cứ vào kiểm kê thực tế và giá trị đã được đinh giá lại theo thời giá hiện hành); các khoản phải thu, giá trị tài sản lưu động khác (Khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược, ngắn hạn...) Tổng hợp giá trị tài sản lưu động của doanh nghiệp được xác định như sau: Giá trị TSCĐ thực tế vốn = bằng tiền Giá trị VTHH + Sau khi đánh giá lại Các + khoản phải thu Nợ - khó đòi Giá + trị TSLĐ khác c) Giá trị XDCB dở dang. Đối với các công trình xây dựng dở dang gẵn liền với các hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, mà công ty cổ phần sau này có nhu cầu xây dựng tiếp, thì cũng định giá như tài sản cố định. d) Giá trị vốn góp liên doanh, liên kết (nếu có). Phần giá trị vốn góp liên doanh phải được xác định, đánh giá lại bằng số thực có, theo mặt bằng giá trị khi thực hiện cổ phần hoá. Vốn góp liên doanh: bằng tiền, vật tư, hàng hoá, tài sản cố định, mặt bằng đất đai.... e) Xác định nguồn vốn hình thành + Nguồn vốn chủ sở hữu: Các nguồn vốn và quỹ phải xác định rõ nguồn thuộc sở hữu Nhà nước (ngân sách cấp, tự bổ sung), vốn nhận liên doanh và các nguồn thuộc chủ sở hữu khác. + Nợ phải trả: Bao gồm nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và nợ khác Sau khi xác định lại giá trị từng loại tài sản và nguồn hình thành, giá trị doanh nghiệp được tính theo công thức sau: Giá trị DN Sau khi kiểm kê = đánh giá lại Giá trị TSCĐ Giá + trị TSLĐ Giá trị + XDCB dở dang Vốn góp +liên doanh liên kết Nợ phải trả Nợ phải trả - không có chủ trả Các + khoản lỗ Quỹ + PL KT Vốn + nhận LD f) Xác định lợi thế doanh nghiệp. Căn cứ để xác định lợi thế doanh nghiệp là: vị trí địa lý thuận tiện, nhãn mác có uy tín, trình độ quản lý tốt, hiệu quả kinh doanh..., được tính vào giá trị doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá. Cách tính như sau: Lấy tỉ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh bình quân của 3 năm trước khi cổ phần hoá so với lợi nhuận trên vốn kinh doanh của các doanh nghiệp cùng loại, trong ngành kinh tế - kỹ thuật, theo phân loại, trong cùng ngành kinh tế quốc dân của Nhà nước. Giá trị lợi thế bằng phần chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá nhân với giá trị doanh nghiệp sau khi kiểm kê, đánh giá lại. Giá trị DN = giá trị DN sau khi kiểm kê đánh giá lại (hoặc -) giá trị lợi thế + Chi phí tiến hành cổ phần hoá. 5.2. Mệnh giá cổ phiếu và số lượng cổ phần a) Một số khái niệm: - Cổ phần: là phần vốn tối thiểu mà mỗi cổ đông tham gia đầu tư vào công ty cổ phần, giá trị tối thiểu mỗi cổ phần là 50.000đ. - Cổ đông là pháp nhân hay thể nhân chủ sở hữu cổ phần - Cổ phiếu doanh nghiệp là chứng chỉ xác nhận sự đầu tư và quyền sở hữu về vốn của chủ sở hữu cổ phần đối với công ty cổ phần. b) Mức mua - Mỗi cổ đông là pháp nhân (các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, các tổ chức xã hội được pháp luật công nhận) có quyền mua một hoặc nhiều cổ phần ở các doanh nghiệp cổ phần hoá, nhưng mức tối đa không quá 10% giá trị doanh nghiệp. - Mỗi cổ đông là thể nhân - công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên có quyền mua tối đa không quá 5 % giá trị doanh nghiệp. - Mỗi cổ phần của công ty có giá trị như nhau và ghi bằng tiền Việt Nam. Trường hợp mua cổ phần bằng vàng hoặc ngoại tệ, đều được chuyển đổi ra tiền Việt Nam theo tỷ giá tại thời điểm thu tiền mua cổ phần. c) Cổ phiếu doanh nghiệp bao gồm các loại: cổ phiếu ghi tên (ký danh) và cổ phiếu không ghi tên (vô danh) - Cổ phiếu ghi tên là loại cổ phiếu có ghi tên người chủ sở hữu trên cổ phiếu, bao gồm: của sáng lập viên, thành viên Hội đồng quản trị, người lao động được Nhà nước cấp không và cho vay tiền mua chịu cổ phiếu. Cổ phiếu của cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị không được chuyển nhượng trong suốt thời gian tại chức và sau 2 năm, kể từ ngày thôi giữ chức thành viên Hội đồng quản trị. - Cổ phiếu vô danh là loại cổ phiếu không ghi tên người chủ sở hữu trên cổ phiếu. Cổ phiếu vô danh được tự do mua bán, chuyển nhượng. Cổ phiếu được Nhà nước cho vay mua chịu được chuyển thành cổ phiếu vô danh khi các cổ đông trả hết nợ. Việc chuyển nhượng quyền sở hữu đối với các loại cổ phiếu (vô danh, ký danh), được thực hiện tại công ty cổ phần, nơi phát hành cổ phiếu và theo các quy định khác của Nhà nước (nếu có) Cổ phiếu Nhà nước cấp cho người lao động không được chuyển nhượng mà chỉ được hưởng cổ tức đến suốt đời. d) Các pháp nhân kinh tế là doanh nghiệp Nhà nước đem vốn mua cổ phần phải được xác nhận của cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp. e) Cổ phiếu do Bộ Tài chính quy định mẫu, tổ chức in, quản lý và bán cho công ty cổ phần để phát hành, mọi chứng chỉ không do Bộ Tài chính ấn hành đều không có giá trị. 5.3. Bán cổ phiếu doanh nghiệp được cổ phần hoá. Doanh nghiệp tổ chức bán cổ phần sau khi có quyết định xác nhận của cấp có thẩm quyền về giá trị doanh nghiệp, mức được bán hoặc mức huy động thêm vốn (theo phân cấp tại điểm 1 điều 14, nghị định số 28/CP) thực hiện theo quy định sau đây. a) Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng liên tiếp nhiều lần (tối thiểu 3 lần) và niêm yết tại trụ sở công ty về việc cổ phần hoá doanh nghiệp, để các nhà đầu tư trong và ngoài doanh nghiệp hiểu, biết về tình hình cổ phần hoá doanh nghiệp. Nội dung thông báo bao gồm: Tổng giá trị tài sản doanh nghiệp, khối lượng và tỷ lệ vốn cổ phần doanh nghiệp Nhà nước bán ra, đối tượng và tỷ lệ được mua cổ phần, thời gian bán, tỷ suất doanh lợi trên vốn 3 năm trước và sau khi cổ phần hoá. b) Tổ chức đăng ký danh sách người mua cổ phần và mở tài khoản tại kho bạc Nhà nước để nộp tiền bán cổ phần. c) Khi thu tiền của các cổ đông đã đăng ký mua cổ phần, doanh nghiệp phải thực hiện đúng chế độ thu nộp tiền mặt. Cuối ngày, doanh nghiệp phải nộp toàn bộ số tiền thu được vào tài khoản mở tại kho bạc Nhà nước, không được dùng số tiền bán cổ phần sai mục đích. 5.4. Ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh 1. Giám đốc, kế toán trưởng doanh nghiệp có sự chứng kiến của Ban Cổ phần hoá tại doanh nghiệp và cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp bàn giao cho Hội đồng quản trị của công ty cổ phần: Lao động, tài sản, tiền vốn theo quyết định giá trị doanh nghiệp; danh sách, hồ sơ cổ đông và toàn bộ hồ sơ, tài liệu, sổ sách của doanh nghiệp. Ban cổ phần hoá tại doanh nghiệp bàn giao những công việc còn lại khác (nếu có) cho Hội đồng quản trị và tự giải thể. 2. Hội đồng quản trị hoàn tất những công việc còn lại: - Xin khắc dấu Công ty cổ phần. Nộp lại con dấu cũ của doanh nghiệp nhà nước chuyển toàn bộ thành công ty cổ phần hoặc con dấu cũ của bộ phận doanh nghiệp nhà nước (nếu có) chuyển thành công ty cổ phần. - Làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà nước về tài sản từ doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá sang sở hữu của Công ty cổ phần. - Tổ chức ra mắt Công ty cổ phần, đăng báo theo quy định và công bố trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông báo bằng văn bản thời điểm hoạt động của Công ty cổ phần theo con dấu mới. 3. Công ty cổ phần có trách nhiệm đăng ký kinh doanh với Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Công ty đóng trụ sở chính. 6. Chính sách đối với cán bộ công nhân viên trước và sau khi cổ phần hoá. 6.1. Lao động và chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá. Khi tiến hành xây dựng phương án cổ phần hoá, Ban cổ phần hóa tại doanh nghiệp phối hợp với giám đốc doanh nghiệp lập phương án về lao động và giải quyết chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Phương án được lập theo nội dung sau; a) Lập danh sách số lao động hiện có trong doanh nghiệp; Giám đốc doanh nghiệp lập danh sách số lao động hiện có trong doanh nghiệp tại thời điểm có quyết định tiến hành cổ phần hoá (kể cả số lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ 1 đến 3 năm: hợp đồng lao động theo thời vị, theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới một năm) 2. Phân loại số lao động theo danh sách trên thành các nhóm sau; a) Số lao động thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bao gồm: - Số lao động thuộc diện nghỉ hưu theo chế độ hưu trí. - Số lao động đang nghỉ theo 4 chế độ bảo hiểm xã hội (ốm đau; thai sản, tai nạn lao động, hay bệnh nghề nghiệp). b) Số lao động chấm dứt hợp đồng lao động tại thời điểm cổ phần hoá. c) Số lao động sẽ chuyển sang làm việc tại công ty cổ phần, bao gồm: - Số lao động còn hạn hợp đồng lao động - Số lao động đang nghỉ ba chế độ bảo hiểm xã hội mà hợp đồng lao động còn thời hạn. - Số lao động đang trong thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động. 3. Giải quyết quyền lợi đối với người lao động: a) Đối với người lao động thuộc diện được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội thì giám đốc doanh nghiệp và cơ quan Bảo hiểm xã hội, nơi doanh nghệp đóng bảo hiểm xã hội giải quyết quyền lợi cho người lao động theo quy định hiện hành. b) Đối với các trường hợp thôi việc - Giám đốc doanh nghiệp làm đầy đủ thủ tục để cơ quan Bảo hiểm xã hội nơi doanh nghiệp đóng bảo hiểm xã hội giải quyết quyền lợi bảo hiểm xã hội và cấp sổ bảo hiểm xã hội theo quy định. - Giám đốc doanh nghiệp giải quyết trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật lao động và Nghị định số 198/CP ngày 31/12/1994 của Chính phủ. c) Đối với người lao động sẽ chuyển sang làm việc tại công ty cổ phần thì giám đốc doanh nghiệp có trách nhiệm làm thủ tục để cơ quan Bảo hiểm xã hội cấp sổ bảo hiểm theo quy định và chuyển sang danh sách và hồ sơ của người lao động mà doanh nghiệp đang quản lý cho Hội đồng quản trị hoặc giám đốc Công ty cổ phần. d) Doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ về bảo hiểm xã hội cho cơ quan Bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. e) Giám đốc doanh nghiệp và người lao động thanh toán các khoản nợ trước khi chuyển sang công ty cổ phần. 6.2. Lao động và chính sách đối với người lao động khi doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần. 1. Khi doanh nghiệp có quyết định chuyển thành công ty cổ phần thì Hội đồng quản trị hoặc giám đốc công ty cổ phần có trách nhiệm. a) Tiếp nhận bàn giao số lao động b) Trên cơ sở công ty cổ phần và người lao động tiếp tục đóng Bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật thì công ty tiếp tục được cơ quan Bảo hiểm xã hội uỷ quyền thực hiện 3 chế độ bảo hiểm xã hội cho lúc đối tượng quy định . c) Tiếp tục thực hiện những cam kết trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể đã được ký kết trước đó cho đến khi hết hạn hoặc thương lượng để thay đổi, bổ sung nội dung của hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể hoặc ký kết hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể mới. d) Tiếp tục thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội. đ) Đối với lao động mà công ty cổ phần tuyển dụng mới thì thực hiện theo quy đinh chung của pháp luật. 2. Trường hợp mất việc làm sau 12 tháng kể từ khi doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần thì trợ cấp việc làm và trợ cấp thôi việc được giải quyết như sau: Người lao động được trả trợ cấp mất việc làm do thay đổi cơ cấu công nghệ quy định tại khoản 1 điều 17 của Bộ luật lao động và các điều 23, 24, 25 và 26 Nghị định số 72/CP ngày 31/10/1995 của Chính phủ. Đối với thời gian mà người lao động đã làm việc trước đó thuộc khu vực Nhà nước nhưng chưa được nhận trợ cấp mất việc, trợ cấp thôi việc thì thời gian đó được tính để nhận trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật lao động. Trường hợp, nếu người lao động đã làm việc tại doanh nghiệp thuộc đối tượng quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị định số 28/CP của Chính phủ thì công ty cổ phần thông báo cho doanh nghiệp cũ (doanh nghiệp được tách một bộ phận để cổ phần hoá) chuyển khoản tiền trợ cấp thôi việc cho công ty cổ phần trả cho người lao động. B/ Những yếu tố tác động đến quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta 1. Thực trạng của khu vực kinh tế Nhà nước ở nước ta: Ở nước ta, cũng giống như các nước XHCN trước đây thực hiện mô hình kế hoạch hoá tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển khu vực kinh tế Nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH. Vì vậy, khu vực kinh tế Nhà nước đã được phát triển một cách nhanh chóng, rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế bất kể hiệu quả đích thực mà nó mang lại, trong đó phải kể đến sự ra đời tràn lan của các doanh nghiệp Nhà nước do cấp địa phương quản lý. Tỷ trọng của kinh tế Nhà nước trong tổng sản phẩm xã hội của từng ngành tương ứng hiện nay là: xây dựng 76%; trồng rừng trong lâm nghiệp 35%; nông nghiệp 3%; trong các ngành bưu chính viễn thông, vận tải đường sắt, hàng không chiếm 100%; viễn dương 98%; đường bộ 80%. Trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp: dầu khí, điện, than, khai thác quặng, hầu hết các ngành cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, xi măng, thuốc lá... kinh tế Nhà nước vẫn nắm chủ yếu. Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tín dụng ngân hàng... hầu hết là do kiểm toán nhà nước nắm giữ. Hàng năm, kinh tế Nhà nước vẫn đang là nguồn thu ngân sách chủ yếu của ngân sách Nhà nước (khoảng 60% - 70% tổng thu ngân sách). Tuy nhiên, so với khối lượng vốn đầu tư và khoản trợ cấp ngầm qua tín dụng ưu đãi của ngân hàng, cũng như nếu bóc tách trong đóng góp hiện nay của các doanh nghiệp Nhà nước phần thuế tài nguyên do bán dầu thô, phần khấu hao cơ bản (đây là khoản thu hồi vốn của Nhà nước) và một phần rất lớn thuế tiêu thụ đặc biệt và các loại thuế gián thu khác đánh vào người tiêu dùng mà Nhà nước thu qua doanh nghiệp thì mức độ đóng góp trên còn chưa tương xứng. Các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành và phát triển trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân sách Nhà nước và do đó, tất cả các hoạt động đều chịu sự kiểm soát và chi phối trực tiếp của Nhà nước. Song cũng giống như nhiều nước trên thế giới. Khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động hết sức kém hiệu quả, đặc biệt là các doanh nghiệp do cấp địa phương trực tiếp quản lý. Có thể minh hoạ nhận xét này qua một vài chỉ tiêu cụ thể sau đây: + Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế Nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo ra một đồng thu nhập quốc dân thường cao gấp 2 lần so với kinh tế tư nhân. + Mức tiêu hao vật chất của các doanh nghiệp Nhà nước trong sản xuất cho một giá trị đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường cao gấp 1,3 lần so với mức trung bình trên thế giới. Ví dụ, chi phí vật chất của sản phẩm hoá chất bằng 1,88 lần, sản phẩm cơ khí bằng 1,3 - 1,8 lần, phân đoạn bằng 2,35 lần. Mức tiêu hao năng lượng của các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta cũng cao hơn so với mức trung bình của thế giới. Ví dụ trong sản xuất giày gấp 1,26 lần, hoá chất cơ bản bằng 1,44 lần, than bằng 1,75 lần, phân đạm 1,83 lần... + Chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp Nhà nước rất thấp và không ổn định. Trung bình trong khu vực kinh tế Nhà nước chỉ có khoảng 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. 65% số sản phẩm đạt mức độ dưới trung bình để tiêu dùng nội địa; 20% số sản phẩm kém chất lượng. Do đó, hiện tượng hàng hoá ứ đọng với khối lượng lớn và chiếm hơn 10% số vốn lưu động của toàn xã hội. + Hệ số sinh lời của khu vực kinh tế Nhà nước rất thấp. Ví dụ, hệ số sinh lời của vốn lưu động tính chung chỉ đạt 7% /năm. trong đó, ngành giao thông vận tải đạt 2%/năm. ngành công nghiệp khoảng 3%/năm, ngành thương nghiệp đạt 22%/năm.... hệ số sinh lời của vốn lưu động đạt 11%/năm, trong đó các ngành tương ứng ở trên đạt 9,4%; 10,6% và 9,5%. + Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước hết sức thấp. + Số các doanh nghiệp thua lỗ chiếm một tỷ trọng lớn. Từ năm 1989 đến nay, nền kinh tế đã thực sự bước sang hoạt động theo cơ chế thị trường . Các chính sách về kinh tế, tài chính đối với doanh nghiệp Nhà nước đã được thay đổi theo hướng tự do hoá giá cả. Chi phí ngân sách Nhà nước cho bù lỗ bù giá, bổ sung vốn lưu động cho khu vực này đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, tư tưởng bao cấp trong đầu tư vẫn còn rất nặng nề. Tất cả các doanh nghiệp được thành lập đều được cấp toàn bộ vốn từ ngân sách Nhà nước. Hàng năm trên 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi được dành cho các doanh nghiệp Nhà nước vay. Tài sản tiền vốn của nhà nước giao cho doanh nghiệp chủ yếu là không được bảo tồn và phát triển . Theo báo cáo của tổng cục thống kê, hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước mới chỉ bảo toàn được vốn lưu động, còn vốn cố định thì mới chỉ bảo toàn ở mức 50% so với chỉ số lạm phát. Hai ngành chiếm giữ vốn lớn nhất là công nghiệp và thương nghiệp (72,52%) lại là hai ngành có tỷ lệ thất thoát vốn lớn nhất ( 16,41% và 14,95%). Vấn đề nợ nần vòng vo mất khả năng thanh toán còn diễn ra khá nghiêm trọng do tình trạng quản lý của Nhà nước về tài chính đối với doanh nghiệp chậm được đổi mới, đồng thời từ đó nạn tham nhũng, lãng phí diễn ra ở mức báo động. Tựu trung lại, có thể thấy tình trạng kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước về cơ bản là do cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp tồn tại trong mấy chục năm qua. Trước đây do điều kiện lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nền kinh tế được quản lý như vậy sẽ bảo đảm huy động ở mức cao nhất mọi tiềm lực cho kháng chiến thắng lợi mà không cần tính đến hiệu quả. Tuy nhiên, khi đất nước đã chuyển sang thời kỳ hoà bình xây dựng kinh tế thì việc kéo dài quá lâu cơ chế quản lý này đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và đẩy nền kinh tế rơi vào sự khủng hoảng. Sự đổi mới tư duy về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự điều tiết định hướng của Nhà nước đã cho phép thực hiện việc phê phán và từng bước xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới thích ứng với nền kinh tế thị trường, trong đó có những chính sách, biện pháp nhằm đổi mới khu vực kinh tế nhà nước. 2. Các yếu tố thuận lợi và khó khăn trong quá trình cổ phần hoá a. Các yếu tố thuận lợi - Điều kiện và môi trường pháplý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện "thương mại hoá" các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. - Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. - Tình hình kinh tế của đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực. Giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt nam đã giữ được giá, lãi suất đã ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh... Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. - Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế hàng nhiều thành phần của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá. - Hoạt động trong cơ chế thị trường với thời gian chưa lâu nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh lớn. Người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. - Với Luật đầu tư nước ngoài và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cổ phiếu vào các doanh nghiệp Nhà nước sẽ được tiến hành cổ phần hoá. b- Về các yếu tố khó khăn và cản trở: Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình tư nhân hoá và cổ phần hoá, ở nước ta là khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ, lúng túng cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu và do đó, làm cho việc tiến hành chương trình cổ phần hoá ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển hình thái công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng. - Cùng với sự yếu ớt và nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một thị trường tài chính thực sự, trong đó có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong một nền kinh tế thị trường: nó vừa là điều kiện vừa là tấm gương phản chiếu sự ra đời và hoạt động các công ty cũng như hoạt động vốn trong thị trường tài chính. Sự thiếu vắng thị trường chứng khoán, đi liền với nó là thiếu hệ thống pháp lý và tổ chức vận hành đã gây khó khăn và cản trở cho quá trình cổ phần hoá. Đó là việc định giá doanh nghiệp để bán cổ phần hoá, việc phát hành và lưu thông cổ phiếu, việc mua bán chuyển nhượng cổ phiếu, hệ thống pháp lý và tổ chức để đảm bảo duy trì được hoạt động của thị trường chứng khoán... - Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của Nhà nước về luật pháp, thuế khoán, tiền tệ,... chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho những người muốn đầu tư lâu dài. Nhiều chính sách kinh tế ra đời chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau và thay đổi đột ngột; lạm phát chưa kiềm chế một cách chắc chắn và vẫn còn ở mức hai con số; sự đổi mới của hệ thống ngân hàng và cơ chế hoạt động tín dụng quá chậm chễ so với đòi hỏi của cơ chế thị trường... là những yếu tố gây bất lợi cho môi trường đầu tư trong nước, và do đó gây bất lợi cho quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. - Các doanh nghiệp Nhà nước hầu hết có trang bị máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, biên chế cồng kềnh, khả năng cạnh tranh thấp... do đó khó có thể tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp này; - Về tư tưởng và tâm lý của đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này. Về mặt suy nghĩ, nhiều người làm công tác lãnh đạo và quản lý Nhà nước vẫn chưa đoạn tuyệt được quan điểm coi kinh tế Nhà nước ta là CNXH và vì vậy, thu hẹp khu vực này có nghĩa là xa rời CNXH và vì vậy, thu hẹp khu vực này có nghĩa là xa rời CNXH, là phá vỡ cơ sở kinh tế của CNXH. Đa số các giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp thì ngần ngại, thậm chí phản đối vì sợ chuyển từ "người chủ" thành người "làm thuê cao cấp" sẽ chịu sự đánh giá và kiểm soát của Hội đồng quản trị và các cổ đông về trình độ và năng lực của mình, còn những người lao động thì lo sợ mất việc làm, mất biên chế Nhà nước... Đó là những trở ngại chủ quan không thể không được tính đến trong quá trình tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. - Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hoạt loạt các vấn đề liên quan đến chương trình cổ phần hoá như các khoản trợ cấp cho người lao động thất nghiệp; chi phí đào tạo lại nghề mới và thời gian tìm việc; các chi phí cho chính sách xã hội và bảo hiểm; các chi phí để thực hiện công việc tư vấn, quảng cáo, môi giới đầu tư, chi phí phát hành và các dịch vụ về buôn bán cổ phiếu... Những khoản phí tổn này là không thể bỏ qua được và thường rất lớn. Đây là chưa kể đến chính sách bán cổ phiếu giá thấp và tín dụng ưu đãi cho một số đối tượng nhất định để khuyến khích và thực hiện mục tiêu xã hội sẽ làm cho khoản phí tổn tăng lên nhiều hơn nữa. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ sẽ lợi dụng cơ hội này để tẩu tán tài sản của Nhà nước nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ. - Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất. Điều này gây nhiều trở ngại cho việc đánh giá giá trị của doanh nghiệp, tình hình và triển vọng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được cổ phần hoá... và do đó gây khó khăn cho việc cung cấp thông tin trung thực, tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phiếu đối với những doanh nghiệp này. 3. Thực trạng cổ phần hoá của doanh nghiệp ô tô khách Quảng Ninh Hiện nay cả nước có 85 DNNN trong ngành vận tải ô tô gồm: 9 doanh nghiệp trung ương và 76 doanh nghiệp địa phương, quản lý vừa qua thực hiện chủ trương cổ phần hoá các DNNN cục đường bộ Việt Nam đã chọn 5 doanh nghiệp vận tải ô tô là: - Công ty xe khách số 14 - Công ty xe khách Quảng Ninh 7 - Công ty xe khách Ninh Bình - Công ty xe khách Nghệ an - Công ty xe khách Lâm đồng 3.1 Vấn đề xác định giá trị tài sản và giá trị phần vốn của Nhà nước . Trên thực tế từ nhiều năm nay, ngành vận tải ô tô không được đầu tư phần lớn là xe cũ nát nêu trong số những đầu phương tiện đang hoạt động hiện có tới 50% là vốn tự bổ sung, hơn 10% là vốn do lái xe tự sửa sang và tu bổ. Chỉ có khoảng 40% là vốn do Nhà nước đầu tư ban đầu. Vậy xác định giá trị tài sản như thế nào. Theo nghị định số 44/1998 /NĐ-CP thì giá trị thực tế của doanh nghiệp cổ phần hoá = số lượng của từng tài sản x giá thị trường của tài sản tại thời điểm xác định giá trị DNx CL còn lại của tài sản (%)và đây cũng là yêu cầu của ban chỉ đạo tỉnh Quảng Ninh . Thế nhưng, hiện nay các đầu xe của công ty đã cũ, sử dụng nhiều năm. Nếu tính theo giá thị trường thì doanh nghiệp sẽ chịu nhiều thua thiệt khi so sánh với giá cả và chất lượng của các loại xe mới và nó cũng không phản ánh được giá trị thật của xe. Do đó, doanh nghiệp đề nghị đánh giá số đầu xe hiện có và giá trị của nó dựa trên sổ sách kế toán kiểm kê hàng năm của doanh nghiệp . Sang quá trình kiểm kê và đánh giá, tài sản của công ty được xác định là 9 tỷ đồng bao gồm 4 xưởng sửa chữa, 121 đầu xe và 325 cán bộ công nhân viên. Theo nguyên tắc: Giá thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp = g.trị thực tế của dn - các khoản nợ phải trả Thực tế tại doanh nghiệp vận tải ô tô cho thấy giá trị doanh nghiệp nên chia theo công thức 3-4-3 tức là trong số vốn tự bổ sung (50%) thì chia làm 10 phần, nhà nước sở hữu 3 phần, chia cho người lao động 4 phần để họ có tiền mua cổ phiếu còn 3 phần nên thông qua cơ quan bảo hiểm xã hội để chia cho các lao động đã nghỉ hưu giúp họ có thêm khoản tiền để mua cổ phiếu. b.Vấn đề về lao động, mua bán cổ phiếu. * Về lao động Vấn đề lựa chọn và tuyển dụng lao động vào công ty cổ phần cùng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Trước hết, đa số công nhân lái xe trong doanh nghiệp có tuổi đời đã cao phần lớn đều tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi doanh nghiệp muốn tổ chức đào tạo lại cán bộ, nâng cao tay nghề cho công nhân thì nhiều người không muốn đi vì tuổi đời đã xấp xỉ 50 tuổi . Trong khi đó lái xe loại trên 40 chỗ thì được nghỉ hưu ở tuổi 55 còn lái xe dưới 40 chỗ thì đến 60 tuổi mới được nghỉ hưu. Khi chuyển sang công ty cổ phần doanh nghiệp sẽ tổ chức và hoạt động theo một cơ chế mới kéo theo là vấn đề tổ chức lại cán bộ, hình thành các phòng ban mới. Do đó, yêu cầu đối với cán bộ sẽ cao hơn. Các doanh nghiệp đều muốn lựa chọn các lao động trẻ khoẻ có tay nghề và trình độ cao vào làm việc . Như vậy, giữa lựa chọn lao động mới và sử dụng lao động cũ sẽ xuất hiện nhiều mâu thuẫn giữa quyền lợi của doanh nghiệp và quyền lợi của người lao động, đó là một vấn đề nhức nhối không chỉ đối với công ty xe khách Quảng Ninh nói riêng mà còn cả các doanh nghiệp cổ phần hoá nói chung. * Về mua bán cổ phiếu. Theo nghị định 44CP, mời cổ đông qua một năm công tác được mua 10 cổ phiếu, mời cổ phiếu không quá 100.000đ và được ưu đãi giảm 30% đối với số công nhân lâu năm. Công ty xe khách Quảng Ninh cho phép cán bộ quản lý được mua. Mỗi người 40 cổ phiếu. Cán bộ gián tiếp và các phòng ban mỗi người được mua 20 cổ phiếu. Công nhân lái xe được mua số cổ phiếu không quá 25% giá trị của chiếc xe do mình sử dụng. Thực tế cho thấy, vấn đề làm sao để Nhà nước giữ được cổ phần chi phối trong các doanh nghiệp cổ phần hoá điều quan trọng, nhưng vấn đề cần thiết và cấp bách hơn là làm sao để mọi người tin tưởng và mua số cổ phiếu đã cổ phần hoá việc mua cổ phiếu không hấp dẫn đối với công nhân vì trước hết, đa số anh em công nhân đều còn nghèo. Họ không có nhiều tiền để mua cổ phiếu . Thứ hai, họ sợ mua cổ phiếu mà công ty làm ăn không hiệu quả thì “mất cả chì lẫn chài” gửi tiết kiệm thì chắc chắn hơn mặc dù lãi suất không cao . Thứ 3 vấn đề cổ phần hoá và thị trường chứng khoán là một vấn đề mới mẻ đối với mỗi người. Những nội dung cơ bản của cổ phần hoá thuận lợi và rủi ro của cổ phiếu là những vấn đề mọi người chưa rõ và điều đó khiến họ ngần ngại khi mua cổ phiếu. Muốn bán được cổ phiếu thì doanh nghiệp cần giới thiệu về thị trường chứng khoán để mọi người hiểu rõ và xoá bỏ khoảng cách đối với vấn đề hấp dẫn và mới mẻ này. Cuối cùng vấn đề tài chính kế toán của các doanh nghiệp làm sao cho rõ ràng. Doanh thu chi phí lợi nhuận trong báo cáo cuối năm có phải có số thực không bởi vì lợi nhuận gắn với quyền lợi của họ với số tiền mà họ đã bỏ ra. Nạn tham nhũng và sự thiếu chính xác trong các báo cáo kế toán cũng khiến mọi người không yên tâm về khi bỏ tiền mua cổ phần. Về việc công nhân không có tiền để mua cổ phiếu, thì công ty đề nghị Nhà nước cho phép doanh nghiệp được sử dụng một phần vốn tự tích luỹ để mua cổ phiếu và chia cho công nhân và giải quyết lao động cho những người lao động mất việc. Việc này cần phải giải quyết sớm để công ty cổ phần ra đời đỡ bị gánh nặng của đội ngũ lao động này. Về tỷ lệ trích thì doanh nghiệp đề nghị trích 50% vốn tự bổ sung để làm việc này. * Thành lập và hoạt động của công ty cổ phần Trong số 5 doanh nghiệp được cục đường bộ Việt Nam chọn làm thí điểm cổ phần hoá thì công ty xe khách Quảng Ninh có nhiều thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện chủ trương mới này. Hiện nay công ty đã hoàn thành xong bước 2 là xác định giá trị doanh nghiệp và xây dựng điều lệ công ty cổ phần và phát hành cổ phiếu. Công ty đã dự kiến và chọn 7 người tham gia hội đồng quản trị và chờ đại hội cổ đông thông qua. Để chuẩn bị cho cổ phần hoá công ty đã vận động công nhân góp được hơn 6 tỷ đồng để mua 87 đầu xe tốt dựa vào hoạt động, vì thế đã tạo được lòng tin của cán bộ công nhân viên. Tuy nhiên, cũng như nhiều doanh nghiệp khác nỗi lo ngại lớn nhất ở đây là liệu sau khi cổ phần hoá hoạt động dưới hình thức một công ty cổ phần thì công ty sẽ làm ăn như thế nào, khi mà các loại hình vận tải đang bung ra trên thị trường. Cuộc cạnh tranh sẽ ngày càng quyết liệt hơn bởi pháp luật vẫn còn nhiều khe hở và số xe tư nhân vẫn được thuê. Vậy làm sao tạo được sự bình đẳng trong lĩnh vực này điều lo ngại ấy cũng đang là một lực cản vô hình làm chậm tiến trình cổ phần hoá ở các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành vận tải ô tô nói chung và công ty xe khách Quảng Ninh nói riêng. CHƯƠNG II: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ XUẤT ĐỐI VỚI VIỆC CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP Ở NƯỚC TA 1. Môi trường pháp lý cần thiết cho sự ra đời và hoạt động của công ty cổ phần. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, tất cả mọi hoạt động kinh tế đều phải chịu sự định chế của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Đó là các bộ luật và văn bản dưới luật có ý nghĩa như là những điều kiện để xác lập và ổn định các mối quan hệ kinh tế ở tầm vĩ mô, tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự hoạt động của các đơn vị kinh tế phù hợp với lợi ích phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường và chuyển đổi doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty cổ phần không thể thực hiện được nếu Nhà nước không tạo lập môi trường pháp lý cần thiết làm điều kiện và cơ sở cho quá trình này. Nói chung, ở các nước có nền kinh tế thị trường hoặc đang chuyển sang nền kinh tế thị trường đều có một số bộ luật cơ bản như: Luật công ty, Luật đầu tư trong và ngoài nước, Luật thương mại, Luật phá sản, Luật lao động và bảo hiểm, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật về thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán, Luật thống kê, kế toán và kiểm toán... Một số nước còn bổ sung thêm Luật tư nhân hoá để tạo cơ sở pháp lý cho quá trình tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Trong vấn đề này Nhà nước nên có sự nghiên cứu và ban hành một bộ luật đặc biệt để làm cơ sở căn bản cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đó là Luật chuyển đổi sở hữu Nhà nước. Như ở trên chúng ta đã trình bày, trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp có sự tham gia và hoà nhập của sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân dưới hình thức các công ty cổ phần thì quá trình chuyển đổi sở hữu bằng cổ phần hoá và quốc doanh hoá diễn ra song song với nhau. Với chế độ tham dự thông qua phát hành và mua bán trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, cả hai quá trình trên diễn ra liên tục nhằm chu chuyển các nguồn vốn đầu tư và cơ cấu lại mối quan hệ giữa hai khu vực này trong nền kinh tế và không bao giờ có điểm kết thúc. Vì vậy, cần quan niệm quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước không phải chỉ có tính chất tạm thời trong một giai đoạn nhất định cũng như sẽ không còn diễn ra quá trình quốc doanh hoá trở lại các doanh nghiệp cổ phần tư nhân. Luật chuyển đổi sở hữu Nhà nước ban hành sẽ khẳng định sự cam kết của Nhà nước đi theo con đường phát triển nền kinh tế thị trường, tạo những điều kiện pháp lý cần thiết cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như dân chúng thực hiện một cách yên tâm công cuộc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước với quy mô rộng lớn, khó khăn và lâu dài của Nhà nước. Đạo luật này cũng sẽ quy định những nguyên tắc chung thể hiện về mặt pháp lý quan điểm nhất quán của Nhà nước trong các vấn đề như doanh nghiệp Nhà nước thuộc ngành và lĩnh vực nào được cổ phần hoá và có sự tham gia của khu vực tư nhân, quy trình định giá doanh nghiệp và phương thức tiến hành cổ phần hoá, hệ thống tổ chức quyết định và thi hành cổ phần hoá, quản lý và sử dụng các nguồn vốn do bán cổ phiếu cũng như xử lý các hành vi làm dụng, cố ý làm trái nguyên tắc... Bên cạnh Luật công ty và Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật chuyển đổi sở hữu Nhà nước sẽ đóng vai trò bảo đảm về mặt pháp lý cho bước trung gian chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần 2. Từng bước xây dựng thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán Thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh hoạt động kinh tế của các công ty, là nơi cung ứng các nguồn vốn và phân phối các cơ hội đầu tư cho công ty và công chúng. Trên thực tế, thị trường chứng khoán là điều kiện cho sự ra đời và hoạt động của các công ty cổ phần. Vì vậy, cùng với sự ra đời và hoạt động của các công ty cổ phần theo Luật công ty và quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước cần phải gấp rút tạo điều kiện để xây dựng thị trường chứng khoán và các sở giao dịch chứng khoán. Thông thường thị trường chứng khoán bao gồm hai bộ phận: - Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành các chứng khoán mới. - Thị trường thứ cấp là thị trường mua, bán các chứng khoán đã phát hành. Hoạt động của thị trường này được thực hiện qua các trung gian tài chính có tác dụng "cầu nối" giữa công chúng và công ty. Các trung gian tài chính thường là các công ty tài chính, các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, quỹ tiết kiệm, quỹ hưu trí... Các cơ quan này hoạt động trong hệ thống sở giao dịch chứng khoán theo nguyên tắc phát hành các phiếu ghi nợ (sổ tiết kiệm, tín phiếu...) hoặc được uỷ quyền phát hành cổ phiếu cho các công ty để thu hút tiền vốn của công chúng, sau đó dùng tiền này đầu tư vào các lĩnh vực để thu lợi nhuận như mua trái phiếu, cổ phiếu của các công ty và Nhà nước, đầu cơ bất động sản... Nhờ hoạt động với quy mô lớn và thành thạo nghiệp vụ đầu tư, các tổ chức này đã góp phần làm cho nguồn vốn trong xã hội được phân phối một cách có hiệu quả, giúp cho công chúng giảm thiếu được các rủi ro trong việc lựa chọn và giữ các loại chứng khoán, đồng thời sự cạnh tranh giữa các tổ chức này sẽ làm cho lãi suất bị hạ thấp xuống, nhưng nguồn vốn thực tế được đầu tư vào kinh doanh đạt được mức cao nhất. Điều đó làm tăng khả năng tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế và cho phép đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế. Ở nước ta, tuy đã có các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư phát triển sau khi đã chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ một cấp thành hai cấp, nhưng phương thức và phương pháp hoạt động còn chưa đổi mới kịp với những đòi hỏi của thị trường vốn trong xã hội. Hệ thống các quỹ tín dụng và ngân hàng cổ phần mới ra đời và hoạt động trong thời gian ngắn, chưa đủ thực lực và kinh nghiệm để làm điều kiện cho các công ty cổ phần ra đời và hoạt động. Hiện nay, nhận thức được tính cấp bách của vấn đề này, Chính phủ đã cho phép chính quyền ở hai thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội xúc tiến việc nghiên cứu và xây dựng thị trường chứng khoán mà bước đầu là xây dựng thị trường sơ cấp. Phải chuẩn bị một số điều kiện sau: - Nhà nước phải gấp rút xây dựng bộ Luật về thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán làm cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của loại thị trường này bao gồm các quyết định về phát hành, mua bán, chuyển nhượng chững khoán và các loại văn tự có giá khác; trách nhiệm, quyền hạn và xử lý vi phạm đối với các chủ thể tham gia, vai trò, chức năng, quy chế hoạt động và trách nhiệm của sở giao dịch chứng khoán... - Xây dựng hệ thống kiểm toán độc lập và có những văn bản luật quy định vai trò chức năng, quyền hạn và trách nhiệm hoạt động của tổ chức này. - Đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm đến mọi đối tượng và thành lập các công ty bảo hiểm như là một tổ chức tài chính quan trọng sẽ tham gia vào hoạt động của thị trường chứng khoán. - Ngoài việc củng cố và tiếp tục đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển và các quỹ tín dụng để làm nòng cốt cho việc tổ chức bước đầu phát hành chứng khoán cho các công ty, thực hiện các nghiệp vụ về mua bán chứng khoán, chiết khấu và tái chiết khấu, lựa chọn, các cơ hội đầu tư và phân tán rủi ro... Nhà nước cần thành lập một Công ty tài chính Quốc gia có trách nhiệm quản lý, sử dụng và kinh doanh nguồn vốn thuộc sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá. Công ty này sẽ góp phần quan trọng cho sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán, đồng thời cũng là một công cụ điều tiết của Nhà nước đối với hoạt động của thị trường này. - Nhà nước cũng cần soạn thảo những quy định cụ thể nhằm chọn lựa, cho phép một số tổ chức tài chính quốc tế tham gia vào thị trường này để tạo môi trường và động lực cạnh tranh đối với các tổ chức tài chính của Việt Nam, qua đó, học tập, rút kinh nghiệm, dần dần nâng cao trình độ ngang tầm với đòi hỏi của hoạt động thị trường chứng khoán trong nước và quốc tế. 3. Thành lập cơ quan Nhà nước có quyền lực để thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Thực tiễn quá trình cổ phần hoá ở các nước, đặc biệt là ở Đông Âu cũng như giai đoạn thí điểm vừa qua ở nước ta đã cho thấy sự cần thiết phải có một cơ quan được Nhà nước thành lập và uỷ quyền để giải quyết các vấn đề đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó chuyên trách theo dõi, chỉ đạo và có đầy đủ thẩm quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Tên gọi đối với cơ quan này tuy có sự khác nhau ở mỗi nước, như Bộ cải cách sở hữu (hay phủ Hunggari, Hội đồng thác quản ở Đức... Nhưng đều có cơ quan này có nhiệm vụ và quản lý và thực hiện sự chuyển đổi và đa dạng hoá sở hữu đúng với pháp luật trong các doanh nghiệp Nhà nước, chống lại sự trục lợi, tham nhũng, tẩu tán tài sản của Nhà nước. Vì vậy, ở nước ta cần gấp rút thành lập một cơ quan Nhà nước có đủ thẩm quyền với sự tập hợp của các chuyên gia am hiểu về các lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, quản trị kinh doanh, luật pháp... để chỉ đạo và điều hành có kết quả chương trình cổ phần hoá đầy khó khăn và phức tạp này. Dựa trên đề án tổng thể đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước và các luật có liên quan như Luật doanh nghiệp Nhà nước. Luật công ty, Luật chuyển đổi sở hữu Nhà nước... cơ quan này có đủ quyền hạn để quyết định những vấn đề liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Sự tồn tại và hoạt động của cơ quan này trong thời gian bao lâu là tuỳ thuộc vào mục tiêu và kết quả của quá trình đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, phạm vi và mức độ cho phép chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước sang hình thức công ty cổ phần. KẾT LUẬN Bước và thập niên 90, các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam đã dần thích nghi và phát triển trong nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp Nhà nước cũng bộc lộ rõ những yếu kém trong quá trình quản lý kinh tế và khả năng chủ động kinh doanh. Chính vì thế Đảng ta đã đưa ra chủ trương cổ phần hóa là đúng thời điểm và hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam. Mục tiêu lớn nhất của việc “Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước” là làm phát huy tính tự chủ của doanh nghiệp, huy động sức mạnh tổng hợp, tinh thần làm chủ của các thành viên trong doanh nghiệp, huy động thêm nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác tham gia vào quá trình điều hành và quản lý doanh nghiệp. Chính phủ đã có những điều chỉnh thích hợp với điều kiện kinh tế nói chung và tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. Điều này đã tạo cho mô hình cổ phần hóa ở Việt Nam có những điểm riêng biệt độc đáo. Đó là doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Trong quá trình cổ phần hóa, các doanh nghiệp đã có khá nhiều thuận lợi, được quyết định kế hoạch sản xuất-kinh doanh phát huy sức sang tạo của thành viên trong doanh nghiệp, huy động vốn từ nhiều nguồn phục vụ cho phát triển sản xuất và đầu tư trang thiết bị cải thiện kỹ thuật, chủ động tìm kiếm thị trường, ký kết hợp đồng cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, được quyết định giá mua vào, bán ra, tự chủ trong tuyển lao động. Có thể nói cổ phần hóa đã tạo ra những thay đổi mang tính bước ngoặt cho các doanh nghiệp Nhà nước, qua đó tăng cường khả năng cạnh tranh, rút ngắn khoảng cách với các doanh nghiệp khác. Cổ phần hóa đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nền kinh tế của nước ta, khiến VN trở thành một thị trường giàu tiềm năng, và đóng góp vào nỗ lực gia nhập vào Tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) về sau này. Với nhiều tính ưu việt so với các giải pháp khác, cổ phần hóa tao một bước chuyển mình mạnh mẽ cho cả nền kinh tế VN, từng bước hội nhập và thích nghi với nền kinh tế Thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. PTS: Phạm Ngọc Quang. Tạp chí kinh tế phát triển 3/1998. Chương trình khoa học cấp Nhà nước KXO3, 05, 07 Bộ tài chính 1993. Các văn bản hiện hành, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội - 1998 về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tạp chí cộng sản số 17 ( 9/1998). Tạp chí cộng sản số 13 (7/1998). Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 11 (1998). Văn kiện Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ VII, VIII. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20789.doc
Tài liệu liên quan