Đề tài Các giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành Thủy sản Việt Nam thời gian tới

Tuy nhiên so với yêu cầu của giai đoạn phát triển hiện nay, hạ tầng vật chất của ta còn nhiều yếu kém đặc biệt là trong lĩnh vực Thủy sản. Đây mặc dù là ngành kinh tế được Nhà nước đánh giá là ngành mũi nhọn nhưng các nguồn vốn vào cơ sở hạ tầng vẫn còn rất nhỏ bé so với nguồn vốn thực tế cần thiết cho ngành (từ trước đến nay phần kinh phí đầu tư của Chính phủ cho ngành Thủy sản chủ yếu được dùng vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng cơ bản - nghề cá và bến cá. Để có thể đáp ứng được các cơ sở vật chất và hạ tầng như mong muốn thì cần phải có khoảng 400 USD cho đến năm 2000). Đây cũng chính là một trong các lý do khiến cho các dự án khai thác trên biển không đem lại hiệu quả như mong muốn, vì cơ sở hậu cần trên bờ không đáp ứng được nên việc bao tiêu sản phẩm do phía nước ngoài đem về bán hoặc bán trên biển rồi nộp tỷ lệ lãi cho phía Việt Nam. Mặt khác các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nghề cá mới chỉ tập trung vào đóng tàu lớn, công suất lớn nhưng chưa kịp thời và đồng bộ với việc xây dựng cơ sở dịch vụ cho tàu, từ dịch vụ tàu cảng, bốc dỡ đến khâu tiếp nguyên nhiên liệu. Hiện nay, nhiều tàu không có cảng cá chuyên dùng để đậu, bốc dỡ, vận chuyển hàng, có tàu phải mất 4 - 5 ngày mới bốc dỡ xong hàng. Một ví dụ thể hiện đầu tư chưa đồng bộ ở khâu nghiên cứu quy hoạch bến bãi và dịch vụ là trong xây dựng bến cảng cá lại chưa chú ý đầy đủ đến sự thuận lợi về địa lý và tập quán mua bán của dân, có một số cảng cá (Cát Lở, Bà Rịa Vũng Tàu) xây xong nhưng tàu vẫn ít vào vì có cảng nhưng chưa có chợ cá.

doc87 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1112 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành Thủy sản Việt Nam thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hí hợp tác và những ưu đãi với các đối tác Đài loan trong một số lĩnh vực nhất định. Trong số 13 dự án có 9 dự án là 100% vốn, 2 dự án liên doanh. Một số dự án đã đi vào hoạt động và có doanh thu, số còn lại đang triển khai thực hiện do mới được cấp giấy phép đầu tư. Tất nhiên chúng ta chưa thể khẳng định một cách chắc chắn rằng tất cả các dự án này sẽ đạt được kết quả như mong muốn, nhưng nó hứa hẹn một tương lai mới khả quan hơn đối với hoạt động ĐTTT nước ngoài vào ngành Thủy sản Việt nam trong điều kiện chúng ta đã có hơn 10 năm kinh nghiệm về hợp tác đầu tư trực tiếp với nước ngoài. Bên cạnh Đài loan là Nhật bản và Singapore, đây là các đối tác cũng đang tham gia tích cực ĐTTT vào Thủy sản Việt nam. Nhìn chung các dự án của Nhật bản có nhiều khả năng đạt dược hiệu qủa. Trong 6 dự án còn lại hiện nay có đến 3 dự án sản xuất có doanh thu, các dự án còn lại mới được cấp giấy phép và đã góp đủ vốn pháp định đang xây dựng cơ bản. Còn Singapore thì có 2 dự án sản xuất có doanh thu, các dự án còn lại mới được cấp phép, đang xây dựng cơ bản. Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng: hợp tác với các nước phát triển như Nhật bản, có vốn lớn và kỹ thuật công nghệ phát triển thì các dự án sẽ dễ dàng thành công hơn, từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Thủy sản Việt nam. Tuy nhiên trong hơn 10 năm hợp tác phát triển, theo số liệu đã nêu ở mục I chúng ta chưa thu hút được các đối tác từ châu Âu và Hoa kỳ, đều là những đối tác có trình độ khoa học công nghệ phát triển có vốn lớn và kinh nghiệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó trong thời gian tới chúng ta cần nỗ lực hơn nữa trong việc thu hút các đối tác quan trọng này. 3. Nguyên nhân của những tồn tại Thời gian đầu khi luật đầu tư nước ngoài mới ra đời, do chưa nhất trí phân biệt thật rõ dự án thuộc nguồn vốn ngân sách và dự án thuộc nguồn vốn nước ngoài, để xác định nội dung thẩm định, phân công trách nhiệm thẩm định...Do chúng ta chưa lượng hoá cụ thể các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật trong các dự án FDI trong Thủy sản, cho nên trong một số trường hợp đã kéo dài thời gian thẩm định, một số câu hỏi đặt ra trong thẩm định làm cho chủ đầu tư khó trả lời, việc hướng dẫn của cơ quan thẩm định không cụ thể. Thiếu quy hoạch cụ thể của từng lĩnh vực và địa phương nên lúng túng, bị động trong kêu gọi đầu tư, tranh chấp ý kiến trong thẩm định dự án giữa các ngành, giữa trung ương và địa phương làm kéo dài thời gian cấp giấy phép đầu tư. Sau khi có giấy phép đầu tư, muốn thực hiện dự án phải qua rất nhiều thủ tục, chiếm thời gian khá giài, thành lập Hội đồng quản trị, tổ chức bộ máy quản lý xí nghiệp, xin khắc dấu, đăng ký chế độ kế toán, tìm ngân hàng mở tài khoản và bảo lãnh vốn vay, xin giấy phép cấp đất, đền bù giải phóng mặt bằng, xin giấy phép nhập khẩu thiết bị, máy móc, xin phê duyệt thiết kế và giấy phép xây dựng, ký kết các hợp đồng mua bán vật tư, vật liệu , tuyển công nhân... Thủ tục trước khi có giấy phép đã rườm rà, phiền hà, sau khi có giấy phép lại phiền hà, rườm rà hơn. Thực tế cho thấy các nguồn vốn FDI vào ngành Thủy sản là của các công ty nhỏ, vốn ít, chỉ đầu tư vào một lĩnh vực riêng biệt: nuôi hoặc chế biến; Đa số đều mang tính chất thăm dò, cầm chừng trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam, việc quản lý hoạt động các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý là chính. Các bộ chuyên ngành chỉ được xin ý kiến khi cần thiết. Do đó Bộ thủy sản không thể nắm được cụ thể hoạt động của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong khi quy định trách nhiệm của Bộ là những lĩnh vực liên quan đến ngành. Đánh giá về môi trường đầu tư trong lĩnh vực thủy sản nói chung là ít thuận lợi bởi những lý do sau đây: + Cơ sở hạ tầng nghề cá trên toàn quốc nhìn chung là yếu kém do không dược đầu tư đúng mức. + Công tác điều tra khảo sát nguồn lợi biển cũng như nội địa chưa dược làm thường xuyên và có hệ thống. Quy hoạch phát triển nghề cá chưa ổn định. + Vốn và năng lực hoạt động của các doanh nghiệp nghề cá thường bị hạn chế. Trình độ quản lý, nghiệp vụ, ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ, công nhân và kỹ thuật đa số là thấp. + Rủi ro do thiên tai dịch bệnh và các tai họa khác với ngành Thuỷ sản là rất lớn (vụ dịch bệnh tôm ở Minh Hải là một ví dụ) Vì những nguyên nhân trên vài năm gần đây xuất hiện hai khuynh hướng rõ nét: + Các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư 100% vốn. + Phía Việt Nam trong quá trình đàm phán thường quá đơn giản, miễn sao được Chính phủ cấp giấy phép để lôi kéo nước ngoài vào. Vì vậy xây dựng dự án sơ sài không tìm hiểu kỹ thực lực của đối tác và khả năng thực tế của mình cũng như khả năng triển khai dự án, dẫn đến dự án triển khai chậm hoặc hoạt động thua lỗ. Đó là trường hợp các đối tác không đủ khả năng tài chính như đã đăng ký. VD như Công ty Lobana (úc) đã ký hợp đồng với Seaprodex và các Công ty thuộc 5 tỉnh miền Trung thành lập liên doanh nuôi tôm xuất khẩu với tổng số vốn lên đến 100 USD. Dự án này đã phải chấm dứt khi đơn vị nước ngoài này không tìm ra nguồn vốn hỗ trợ của các Công ty khác. Ngược lại về phía các đơn vị Việt Nam cũng có không ít những lỗ hổng khiến nhiều liên doanh đầu tư phải “nửa đường đứt gánh” mặt khác cũng làm cho các đối tác nước ngoài ngần ngại khi họ muốn đầu tư. Theo Vụ kế hoạch và đầu tư (Bộ Thuỷ sản) thì trong số 40 dự án đổ vỡ có khá nhiều chủ dự án đã tự động rút lui vì hoạt động không có hiệu quả trước khi bị Nhà nước ta thu hồi giấy phép. phần III Những biện pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành Thủy sản thời gian tới I. Mục tiêu và phương hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành thủy sản thời gian tới. 1. Mục tiêu và phương hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghị quyết hội nghị TW lần thứ 4 (khoá VIII) vừa qua đã đề ra chủ trương và biện pháp tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2000. Chủ trương chung là thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, những ngành Việt Nam có thế mạnh về nguyên liệu và lao động. Ưu tiên các nhà đầu tư có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công nghệ nguồn, chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại. Để tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong thời gian tới sẽ trở bổ sung các chính sách ưu đãi thiết thực có sức hấp dẫn cao, nhất lá những vùng ngành ưu tiên, ưu đãi đặc biệt đối với đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa, nâng cao chất lượng quản lý các dự án đã cấp giấy phép theo hướng vừa tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư vừa đảm bảo chấp hành tốt luật pháp Việt Nam. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam coi đầu tư trực tiếp nước ngoài là một phương tiện hết sức quan trọng để đạt mục tiêu chiến lược của mình. Việt Nam đã đưa ra chính sách nhất quán và lâu dài về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mục tiêu và phương hướng tổng quát của chính sách này là tranh thủ tối đa nguồn vốn và công nghệ kỹ thuật của nước ngoài để thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế vào đầu thế kỷ thứ 21. Để thực hiện thành công nhiệm vụ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam , ngoài những nỗ lực của chúng ta nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như bảo đảm ổn định chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô, thiết lập môi trường pháp lý lành mạnh, xây dựng cơ sở hạ tầng... Thì điều quan trọng hơn là phải dung hoà được lợi ích của chúng ta với lợi ích của các đối tác bên nước ngoài. Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế và cũng là những lợi thế tuyệt đối để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng chúng ta cũng còn nhiều khó khăn trở ngại, đòi hỏi phải nỗ lực để vượt qua, trước hết phải khắc phục ngay những trở ngại do chính chúng ta gây ra và loại bỏ dần các nguy cơ gây mất ổn định. Trong bối cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi, cùng với lợi thế của mình Việt Nam sẽ trở thành một tiêu điểm hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta không được phép bỏ lỡ cơ hội. Phát triển hay tụt hậu, điều này phụ thuộc không nhỏ vào kết quả thực hiện chính sách thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2. Mục tiêu và phương hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành Thủy sản thời gian tới (1999 - 2010). 2.1. Mục tiêu : Phát huy lợi thế so sánh trong phát triển kinh tế biển, trên cơ sở khai thác hợp lý, bền vững nguồn tài nguyên to lớn về đất, nước, tài nguyên sinh vật và khả năng huy động mọi nguồn vốn đầu tư trong, ngoài nước. Góp phần đẩy mạnh sự chuyển dịch, phát huy công nghiệp hóa hiện đại hóa đối với ngành Thủy sản đồng thời đẩy mạnh việc chuyển đổi phát triển cơ cấu kinh tế nông thôn. Trên cơ sở thực hiện tốt các chương trình kinh tế lớn của Chính phủ với ngành Thủy sản, mục tiêu của ngành thời kỳ 1999 - 2010 như sau : + GDP Thủy sản tăng 8,7 - 13 lần (58.000 - 93.000 tỷ đồng) so với năm 1995. + GDP Thuỷ sản trong GDP toàn quốc chiếm 3%-4% + Tổng sản lượng Thủy sản tăng bình quân 4,8 - 5,1%, trong đó sản lượng khai thác hải sản tăng 1,7%/năm và nuôi trồng Thủy sản tăng 8,5%/năm. Nâng đóng góp nuôi trồng Thủy sản lên 50% trong tổng sản lượng Thủy sản vào năm 2010. Tổng sản lượng Thủy sản sẽ đạt 1,9 triệu tấn vào năm 2000 ; 2,2 triệu tấn năm 2005 và 2,5 triệu tấn năm 2010. + Kim ngạch xuất khẩu tăng tốc độ trung bình 15 - 25%/năm, trong đó giai đoạn 1995 - 2000 tăng 20 - 27%/năm, năm 2000 - 2005 là 12,7 - 25%, 2005 - 2010 là 13,3 - 23%/năm. Giá trị xuất khẩu tương ứng là 1,1 tỷ USD (2000) ; 1,8 - 2,9 tỷ USD (2005) và 3,5 - 4 tỷ USD (2010). Số lao động nghề cá tăng trung bình 2,65%/năm, tăng từ 3.030.000 lao động (1995 ) lên 3.400.000 lao động (2000), 3.900.000 lao động (2005) và 4.400.000 lao động (2010). Trong đó lao động trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản tăng gấp 2 lần. Từ các mục tiêu tăng trưởng trên, số vốn dự kiến đầu tư cho thời kỳ 1999 - 2010 là : Bảng 15: Vốn đầu tư thời kỳ 1999-2010 Chỉ tiêu Số vốn (Tỷ đồng) Tỷ lệ (%) Tổng mức đầu tư 35.490 Ngân sách 4.623,7 13% Vốn tín dụng đầu tư 11.711,7 33% Vốn huy động 15.615 44% Vốn nước ngoài 3.549 10% Trong đó: FDI 1.774,5 5% Qua mục tiêu trên chúng ta có thể thấy vai trò của vốn đầu tư trong nước, mặc dù còn ít nhưng lại chiếm tới 90% tổng vốn đầu tư cho toàn ngành, trong khi đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lại chỉ chiếm 5%. Đây không phải là dấu hiệu xấu của tình trạng thu hút FDI vào ngành Thủy sản mà ngược lại, Nhà nước ta đang cố gắng đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng về cá trong khả năng có thể để tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc thu hút nguồn đầu tư trực tiếp để phát triển ngành. Bảng 16 : Cơ cấu vốn đầu tư chia theo lĩnh vực từ năm 1996 - 2000 Các lĩnh vực Số vốn (triệu USD) Tỷ lệ % Nuôi trồng thủy sản 210 36% Khai thác hải sản 170 30% Chế biến thủy sản 140 24% Dịch vụ hậu cần 60 10% Tổng 580 100% Như vậy trong giai đoạn 1996 - 2000 mục tiêu đầu tư lớn nhất là lĩnh vực nuôi trồng thủy sản chiếm 36% tổng số vốn FDI. Tiếp đến là lĩnh vực khai thác hải sản, nhưng thực tế cho đến nay mặc dù có rất nhiều đối tác muốn tham gia vào lĩnh vực này nhưng chúng ta chưa có chủ trương và phương hướng cụ thể đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cho lĩnh vực này. 2.2. Phương hướng 2.2.1. Phương hướng đầu tư của ngành Thủy sản (1999 - 2010). -Đầu tư theo quy hoạch phát triển ngành, phù hợp với quy hoạch vùng lãnh thổ để đảm bảo phát triển sản xuất bền vững trên cơ sở đảm bảo tăng trưởng kinh tế song không gây suy thoái môi trường. - Đầu tư cho các chương trình đã được hoạch định như đánh bắt hải sản xa bờ, nuôi trồng thủy sản, xuất khẩu thủy sản và đồng bộ hơn cho các chương trình này để mang lại hiệu quả kinh tế xã hội có kết hợp với an ninh quốc phòng cao nhất. - Xác định cơ cấu đầu tư nhằm chuyển dịch đầu tư theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa ngành Thủy sản. - ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực tạo ra giá trị sản phẩm cao, giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho dân và có tích luỹ để mở rộng sản xuất. Đặc biệt ưu tiên sản xuất mặt hàng có giá trị xuất khẩu. - Đầu tư có trọng điểm cho công nghệ, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng phục vụ sản xuất kinh doanh. - Đầu tư đồng bộ để hình thành các cụm công nghiệp thuỷ sản từ khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm song song với quá trình đô thị hoá vùng nông thôn ven biển. - Đầu tư hình thành các vùng nuôi tôm công nghiệp tập trung phù hợp với môi trường sinh thái, đảm bảo hài hoà giữa sản xuất và bảo vệ môi trường, tạo điều kiện tiền đề cho phát triển bền vững. 2.2.2 Đầu tư cho các chương trình kinh tế của ngành. Trên cơ sở định hướng chung ở trên, để việc đầu tư trực tiếp có hiệu quả ngành dự kiến hình thành các dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài theo từng lĩnh vực đầu tư như sau : + Về nuôi trồng thuỷ sản : - Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo cách hình thành các vùng nuôi tập trung chuyển dần từ nuôi quảng canh sang hình thức nuôi quảng canh cải tiến và nuôi công nghiệp. - Tập trung vào nuôi trồng thuỷ sản vùng triều và eo vụng biển. Đối tượng chính của các dự án là tôm, cua, tôm hùm, một số loài nhuyễn thể, cá biển, rong biển. - Ưu tiên các dự án xây dựng đồng bộ từ khâu sản xuất giống đến nuôi thịt, chế biến thức ăn, phòng và trị bệnh , chế biến sản phẩm xuất khẩu. - Đầu tư để hình thành các vật nuôi tập trung tiến tới đầu tư và hình thành các tổ hợp công nghiệp trong nuôi trồng thuỷ sản. - Đầu tư vào lĩnh vực nuôi nước lợ, mặn và các đặc sản giá trị cao, có thị trường tiêu thụ. - Các dự án nuôi phải gắn liền với các giải pháp bảo vệ môi trường và phòng chống dịch bệnh để đảm bảo phát triển nuôi trồng bền vững. + Về khai thác hải sản có 2 dạng ưu tiên. - Các dự án đánh bắt hải sải ở vùng nước xa bờ bao gồm tổ chức đội tàu gắn liền với việc xây dựng cơ sở hậu cần cảng, cơ khí tàu thuyền và bảo quản chế biến trên bờ một cách đồng bộ. - Tạo cơ sở hậu cần dịch vụ bến cá cho nghề cá nhân dân, kết hợp với việc xây dựng làng cá. Các dự án khai thác, chế biến gắn liền với việc điều tra khảo sát và bảo vệ nguồn lợi hải sản nhằm thực hiện khai thác hải sản lâu bền. + Về các lĩnh vực chế biến, bảo quản và tiêu thụ. - Ưu tiên hàng đầu cho các dự án nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức lại hệ thống tiêu thụ sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Tăng cường các biện pháp vệ sinh công nghiệp. - Các dự án tạo ra sản phẩm từ nguồn nguyên liệu dồi dào nhưng chưa có thị trường tiêu thụ. Nội dung các dự án phải đề cập đến : - Đổi mới thiết bị và dây chuyền công nghệ. - Tạo ra vùng nguyên liệu mới - Tăng cường hệ thống bảo quản từ nguyên liệu đến thành phẩm Từ trước đến nay do điều kiện khó khăn về điện, nước, giao thông nên các trung tâm chế biến tập trung chủ yếu ở các đô thị lớn. Nay điều kiện hạ tầng đã từng bước được cải thiện nên khuyến khích các dự án chế biến đặt tại các vùng nguyên liệu. + Về hậu cần dịch vụ nghề cá. Ưu tiên các dự án sản xuất phụ tùng, phụ kiện máy thủy, máy lạnh, lưới sợi bao bì, đóng sửa tàu thuyền, cảng cá, kho tàu, vận chuyển, thông tin liên lạc... nhằm phục vụ cho sản xuất khai thác, nuôi trồng, bảo quản chế biến trong nước và xuất khẩu. Các dự án về 4 lĩnh vực trên đây đều phải gắn liền với việc nghiên cứu khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề, trao đổi thông tin khoa học kỹ thuật và kinh tế thị trường. Quá trình phát triển thủy sản sẽ được thực hiện thông qua việc tích cực xác định các nguồn vốn đầu tư và việc thực hiện các dự án đầu tư theo quy hoạch phát triển nghề cá quốc gia đã được hoạch định. III. Các giải pháp thúc đẩy hoạ` Nhận thức được tầm quan trọng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh tế Việt Nam, từ khi có luật đầu tư nước ngoài (1986) đến nay chúng ta đã cố gắng tạo điều kiện thuận lợi nhất để thu hút thúc đẩy hơn nữa hoạt động này bằng việc sửa đổi cũng như đưa ra các biện pháp khuyến khích các chủ đầu tư nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam. Vì thế cho đến nay có thể nói môi trường đầu tư của Việt Nam thật sự thông thoáng đảm bảo những điều kiện thuận lợi nhất cho các đối tác đầu tư nước ngoài thực hiện các hoạt động kinh doanh trên đất nước Việt Nam. * Thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa quyết định đối với việc thu hút đầu tư và biểu hiện ở những khía cạnh : - Quyết định đến tiến độ dự án - Là biểu hiện cụ thể về tính lành mạnh của môi trường đầu tư từ đó tác động mạnh mẽ đến thái độ của nhà đầu tư nước ngoài. Dù luật đầu tư có mềm dẻo thông thoáng nhưng thủ tục đầu tư rườm rà, phức tạp tạo ra những khe hở để các cơ quan chức năng liên quan gây khó khăn, cản trở và thiệt hại đến lợi ích của các nhà đầu tư làm họ nản lòng. Kinh nghiệm quốc tế những năm qua cũng cho ta bài học : Mặc dù độ thông thoáng như nhau, tạo ra tính hấp dẫn do luật đầu tư mang lại như nhau, nhưng ở nước nào có thủ tục đầu tư đơn giản gọn nhẹ thì ở đó thu hút đầu tư mạnh hơn. Đối với nước ta trong những năm trước đây, thủ tục đầu tư là một vấn đề gây trở ngại đến việc thu hút đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn thời gian chuẩn bị kéo dài (thường từ 6 tháng đến 1 năm) thêm vào đó việc chuẩn bị dự án của bên Việt Nam thường sơ sài, khi đàm phán phải sửa đổi bổ sung nhiều lần. Các nhà đầu tư đánh giá sử dụng đầu tư của Việt Nam quá rườm rà, gây lãng phí thời gian. Do đó quyết định số 233/1998/QĐ - TTg ngày 1/12/1998 của Chính phủ về việc phân cấp, ủy quyền cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài đã khắc phục tình trạng này bằng các sửa đổi như : - Cho phép các ủy ban nhân dân tỉnh xem xét cấp phép FDI tại địa phương với điều kiện. Dự án : + Phù hợp với quy hoạch phát triển ngành đã được duyệt + Quy mô vốn dưới 5 triệu USD (từ các lĩnh vực cấm : dầu khí, sản xuất điện, xây dựng cảng, sân bay, đường sắt, quốc lộ, xi măng, luyện kim, đường, mía, rượu, thuốc lá hoặc các dự án trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao). + Có tỷ lệ xuất khẩu đáp ứng quy định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. + Phía nước ngoài tự đảm bảo nhu cấu ngoại tệ + Thiết bị, công nghệ đáp ứng các công nghệ hiện hành. + Đảm bảo vấn đề môi trường, an toàn lao động và phòng chống cháy nổ. - Uỷ ban nhân dân tỉnh duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu của các Công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (không phải qua Bộ Thương Mại như trước). * Các biện pháp khuyến khích đầu tư. Đây thực sự là đòn bẩy kinh tế vì nó quyết định trực tiếp tới mức lợi nhuận. Chính sách thuế cởi mở với tỷ suất thấp, giá thuê đất cùng với tiền lương thấp... sẽ làm cho chi phí thấp đi và như vậy trong điều kiện bình thường thì đương nhiên lúc lợi nhuận sẽ cao, có lợi cho các nhà đầu tư. Vì vậy, Nhà nước đã sử dụng biện pháp này như một công cụ lợi hại trong cạnh tranh trên thị trường đầu tư. Tuy nhiên cách sử dụng công cụ này không giống nhau ở các nước xong thông thường ở giai đoạn đầu thu hút đầu tư và những năm đầu khi nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh, nước chủ nhà có sự ưu đãi, thậm chí miễn thuế để họ bù đắp những thiếu hụt do rủi ro. Sau đó giảm dần ưu đãi và từng bước nâng mức thu lên. Đối với nước ta trong những năm qua tuy đã có nhiều cải tiến về chính sách thuế, giá thuê đất nhưng chưa thực sự phù hợp. Do đó từ năm 1998 đã ban hành một loạt các văn bản nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong Nghị định 10/1998 - CP ngày 23/1/1998, thông tư số 63/1998/TT - BTC ngày 13/5/1998 của Bộ Tài chính (hướng dẫn thực hiện một số quy định về thuế theo Nghị định 10) quyết định số 179/1998/QT - BTC ngày 24/2/1998 của Bộ Tài chính (quy định về tiền thuê đất, nước, biển cho FDI) và quy định mới nhất của Thủ tướng Chính phủ số 53/1999/QT - TTg ngày 26/3/1999 về một số biện pháp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các nội dung cụ thể : Nhằm khuyến khích và tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đảm bảo chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài ổn định, lâu dài trên nguyên tắc có lợi cho nhà đầu tư cũng như điều chỉnh sự có lợi cho các doanh nghiệp đã có giấy phép, bỏ các điều lệ nếu có hại đến lợi ích của các nhà đầu tư. - Điều chỉnh giá một số hàng hoá và dịch vụ + Từ ngày 1/7/1999 giá bán điện cho sản xuất (giờ bình thường, cấp điện áp từ 6KV - 20KV) của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 7,5 cent/KWh. + Giá cước viễn thông từ 1/7/1999 : Giá lắp đặt điện thoại đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài áp dụng như mức quy định đối với doanh nghiệp trong nước và người Việt Nam. Từ ngày 1/7/1999 giảm bình quân 10% cước phí cước viễn thông quốc tế hiện hành từ Việt Nam đi các nước, mức phụ thu cước phí viễn thông từ khách sạn không quá 15% so với cước tại bưu điện. + Giá nước sạch : Từ 1/7/1999 ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện biểu giá nước sạch theo mục đích sử dụng không phân biệt doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người Việt Nam và người nước ngoài. - Mua, bán hàng hóa với doanh nghiệp chế xuất. Trừ những hàng hoá cấm xuất khẩu, các doanh nghiệp và cá nhân trong nước được bán hàng hóa do doanh nghiệp chế xuất, được miễn thuế xuất khẩu. - Tuyển dụng và đào tạo lao động : Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuyển dụng lao động Việt Nam thông qua các tổ chức cung ứng lao động Việt Nam. Sau thời hạn tối đa 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu cung ứng lao động của doanh nghiệp và tổ chức cung ứng lao động của Việt Nam không đáp ứng được, thì doanh nghiệp được trực tiếp tuyển dụng lao động Việt Nam. Bộ lao động - thương binh và xã hội sắp xếp, củng cố các tổ chức cung ứng lao động nhằm đào tạo nâng cao chất lượng lao động cung ứng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Một số biện pháp bổ sung về khuyến khích đầu tư. + Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đáp ứng được một trong các điều kiện sau đây được hưởng ưu đãi như đối với các dự án thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư : a) Xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở lên. b) Xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên và sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu, vật tư trong nước (có giá trị từ 30% chi phí sản xuất trở lên) c) Đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn đáp ứng một trong các điều kiện : - Xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên trong lĩnh vực nuôi, trồng, chế biến nông lâm thủy sản. - Xuất khẩu từ 50% sản phẩm và sử dụng trên 500 lao động - Xuất khẩu từ 30% sản phẩm và sử dụng nhiều nguyên liệu, vật tư trong nước (có giá trị từ 30% chi phí trở lên). d) Sản xuất linh kiện, phụ tùng cơ khí, điện, điện tử có giá trị gia tăng cao, sử dụng nhiều nguyên liệu vật tư trong nước. e) Chế biến khoáng sản tại Việt Nam + Các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng cơ khí, điện tử, điện được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản xuất trong 3 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất. + Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào địa bàn vùng núi, vùng sâu, vùng xa được hưởng mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 5%. + Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gặp khó khăn trong việc triển khai dự án phải tạm ngừng xây dựng hoặc tạm ngừng hoạt động được giảm hoặc miễn tiền thuê đất tương ứng với thời gian tạm ngừng. Những nội dung sửa đổi bổ sung vừa có ý nghĩa quan trọng đối với việc cải thiện môi trường pháp lý, khuyến khích đầu tư vừa tạo cơ sở để hướng đầu tư trực tiếp vào những mục tiêu ưu tiên phù hợp với kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo cho việc hợp tác đầu tư vốn nước ngoài được tiến hành trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. 2. Các giải pháp cụ thể. Việt Nam đang trên đà phát triển với mục tiêu tăng trưởng kinh tế 7 - 8% mỗi năm đang có nhu cầu lớn về nguồn vốn trong đó có nguồn vốn FDI. Trong thực tiễn những năm qua cho thấy thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực thủy sản còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam về đất đai, mặt nước, các nguồn lượng hải sản phong phú và nguồn lao động dồi dào trong lĩnh vực này. Do đó vấn đề đặt ra là cần có giải pháp để thu hút và thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Thủy sản. Ngoài những biện pháp từ hệ thống văn bản về các biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung ở trên thì đối với lĩnh vực thủy sản cần phải có giải pháp riêng phù hợp với đặc điểm của ngành. Cụ thể : 2.1 Xây dựng quy hoạch tổng thể về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho ngành Thủy sản Trước hết cần tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ngành Thủy sản đến năm 2010 và quy hoạch chi tiết cho những lĩnh vực, khu vực quan trọng. Ngoài ra cần phải xây dựng một quy hoạch về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cho ngành Thủy sản. Đây là một đòi hỏi cấp bách, có liên quan đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Thủy sản cũng như các địa phương xây dựng và công bố các danh mục dự án kêu gọi đầu tư trên bình diện cả nước. Điều này cho phép chúng ta chủ động được trong việc gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và hướng nó vào mục tiêu của chúng ta. Do trước đây, chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong các niên độ để làm cơ sở cho việc chủ động xây dựng các dự án kêu gọi đầu tư và tài trợ từ nước ngoài chưa được hoạch định rõ ràng, nên phần lớn các dự án được triển khai thường do các nhà đầu tư đề xuất. Tình trạng này tuy đã từng bước được chấn chỉnh nhưng ngành Thủy sản vẫn cần phải xây dựng quy hoạch tổng thể cho hoạt động này thì mới có thể thực sự chủ động trong việc chuẩn bị mặt bằng, cung ứng các dịch vụ hạ tầng kỹ thuật, huy động vốn đối ứng và xử lý các vấn đề kinh tế xã hội liên quan đến tổ chức triển khai dự án. 2.2. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật nghề cá Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thì kết cấu hạ tầng cơ sở thuận lợi là điều kiện tiên quyết vì kỹ thuật cao chỉ phát huy được trong một cơ sở hạ tầng thích hợp. Do vậy tư bản nước ngoài chỉ chảy đến môi trường đầu tư thuận lợi, mà sự thuận lợi trước hết là nơi có cơ sở hạ tầng vật chất hoàn chỉnh hiện đại. Trong quá trình cạnh tranh vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước trên thế giới luôn cố gắng vừa tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi vừa nỗ lực xây dựng một cơ sở hạ tầng hiện đại ở mức có thể để thu hút được nhiều nguồn vốn FDI nhất cho phát triển kinh tế quốc gia. Tuy nhiên so với yêu cầu của giai đoạn phát triển hiện nay, hạ tầng vật chất của ta còn nhiều yếu kém đặc biệt là trong lĩnh vực Thủy sản. Đây mặc dù là ngành kinh tế được Nhà nước đánh giá là ngành mũi nhọn nhưng các nguồn vốn vào cơ sở hạ tầng vẫn còn rất nhỏ bé so với nguồn vốn thực tế cần thiết cho ngành (từ trước đến nay phần kinh phí đầu tư của Chính phủ cho ngành Thủy sản chủ yếu được dùng vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng cơ bản - nghề cá và bến cá. Để có thể đáp ứng được các cơ sở vật chất và hạ tầng như mong muốn thì cần phải có khoảng 400 USD cho đến năm 2000). Đây cũng chính là một trong các lý do khiến cho các dự án khai thác trên biển không đem lại hiệu quả như mong muốn, vì cơ sở hậu cần trên bờ không đáp ứng được nên việc bao tiêu sản phẩm do phía nước ngoài đem về bán hoặc bán trên biển rồi nộp tỷ lệ lãi cho phía Việt Nam. Mặt khác các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nghề cá mới chỉ tập trung vào đóng tàu lớn, công suất lớn nhưng chưa kịp thời và đồng bộ với việc xây dựng cơ sở dịch vụ cho tàu, từ dịch vụ tàu cảng, bốc dỡ đến khâu tiếp nguyên nhiên liệu. Hiện nay, nhiều tàu không có cảng cá chuyên dùng để đậu, bốc dỡ, vận chuyển hàng, có tàu phải mất 4 - 5 ngày mới bốc dỡ xong hàng. Một ví dụ thể hiện đầu tư chưa đồng bộ ở khâu nghiên cứu quy hoạch bến bãi và dịch vụ là trong xây dựng bến cảng cá lại chưa chú ý đầy đủ đến sự thuận lợi về địa lý và tập quán mua bán của dân, có một số cảng cá (Cát Lở, Bà Rịa Vũng Tàu) xây xong nhưng tàu vẫn ít vào vì có cảng nhưng chưa có chợ cá. Do đó cần phải có những giải pháp kinh tế phù hợp, nhanh chóng kiến tạo được một cơ sở hạ tầng vật chất thích hợp vốn để thu hút, kỹ thuật nước ngoài. Đây là công việc không phải dễ dàng thực hiện ngay được trong điều kiện tiềm lực kinh tế Việt Nam còn nhỏ bé, nhất là nguồn vốn ngân sách Nhà nước còn hạn chế. ở đây có hai giải pháp khả thi có thể mang lại hiệu qủa : -Thứ nhất là trong điều kiện không có nhiều vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá, thì trước mắt chúng ta phải nghiên cứu kỹ sở trường và phương thức kinh doanh để kết hợp đồng bộ với quy hoạch tổng thể, xác định những nơi có vị trí địa lý, kinh tế xã hội thuận lợi để đầu tư tạo điều kiện thuận lợi thu hút nhiều dự án nhất. -Thứ hai là cố gắng giải quyết tốt các mối quan hệ về kinh tế chính trị với các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức kinh tế để có được các khoản hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư vào các chương trình xây dựng hạ tầng vật chất. Ngoài ra, phải có kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để huy động các tiềm năng của toàn dân đưa vào giải quyết những công trình trọng điểm. 2.3.Sớm ban hành luật Thủy sản Việt Nam Môi trường pháp lý là một bộ phận quan trọng không thể thiếu của môi trường đầu tư. Một hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ, vận hành hữu hiệu là một trong những yếu tố quyết định tạo nên môi trường kinh doanh toàn diện, định hướng và hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tính hấp dẫn của một quốc gia về lĩnh vực đầu tư trước hết phải được thể hiện ở luật. Đối với mọi quốc gia, luật đầu tư nước ngoài là một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là điều mà tất cả các nhà đầu tư đều quan tâm. Cùng với luật là các văn bản cụ thể dưới luật trong hệ thống luật pháp là không kém phần quan trọng. Các nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư vào một nước đều phải đụng chạm tới rất nhiều vấn đề về luật pháp và các văn bản dưới luật (như việc góp vốn, thuê đất, tuyển dụng lao động, xuất nhập khẩu, tiêu thụ hàng hoá trên thị trường và quan hệ lao động, quan hệ với các bạn hàng...). Do đó, nếu không có các văn bản hướng dẫn cụ thể thì họ không hiểu được ý đồ của nước chủ nhà và sẽ không thể hoạt động có hiệu quả cao. Thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có luật về các hoạt động nghề cá tại Việt Nam, cho nên trong một số trường hợp các nhà đầu tư có thể chưa được trang bị đầy đủ các kiến thức liên quan dẫn đến việc áp dụng không đúng hoặc không đầy đủ, trong đó đối với hoạt động đầu tư trực tiếp cần quy định rõ hơn về : những yêu cầu về mặt quy chế đối với các giấy phép đầu tư, những yêu cầu về mặt quy chế đối với việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu, quy định về biểu giá thuế rõ ràng về đất đai và tài nguyên, và phải rõ ràng giữa hệ thống hành chính và luật pháp. Bên cạnh đó cần có một quy định về việc thu hút vốn đầu tư thống nhất theo ngành và lãnh thổ để hướng dẫn đầu tư tránh trường hợp nhiều dự án tiếp tục được cấp giấy phép trong những lĩnh vực đã bão hòa (trong khi nhiều lĩnh vực chưa có chủ trương thu hút vốn) dẫn đến nhiều dự án hoạt động kém hiệu quả. Sau khi đưa ra được Luật Thủy sản, thì việc phổ biến luật này ở các địa phương, các cơ quan đoàn thể liên quan là rất quan trọng. Từ đó giúp cho mọi người hiểu hơn và tuân thủ luật pháp cũng như chấm dứt sự vận dụng và thi hành pháp luật tùy tiện đang nổi lên như một yêu cầu cấp bách. 2.4 Cải cách thủ tục hành chính, hình thành cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm phát huy tiềm năng, hỗ trợ và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cải cách hành chính, quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hợp tác đầu tư là biện pháp chủ yếu để cải thiện môi trường đầu tư. Mặc dù đã có những đổi mới hướng dẫn thực thi theo các văn bản nhằm khuyến khích đầu tư, nhưng các thủ tục hành chính để triển khai một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn rườm rà, còn qua nhiều khâu, làm tốn thời gian công sức của các nhà đầu tư và giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Khi nhược điểm này đã được phát hiện thì việc khắc phục chậm và ít hiệu quả. Bên cạnh đó, các chính sách phát huy tiềm năng của các thành phần kỹ thuật, phát huy năng lực của đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm ở các cấp ngành chưa được cụ thể hoá. Những vấn đề này nếu không được quan tâm giải quyết tốt cũng sẽ gây cản trở không ít đến môi trường đầu tư, làm tăng thêm những rủi ro, mặt hạn chế trong quá trình hợp tác đầu tư, kinh doanh với nước ngoài. Vấn đề thực sự quan trọng không còn nằm trong chính sách mà là việc thực hiện chính sách đó. Một số công tác trước mắt là : + Đơn giản hóa quy trình, thủ tục xét duyệt, thẩm định dự án đầu tư như định hướng tiến đến quy trình một cửa và thời hạn xét duyệt rút ngắn tối đa. + Rà soát lại quy định rườm rà và bất hợp lý, không cụ thể dễ tạo thành các tiêu cực trong các ngành đặc biệt về xây dựng, xuất nhập khẩu và quản lý xí nghiệp, cấp visa cư trú, bảo vệ môi trường. + Xây dựng và ban hành một hệ thống chính sách đồng bộ, ổn định nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi trên địa bàn như chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, cấp phép xây dựng, cấp phép xuất nhập khẩu, về ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với các dự án có thu hút vốn nước ngoài, chính sách giảm giá đất với các dự án có quy mô lớn, diện rộng. Sự quản lý các dự án đầu tư nước ngoài cần phải chặt chẽ theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư song không ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và sự phát triển chung của nền kinh tế. Mọi người trong xã hội sống và làm việc theo pháp luật. Quá trình chuyển đổi và bổ sung sửa chữa các văn bản luật vẫn cần tiếp tục kiện toàn khung pháp lý cho hoạt động kinh tế, đặc biệt là luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài cần được ưu tiên hoàn thiện trước vì các nhà đầu tư nước ngoài quen và đòi hỏi phải biết rõ toàn bộ luật chi phối. Về các đối tác Việt Nam tham gia vào liên doanh nên chăng cần phải đa dạng hóa các thành phần kinh tế trong việc tham gia vào hoạt động đầu tư trực tiếp để từ đó tranh thủ vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại phát triển mở mang nghề cá nhân dân. Cho đến nay các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động này chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước, mặc dù bên đối tác nước ngoài lại có các dự án chỉ do chủ đầu tư mang tính chất tư nhân thực hiện đầu tư. Do đó cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ và chỉ đạo cụ thể đối với mọi thành phần kinh tế trong hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài này. 2.5 Tạo lập đối tác đầu tư trong nước và lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào một nước nào đó trước hết là nhằm mục đích lợi nhuận song họ thường gặp khó khăn về nhiều mặt như chưa quen phong tục tập quán, luật pháp, chưa khai thông mối quan hệ với chính quyền các cấp, chưa am hiểu thị trường... Những khó khăn đó cùng với những rủi ro có thể xảy ra khi bỏ vốn kinh doanh ở nước ngoài dễ làm các nhà đầu tư rụt rè. Do đó trong hợp tác kinh doanh các nhà đầu tư đều muốn giảm bớt lượng vốn bỏ ra, đồng thời gặp những khó khăn về xây dựng cơ bản, do vậy thông thường các nhà đầu tư muốn tìm kiếm đối tác là công dân nước chủ nhà để hạn chế những khó khăn và chia sẻ rủi ro nếu có. Thế nhưng đối với ngành Thủy sản thì xu hướng thành lập xí nghiệp 100% vốn lại ngày càng tăng lên và chắc chắn là phải có nguyên nhân của nó. Rõ ràng là nếu tạo ra các đối tác có năng lực kinh doanh, biết làm ăn với nước ngoài thì đó là sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Thực tiễn những năm vừa qua ở nước ta cho thấy trong các xí nghiệp liên doanh nếu bên đối tác Việt Nam có năng lực, có vốn đóng góp thì thường thu hút thêm được vốn nước ngoài mở rộng dự án đầu tư. Nhưng đối tác không biết làm ăn thì thường phải thu hẹp quy mô, thậm chí phải rút giấy phép trước thời hạn. Ngành Thủy sản trong thời gian vừa qua, có thể nói xu hướng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng lên và trọng vốn đầu tư của loại hình này cũng lớn hơn so với hình thức liên doanh. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì thực tế liên doanh với ta là không mang lại hiệu quả cao, chưa kể đến số dự án giải thể còn nhiều hơn cả dự án còn giấy phép hoạt động (31 dự án bị giải thể, 23 dự án còn giấy phép hoạt động). Do khả năng về vốn của các doanh nghiệp không có (chủ yếu góp vốn bằng tiền thuê mặt đất, mặt nước, nhà xưởng), trình độ sản xuất, trình độ quản lý và ngoại ngữ của cán bộ, công nhân Việt Nam nhìn chung yếu. Do đó việc điều hành trong hoạt động của liên doanh còn nhiều bất cập. Để tạo được thế đứng cho mình trong hoạt động đầu tư trực tiếp, bản thân các doanh nghiệp phải tự biết vươn lên, đồng thời Nhà nước cần tăng cường giúp đỡ tạo mọi điều kiện, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp. Có thể thiết lập các tập đoàn (Liên hiệp các doanh nghiệp) cùng góp vốn tạo dựng đối tác trong nước đủ tầm cỡ, kinh nghiệm để liên doanh với các nhà đầu tư lớn nước ngoài. Tuy nhiên song song với vấn đề này là công tác quy hoạch tổng thể về vùng lãnh thổ, xây dựng kết cấu hạ tầng, môi trường pháp lý... Đồng thời phải lựa chọn các đối tác trong nước có đủ khả năng, đủ điều kiện tham gia làm ăn với nước ngoài, nhất là đối với các dự án quan trọng. Cùng với việc tạo dựng đối tác đầu tư trong nước, cần phải lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài. Kinh nghiệm của các nước ASEAN và thực tiễn vừa qua trong ngành Thủy sản cho thấy việc lựa chọn có tầm quan trọng đặc biệt vì nếu không lựa chọn kỹ, sẽ gặp phải những đối tác nước ngoài không có vốn, không đủ vốn và bỏ dở dự án. Trong lĩnh vực Thủy sản, thời gian đầu khi có luật đầu tư, các dự án của chúng ta được xây dựng với quy mô rất lạc quan. Các dự án này mang tính chất liên hoàn, khép kín giữa các khâu từ khai thác đến nuôi trồng chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Trong quá trình hoạt động thì lại không thực hiện được hết cả chương trình này do nhiều lý do khác nhau. Trong một số trường hợp các dự án hết vốn giữa chừng phải bỏ dở do các chủ đầu tư Việt Nam ít chú ý đến khả năng tài chính của mình cũng như tìm hiểu về thực lực và mục đích đầu tư của đối tác nước ngoài. Do đó vấn đề đặt ra là chúng ta phải biết tìm kiếm lựa chọn những đối tác có khả năng mang lại hiệu quả chứ không phải bất cứ loại đối tác nào cũng hoan nghênh như mấy năm đầu thực hiện đầu tư. Lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần chú ý tới các tiêu chuẩn sau : + Thiện chí làm ăn lâu dài ở Việt Nam ; kiên quyết phát hiện và loại trừ các đối tác có tư tưởng làm ăn mánh khoé, lừa đảo. Có những đối tác đến Việt Nam không phải là bạn mà sử dụng các tiểu xảo trong giao tiếp, tranh thủ tình cảm trong giao tiếp, tình cảm của bạn hàng bằng những lời hoa mỹ, bằng quà kỷ niệm hoặc những chuyến đi thăm quan nước ngoài để đạt được những ý đồ của họ. + Có năng lực cần thiết về tài chính đủ để thực hiện dự án đầu tư. + Có khả năng, kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh cụ thể. Sẵn sàng chuyển giao công nghệ cần thiết. + Cần sớm phát hiện và có biện pháp xử lý hữu hiệu với một số đối tác vào Việt Nam với mục tiêu phi kinh tế. Để lựa chọn có kết quả, các cơ quan hữu quan cần nghiên cứu, phân tích thông tin rộng rãi, chính xác về các nhà đầu tư dự định đầu tư vào lĩnh vực Thủy sản Việt Nam, tìm hiểu từ các mối quan hệ rộng rãi với các Công ty tư vấn đầu tư nước ngoài, đồng thời thông báo và góp ý với các đối tác Việt Nam có dự định hợp tác kinh doanh. Mặt khác bản thân các đối tác trong nước phải bằng nhiều con đường tìm hiểu và cần chú ý đến những bước thử nghiệm trong quan hệ. Trong điều kiện cụ thể của nước ta cần phải kết hợp hai khả năng : Trước mắt có thể quan hệ rộng rãi với các Công ty lớn, vừa và nhỏ, với các quốc gia đang phát triển dưới các hình thức thích hợp, song về lâu dài phải đặt trọng tâm vào các nước phát triển là những đối tác có vốn lớn, kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và khả năng về hợp tác kinh doanh để mang lại hiệu quả cao nhất. 2.6 Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ từ trung ương đến địa phương tham gia đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động này trong lĩnh vực thủy sản của Việt Nam. Trong thời gian qua để tạo môi trường thuận lợi và đơn giản hóa thủ tục đầu tư, chúng ta đã thực hiện phân cấp giấy phép (quyết định 233/1998/QĐ - TTg ngày 1/12/1998) cho phép các ủy ban nhân dân tỉnh xem xét cấp giấy phép đầu tư tại địa phương với điều kiện cụ thể. Đây là một biện pháp có thể mang lại sự hấp dẫn về môi trường đầu tư thế nhưng cũng vướng phải một số khó khăn hạn chế, đó là các cán bộ địa phương có thể chưa thực sự đạt đến trình độ để thẩm định, xem xét và cấp các dự án một cách hợp lý và hiệu quả. Bên cạnh đó dễ tạo ra những khe hở để các quan chức địa phương sách nhiễu gây phiền hà không những làm cho các thủ tục thêm rườm rà phức tạp mà còn xâm phạm đến lợi ích của các nhà đầu tư làm chậm tiến độ thực hiện dự án, gây cho họ sự nản lòng. Do đó cần khẩn trương đào tạo đội ngũ cán bộ để đáp ứng những nhu cầu cấp bách của quá trình thu hút FDI không chỉ ở các Bộ ngành Trung ương mà ở các địa phương và các doanh nghiệp. Bên cạnh đó giữa các cấp cũng phải có mối liên hệ chặt chẽ hơn nữa để phối hợp hành động. Đó là các cơ quan cấp Trung ương phải truyền đạt kịp thời những thông tin mới nhất về các vấn đề liên quan (các đối tác, các lĩnh vực ưu tiên đầu tư ...). Cũng như đưa ra những phương hướng chỉ đạo thực hiện xuống các cấp địa phương. Ngược lại, các cấp địa phương cũng phải thường xuyên thông báo thực trạng hoạt động và kiến nghị lên cấp Trung ương. N goài việc nâng cao trình độ và năng lực cho cán bộ, cũng cần phải xây dựng được một đội ngũ làm công tác hoạch định chiến lược, phương hướng đầu tư trực tiếp cho ngành Thủy sản được trang bị đầy đủ và phương tiện hiện đại để giải các bài toán điều khiển vĩ mô, đánh giá và thiết kế các bước đi cụ thể cho hoạt động này. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực liên doanh đầu tư với nước ngoài, đặc biệt là kiến thức kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường, có phong cách giao tiếp và trình độ ngoại ngữ để nâng cao hiệu quả tiếp nhận đầu tư hợp tác với nước ngoài. 2.7. Các giải pháp liên quan đến xí nghiệp liên doanh. Thực tiễn cho thấy thời gian qua hoạt động của các xí nghiệp liên doanh trong lĩnh vực Thủy sản là ít hiệu quả và đa số các dự án đổ vỡ phải rút giấy phép trước thời hạn. Ngoài nguyên nhân do điều kiện tự nhiên thì các vấn đề về thiếu vốn, khoa học công nghệ lạc hậu, trình độ cán bộ yếu kém lại là những nguyên nhân quan trọng hơn cả, mà một trong những hậu quả đó là các liên doanh khai thác hải sản đều bị rút giấy phép trước thời hạn. Do đó trong thời gian tới cần có các giải pháp để khắc phục tình trạng này : + Tăng khả năng tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khả năng tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp trong lĩnh vực thủy sản nói riêng là một nhân tố quyết định hiệu quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Thủy sản thời gian qua cho thấy các doanh nghiệp của chúng ta phần lớn phụ thuộc vào đối tác nước ngoài trong các liên doanh là do chúng ta ít có khả năng tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để tiếp nhận một cách có hiệu quả FDI, đòi hỏi phải có một tỷ lệ hợp lý vốn đối ứng của các doanh nghiệp Việt Nam. Tỷ lệ này khác nhau tuỳ theo lĩnh vực, mức độ kỹ thuật mà vốn nước ngoài rót vào và trong từng giai đoạn cụ thể. Nó đòi hỏi phải được đáp ứng đầy đủ nếu không muốn giảm hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Về năng lực tiếp nhận đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và lĩnh vực thủy sản nói riêng trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, sự yếu kém về mọi mặt của bên đối tác Việt Nam trước các đối tác nước ngoài hùng mạnh là một bất lợi lớn của chúng ta. Những khoản mất mát, thua thiệt không thể coi là “học phí" được nữa mà nó là những cái giá phải trả cho sự non yếu của chúng ta. Trong các doanh nghiệp liên doanh ngành Thủy sản phần góp vốn thấp, trung bình chỉ khoảng 30%. Phần góp lớn ít không chỉ có nghĩa là phần lợi nhuận được chia thấp, mà quan trọng hơn về lâu dài là quyền chi phối hoạt động kinh tế của cơ sở kinh doanh thuộc về chủ đầu tư nước ngoài. Để hạn chế sự chi phối của các Công ty nước ngoài và nâng cao hiệu quả của hợp tác đầu tư, các bên đối tác Việt Nam cần tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với nước ngoài, về lâu dài có thể mua lại cổ phần của bên nước ngoài. Để tăng cường tiềm lực kinh tế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại cũng như trong tương lai, ngoài sự nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp, nó cần thiết phải có sự giúp đỡ của Nhà nước. Bằng các chính sách kinh tế vĩ mô, Nhà nước cần tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng sức mạnh kinh tế. Đây là công việc mang tính chiến lược, nó phục vụ cho lợi ích lâu dài của chúng ta trong hợp tác đầu tư với nước ngoài, cũng như quá trình phát triển ngành Thủy sản. Trình độ của các cán bộ quản lý doanh nghiệp cũng là bộ phận quan trọng góp phần tăng khả năng tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thế nhưng thực tế hoạt động của các liên doanh cho thấy phía ta bộc lộ nhiều sự yếu kém trong quản lý, trong hoạt động sản xuất của liên doanh, đó là khả năng về ngoại ngữ, trình độ kỹ thuật, sức khoẻ... Bộ máy lãnh đạo tham gia liên doanh của phía Việt Nam mang tính cơ cấu nhiều hơn. Chính những lý do đó đã dẫn đến nhiều liên doanh thua lỗ, bỏ dở. Do đó ngay từ bây giờ chúng ta phải quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực quản lý với đầy đủ khả năng về ngoại giao, ngoại ngữ vừa phù hợp với điều kiện hoạt động trong cơ chế thị trường cũng như để nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp liên doanh. - Vấn đề lao động và quyền của người lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư, lao động rẻ không còn là sự hấp dẫn nhất đối với họ mà một đội ngũ có tay nghề cao, cần cù, chịu khó có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực mới là yếu tố hấp dẫn đối với họ. Do đó cần phải giáo dục ý thức công nhân, có kế hoạch đào tạo lại, trước mắt là đội ngũ lao động trực tiếp làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để có trình độ của mặt bằng quốc tế và khu vực nhằm nâng cao trình độ cạnh tranh trước mắt và lâu dài. Phải có quy định chặt chẽ trong luật về điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội y tế... Các nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động phải được xác định rõ ràng trên quan điểm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động, ngăn chặn những hiện tượng vi phạm lợi ích chính đáng của người lao động (vật chất, tinh thần, quyền con người...). Đồng thời phải đảm bảo lợi ích thoả đáng của họ trong việc tuyển dụng, trả lương, xử lý vi phạm kỷ luật, an toàn lao động theo luật định. Cần tránh cả hai khuynh hướng hoặc vì nâng cao tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư mà không quan tâm đầy đủ đến quyền và lợi ích của người lao động hoặc chỉ quan tâm đến người lao động mà không tính toán đầy đủ đến lợi ích nhà đầu tư. Trong điều kiện lao động dư thừa, thiếu việc làm như nước ta hiện nay, thì trước mắt cần quan tâm tới chỗ làm việc, ưu tiên đúng mức những dự án thu hút người lao động, tạm thời chấp nhận mức lương tối thiểu thấp hơn một số nước. Song cùng với quá trình lao động trình độ tay nghề được tăng lên, năng suất lao động tăng... thì cần phải quan tâm hơn đến mức lương của người lao động trong các xí nghiệp đầu tư nước ngoài. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có thực hiện được không và có thực sự mang lại hiệu quả hay không, điều đó còn tùy thuộc vào cả hai phía bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Tuy nhiên về phía chúng ta để thực sự thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của ngành Thủy sản trong tương lai thì ngoài việc tạo môi trường đầu tư hấp dẫn nói chung ngành cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau nhưng thực chất lại rất gắn bó hỗ trợ bổ sung cho nhau. Kết luận Nước ta có tiềm năng to lớn về Thủy sản, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Đảng và Nhà nước ta coi ngành Thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, là thế mạnh của nước ta nhằm tăng nhanh sản phẩm cho tiêu dùng của 80 triệu dân và xuất khẩu giúp cho nền kinh tế phát triển, tạo việc làm ổn định lâu dài cho cộng động ngư dân, góp phần giữ vững quốc phòng và an ninh trên vùng biển của Tổ quốc. Trong những năm qua ngành Thủy sản đã đạt được tốc độ phát triển khá cao, ổn định mức tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản lượng Thủy sản trên 4%/năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân 15 %- 20%/năm, mức tăng trưởng GPD là 4% - 5%. Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá và đa phương hóa, Việt Nam đang tích cực hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế. Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế cùng với việc mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài ngành Thủy sản cũng đang tích cực chuẩn bị và tiến hành thu hút FDI nhiều hơn và hiệu quả hơn. Mặc dù đó là một nhân tố quan trọng góp phần chuyển đổi cơ cấu trong ngành, góp phần tăng năng lực sản xuất, chuyển giao một số công nghệ mới và tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhưng kết quả đạt được trong lĩnh vực này thời gian qua là chưa đáng kể do hoạt động thu hút FDI mới bắt đầu cách đây không lâu ở Việt Nam nói chung và ngành Thủy sản nói riêng. Còn nhiều vấn đề tồn tại cần xem xét và giải quyết để ngành Thủy sản có thể thu hút nhiều hơn FDI trong thời gian tới, góp phần vào việc thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế xã hội, phấn đấu năm 2020 đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Tài liệu tham khảo 1.GS.PTS. Tô Xuân Dân - Giáo trình Kinh tế Quốc tế NXB GD Hà Nội 1995 GS.PTS Tô Xiân Dân, PTS Nguyễn Thị Hường, PTS Nguyễn Thường Lạng-Giáo trình Đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh NXB GD Hà Nội -1998 3.PTS. Vũ Trường Sơn -Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam NXB Thống kê Hà Nội- 1997 4.PTS. Vũ Chí Lộc -Giáo trình Đầu tư nước ngoài NXB Giáo dục -1997 5. Báo cáo về tình hình đầu tư giai đoạn 1986-1998 và phương hướng nhiệm vụ đầu tư thời kỳ 1999-2010 của ngành Thủy sản -Bộ Thủy sản 6.Báo cáo về toạ đàm với các doanh nghiệp Đài Loan về lĩnh vực Thủy sản 7. Quy hoạch tổng thể ngành Thủy sản -Bộ Thủy sản 8.Tạp chí Thủy sản -Bộ Thủy sản 9. Thời báo kinh tế 10. Các nghị định Đầu tư trực tiếp nước ngoài 11. Báo Đầu tư nước ngoài

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0155.doc
Tài liệu liên quan