Đề tài Cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo Việt Nam

Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định các quyền cơ bản của trẻ em với nội dung như sau: - Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch. - Trẻ em có quyền được chǎm sóc, nuôi dạy để phát triển thể chất, trí tuệ và đạo đức. - Trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em ở vùng cao, hải đảo, vùng xa xôi hẻo lánh, được Nhà nước tạo điều kiện trong việc bảo vệ, chǎm sóc và giáo dục. - Trẻ em tàn tật, trẻ em có khuyết tật, được Nhà nước và xã hội giúp đỡ trong việc điều trị, phục hồi chức nǎng để hoà nhập vào cuộc sống xã hội; được thu nhận vào các trường, lớp đặc biệt. - Trẻ em không nơi nương tựa, được Nhà nước và xã hội tổ chức chǎm sóc, nuôi dạy.

doc78 trang | Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị : Nghìn đồng Nhóm Tổng Mẫu giáo nhà trẻ Tiểu học Trung học Cơ sở Trung học phổ thông I 2004 305,6 162 177,7 323 669,2 2006 429 205,3 226,9 382,3 831,4 II 2004 502,7 246,3 234,1 393,3 777,4 2006 725 399,8 313,8 439,2 967,6 III 2004 652 372,1 295,4 492,4 930,6 2006 1032,9 543,6 412 646,8 1152,2 IV 2004 1024,9 661,3 416,2 625,9 1087,9 2006 1732,4 1075,5 706,1 1046,4 1766,7 V 2004 1752,5 1410,2 671,3 1081,6 1640,1 2006 2336,4 1649,2 1160 1356,4 2190,6 Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình 2004, 2006 Nhóm nghèo nhất chi ít cho giáo dục ở mọi cấp học so với các nhóm khác. Nhìn chung trừ nhóm nghèo nhất ra các nhóm khác mức chi tiêu cho GDMN cao hơn hoặc gần ngang bằng so với cấp THCS và tiểu học. Cấp THPT là cấp có chi phí cao nhất ở tất cả các nhóm. Mức chi tiêu cho giáo dục của nhóm nghèo nhất tăng dần lên từ mẫu giáo đến tiểu học, THCS, THPT. Với nhóm giàu nhất mức chi tiêu cho mẫu giáo cao hơn hẳn so với tiểu học và THCS. Liên hệ với tỷ lệ đi học đúng độ tuổi thấy rằng hai chỉ tiêu này có mối quan hệ với nhau. Nhóm nghèo nhất đi học rất ít ở mẫu giáo nhà trẻ cũng đồng nghĩa với việc chi tiêu của họ rất ít ở cấp này. Nhóm giàu nhất có thu nhập cao họ chú trọng chăm sóc con cái từ khi còn nhỏ vì thế mà đầu tư vào cấp mầm non rất lớn. Từ đó thấy rằng sự khác nhau về tài chính dẫn đến sự tiếp cận giáo dục khác nhau của nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất. Tỷ lệ chênh lệch thể hiện trong bảng sau : Bảng 2.12 : Tỷ lệ chênh lệch về chi tiêu cho mỗi cấp học giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất Đơn vị : Lần Cấp học Năm Tổng Mẫu giáo Tiểu học Trung học cơ sỏ Trung học phổ thông 2004 5,73 8,7 3,78 3,34 2,45 2006 5,45 8,03 5,11 3,55 2,63 Tỷ lệ chênh lệch về tổng mức đóng góp của nhóm nghèo nhất so với nhóm giàu nhất rất cao năm 2004 là 5,73 lần, năm 2006 là 5,45 lần. Chênh lệch nhiều nhất ở cấp mầm non lên đến 8,03 lần sau đó là tiểu học 5,11 lần năm 2006. Mức chi cho giáo dục ở cấp thấp chênh lệch nhiều hơn ở cấp cao ( trung học cơ sở và trung học phổ thông), cấp trung học phổ thông năm 2004 chênh lệch giữa nhóm nghèo nhất và giàu nhất là 2,45 lần, năm 2006 là 2,63 lần. 2.3 Tỷ lệ người đi học thêm trong 12 tháng 2006 Bảng 2.13: Tỷ lệ người đi học thêm trong 12 tháng 2006 Đơn vị : Phần trăm Nhóm Chung Chính khóa Các kỳ nghỉ Gia sư dạy kèm I 32,6 29,4 13,1 0,1 II 45,2 41 22,3 0,7 III 50,4 44,9 25,1 0,8 IV 53,4 47,5 32,1 1,3 V 57,7 52 37 4,1 Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình 2006 Trong năm 2006 tỷ lệ đi học thêm chung của nhóm giàu gấp 1,77 lần nhóm giàu, ở thời gian học chính khóa gấp 1,76, các kỳ nghỉ gấp 2,82 và tỷ lệ gia sư gấp 41 lần. Nếu việc đi học thêm phản ánh sự việc tăng cường chất lượng học tập của các em học sinh thì số liệu đã cho thấy chất lượng học tập của các em học sinh nghèo thấp hơn với nhóm trẻ em khác, vì sự đầu tư cho học thêm của các em không nhiều. Sự tiếp cận giáo dục của các em về mặt chất lượng kém hơn so với nhóm trẻ em khác. Trong các kỳ nghỉ, tuy là nhiều thời gian hơn nhưng trẻ em nghèo đi học thêm ít hơn chính khóa, có nhiều nguyên nhân nhưng mà quan trọng nhất là vấn đề chi phí và thời gian dành cho việc giúp đỡ gia đình. Một thực trạng hiện nay ở nhiều trường giáo viên chính là người mở các lớp học thêm ở nhà của họ sau các giờ học chính ở trường. Các bậc phụ huynh đều biết rằng kiến thức chủ yếu sẽ được dạy ở các lớp học thêm chứ không phải ở trường. Do đó các lớp học thêm đã trở thành cơ chế để một số người lợi dụng cương vị của họ để kiếm lợi cho bản thân. Người dân ở đồng bằng Sông Hồng chỉ rõ rằng chi phí học thêm là điều đặc biệt nặng nề, nhưng họ buộc phải nộp để lấy long giáo viên và tránh cho con em mình gặp rắc rối. Như vậy tỷ lệ học thêm không những thể hiện chất lượng học tập của các em học sinh nghèo, sự yếu thế của các em mà còn cả chất lượng giảng dạy của giáo viên và sự quản lý của nhà trường. 2.4 Tỷ lệ hỗ trợ của gia đình Bảng 2.14 : Tỷ lệ hỗ trợ của gia đình theo các khoản mục Đơn vị : Phần trăm Khoản mục Nhóm Gia đình có từ 3 cuốn sách dành cho trẻ em trở lên Có thành viên trong gia đình tham gia từ 4 hoạt động trở lên khuyến khích học tập của trẻ I 7,2 48,0 II 10,1 50,1 III 19,1 54,2 IV 25,1 58,3 V 58,1 70,7 Nguồn: Điều tra phụ nữ & trẻ em UNICEF 2006 Ngoài học thêm thể hiện sự tiếp cận giáo dục về mặt chất lượng còn có sự quan tâm của bố mẹ đến các em và sự đầu tư trong việc mua sắm sách vở. Trẻ em giàu có nhiều sách học tập hơn trẻ em nghèo, nhóm giàu nhất gấp đến 8 lần, và sự quan tâm của bố mẹ các em thuộc nhóm giàu nhất cũng nhiều hơn nhóm nghèo nhất gấp 1,47 lần về sự khuyến khích học tập của trẻ. Như vậy các con số này càng thể hiện sự tiếp cận giáo dục kém của trẻ em nghèo về mặt chất lượng khi không có đầy đủ sách vở hay được sự quan tâm giúp đỡ của bố mẹ. 2.5 Tỷ lệ lao động trẻ em Bảng 2.15 : Tỷ lệ lao động trẻ em Đơn vị : Phần trăm Khoản mục Nhóm Tỷ lệ lao động trẻ em Tỷ lệ % lao động trẻ em 5- 14 tuổi đang đi học Tỷ lệ % học sinh 5-14 tuổi đang tham gia lao động I 24,5 79,4 22,4 II 22,5 85,8 20,5 III 16,5 90,2 15,6 IV 10,8 91,6 10,3 V 4,3 97,8 4,3 Nguồn: Điều tra phụ nữ & trẻ em UNICEF 2006 Lao động trẻ em là một vấn đề khá bức xúc hiện nay, việc đi làm việc khi chưa đủ tuổi lao động ảnh hưởng không chỉ về thể chất mà làm ảnh hưởng đến học tập trình độ hiểu biết sau này của các em. Khi tham gia lao động các em có thể vẫn đến lớp có thể bỏ học, nhìn chung ảnh hưởng đến cả mặt chất lượng và số lượng của việc tiếp cận giáo dục của các em. Nhóm trẻ em nghèo có đến 22,4% các em vừa đi học vừa tham gia lao động gấp 5,2 lần nhóm giàu, tỷ lệ lao động trẻ em chung là 24,5% như vậy có 2,1% các em trong độ tuổi đến trường bỏ học tham gia vào lực lượng lao động. 3. Đánh giá chung về khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo 3.1 Kết quả đạt được Thứ nhất, tỷ lệ nhập học tăng nhanh ở tất cả các cấp học, đến nay hầu như đã phổ cập tiểu học, ở bậc tiểu học tỷ lệ đi học của trẻ em nghèo cao gần ngang bằng với những nhóm trẻ em khác. Khoảng cách giữa người giàu với người nghèo trong tiếp cận giáo dục thu hẹp lại. Trẻ em nghèo có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận giáo dục. Thứ hai, khoảng cách giữa tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo ở nông thôn với thành thị, ở đồng bằng với miền núi được thu hẹp lại. Trẻ em nghèo ở nông thôn, miền núi vùng sâu vùng xa có cơ hội tiếp cận với giáo dục nhiều hơn, thể hiện ở tỷ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi tăng dần qua các năm. Nhất là ở bậc tiểu học tỷ lệ đi học đúng độ tuổi của các nhóm, các vùng miền đều cao. Bảng 2.16 : Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi chia theo nhóm dân tộc và vùng Đơn vị : Phần trăm Năm Nhóm 2002 2004 2006 Người kinh và hoa 92,1 89,91 95,7 Dân tộc thiểu số 80,0 81,81 93,8 Thành thị 94,1 90,43 94,6 Nông thôn 89,2 88,10 95,6 Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình 2002, 2004, 2006 Thứ ba, sự quan tâm về việc đi học của gia đình với trẻ em nghèo tăng lên, thể hiện qua tăng mức chi tiêu theo các khoản mục như học thêm, mua sách vở và dụng cụ học tập. Mức chi tiêu cũng tăng lên theo các năm và cũng tăng dần theo cấp học cao hơn. Có được những kết quả đó là do: t Nguyên nhân về phía nhà cung cấp dịch vụ cơ sở Mạng lưới giáo dục phát triển quy mô giáo dục tăng nhanh. Hệ thống các trường ngoài công lập ( bán công, dân lập và tư thục ) đã hình thành và phát triển ở mọi cấp học, bậc học, góp phần mở rộng quy mô giáo dục, hình thức dịch vụ phong phú hơn, tạo thêm cơ hội học tập cho người đi học, cơ hội lựa chọn cho các bậc phụ huynh và giảm sức ép quy mô giáo dục ở các trường công lập. Theo bộ Tài Chính ngân sách đầu tư của nhà nước cho giáo dục tăng lên hàng năm, năm 2007 là 18%, năm 2008 là 20%, làm cho việc đầu tư cơ sở vật chất, các đầu vào phục vụ cho giảng dạy cũng được cải thiện đáng kể. Năng lực giảng dạy của giáo viên và sự điều hành của cán bộ quản lý giáo dục được nâng cao. Đội ngũ giáo viên đông đảo đã đi về giảng dạy ở vùng sâu vùng xa, làm giảm khoảng cách tiếp cận giáo dục của giữa đồng bằng và miền núi. Các chương trình giảng dạy cũng đang được thiết kế và hoàn thiện để phù hợp hơn với sự tiếp thu của trẻ em ở từng cấp học. t Nguyên nhân về phía người tiếp nhận giáo dục Do kinh tế nước ta ngày càng phát triển hơn nên thu nhập của người dân cũng tăng lên nên họ đầu tư vào học tập cho con em họ cũng nhiều hơn. Mặt khác thông tin đại chúng phát triển, các gia đình được tiếp xúc nhiều hơn với các thông tin, nâng cao sự hiểu biết về vai trò của giáo dục và họ cũng nhận thấy từ chính cuộc sống hiện tại, nên họ cũng cố gắng cho con cái đến lớp để cải thiện cuộc sống sau này. t Về chính sách Nhà nước dành sự quan tâm đến vấn đề giáo dục cho trẻ em thông qua chủ trương chính sách, như chính sách xóa mù chữ, phổ cập tiểu học đã làm tăng số lượng học sinh đi học tiểu học, chính sách học bổng học phí khuyến khích trẻ em nghèo đến trường giảm khoảng cách giữa nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất, chính sách hỗ trợ vùng miền làm tăng khả năng tiếp cận giáo dục trẻ em dân tộc thiểu số so với dân tộc kinh. 3.2. Những tồn tại Thứ nhất, xét về tỷ lệ nhập học ở các cấp, ở cấp mẫu giáo một cấp học quan trọng chuẩn bị cho trẻ đi học tiểu học thì số lượng trẻ em nghèo đi học thấp. Và càng lên cấp cao hơn thì số lượng trẻ em nghèo đến trường càng giảm. Sự chênh lệch giữa nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất thể hiện rõ nét nhất ở cấp mầm non và trung học. Thứ hai, khả năng trang trải các dịch vụ giáo dục của người nghèo thấp, học phí và các khoản đóng góp trường lớp đã trở thành gánh nặng với họ. Các khoản đóng góp không chính thức làm gia tăng khoảng cách giữa trẻ em giàu và nghèo. Thứ ba, trẻ em nghèo ít đi học thêm, ít được sự quan tâm của bố mẹ trong việc dạy bảo học tập và sự đầu tư trang thiết bị phục vụ cho việc học tập cũng kém. Vì thế mà chất lượng học tập của trẻ em nghèo không bằng trẻ em thuộc nhóm khác. Thể hiện điều này qua bảng dưới đây: Bảng 2.17: Học lực của học sinh PTTH 2005 – 2006 Đơn vị : Phần trăm Nhóm Chung Giỏi Khá Trung bình Yếu kém I 100 5,8 29 62,7 2,2 II 100 8,4 36,3 53,6 0,8 III 100 12,8 37,5 48 0,8 IV 100 19,9 42,3 36,7 0,9 V 100 28,1 41,2 28,9 0,4 Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình 2006 Trẻ em nghèo chỉ có 5,8% xếp loại học lực giỏi trong khi trẻ em nhóm giàu nhất là 28,15% gấp 4,85% lần. Trẻ em nghèo có mức học lực trung bình chiếm tỷ lệ khá cao đến 62,7%. Qua những con số này cho thấy cả về mặt chất lượng và số lượng của vấn đề giáo dục trẻ em nghèo đều thấp hơn với trẻ em giàu. Thứ tư, trẻ em nghèo phải lao động nhiều hơn trong khi vẫn đi học thì có đến 22,4% em tham gia lao động, các công việc này có mức độ khác nhau có thể là giúp đỡ gia đình hay làm những công việc ngoài xã hội khác nhưng nhìn chung đều ảnh hưởng đến học tập của các em, một nguyên nhân khiến các em bỏ học nhiều. 3.3. Nguyên nhân của những tồn tại t Nguyên nhân về phía nhà cung cấp dịch vụ cơ sở - Còn thiếu cơ sở vật chất, nhất là dụng cụ thí nghiệm, thực hành, sách tham khảoĐó là tình trạng phổ biến của các trường học hiện nay khi mà nước ta vẫn còn là nước kinh tế đang phát triển, cơ sở hạ tầng ở tất cả các ngành các cấp không chỉ ở ngành giáo dục vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu. - Tình trạng thiếu giáo viên diễn ra ở nhiều nơi, nhiều cấp học, cụ thể: + Đối với giáo dục mầm non: Tỷ lệ bình quân trong nhóm nhà trẻ là 10 trẻ em/giáo viên (quy định là 8 trẻ em/giáo viên), trong nhóm mẫu giáo là 20,6 trẻ em/giáo viên (quy định là 20 trẻ em/giáo viên). + Đối với giáo dục tiểu học: Tỷ lệ bình quân đạt 1,29 giáo viên/lớp, tuy vượt định mức 1,20 giáo viên/lớp dạy học 1 buổi/ngày, song so với yêu cầu dạy học 2 buổi/ngày (định mức là 1,50 giáo viên/lớp) thì mới chỉ đáp ứng được 86% nhu cầu về số lượng giáo viên. + Đối với giáo dục trung học phổ thông: tỷ lệ giáo viên/lớp đạt 2,01, song còn quá thấp (định mức là 2,25). - Vẫn còn tình trạng mất cân đối, không đồng bộ trong cơ cấu đội ngũ ở các địa bàn khác nhau (thừa giáo viên ở các trung tâm, thành phố, thị xã, thị trấn nhưng lại thiếu giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn), theo môn học (thừa giáo viên dạy văn hoá, thiếu giáo viên dạy các môn đặc thù, tự chọn) và theo ngành nghề đào tạo. - Mặc dù số lượng nhà giáo đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo là rất cao, nhưng năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhiều nhà giáo còn hạn chế, chưa thực sự đổi mới phương pháp giảng dạy, vẫn còn có những giáo viên xếp loại yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là nhà giáo công tác ở miền núi, ít có điều kiện nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức. - Phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa có nhiều đổi mới và phù hợp với từng đối tượng học sinh cụ thể, ví dụ như học sinh nghèo thì do điều kiện hoàn cảnh các em có thể tiếp thu chậm và không có nhiều thời gian học ở nhà giáo viên cần chú ý để các em có chất lượng học tập tốt nhất. - Đội ngũ cán bộ phục vụ giảng dạy cũng còn nhiều bất cập như về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm chưa cao, sự ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý chưa nhiều. Ảnh hưởng đến sự quản lý chung, sự nắm bắt các đối tượng trong trường chưa nhanh nhạy nên ảnh hưởng đến chất lượng giảng dậy và học tập chung. Nếu đội ngũ quản lý này điều hành tốt thì công việc của trường lớp luôn đảm bảo. Học sinh nghèo cũng sẽ được hỗ trợ quan tâm nhiều hơn. - Các trường công lập thì chất lượng vẫn chưa được kiểm soát đầy đủ. Việc thành lập các trường còn mang tính tự phát, thiếu điều tra khảo sát kỹ, thiếu chuẩn bị về các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy và học. Các điều kiện để đảm bảo tính ổn định và nâng cao chất lượng dạy và học ở các trường ngoài công lập như cơ sở trường lớp, tranb thiết bị dạy và học, đội ngũ giáo viên đồng bộ và có chất lượng, chất lượng tuyển sinh đầu vào chưa được đảm bảo. - Việc dạy học thêm vẫn chưa được kiểm soát chặt chẽ, song song với việc dạy ở trường nhiều giáo viên vẫn còn mở lớp dạy thêm thu tiền, học sinh nghèo không có tiền đi học chất lượng học tập kém hơn sự quan tâm của giáo viên đến các em cũng không nhiều. t Nguyên nhân về phía người tiếp nhận giáo dục Thứ nhất, nguyên nhân về tài chính. Các hộ gia đình nghèo không có đủ tiền cho con em mình đi học, trong chi tiêu cho giáo dục học phí là khoản phải chi nhiều nhất, có đóng tiền học phí thì mới có thể đến lớp. Ở bậc tiểu học vì được miễn giảm học phí nên mức nhập học cao hẳn lên so với các bậc học khác. Vì lên bậc học cao mức độ đóng góp càng nhiều nên nhóm trẻ em nghèo tiếp cận với giáo dục ở các cấp này càng kém. Thứ hai, nguyên nhân về tinh thần, đó là sự động viên khuyến khích của gia đình trong việc học tập của trẻ. Như mua đồ dùng học tập, sách vở học thêm, có thể giảng bài cho con cái trong những lúc rảnh rỗi, với trẻ em nghèo những điều đó rất ít. Một phần nguyên nhân về tài chính, nguyên nhân nữa là về sự hiểu biết của bố mẹ các em cũng không nhiều dẫn đến họ không tạo điều kiện cho con cái của mình học tập tốt. Thứ ba, các em con nhà nghèo thường phải tham gia lao động, khiến các em không có thời gian dành cho việc học tập ngoài giờ lên lớp, đi học không đầy đủ có thể dẫn đến bỏ học. t Nguyên nhân về chính sách Thứ nhất là các chính sách vẫn chưa đến được hết với đối tượng trẻ em nghèo, do sự hạn hẹp về nguồn lực. Thứ hai, vẫn có nhiều sự bất cập trong nội dung và việc thực thi chính sách. + Chính sách với giáo viên mầm non có nhiều bất cập. Nhiều nơi không có biên chế nên không thể mở trường mầm non. Đặc biệt là các vùng khó khăn chế độ ưu đãi giáo viên vẫn chưa có nhiều, vì thế mà không thu hút được giáo viên về giảng dạy, gây nên tình trạng thiếu giáo viên ở những vùng này. + Bất cập trong việc thực hiện các chính sách đãi ngộ đối với nhà giáo, cụ thể như: chưa giải quyết triệt để bất hợp lý trong hệ thống thang, bảng lương, chế độ phụ cấp cho nhà giáo, chính sách tiền lương đối với giáo viên mầm non và chế độ đối với giáo viên hợp đồng; thu nhập của nhà giáo ở các trường công lập và ngoài công lập có khác biệt lớn; đời sống của phần đông nhà giáo vẫn còn khó khăn, điều kiện làm việc còn hạn chế nên bản thân họ chưa thực sự yên tâm công tác, thậm chí ở một số thành phố lớn đã có hiện tượng giáo viên xin nghỉ việc, chuyển chỗ, làm nghề khác.v.v + Các cơ sở ngoài công lập chưa nhận được sự hỗ trợ phù hợp để đảm bảo chương trình giáo dục: Một số cơ chế về đất đai, cơ sở vật chất, thuế, lệ phí, tín dụng, tuyển dụng, lao động chưa thật khuyến khích. Chẳng hạn như: cơ sở vật chất nghèo nàn, không ổn định do quỹ đất hạn chế, chi phí thuê mướn cao, không đủ kinh phí để trả lương cho giáo viên, chủ yếu huy động từ cha mẹ học sinh làm tăng gánh nặng cho người nghèo và cản trở việc tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo. t Sự phân bổ nguồn lực nhiều khi vẫn chưa hợp lý, chưa cân đối giữa vùng miền, nhóm đối tượng. Nhiều khi người thực sự cần giúp đỡ lại không được mà lại đến tay những đối tượng khác. Có rất nhiều trẻ em nghèo cần sự giúp đỡ nhưng các em lại không nhận được. Vấn đề này liên quan đến nhiều bất cập như về sự điều hành quản lý, năng lực, đạo đức của những người có liên quan đến giáo dục như giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Nhưng tựu chung lại đây là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự tiếp cận giáo dục kém của trẻ em nghèo. t Nguyên nhân về kinh tế xã hội Tình hình kinh tế xã hội hiện nay cũng ảnh hưởng lớn đến tình trạng đến trường của các em, lạm phát gia tăng, khủng hoảng kinh tế, những người nghèo bị ảnh hưởng nhiều nhất trong đó trẻ em người hứng chịu gián tiếp từ ảnh hưởng lên bố mẹ chúng. Một thực trạng được nêu ở trên là số học sinh bỏ học tăng trong mấy năm gần đây đã minh chứng cho điều này, đối tượng học sinh bỏ học lại chủ yếu là trẻ em nghèo, các em bỏ học rồi tham gia vào lực lượng lao động. t Yếu tố về dân tộc, tôn giáo cũng ảnh hưởng đến sự tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo, nhất là các dân tộc thiểu số miền núi, sự bất đồng về ngôn ngữ và khác biệt về văn hóa tập quán khiến các em khó tiếp thu kiến thức. Cũng ở vùng miền núi điều kiện giao thông đi lại khó khăn, trường học thường xa nơi nhà làm ảnh hưởng đến tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo. t Yếu tố vị trí địa lý Như đã phân tích ở trên luôn có sự khác biệt về tiếp cận giáo dục giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng băng, giữa các vùng khác nhau trong cả nước. Tất cả là do vị trí dẫn đến những sự khác nhau về kinh tế xã hội. Nước ta dân số ở nông thôn còn nhiều, có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống trên mọi miền tổ quốc, có những nơi dịch vụ xã hội khó đến do cơ sở hạ tầng quá yếu kém. Điển hình là vùng miền núi như khu vực Đông Bắc, nơi tập trung nhiều đồng bảo dân tộc thiểu số và tỷ lệ nghèo cao. Ở khu vực miền núi thì luôn có tình trạng thiếu giáo viên, cơ sở vật chất cũng không đảm bảo, nhiều khi trường học chỉ là một ngôi nhà lập tạm, học sinh đến trường thường phải đi quãng đường xa nên có nhu cầu học bán trú nhưng cũng không có chỗ để các em trọ lại, hay nghỉ lại trường ăn cơm Khu vực nông thôn như đồng bằng SCL số trẻ em đi học cũng khá thấp so với cả nước, đây là vùng sông nước rộng lớn, nên các dịch vụ xã hội trong đó có giáo dục cũng khó đến. Đấy chính là sự bất lợi về địa lý đã dẫn đến tiếp cận giáo dục kém của trẻ em nghèo. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI THIỆN KHẢ NĂNG TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM NGHÈO VIỆT NAM 1. Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu của Đảng và Nhà Nước về tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo Quan điểm của nhà nước về vấn đề tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo nằm trong quan điểm chung về giáo dục, về xóa đói giảm nghèo và mục tiêu giáo dục cho người nghèo. 1.1.Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục Việt Nam Giáo dục và khoa học công nghệ có một vai trò quyết định các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Đại hội X của đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 là: '' đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa''. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 đã chỉ rõ quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục nước ta là : Giáo dục là quốc sách hàng đầu: phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực thúc đẩy sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là yếu tố cơ bản để phát triển kinh tế xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Xây dựng giáo dục có tính nhân văn, dân tộc, khoa học, hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội bình đẳng ai cũng được học hành. Nhà nước và xã hội có cơ chế, chính sách giúp đỡ người nghèo học tập, khuyến khích những người học giỏi phát triển tài năng. Phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, tiến bộ khoa học công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh, đảm bảo sự hợp lý về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền, mở rộng quy mô trên cơ sở đảm bảo chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự nghiệp giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hóa; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục. Những quan điểm trên đã cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng số 1 của giáo dục, chúng ta đang tiến tới xây dựng một nền giáo dục có chất lượng cao cho mọi người và để làm được điều đó thì cần sự chung sức của toàn Đảng, toàn dân. 1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo Xóa đói giảm nghèo được coi là nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Mục tiêu xóa đói giảm nghèo được thể hiện rõ ràng trong các nghị quyết Đảng : nghị quyết trung ương 5 khóa VII nêu : tăng thêm diện giàu và đủ ăn, xóa đói, giảm nghèo, nhất là vùng cao, vùng đồng bằng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng trước đây là căn cứ cách mạng'', sau đó là nghị quyết các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI, XII, mục tiêu xóa đói giảm nghèo luôn được nhấn mạnh. Nhà nước ta coi xóa đói giảm nghèo là vấn đề có tính chiến lược lâu dàu và là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong các chính sách quốc gia. Hàng loạt các chiến lược và chương trình như Kế hoạch phát triển KTXH 2006 - 2010, mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và mục tiêu phát triển Việt Nam, chiến lược xóa đói giảm nghèo và tăng trưởng toàn diện, chương trình hành động quốc gia về trẻ em giai đoạn 2001 - 2010..ra đời đều nhấn mạnh nhiệm vụ này. Quan điểm chỉ đạo như sau : Song song với tăng trưởng kinh tế phải đẩy mạnh giảm nghèo, bảo đảm công bằng và ổn định xã hội trong quá trình phát triển giữa các vùng miền trong cả nước, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Gắn giảm nghèo với phát triển kinh tế, nâng cao năng lực của người nghèo, tạo môi trường, điều kiện để người nghèo phát triển kinh tế, nâng cao năng lực của người nghèo, tạo môi trường, điều kiện cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ sản xuất tự vươn lên thoát nghèo và phấn đấu trở nên khá giả, giàu có; đồng thời chú tâm đến nhu cầu về giáo dục, y tế, nhà ở và nước sạch của nhóm nghèo nhất. Xã hội hóa các hoạt động giảm nghèo : nhà nước, xã hội và người dân đều phải chia sẻ trách nhiệm xã hội thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Đa dạng hóa việc huy động nguồn lực của dân, cộng đồng, Nhà nước, doanh nghiệp, quốc tế để đảm bảo đủ nguồn lực cho mục tiêu giảm nghèo. Ưu tiên nguồn lực cho địa bàn khó khăn nhất trên cơ sở các tiêu chí phân bổ khách quan và khoa học nhằm đảm bảo nguồn lực cho mục tiêu giảm nghèo Ưu tiên nguồn lực cho địa bàn khó khăn nhất trên cơ sở các tiêu chí phân bổ khách quan và khoa học nhằm đảm bảo nguồn lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng khó khăn. Tăng cường phân cấp cho địa phương trên cơ sở nâng cao năng lực, thực hiện dân chủ công khai, bình đẳng trong quá trình tổ chức thực hiện chương trình. Xây dựng cơ chế trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan Trung ương và địa phương, giữa các cấp, các ngành trong việc tham gia,thực hiện chương trình. Tăng cường sự tham gia của người dân và đồng bào dân tộc thiểu số và các tổ chức đoàn thể, xã hội trong mọi hoạt động của chương trình. 1.3. Mục tiêu giáo dục cho người nghèo Từ định hướng của ngành giáo dục đến các định hướng về chính sách cho người nghèo đã thấy sự quan tâm của Đảng Nhà nước ta với vấn đề giáo dục cho người nghèo. Trong chiến lược phát triển giáo dục cũng đã nhấn mạnh tới việc xây dựng một hệ thống giáo dục Việt Nam có tính nhân văn cao, dân tộc và hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học hành. Nhà nước và xã hội có cơ chế, chính sách giúp đỡ người nghèo học tập. Trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006 - 2010 cũng đã nêu : '' nhà nước có chính sách trợ cấp học phí hoặc cấp học bổng cho học sinh giáo dục phổ thông, học sinh là người dân tộc thiểu số, trẻ em khuyết tật, những người ở vùng khó khăn, những người nghèo''. Với các mục tiêu về giáo dục cho người nghèo trong chương trình hành động GDCMN ở Việt Nam : Nhóm mục tiêu 1 : chăm sóc giáo dục mầm non Cung cấp cơ hội tiếp cận với chính sách GDMN cho trẻ em từ 0 - 5 tuổi, ưu tiên cho trẻ dân tộc thiểu số và trẻ thiệt thòi Đảm bảo rằng tất cả trẻ em đều hoàn thành một năm giáo dục tiền học đường có chất lượng để chuẩn bị cho bậc tiểu học Nhóm mục tiêu 2 : giáo dục tiểu học Tạo điều kiện tiếp cận giáo dục tiểu học chất lượng và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cho tất cả các em, đặc biệt là trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em thiệt thòi và trẻ em gái. Đảm bảo rằng tất cả trẻ em đều hoàn thành một năm giáo dục tiền học đường có chất lượng để chuẩn bị cho bậc tiểu học. Nhóm mục tiêu 3 : giáo dục THCS Mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục THCS có chất lượng và ở mức phù hợp với điều kiện kinh tế cho tất cả các em, đặc biệt là trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em thiệt thòi và trẻ em gái. Đảm bảo rằng tất cả trẻ em hoàn thành chu trình đầy đủ 4 lớp THCS Nhóm mục tiêu 4: Đảm bảo rằng tất cả thiếu niên thất học ( trong độ tuổi tiểu học và trung học cơ sở đều có cơ hội học tập để đạt tới trình độ tiểu học và trung học cơ sở ) Đảm bảo rằng tất cả người lớn, đặc biệt là phụ nữ và các nhóm thiệt thòi, đều được tiếp cận miễn phí với các chương trình đào tạo có chất lượng và ở mức phù hợp với điều kiện kinh tế và kĩ năng sống cũng như các cơ hội học tập suốt đời. Các định hướng về giáo dục về nghèo đói và định hướng chung về giáo dục cho người nghèo đã cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã thực hiện bằng những chương trình dự án cụ thể, làm tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho người nghèo. Sau đây là một số chính sách cụ thể về giáo dục cho người nghèo để chúng ta thấy được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước với đối tượng này: sChính sách xóa mù chữ và phổ cập tiểu học Năm 1991, Quốc hội thông qua luật phổ cập tiểu học, trong đó quy định tại điều 1 '' nhà nước thực hiện chính sách phổ cập tiểu học bắt buộc từ lớp 1 đến hết lớp 5 với tất cả trẻ em có độ tuổi từ 6 - 14''. Riêng đối với các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, luật phổ cập giáo dục quy định: '' Nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết để thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh, vùng hải đảo và các vùng khó khăn.'' Như vậy chính sách phổ cập giáo dục tiểu học là cơ sở để người nghèo dễ dàng tiếp cận hơn với giáo dục. Đối với người nghèo Chính phủ tạo mọi diều kiện thuận lợi để họ có thể tiếp cận với giáo dục tiểu học. sChính sách học bổng và học phí Chính sách học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh sinh viên các trường công lập hiện nay được thực hiện theo quyết định số 1211/1997/ QD - TTg ngày 23/12/1997 của Thủ tướng Chính phủ và thông tư liên tịch hướng dẫn của Bộ GD & ĐT - Bộ Tài chính - Bộ LĐ & TBXH ngày 25/8/1998. Theo các văn bản trên, học bổng chia làm hai loại là học bổng chính sách và học bổng khuyến khích học tập. học bổng cho người nghèo là học bổng chính sách. Đối tượng hưởng thụ học bổng chính sách là sinh viên hệ cử tuyển dành cho vùng cao và vùng sâu, học sinh trường dự bị đại học và dân tộc nội trú Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội là học sinh, sinh viên đang học tại các trường công lập hệ chính quy tập trung dài hạn trong nước thuộc các diện : học sinh sinh viên mồ côi cả cha lẫn mẹ, không nơi nương tựa, học sinh sinh viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về mặt kinh tế, các gia đình thuộc diện xóa đói giảm nghèo. Từ thập kỷ trước tới nay, Nhà nước miễn học phí cho một số đối tượng nghèo, gia đình chính sách. Tuy nhiên nhiều người nghèo vẫn phải đóng đầy đủ học phí và không được miễn hay hỗ trợ. Để giải quyết những vấn đề cụ thể của ngành giáo dục trong đó có hỗ trợ các vùng khó khăn và miền núi phát triển giáo dục Việt Nam đã thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia với 7 mục tiêu cụ thể. sChính sách hỗ trợ vùng miền Chính sách này bao gồm : đầu tư xây dựng chương trình, nội dung giảng dậy và hỗ trợ điều kiện học tập cho học sinh miền núi, vùng dân tộc ít người, vùng cao, vùng sâu, hải đảo. bên cạnh chương trình 165 tuần, ở tiểu học đã xây dựng chương trình rút gọn 120, 100 tuần, một số sách song ngữ Việt - Bân, Việt - Tháiđã được soạn thảo để đáp ứng yêu cầu phổ cập tiểu học chi những vùng khó khăn, đồng bào dân tộc. 2. Các giải pháp và kiến nghị để cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo Qua phân tích ở phần thực trạng ta thấy rằng có sự tiếp cận kém về giáo dục của trẻ em nghèo vì thế mà cần có giải pháp để trẻ em nghèo tiếp cận giáo dục ngang bằng với những nhóm trẻ em khác. Sau đây là các giải pháp xuất phát từ những nguyên nhân cản trở trẻ em nghèo tiếp cận giáo dục. Có ba nhóm giải pháp: nhóm giải pháp về chính sách, nhóm giải pháp về phía nhà cung cấp dịch vụ cơ sở và giải pháp về phía bản thân người tiếp cận giáo dục. Trong mỗi nhóm giải pháp đó có các giải pháp cụ thể hơn. Dưới đây là phần trình bày chi tiết. 2.1 Giải pháp 2.1.1. Giải pháp về phía nhà cung cấp dịch vụ cơ sở Chính sách mà chính phủ đưa ra có tầm bao quát định hướng cho các cấp thấp hơn thực hiện. hiệu quả như thế nào nằm ở việc thực hiện ở các cấp đó ( xã, phường, trường học ) Thứ nhất là về nhà cung cấp giáo dục ( các trường học ) : thành tựu giáo dục và kết quả học tập có thể suy giảm nếu các nhà cung cấp không thực hiện đúng chức năng của mình, hay cách làm của họ không mang lại kết quả. Điều đó thể hiện ở đội ngũ giáo viên liên quan đến chất lượng và số lượng : trình độ của giáo viên, sự truyền đạt đến học sinh, số lượng giáo viên trên học sinh. Cải thiện tiền lương cho giáo viên là biện pháp khuyến khích tốt nhất đối với họ. mặc dù chính phủ đã có những chính sách phụ cấp tiền lương cho giáo viên nhưng lương của giáo viên và cán bộ ngành giáo dục vẫn còn mức thấp. nếu so với 14 nước châu Á tỷ lệ lương trung bình của cán bộ ngành giáo dục Việt Nam so với GDP bình quân đầu người thấp hơn khá nhiều. Chính vì vậy mà giáo viên và cán bộ giáo dục ở Việt Nam vẫn phải tiếp tục xoay sở cho cuộc sống bản thân và gia đình, tác động của điều này với chất lượng giáo dục là đáng lo ngại. với giáo viên vùng sâu, vùng xa cần có nhiều chính sách ưu đãi hơn. Cùng với giáo viên sự quản lý của nhà trường cũng quan trọng. Ban giám hiệu nhà trường trực tiếp điều hành công việc liên quan đến giáo viên và học sình. Với giáo viên có thể khuyến khích họ đổi mới bài giảng, trao dồi kiến thức nâng cao trình độ, quan tâm đến học sinnh nhất là các đối tượng học sinh nghèo, với học sinh nhà trường nên thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp để nắm rõ hơn tình hình về học sinh, cân đối giữa học thêm và học chính không để việc đi học thêm ảnh hưởng đến chất lượng học tập, nhà trường cùng với giáo viên phải nẵm rõ các đối tượng học sinh nghèo, tạo điều kiện cho các em học tập như những đối tượng học sinh khác. Đối với chính quyền địa phương xã phường cần phối hợp để : - Xác định đúng đối tượng nghèo mức độ nghèo và mức độ cần hỗ trợ để đảm bảo công bằng, hiệu quả. - Tăng cường năng lực nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân, làm cầu nối giữa dân nghèo và các cấp chính quyền địa phương. Năng lực quản lý tài chính, quản lý cán bộ cơ sở cũng cần bổ trợ trong quá trình triển khai các chương trình hoạt động liên quan tới xóa đói giảm nghèo, phân bổ kinh phí. 2.1.2. Giải pháp về phía người tiếp nhận dịch vụ giáo dục 2.1.2.1. Hỗ trợ về tài chính và nâng cao năng lực cho người nghèo Điều quan trọng nhất xét về phía trẻ em nghèo ảnh hưởng tới sự tiếp cận giáo dục của các em là chi phí cho giáo dục và năng lực các hộ gia đình Như đã phân tích trong phần thực trạng người nghèo đang ở trong tình trạng tiếp cận giáo dục hạn chế hơn người giàu và cơ chế hiện nay cho sự tiếp cận này đang bất cập, đặc biệt là khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo dân tộc thiểu số và trẻ em thuộc 13,5% hộ nghèo hiện nay. Trong quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh và giảm đói nghèo vói 13,5 % hộ gia đình đang vật lộn để thoát khỏi đói nghèo, trẻ em nghèo rất hạn chế tới trường vì phải làm việc để đóng góp vào thu nhập của gia đình. Trong ngành giáo dục, đang có sự chuyển hướng chi tiêu tập trung vào giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, đây là biện pháp tốt nhất để tăng khả năng tiếp cận giáo dục cho người nghèo. Chiến lược cơ bản là phải tăng cường sự tài trợ của trung ương cho các cấp thấp hơn, đặc biệt là các vùng nghèo để làm giảm '' xã hội hóa chi phí'' đối với cấp tiểu học và trung học cơ sỏ mà thay thế vào đó bằng việc tài trợ nhiều hơn cho các cấp học đó Các nỗ lực giảm hay xóa bỏ phí sử dụng với các dịch vụ cơ bản phải được thực hiện trên cơ sở cải cách tài chính toàn diện với mục tiêu là củng cố vai trò của chính quyền địa phương trong vai trò người cung cấp dịch vụ. Ngoài việc tăng cường kinh phí cho giáo dục, cần quan tâm nhiều hơn đến hệ thống miễn giảm một số loại phí dịch vụ cơ bản hiện nay. Việc cải thiện hệ thống miễn giảm phí sẽ dựa vào sự hoàn thiện việc xác định và ưu tiên trợ giúp các hộ gia đình nghèo dễ bị tổn thương trên cơ sở các tiêu chuẩn rõ ràng được áp dụng ở các địa phương. Các đối tượng hỗ trợ được mở rộng phạm vi và sự tiếp cận. Như các nhóm dân nghèo thành thị ( những người dân nhập cư ) bộ phận này con cái của họ rất ít được đến trường và sóng trong điều kiện tàn tệ, nhóm người khuyết tật, người già. Đặc biệt là vấn đề lao động trẻ em, lao động trẻ em có thể ở gia đình hoặc ở ngoài xã hội vì thế chính sách với nhóm này cần chú ý về đặc điểm lao động của các em, nhưng nhìn chung thì hỗ trợ tài chính để đưa các em đến trường là biện pháp hiệu quả nhất. Việc hỗ trợ tài chính trực tiếp cho người nghèo giúp giảm bớt những sai lệch của hệ thống các trường không đáp ứng được nhu cầu của người nghèo do mối liên hệ không chặt chẽ thường xuyên giữa người nghèo và các nhà lập chính sách. Người nghèo có thể chủ động tiếp cận dịch vụ giáo dục vì vậy sẽ hiệu quả hơn những dịch vụ mà chính sách đã thiết kế cho họ. tuy nhiên hỗ trợ tài chính trực tiếp cho trẻ em nghèo nhằm nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục cũng không phải là giải pháp luôn phát huy tác dụng và dễ thực hiện vì : thứ nhất với khoản tiền mặt nhận được, rất khó kiểm soát các hộ gia đình liệu có chi đúng mục đích cho con em mình đến trường hay không; thứ hai việc đưa dịch vụ giáo dục đến với người nghèo một cách đúng đối tượng và công bằng còn khó hơn nhiều lần. Những trẻ em thuộc các hộ gia đình nghèo thì trình độ học vấn của bố mẹ chúng cũng hạn chế vì thế mà họ không hiểu được tầm quan trọng của giáo dục, chính giáo dục sẽ đưa họ thoát khỏi vòng luẩn quẩn đói nghèo. Vì thế mà việc nâng cao năng lực cho các hộ gia đình và trẻ em nghèo là cần thiết : - Nâng cao kiến thức, trình độ cho cha mẹ, người thân trong các hộ gia đình nghèo để họ hiểu trẻ em có quyền được chăm sóc và nuôi đạy đúng cách thế nào, có khả năng giúp con em mình tiếp cận đầy đủ dịch vụ có chất lượng tốt - Nâng cao bình đẳng giới trong gia đình, người phụ nũ trong gia đình cần được hỗ trợ để có khả năng quyết định trong việc chăm sóc và nuôi dạy con cái như được nâng cao trình độ, được cải thiện về thu nhập, được hiểu về bình đẳng giới và quyền trẻ em - Thay đổi những quan điểm kinh nghiệm chưa chính xác về cách chăm sóc và nuôi dạy trẻ trong cộng đồng. Đấy là những giải pháp cải thiện chi phí và nâng cao năng lực cho người nghèo nói chung. Nhưng có bộ phận người nghèo đặc biệt ở những vùng khó khăn như đồng bằng sông Cửu Long, dân tộc thiểu số ở miền núi đòi hỏi phải có cách thức giải quyết sâu hơn. Như là một nguyên tắc cơ bản, những vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa là những vùng khó khăn nhất đang đối mặt với những thách thức, đặc biệt cần phải tăng cường nguồn lực cũng như sử dụng các mô hình chính sách khác biệt. Đầu tiên thấy rằng tăng sự trợ giúp tài chính cho các tỉnh nghèo là hết sức cần thiết. cùng với các chính sách điểu tiết phân bổ nguồn ngân sách giữa các bậc học, việc hỗ trợ cho các khu vực vùng miền và các tình nghèo nhất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. việc sử dụng ngân sách nhà nước cho giáo dục những năm qua theo mức chi tiêu trên đầu người, cách thức phân bổ như vậy dẫn đến sự không đồng đều phân bổ ngân sách giữa các vùng. Vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng Sông Hồng là những nơi có thu nhập bình quân đầu người cao hơn những nơi khác đáng lẽ nhận được ít tiền từ chính phủ hơn với các vùng nghèo nhất thì lại đứng thứ nhất và thứ nhì về trợ cấp đầu người cho giáo dục ( NHTG, nghiên cứu tiếp cận cho giáo dục, 1996 ). Những vùng khó khăn về giáo dục như ĐB SCL và các vùng núi vùng sâu vùng xa lại nhận được ít tiền theo cách chi này. Cải cách cách phân bổ ngân sách cho giáo dục theo hướng phân bổ theo đầu ra là giải pháp tốt hơn để trẻ em nghèo có thể tiếp cận giáo dục. Hơn nữa việc đầu tư vào nâng cao chất lượng và tăng cường nguồn nhân lực cơ sở, những giáo viên, đội ngũ quản lý giáo dục là một trong những cách tiếp cận cốt lõi. Một biện pháp khởi đầu đang được thực hiện để tăng cường đội ngũ giáo viên người dân tộc ở những tỉnh nghèo nhất là phù hợp và cần được mở rộng. cùng với đội ngũ giáo viên, một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt bao gồm phòng học và nơi ở tạm trú cho các em học sinh cũng rất cần thiết. ở những vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn, để giảm bớt điều này những nơi ở tạm trú và những bữa cơm hỗ trợ cho các em là thiết thực nhất. như chúng ta đã thấy hình ảnh các em học sinh ở các trường bán trú không có cơm ăn ở trường sau những giờ học, đó là thực tế chung mà cần khắc phục ngay Ở các vùng miền núi việc tuyên truyền cho người dân hiểu lợi ích của con cái họ khi đến trường cũng rất quan trọng. Vì thế xây dựng đội ngũ cán bộ địa phương ở các vùng này sẽ góp phần tuyên truyền vận động trẻ em nghèo đến trường, nâng cao dân trí, giảm khoảng cách trình độ giữa các vùng miền trong cả nước. 2.1.2.2. Tăng cường sự ủng hộ tham gia của người dân nghèo Tăng vị thế của người nghèo trên thị trường cung cấp dịch vụ giáo dục bằng cách khuyến khích nâng cao năng lực để họ có thể tham gia ý kiến vào các chương trình chính sách phát triển ở địa phương để hệ thống giáo dục có thể được cung cấp cho con em họ phù hợp hơn. Các nhà lập chính sách khi đưa bất kỳ chính sách nào về cung cấp dịch vụ giáo dục, luôn quan tâm đến nhu cầu và mong muốn của người nghèo để có thể hướng tới các hoạt động cung cấp dịch vụ có thể phục vụ tốt người nghèo. Tăng cường trao đổi, phổ biến thông tin về chính sách : việc trao đổi phổ biến thông tin về hệ thống chính sách đề ra trong kế hoạch, chương trình tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo cần được tăng cường ở tất cả các cấp để mọi tổ chức cá nhân tham gia thực hiện chương trình có nhận thức chung về những hoạt động cần triển khai, để người dân nắm bắt được đầy đủ thông tin về những chính sách và chương trình trực tiếp tới cuộc sống. Khuyến khích người nghèo tự nói lên những nhu cầu của mình, tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho họ thực hiện được chức năng này. 2.1.2.3. Xã hội hóa giáo dục Xã hội hóa giáo dục là một giải pháp quan trọng nhằm tận dụng mọi nguồn lực vào thực hiện các mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục cho trẻ em nghèo. Trước tiên cần hiểu là xã hội hóa giáo dục là làm cho toàn bộ xã hội hiểu đúng hiện trạng của giáo dục, mục tiêu phấn đấu của nó, những trở ngại và thách thức cũng như vai trò đặc biệt của giáo dục làm cho dân giàu nước mạnh, để đóng góp trí tuệ, đóng góp sức lực và tiền cho giáo dục, hình thành môi trường thuận lợi phát triển giáo dục. giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, hơn bao giờ hết yêu cầu phát triển giáo dục trong môi trường kinh tế thị trường đòi hỏi sự chung sức của nhà nước và nhân dân, trung ương và địa phương, các tôt chức xã hội và doanh nghiệp, gia đình và cá nhân. Thu hút sự tham gia của các tổ chức quần chúng và xã hội hóa dân sự để mở rộng đáng kể việc cung cấp dịch vụ mẫu giáo Mở rộng vai trò của tư nhân trong cung cấp dịch vụ giáo dục ở cấp THCS, TH chuyên nghiệp và đào tạo nghề, khuyến khích tiếp tục hình thành các trường dân lập, xem xét trở ngại với việc mở rộng tham gia của tư nhân trong khu vực này. Tuy nhiên cần phải xem xét các khung pháp lý cho các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân hoạt động và loại bỏ các dịch vụ không cần thiết như một phần của cải cách hành chính. Đa dạng hóa các loại hình giáo dục hệ thống trường lớp và các con đường học tập như phát triển các trường ngoài công lập ở những nơi có điều kiện và các cấp bậc học thích hợp, mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, đảm bảo tính liên thông giữa các nhánh,các luồng của hệ thống giáo dục... Có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo cơ hội cho người dân có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh và khả năng của mình. Tăng tính cạnh tranh giữa các nhà cung cấp trên thị trường : sau khi đã khuyến khích hệ thống tư nhân tham gia thị trường, cắt giảm các khoản trợ cấp cho khu vực công trừ khoản trợ cấp cho người nghèo cũng có thể làm tăng đán đề khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo. Khu vực công sẽ không thể tồn tại chỉ vì dịch vụ được cung cấp miễn phí hay cung cấp với giá rẻ hơn mà phải dựa trên cơ sở nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ, nhất là đối với trẻ em nghèo. Tân dụng sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ. Các tổ chức phi chính phủ với tiềm lực tài chính, tính chuyên nghiệp về mặt kỹ thuật cách thức triển khai. Đã có rất nhiều dự án đến trẻ em nghèo, giúp trẻ em nghèo tiếp cận giáo dục từ các dự án của NGO, các tổ chức như UNICEF, Plan... Nhà nước cần thu hút và tạo điều kiện tốt cho các tổ chức này hoạt động 2.1.3.Tăng cường và phân bổ hợp lý ngân sách Phân bổ tài chính cho các dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm cả giáo dục tăng lên một cách đáng kể đã giúp cải thiện chất lượng các dịch vụ này. Với nguồn lực về tài chính và tôt chức còn hạn chế cả hai vấn đề tăng cường phân bổ tài chính cũng như tăng cường năng lực tổ chức chỉ thực hiện được nếu như có định hướng vai trò của nhà nước trong các khoản chi tiêu. Hiện nay tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục nhìn chung đã giúp cho Việt Nam ngang hàng với các nước khác có cùng trình độ phát triển. Tuy nhiên mức chi tuyệt đối về giáo dục cơ bản vẫn còn thấp vì hai lý do : Thứ nhất : tổng chi ngân sách cho các dịch vụ xã hội cơ bản tỷ lệ với mức phát triển chung còn thấp. Thứ hai: tỷ lệ này cho các dịch vụ cơ bản vẫn còn thấp Chi phí công cộng cho giáo dục nhìn chung có lợi cho người nghèo, nhưng tổng chi tiêu công cộng cho giáo dục ở các nước có thu nhập trung bình và thấp thường vẫn có lợi cho người giàu vì trẻ em ở các gia đình giàu đi học ở các cấp học trung học phổ thông và đại học cao hơn rất nhiếu so với trẻ em trong các gia đình nghèo. Ở Việt Nam chi tiêu công cộng trên một học sinh tiểu học còn thấp trên hai góc độ : - So với các cấp và loại hình đào tạo khác - So với chi tiêu tư nhân cho giáo dục Trong thời gian tới Việt Nam cần quan tâm giảm trợ cấp cho giáo dục đại học đồng thời tăng trợ cấp cho giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. cách tiếp cận khác là tăng chi theo mục tiêu thậm chí trong giáo dục tiểu học tăng kinh phí cho một số năm đầu tiên sẽ có tác dụng đáng kể với tỷ lệ bỏ học. tăng chi tiêu công cộng theo mục tiêu cho những khâu yếu nhất trong chuỗi cung cấp dịch vụ các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa Tuy nhiên biện pháp tăng chi tiêu chính phủ vẫn chưa đủ , khoản chi tiêu này được sử dụng như thế nào để tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo là vấn về cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Cơ cấu chi tiêu của giáo dục cũng cần được xem xét. Qua các số liệu của bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2006 cho thấy sự mất cân đối trong phân phối tiền ngân sách. Việc chi cho chi phí học tập bao gồm học phí và 5 khoản chi phí khác : đóng góp cho trường lớp, mua sách giáo khoa, đồ dùng học tập, học thêm, quần áo đồng phục. Cộng tất cả học phí và 5 khoản còn lại thì chi phí học tập gấp 2,2 - 2,7 lần học phí. Sự mất cân đối giữa chi tiêu thường xuyên và chi tiêu đầu tư trong giáo dục thể hiện ở con số chi thường xuyên chiếm 83,3% năm 2005. ( chi đầu tư được tính cho : nâng cao cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, trường lớp, đổi mới phương pháp dạy và học ) Chi phí của hộ nghèo cho giáo dục bị gánh nặng lên bởi các khoản không chỉ vì học phí mà còn là sách vở, đồng phục, vì thế sự phân bổ chi tiêu như thế nào của chính phủ ảnh hưởng đến trẻ em nghèo. 2.1.4. Giải pháp thực thi hiệu quả chính sách Trong quá trình thực hiện chính sách đến đối tượng trẻ em nghèo cần một cơ chế quản lý hiệu quả và các công cụ đáng tin cậy đảm bảo cho trẻ em nghèo được hưởng lợi ích thực sự. Để đạt được điều đó cần : Tăng cường năng lực phân tích chính sách trong lĩnh vực xã hội ở các cấp trung ương và địa phương, bao gồm kỹ năng nghiên cứu đánh giá, giám sát. Cần phải thực hiện ở cả cấp ngành giáo dục cũng như hệ thống thông tin liên ngành để đảm bảo các tác dụng điều hành ở các cấp chính quyền. Tăng cường hệ thống kế hoạch hóa và giám sát theo chiều ngang và liên ngành. Rà soát lại hệ thống các chính sách nhằm cung cấp dịch vụ cho người nghèo, nâng cao tính đồng bộ, tạo điều kiện để chính sách phát huy hiệu quả trong thực tế Cung cấp hệ thống thông tin đầy đủ rõ ràng, kịp thời để trẻ em nghèo có thể tiếp giáo dục và có thể giám sát đánh giá mức độ cam kết thực hiện của các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục. 2.2 Kiến nghị chính sách 2.2.1 Tăng cường chính sách nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo Tuy rằng nhà nước ta đã có nhiều chính sách liên quan đến trẻ em nghèo không chỉ trên lĩnh vực giáo dục mà còn về y tế, vui chơi giải tríNhưng số lượng trẻ em nghèo bỏ học và không đến trường còn nhiều. Vì thế mà cần có nhiều chính sách hơn nữa tập trung vào các khó khăn hiện tại cản trở các em đến trường, khó khăn lớn nhất vẫn là về chi phí đi học, các chính sách nên tập trung nhiều hơn hỗ trợ cho tài chính cho các gia đình nghèo, như kinh nghiệm của Mêhicô đã trình bày hỗ trợ tài chính cùng các điều kiện ràng buộc. Hiện nay kinh tế nước ta đang lạm phát và ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế, tình trạng học sinh bỏ học cũng gia tăng theo, nhà nước cũng có nhiều biện pháp khuyến khích các em bỏ học đến trường trở lại. Nhưng tại sao không đưa ra thành một chương trình với sự tham gia của toàn xã hội, sẽ tạo được nguồn lực của toàn xã hội, giảm gánh nặng chi phí cho ngân sách nhà nước. Hiện nay có nhiều trẻ em phải tham gia lao động, nhà nước cũng cần phải có chính sách quyết liệt hơn nữa giúp đỡ các đối tượng này. Tóm lại là nhà nước cần chia nhỏ các mục tiêu hỗ trợ trẻ em nghèo, tập trung vào một mục tiêu cụ thể ví dụ như là giảm lao động trẻ em hay giảm số lượng học sinh bỏ học nhưng triển khai thành một chương trình lớn ra các vùng trong cả nước và vận động đông đảo quần chúng tham gia. 2.2.2. Các chính sách về giáo viên và cán bộ phục vụ giảng dạy - Thực hiện việc ''luật hoá'' các quan điểm, chủ trương của Đảng về việc xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ phục vụ giảng dạy. Cụ thể là: - Tôn vinh nhà giáo và nghề dạy học, nâng cao vị trí xã hội của nhà giáo. - Đào tạo đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, xây dựng các trường sư phạm để bảo đảm đủ số lượng nhà giáo ở mọi cấp học, trình độ đào tạo, các đối tượng đặc biệt trong xã hội. - Bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, chuẩn hoá đội ngũ nhà giáo và cán bộ phục vụ giảng dạy. - Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ nhà giáo và cán bộ phục vụ giảng dạy. - Quản lý, sử dụng đãi ngộ đội ngũ nhà giáo và cán bộ phục vụ giảng dạy. KẾT LUẬN Trong bối cảnh hiện nay các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước ngày càng quan tâm đến người nghèo vì mục tiêu cuối cùng của một quốc gia là tạo cho tất cả mọi người một cuộc sống đầy đủ. Quan tâm đến giáo dục của trẻ em nói chung và trẻ em nghèo nói riêng hôm nay là đầu tư vào tương lai của đất nước. Nước ta vẫn còn nghèo, còn rất nhiều trẻ em thiệt thòi không được đến trường và chưa thực sự được đi học theo đúng nghĩa. Với những nội dung được trình bày trong đề tài: nguyên nhân, thực trạng và các giải pháp để tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo sẽ góp phần làm cho mọi người hiểu rõ hơn về trẻ em nghèo Việt Nam đặc biệt là trẻ em nghèo trong lĩnh vực giáo dục, giúp các nhà lập chính sách cung ứng dịch vụ giáo dục và có các chương trình hỗ trợ trẻ em nghèo để trẻ em có thể tiếp cận nhiều hơn với giáo dục. Góp phần cải thiện vốn con người, đẩy mạnh tiến trình xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Tuy nhiên do giới hạn về thời gian và nguồn lực đề tài chưa có những số liệu mới và chi tiết nhất để đánh giá về thực trạng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo Việt Nam. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn để chuyên đề thêm hoàn chỉnh. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Ths. Nguyễn Thị Hoa cùng các anh chị trong bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2264.doc
Tài liệu liên quan